intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

3
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay" đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát huy những thành tựu đạt được và khắc phục những hạn chế, bất cập nhằm góp phần đảm bảo thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TỪ KHI ĐỔI MỚI ĐẾN NAY Trần Ngọc Sơn Học viện Chính trị khu vực III Tác giả liên hệ: Trần Ngọc Sơn, email: tranngocsonhv3@gmail.com Tóm tắt: Bài viết đã liệt kê nhận định đánh giá và thống kê các dữ kiện dẫn chứng những thành tựu đạt được và những tồn tại, hạn chế trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam từ 1986 đến nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát huy những thành tựu đạt được và khắc phục những hạn chế, bất cập nhằm góp phần đảm bảo thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: thành tựu; hạn chế; giải pháp trên các lĩnh vực lý luận và thực tiễn của quá trình đổi mới ở Việt Nam. Chủ trương đổi mới đã được Đảng ta đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986). Sau hơn 35 năm đổi mới,Việt Nam từ một nước nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, với những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái, đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử: kinh tế tăng trưởng ở mức tương đối cao, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, tình hình chính trị và xã hội ổn định, quan hệ đối ngoại được mở rộng và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Thành tựu của công cuộc đổi mới là toàn diện cả lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, do thời gian có hạn và trong phạm vi một bài tham luận, tôi chỉ nêu có tính khái quát một số thành tựu cơ bản sau đây. Một là, thành tựu trong công tác lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam: thành tựu nổi bật nhất, tập trung nhất, cơ bản nhất trong công tác lý luận của Đảng là nhận thức “lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng rõ hơn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 68).Trong hơn 35 năm đổi mới, qua mỗi kỳ đại hội (từ Đại VI, năm 1986 đến Đại hội XIII, năm 2021), nhận thức lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc 405
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG phòng, đối ngoại, từng bước được làm sáng tỏ, sát hợp với thực tiễn hơn, đúng đắn hơn, nhờ đó mà đem lại nhiều thành tựu trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta (Nguyễn, 2022). Trong quá trình đổi mới, trên cơ sở nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ thực tiễn trong nước và trên thế giới, chúng ta đã dần nhận thức được một cách rõ ràng hơn, đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Chẳng hạn, từ chỗ nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước năm 1986, đến nay chúng ta đã nhận thức đúng hơn, đầy đủ hơn về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; xác định rõ hơn về những bước đi của chặng đường đầu tiên* trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; từ chỗ còn “xa lạ” với “kinh tế thị trường” chúng ta đã dần có lý luận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ còn e ngại “nhà nước pháp quyền” chúng ta đã xác định phải xây dựng “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; từ chỗ nhận thức chưa đúng về việc “bỏ qua chủ nghĩa tư bản” đến chỗ nhận thức ngày càng rõ hơn về cách thức “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trước năm 1986, nhận thức của Đảng ta còn chung chung trong việc xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đội lên chủ nghĩa ở Việt Nam, năm 1991 (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991), lần đầu tiên chúng ta đã xác định được sáu đặc trưng cụ thể về xã hội xã hội hội chủ nghĩa ở Việt Nam và cùng với đó là 7 phương hướng cơ bản để thực hiện các đặc trưng đó. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X (năm 2006), căn cứ vào mục tiêu của cách mạng XHCN ở nước ta, thực tiễn trong nước và thế giới, Đảng ta đã điều chỉnh một số đặc trưng (đặc trưng 1, 2, 4) trong Cương lĩnh năm 1991, đồng thời bổ sung thêm hai đặc trưng (đặc trưng 1 và 7) thành tám đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa ở Việt Nam (bổ sung, phát triển năm 2011),(gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011), cũng vẫn tám đặc trưng đã thông qua Đại hội X nhưng đã có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển hoàn thiện hơn, phù hợp với thực tiễn hơn. Tám đặc *Khái niệm “chặng đường đầu tiên“, lần đầu tiên được nêu trong Đại hội V Đảng Cộng Sản Việt Nam (3/1982) (tg) 406
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” trưng cơ bản đó là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Tám đặc trưng trên vừa mang giá trị, ý nguyện và khát vọng của dân tộc Việt Nam, vừa mang giá trị phổ quát của nhân loại và tầm nhìn của thời đại. Để thực hiện tám đặc trưng đó, Cương lĩnh năm 2011 cũng khái quát tám mối quan hệ lớn cần phải xử lý (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 72-73). Đến Đại hội XII (năm 2016), cũng với tám đặc trưng của Cương lĩnh năm 2011, nhưng Đảng ta bổ sung thêm một quan hệ thành chín mối quan hệ cần được nghiên cứu làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực tiễn (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 80). Từ thực tiễn của 35 năm đổi mới đất nước, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức về các mối quan hệ khi điều chỉnh mối quan hệ thứ năm là quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”, quan hệ thứ sáu là quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường” và bổ sung thêm quan hệ thứ mười là quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25) . Sự hình thành, bổ sung và phát triển các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cũng như sự bổ sung, phát triển các mối quan hệ lớn cần nắm vững để xử lý là sự phát triển nhận thức lý luận rất quan trọng của Đảng ta, nó sẽ giúp cho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Như vậy, những thành tựu lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải có ngay một lúc, không phải có sẵn từ đầu, mà nó dần được hình thành và ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện dần trong quá trình đổi mới đất nước, thông qua tám kỳ Đại hội và Hội nghị trung ương của các nhiệm kỳ từ Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của 407
