intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về an sinh xã hội và tăng trưởng xanh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

5
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về an sinh xã hội và tăng trưởng xanh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" tập trung vào ba nội dung chính: Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề an sinh xã hội, chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam; kết quả quá trình thực hiện thực hóa chính sách an sinh xã hội, tăng trưởng xanh ở Việt Nam; đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện tốt chính sách về an sinh xã hội hướng đến thực hiện thành công chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về an sinh xã hội và tăng trưởng xanh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ AN SINH XÃ HỘI VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Lê Nguyên Tịnh Học Viện Kỹ thuật Quân sự Tác giả liên hệ: Lê Nguyên Tịnh, email: tinhlenguyen08@gmail.com Tóm tắt: Bài viết phân tích mối quan hệ giữa an sinh xã hội và chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam. Nghiên cứu này dựa trên nguồn tư liệu từ các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội, những chính sách cụ thể của Nhà nước trong việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội, tăng tưởng xanh. Bài báo tập trung vào ba nội dung chính: Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề an sinh xã hội, chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam; kết quả quá trình thực hiện thực hóa chính sách an sinh xã hội, tăng trưởng xanh ở Việt Nam; đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện tốt chính sách về an sinh xã hội hướng đến thực hiện thành công chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam. Từ khóa: An sinh xã hội; tăng trưởng xanh; chính sách an sinh xã hội; Việt Nam. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay, tăng trưởng xanh là một thuật ngữ ngày càng phổ biến tại nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới, trong đó có Hàn Quốc từ năm 2009 đã xây dựng Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh (Green Growth). Tại Việt Nam, từ năm 2012 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng xanh, với quan điểm: “Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân; Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế” (Thủ tướng Chính phủ, 2012). Trong chiến lược tăng trưởng xanh, an sinh xã hội được xác định là một trong những trụ cột, trong đó nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là một trong những ưu tiên hàng đầu. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với 631
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ. 2. NỘI DUNG 2.1. Lý luận về an sinh xã hội và tăng trưởng xanh 2.1.1. An sinh xã hội An sinh xã hội được Đảng và Nhà nước xác định là một nhiệm vụ quan trọng, là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống các chủ trương, chính sách nhằm góp phần bảo đảm quyền con người, ổn định chính trị - xã hội, tạo cơ sở cho phát triển kinh tế - xã hội đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, hội nhập quốc tế. Chức năng cơ bản của an sinh xã hội hướng tới bảo đảm quyền con người, theo Tổ chức Lao động quốc tế ILO: “An sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội là mất hoặc làm suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong. An sinh xã hội cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em” (ILO-1984) (Nguyễn, 2010). Nhận thức rõ tầm quan trọng của các quyền được hưởng an sinh xã hội, Việt Nam đã xây dựng và tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội theo hướng tiếp cận quyền con người và phát triển bền vững. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) hiến định quyền an sinh xã hội của người dân: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34) và (Điều 59) “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội” (Quốc hội, 2013). Trong Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020” cũng đặt ra yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thực hiện an sinh xã hội ở nước ta trong thời gian vừa qua vẫn còn nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém kéo dài như: tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỉ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao. Mức trợ cấp ưu đãi người có công còn thấp. Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ chưa đáp ứng được yêu 632
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Từ thực trạng trên, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội... xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Có thể nhận thấy Đảng ta luôn coi chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, động lực để phát triển nhanh và bền vững trong các giai đoạn phát triển của đất nước. Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam hướng đến nền an sinh xã hội toàn dân, được thể hiện qua các nội dung sau: Thứ nhất, chính sách giải quyết việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo đa chiều. Chủ trương giải quyết vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cho người lao động là trụ cột cơ bản nhất của chính sách an sinh xã hội. Đại hội XII chỉ rõ: “Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016). Đây là định hướng tới các chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro, trụ cột của hệ thống an sinh xã hội nhằm giúp cho mọi tầng lớp dân cư có việc làm, thu nhập, có được năng lực vật chất cần thiết để đối phó tốt nhất với rủi ro xã hội. Mặt khác xóa đói, giảm nghèo được xem là một trong những nội dung quan trọng của quan điểm lãnh đạo chính sách an sinh xã hội. Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo. Trong Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích các hộ nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016). Hai là, thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm cho người dân. Chính sách bảo hiểm là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, giúp người dân giảm bớt gánh nặng khi tuổi già, tai nạn, ốm đau, thất nghiệp. Đảng ta đã có nhiều chủ trương lãnh đạo chính sách bảo hiểm: Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 07/9/2009 của Ban Bí thư về Đẩy mạnh công tác bảo hiểm y tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng khóa XI về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”; Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ 633
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020”. Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động…”, “mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016). Đây được xác định là những định hướng để chính sách bảo hiểm tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò giảm thiểu rủi ro trong chính sách an sinh xã hội. Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp xã hội đối với nhóm dễ bị tổn thương. Việt Nam là quốc gia trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; chịu ảnh hưởng nhiều của thiên tai và biến đổi khí hậu; đang trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, số người cần được trợ giúp xã hội ở Việt Nam là rất lớn. Công tác trợ giúp xã hội có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, bảo đảm cho các thành viên xã hội khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được. Vì vậy, trong nhiều năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến công tác trợ giúp xã hội. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016). Bên cạnh đó, yêu cầu “chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân”, khẳng định sự quan tâm đến quyền con người của Đảng, Nhà nước ta. Bốn là, đảm bảo cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu cho người dân. Về bảo đảm giáo dục tối thiểu, Đảng ta hết sức quan tâm chăm lo phát triển giáo dục đào tạo, hỗ trợ người dân có trình độ giáo dục tối thiểu, tăng cường chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập (Quốc hội, 2013). Trên cơ sở đó Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được tích cực triển khai, bước đầu có hiệu quả. Mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng về quy mô. Giáo dục và đào tạo ở những vùng khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng hơn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). 634
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Về vấn đề bảo đảm y tế tối thiểu, Đảng lãnh đạo công tác y tế nhằm đảm bảo cho mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt là nhóm yếu thế; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; mở rộng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; người dân được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần, giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ, nâng cao chất lượng dân số. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới, xác định: “Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng ở tất cả các tuyến. Quan tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở y tế, nhất là miền núi, biên giới, hải đảo… tăng cường nhân lực y tế cho khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo… Đồng thời, tiếp tục bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2017). Tập trung đầu tư cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển và hải đảo nhằm tăng cường kết cấu hạ tầng, trang thiết bị y tế, nhân lực, bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng về chăm sóc sức khỏe cho người dân. Về bảo đảm nhà ở xã hội, phát triển nhà ở xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước ban hành chính sách thúc đẩy thị trường nhà ở phát triển, đồng thời có chính sách để hỗ trợ về nhà ở cho các đối tượng chính sách xã hội, người có thu nhập thấp và người nghèo gặp khó khăn về nhà ở nhằm góp phần ổn định chính trị, bảo đảm an sinh xã hội. Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế chính sách phát triển nhà ở xã hội để hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng khó khăn, có thu nhập thấp tại cả khu vực đô thị và nông thôn. Có thể nhận thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức quan tâm lãnh đạo thực hiện an sinh xã hội để phòng ngừa, hạn chế, khắc phục rủi ro, bảo đảm an toàn thu nhập và cuộc sống cho các thành viên trong xã hội. Những quan điểm của Đảng là sự định hướng quan trọng để chính sách an sinh xã hội được đưa vào cuộc sống của người dân. 2.1.2. Tăng trưởng xanh Tăng trưởng xanh là nội dung quan trọng nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa 635