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 119). Thành tựu trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là một trong những thành tựu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó được xem như vừa là một thành tựu của công cuộc đổi mới, lại vừa là nguyên nhân thắng lợi của các thành tựu khác trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bởi lẽ, như V.I.Lênin đã khẳng định “không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” (Lênin, 1975, 30). Hai là, thành tựu trong thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay. Dựa trên cơ sở lý luận về đường lối đổi mới; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đúng đắn, thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay trên tất cả các lĩnh vực và đã đạt được những thành tựu ban đầu hết sức quan trọng. Trên lĩnh vực kinh tế: Bước vào công cuộc đổi mới (năm 1986), Đảng ta đã quyết định chuyển nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang phát triển nền nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (giờ đây chúng ta gọi ngắn gọn hơn nhưng đúng bản chất hơn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Quá trình đó lúc đầu diễn ra hết sức gay go, khó khăn, phức tạp, nhưng nhờ sự đúng đắn của đường lối đổi mới, cộng với sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân chúng ta đã chuyển đổi thành công từ một nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu duy nhất về tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu chủ yếu là toàn dân (Quốc doanh) và tập thể, sang nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, và các loại hình hỗn hợp khác với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Từ thực tiễn quá trình đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước hoàn thiện, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh, bình đẳng, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Các thành phần kinh tế cơ bản, chủ yếu đã có những bước chuyển biến mạnh 408
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” mẽ và đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của kinh tế nước nhà. Trong đó, Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa bỏ bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân. ‘Cho đến nay, cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài’ (Nguyễn, 2022, 31). Trải qua hơn 35 năm đổi mới, Chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập theo hướng ngày càng đầy đủ, hiện đại, hội nhập. Hiện nay, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã trở thành mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam. Tính đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế, cơ cấu kinh tế theo ngành, theo lĩnh vực, theo lãnh thổ có chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường trong nước và thế giới. Từ một nền kinh tế lúa nước lạc hậu với khoảng 90% lao động làm nông nghiệp, sau 35 năm đổi mới và đặc biệt là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã có chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đạt được một số thành tựu quan trọng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình 409
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay,Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác có thứ hạng cao trên thế giới. ‘Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020” (Nguyễn, 2022, 31). Môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 năm 2006- 2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Qua 35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương và đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam, tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia 410
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế. Qua hơn 35 năm đổi mới (1986 - 2022), Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn tượng, được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên nhiều. Sau 10 năm đổi mới (1986 - 1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; sau 25 năm đổi mới (1986 - 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình và hiện nay đang bước vào giai đoạn “sớm” trở thành nước công nghiệp trong những năm tới.. Trên lĩnh vực Chính trị: Cùng với quá trình đổi mới kinh tế (từ năm 1986), quá trình đổi mới về chính trị cũng bắt đầu từ năm 1989 và thu được những thành tựu quan trọng. Qua 35 năm đổi mới, hệ thống chính trị nước ta đã có sự thay đổi tích cực đáp ứng được những yêu cầu mà quá trình đổi mới đặt ra. Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là “hạt nhân” lãnh đạo hệ thống chính trị. Nhà nước là thành viên “cốt lõi” của hệ thống chính trị. Do đó, thành tựu của hệ thống chính trị, trước hết bắt nguồn từ thành công của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn xác định: phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Kể từ khi ra đời đến nay, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, công cuộc đổi mới đất nước với những thành tựu đạt được trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đều có vai trò quyết định của 411