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại, nhưng không làm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai. Tăng trưởng xanh (Green Growth) được đề cập một cách chính thức tại Hội nghị về Môi trường và Phát triển (MCED) vào năm 2005 tại Seoul, Hàn Quốc. Mặc dù xuất hiện sau khái niệm Kinh tế xanh nhưng đến nay Tăng trưởng xanh thu hút nhiều sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nền kinh tế, các tổ chức trên thế giới. Trong đó, từ năm 2008, Hàn Quốc đã dành 80% trong khoảng 38,1 tỉ USD thuộc gói kích cầu kinh tế để thực hiện chiến lược Tăng trưởng xanh quốc gia. Ngoài ra, trong kế hoạch 5 năm lần thứ 12 (2011-2015) Trung Quốc đã dành tổng cộng 140 tỉ USD cho đầu tư xanh, nhiều quốc gia như Úc, UAE, Nhật Bản, Đan Mạch và Na Uy cùng đối tác Hàn Quốc tạo nên liên minh chính phủ trong lĩnh vực tăng trưởng xanh (Global Green Growth Institute-GGGI) (Nguyễn et al., 2020). Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra khái niệm: “Tăng trưởng xanh là hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, sạch trong việc giảm thiểu ô nhiễm và các tác động môi trường, linh hoạt trong khả năng thích ứng với các thảm họa thiên nhiên, quản lý môi trường và vốn tự nhiên trong phòng chống thiên tai” (Fay & World Bank, 2012). Theo Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế OECD: Tăng trưởng xanh bao gồm “thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp tài nguyên và dịch vụ môi trường cho sự thịnh vượng của chúng ta. Để thực hiện điều này, Tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới” (OECD, 2014). Tại Việt Nam, chương trình tăng trưởng xanh được cụ thể hóa thông qua “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050”. Trong đó khẳng định: Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Trong đó, Chiến lược quốc 636
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” gia về Tăng trưởng xanh cũng xác định 3 nhiệm vụ chiến lược, gồm: (i) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; (ii) Xanh hóa sản xuất và (iii) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Phát triển bền vững là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Chính phủ đã ban hành Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam (2004), Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (2012) và gần đây nhất là Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường. Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xác định quan điểm phát triển đất nước trong giai đoạn 2021-2030: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế. Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). 2.2. Mối quan hệ giữa an sinh xã hội và tăng trưởng xanh ở Việt Nam 2.2.1. Lý luận về mối quan hệ giữa an sinh xã hội và tăng trưởng xanh Để mọi thành viên trong xã hội được thụ hưởng những điều kiện sống tối thiểu cần thiết để vươn lên, cần phải có sự hài hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường. Nói khác đi, chiến lược phát triển kinh tế cần một “cột chống” của an sinh xã hội. An sinh xã hội là vấn đề phân phối, là hình thức tái phân phối thu nhập quốc dân. Thế nhưng, nếu so với các hình thức phân phối khác, phân phối trong tháp an sinh xã hội là một hình thức phân phối đặc thù bởi đây là hình thức mà Nhà nước và cộng đồng nhắm đến những đối tượng yếu thế nhằm động viên khuyến khích họ vươn lên giải quyết chính vấn đề của mình khi rơi vào rủi ro, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức, già yếu. Như vậy, an 637
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG sinh xã hội và phát triển kinh tế có quan hệ hết sức mật thiết. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, từ những bình diện khác nhau sẽ xúc tiến sự phát triển kinh tế. Mặt khác, để mọi thành viên trong xã hội được thụ hưởng những điều kiện tối thiểu cần thiết để vươn lên, cần phải có sự hài hòa giữa phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường. 2.2.2. Biểu hiện trong thực tế Thứ nhất, xây dựng các chính sách xã hội bảo đảm tính bền vững và phát triển phù hợp, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển. Thực tế đã chứng minh, không thể có an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế kém phát triển, hệ thống chính sách xã hội thiếu bền vững và phát triển không phù hợp. Ngược lại, không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững trong một xã hội chưa xây dựng được hệ thống chính sách xã hội bảo đảm tính bền vững và phát triển phù hợp. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội. Hệ thống pháp luật và chính sách phát triển an sinh xã hôi ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Diện thụ hưởng chính sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực cho an sinh xã hội của đất nước ngày càng lớn, được tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước và huy động từ nhiều nguồn lực trong xã hội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện an sinh xã hội ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém kéo dài như: tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỉ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao. Mức trợ cấp ưu đãi người có công còn thấp. Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; vệ sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Thứ hai, chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ. 638
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Hiện thực hóa quan điểm nói trên trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách xã hội phải bảo đảm tính đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, đúng đối tượng, ưu tiên thực hiện tốt chính sách đối với người có công, bảo đảm mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn, những đối tượng yếu thế. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và truyền thống tốt đẹp, tương thân, tương ái của dân tộc. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội. Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh sản xuất kinh doanh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ người dân có việc làm, tăng thu nhập là giải pháp xoá đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội bền vững. Nhà nước tạo môi trường điều kiện thuận lợi để mọi người dân phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, khắc phục sự ỷ lại vào Nhà nước, nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển bảo đảm an sinh xã hội phù hợp, có chương trình hành động cụ thể, khả thi và tổ chức thực hiện quyết liệt, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, tạo đồng thuận cao trong xã hội. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội phải bảo đảm tính đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, bảo đảm bền vững, công bằng trong quá trình thực hiện an sinh xã hội và cơ hội phát triển của người dân. Không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, trước hết là các dịch vụ công cộng cơ bản, bảo đảm công bằng, bình đẳng cho mọi người. Mặt khác, đẩy mạnh và tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm mở rộng sự tham gia của mọi chủ thể vào cung cấp ngày càng nhiều hơn với chất lượng tốt hơn các dịch vụ công cộng. Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người đề cao trách nhiệm, nâng cao năng lực và tham gia thiết thực vào việc bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội. Khuyến khích phát triển các mô hình an sinh xã hội tự nguyện ở cộng đồng, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng theo cơ chế phi lợi nhuận và các hình thức hợp tác công - tư. Đẩy mạnh các cuộc vận động xã hội như: ngày vì người nghèo, phong trào tương thân tương ái, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết. Thứ ba, thực hiện chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. 639
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến an sinh xã hội và các cân đối lớn của nền kinh tế, thị trường lao động và đời sống người hưởng lương. Trả lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. Trước yêu cầu phát triển và trên cơ sở kế thừa các quan điểm về cải cách tiền lương của Đảng từ Đại hội VI đến nay, Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định: “Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, việc cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương hiện hành; tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; có lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nguồn lực của đất nước. Cải cách chính sách tiền lương là yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi quyết tâm chính trị cao trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cải cách hành chính, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Thứ tư, chú trọng nâng cao phúc lợi, an sinh xã hội; tiếp tục bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân; đổi mới chính sách lao động, việc làm. Từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, chính sách bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội của Đảng và Nhà nước ta đã mang lại những thành công lớn, nhất là trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Giảm nghèo nhanh, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Hệ thống tổ chức y tế được kiện toàn, năng lực, chất lượng khám, chữa bệnh được cải thiện. Thời gian qua, với sự tham gia của khu vực tư nhân trong 640