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Đảng. Vai trò lãnh đạo của Đảng không chỉ được thể hiện từ việc đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn đến việc chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện chủ trương đúng đắn đó thành hiện thực, mà còn được thể hiện qua chính sự đổi mới và phát triển của bản thân Đảng. Ngay từ khi bắt đầu cũng như trong suốt quá trình đổi mới, Đảng luôn bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, coi đó là nhiệm vụ “then chốt”. Việc bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới vừa là thành tựu của Đảng cũng vừa là nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta. Trong những năm 80 và 90 của thế kỷ trước (thế kỷ XX) khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng, thoái trào và sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu; khi các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội trên thế giới cũng như các thế lực phản động trong nước ra sức tăng cường công kích, bôi đen, với mọi thủ đoạn xấu xa, thâm độc nhằm chống Đảng, phá nước ta; trong lúc công cuộc đổi mới gặp nhiều khó khăn, phức tạp thì việc Đảng ta vẫn bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo là việc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và quyết định đến mọi thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, không phải vì những thắng lợi đã qua trong lịch sử mà đương nhiên Đảng được như vậy. Để bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, Đảng đã thường xuyên, liên tục thực hiện công tác xây dựng và chính đốn Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trong tình hình mới. Nội dung xây dựng Đảng bao gồm xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Mục đích nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới; phòng và chống những nguy cơ lớn đối với một Đảng cầm quyền: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu, mất dân chủ và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, Đảng viên. Đảng khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ hoặc chủ quan, nóng vội, cực đoan. Nhờ thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao trí tuệ, năng lực, phẩm chất mà sức chiến đấu của Đảng, 412
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng cao, đáp ứng mọi yêu cầu mà sự nghiệp đổi mới đặt ra. Thành tựu của Nhà nước được thể hiện qua vai trò quản lý của nhà nước đối với toàn xã hội, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như qua quá trình đổi mới của Nhà nước trên cả ba phương diện: lập pháp, hành pháp và tư pháp; khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công; phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Trong thời kỳ đổi mới, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 và một loạt các bộ luật, luật và pháp lệnh theo hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề cao vai trò tối cao của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội. Các cơ quan Nhà nước tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, các cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương các cấp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân từng bước xây dựng và hoàn thiện. Việc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã thúc đẩy việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, là động lực của sự ngiệp đổi mới. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. Những thành tựu đổi mới của nhà nước đã được thể hiện qua sự ổn định và phát triển của nước ta trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đời sống nhân dân được không ngừng cải thiện và nâng lên cả vật chất lẫn tinh thần. Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội: Những thành tựu về kinh tế, chính trị đã tạo cơ sở và thúc đẩy sự phát triển văn hóa, xã hội và con người Việt Nam. Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, phát triển con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Công tác xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng. Chính sách nhất quán xóa đói của Đảng và Nhà nước là giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp, chính đáng; chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và đánh giá cao. Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) 413
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG của Liên hợp quốc đã đề ra (Cơ quan Đại diện Liên hợp quốc tại Việt Nam, 2002, 1). Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Hiện nay, dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước) (Nguyễn, 2022, 31-32). Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 35 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. Trên lĩnh vực Giáo dục & Đào tạo và Khoa học công nghệ: Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu. Phát triển khoa học công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp (TFT) vào tăng trưởng. Phát triển khoa học - công nghệ đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ chủ yếu: nâng cao năng lực khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng. Trên cơ sở phát triển Giáo dục & Đào tạo, Khoa học công nghệ từng bước phát triển kinh tế tri thức theo một số lộ trình hợp lý. Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống 414
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ thông tin. “Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới” (Nguyễn, 2022, 32). Đối với Giáo dục đào tạo: tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục-đào tạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học và ngành học. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN, sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở top đầu của khối ASEAN. Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây… “Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học,cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết” (Nguyễn, 2022, 32). Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng. Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận…; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất được nhiều loại vắc-xin phòng bệnh,các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Công tác tiêm chủng mở rộng 415