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, đã có sự cạnh tranh về chất lượng khám chữa bệnh và nhân lực chất lượng cao. Các cơ sở y tế, giáo dục tăng cường đầu tư thiết bị máy móc, nâng cao chất lượng phục vụ. Ngành giáo dục cũng đang chứng kiến sự thay đổi lớn về chất, chuyển dịch theo hướng tích cực. Giáo dục vùng sâu, vùng xa và giáo dục mầm non được quan tâm đầu tư. Giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học đã bám sát nhu cầu thực tế, từng bước nâng cao chất lượng. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp của Việt Nam có nhiều đổi mới trong cách tiếp cận và triển khai các chương trình bao phủ bảo hiểm. Từ những phân tích nói trên nghiên cứu này nhận thấy rằng an sinh xã hội là trụ cột, chất xúc tác để thực hiện tăng trưởng xanh, là nền tảng để hướng tới Phát triển bền vững. 2.3. Một số giải pháp góp phần thực hiện tốt chính sách về an sinh xã hội hướng đến chiến lược tăng trưởng xanh ở Việt Nam Một là, tiếp tục hoạch định, hoàn thiện và đổi mới khung chính sách về an sinh xã hội. Trong hơn 30 năm qua những thành tựu to lớn về kinh tế và xã hội mà nước ta đã đạt được trong quá trình đổi mới đã tạo nền tảng vật chất và mở ra nhiều cơ hội cho việc tiếp tục hoàn thiện và đổi mới khung chính sách về an sinh xã hội. Vấn đề hoàn thiện và đổi mới khung chính sách về an sinh xã hội ở nước ta cần hướng vào các trọng tâm sau: Thứ nhất, hình thành khung chính sách an sinh xã hội năng động theo xu hướng cộng đồng quốc tế đang hướng đến. Trong đó, phát triển đồng bộ, đa dạng các chính sách bảo hiểm (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thương mại), có biện pháp hỗ trợ để người dân được tham gia các loại hình bảo hiểm nói trên. Thứ hai, hoàn thiện hệ thống luật về an sinh xã hội, có biện pháp phù hợp để các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trong thực tiễn. Hai là, tiếp tục kết hợp thực hiện chính sách an sinh xã hội với các chính sách kinh tế xã hội khác là một xu thế khách quan. Đảng ta xác định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006). Các đại hội Đảng gần đây đều xác định con người vừa là trung tâm chiến lược, vừa là mục tiêu, động lực của phát triển; thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển. Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Gắn kết chặt chẽ, 641
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016). Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng phát triển tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Ba là, phát triển kinh tế cần phải thống nhất hài hòa giữa còn người và tự nhiên, giữa con người với xã hội Thực tế cho thấy, trong quá trình công nghiệp hóa của nhiều quốc gia, vấn đề bùng nổ dân số, vấn đề ô nhiễm môi trường và hủy hoại môi trường sinh thái, vấn đề khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên không những không nâng cao mức sống cho cư dân mà trái lại nó còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của con người. Nhằm khắc phục những hệ quả không mong muốn nói trên, nhiều quốc gia đã và đang cam kết chiến lược phát triển bền vững, trong đó kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái, môi trường nhân văn, với vấn đề nhân khẩu và vấn đề xã hội. Bởi, nhân khẩu là hạt nhân của hệ thống xã hội và kinh tế, là mục tiêu và động lực của quá trình phát triển, do đó cần phải có sự hài hòa giữa nhân khẩu với môi trường, kinh tế, xã hội, nguồn lực xã hội, đó là vấn đề cơ bản then chốt của phát triển bền vững. 3. KẾT LUẬN Như vậy, an sinh xã hội, tăng trưởng xanh có mối quan hệ tương hỗ với nhau và tất cả đều thống nhất với mục tiêu hướng tới phát triển bền vững của đất nước. Cụ thể, an sinh xã hội cho thấy sự toàn diện khi mở rộng mục tiêu tới cả hạnh phúc của con người và công bằng xã hội. Tăng trưởng xanh nhấn mạnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, bằng cách tránh gây các áp lực làm phá vỡ sự cân bằng của môi trường sinh thái. Thực hiện chính sách an sinh xã hội là một yêu cầu khách quan của sự phát triển, ngoài ra an sinh xã hội còn có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định, phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước khẳng định chính sách an sinh xã hội và tăng trưởng xanh có vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình phát triển. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên góp phần quan trọng vào việc giải quyết mối quan hệ giữa an sinh xã hội và tăng trưởng xanh nền kinh tế, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, từng bước hoàn thành mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 642
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Chính trị quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2017). Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới (No. 20-NQ/TW). [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [5]. Fay, M., & World Bank (Eds.). (2012). Inclusive green growth: The pathway to sustainable development. World Bank. [6]. Nguyễn, H. H. (2010). Nhập môn an sinh xã hội. Lao Động Xã Hội. [7]. Nguyễn, H. N., Trần, V. Ý., & Nguyễn, T. C. (2020). Mối quan hệ giữa Tăng trưởng xanh, Kinh tế xanh, Kinh tế tuần hoàn và Phát triển bền vững. 5, 47–56. [8]. OECD. (2014). Green Growth Indicators 2014. Organisation for Economic Co- operation and Development. https://www.oecd- ilibrary.org/environment/green-growth-indicators-2013_9789264202030-en [9]. Quốc hội. (2013). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. [10]. Thủ tướng Chính phủ. (2012). Quyết định 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng xanh (1393/QĐ-TTg). 643
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2