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần ba lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007 (Phạm, 2010, 10). Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. “Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển” (Nguyễn, 2022, 32). Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam. Về đối ngoại: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đã phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương như ASEAN, APEC, ASEM, WTO…, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 170 nước (trong đó xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước), quan hệ thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng lên. Việt Nam cũng là thành viên chủ 416
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc và đã đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014- 2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018. Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA, trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão lũ… song Việt Nam đã hoàn thành tốt các trọng trách đảm nhận, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Thành tựu của hơn 35 năm đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam. Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Có thể kết luận rằng: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Nguyễn, 2022, 46-47). Một số hạn chế và những vấn đề đặt ra: trong hơn 35 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém trên cả lĩnh vực lý luận và thực tiễn cần phải khắc phục. Một là, mặc dù chúng ta đã có nhiều nhận thức mới, mang tính đột phá, sáng tạo trong tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, song vẫn còn nhiều vấn đề vẫn cần tiếp tục phải làm sáng tỏ. Chẳng hạn như sự khác biệt giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh 417
  14. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG tế thị trường tư bản là gì? Sự khác biệt giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền tư sản? Dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản? Và nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn khác nữa đang nảy sinh. Hai là, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội: trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt trong 10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang cản trở sự phát triển. - Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải quyết có hiệu quả. Đạo đức xã hội có một số mặt xuống cấp, văn hóa phẩm độc hại, lai căng tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài nguyên bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác động đến Việt Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực, người dân chưa được thực hưởng đầy đủ, công bằng những thành quả của công cuộc đổi mới. - Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất lượng công vụ thấp. Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều tiến bộ song cũng còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước còn nhiều bất cập. Số văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc phát huy dân chủ chưa đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn chậm trễ, cải cách tư pháp còn lúng túng. 418
  15. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, song công tác xây dựng Đảng chưa có nhiều chuyển biến cơ bản trong tình hình mới, chưa có những giải pháp hiệu quả để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực xã hội còn diễn ra nghiêm trọng. Công tác tư tưởng, lý luận, công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, công tác dân vận còn nhiều bất cập. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chậm đổi mới. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức Đảng còn thấp, quản lý Đảng viên chưa chặt chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng đầu. Để phát huy những thành quả đạt được, khắc phục những hạn chế chúng ta cần chú ý một số giải pháp cơ bản sau: - Một là, tiếp tục xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. - Hai là, đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập. - Ba là, khơi dậy tinh thần và ý chí quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. - Bốn là, giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lảnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. - Năm là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. 419
  16. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - Sáu là, quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong các giải pháp nêu trên, đặc biệt chú trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo trong việc thực hiện ba đột phá chiến lược trong điều kiện, hoàn cảnh có nhiều thay đổi mới: Hoàn thiện đồng bộ hóa thể chế phát triển (trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa); Phát triển nguồn nhân lực (nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao); Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội, về môi trường và quốc phòng, an ninh, ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Cơ quan Đại diện Liên hợp quốc tại Việt Nam. (2002). Đưa các mục tiêu Thiên niên kỷ đến với người dân. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị quốc gia Sự thật. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [6]. Lênin, V. I. (1975). Toàn tập (Vol. 6). Tiến bộ. [7]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật. [8]. Phạm, X. N. (2010). Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong mô hình phát triển của Việt Nam ở thời kỳ đổi mới. Tạp Chí Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 12–2010. [9]. Võ, H. P. (2006). Những thành tựu về kinh tế - Xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005). Chính trị quốc gia. 420
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0