TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br />
<br />
NỒNG ĐỘ DIOXIN TRONG MÁU VÀ THÓI QUEN SỬ DỤNG<br />
THỰC PHẨM CỦA NGƢỜI DÂN SINH SỐNG QUANH SÂN BAY<br />
BIÊN HÒA - MỘT ĐIỂM NÓNG Ô NHIỄM DIOXIN TẠI VIỆT NAM<br />
Phạm Thế Tài*; Nishijo Muneko**; Đỗ Minh Trung*<br />
Nguyễn Văn Long*; Hoàng Văn Lương*<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: ô nhiễm dioxin tại Việt Nam liên quan đến việc sử dụng chất gây rụng lá (chủ yếu là chất<br />
da cam) trong chiến tranh từ 1962 - 1971, là một vấn đề nóng được xã hội quan tâm. Nghiên cứu<br />
này nhằm đánh giá mức độ phơi nhiễm dioxin hiện nay của người dân sinh sống quanh khu vực ô<br />
nhiễm dioxin và tìm hiểu các loại thực phẩm sử dụng hàng ngày có liên quan đến nguy cơ phơi<br />
nhiễm dioxin. Đối tượng và phương pháp: tổng số 51 đối tượng (19 nam và 32 nữ) sinh sống quanh<br />
sân bay Biên Hòa. Các đối tượng được định lượng dioxin trong máu bằng phương pháp sắc ký khí<br />
khối phổ độ phân giải cao (GC/MS). Đánh giá thói quen sử dụng các loại thực phẩm hằng ngày<br />
thông qua bộ câu hỏi. Kết quả và kết luận: nồng độ dioxin trong máu, đặc biệt đồng đẳng 2,3,7,8TetraCDD ở mức cao (6.5 pg/g mỡ, chiếm 26% tổng độ độc TEQ). Tương quan nồng độ giữa 17<br />
đồng đẳng phản ánh tình trạng phơi nhiễm dioxin có nguồn gốc chất da cam của cư dân sinh sống<br />
quanh sân bay Biên Hòa. Tần suất sử dụng một số thực phẩm nguồn gốc động vật như cá biển,<br />
thịt gà, thịt bò, trứng gà liên quan đến gia tăng nồng độ dioxin trong máu.<br />
* Từ khóa: Dioxin; Chất da cam; Thực phẩm; Thói quen sử dụng; Sân bay Biên Hoà.<br />
<br />
Concentrations of Dioxin in Blood and Food Consumption Habits of<br />
the Population Living Near Bienhoa Airbase - “Hot Spot” Contaminated<br />
with Dioxin in Vietnam<br />
Summary<br />
Aims: Dioxin contamination in Vietnam is associated with the spraying of herbicides (mainly<br />
agent orange) in Vietnam during the war from 1962 to 1971 is a public concern. This study aimed to<br />
estimate the existing concentrations of dioxin in blood and habits of daily food consumption that<br />
related to exposure of dioxin of the population living near the area contaminated with dioxin.<br />
Subjects and method: A total of 51 participants (19 men and 32 women) living around Bienhoa<br />
airbase were recruited in the study. Level of dioxin in blood of each people was determined by a<br />
system of high resolution gas chromatography equipped with mass spectrometry (GC/MS). Habits of<br />
daily food consumption of the subjects were evaluated by food questionnaire. Result and conclusion:<br />
Concentration of dioxin in blood was high. Especially, 2,3,7,8-TetraCDD concentration was 6.5 pg/g<br />
fat, which constituted 26% of total equivalent toxic. The profile of dioxin congeners reflected that the<br />
habitants living near Bienhoa airbase exposed to dioxin originated mainly from agent orange.<br />
Frequencies of food consumption that originate from animals such as sea fish, chicken, beef and<br />
chicken egg related to an increase of dioxin concentration in blood of this population.<br />
* Key words: Dioxin; Agent orange; Consumption habits; Food; Bienhoa Airbase.<br />
* Học viện Quân y<br />
** Đại học Y khoa Kanazawa, (Nhật Bản)<br />
Người phản hồi (Corresponding): Phạm Thế Tài (email: phamthetai@yahoo.com)<br />
Ngày nhận bài: 30/11/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 25/01/2016<br />
Ngày bài báo được đăng: 28/01/2016<br />
<br />
20<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Tại Việt Nam, ô nhiễm dioxin có nguồn<br />
gốc từ chất gây rụng lá (chủ yếu là chất<br />
da cam) được sử dụng trong chiến tranh<br />
Việt Nam (1962 - 1971) là mối lo ngại trong<br />
xã hội. Hơn 4 thập kỷ đã qua kể từ khi<br />
chiến dịch phun dải chấm dứt, một số sân<br />
bay trước đây được quân đội Mỹ sử dụng<br />
như sân bay Đà Nẵng, Phù Cát, Biên Hòa<br />
vẫn là điểm nóng ô nhiễm dioxin do nồng<br />
độ dioxin trong môi trường ở mức rất cao<br />
[1]. Trong những sân bay đó, sân bay<br />
Biên Hòa được coi là khu vực ô nhiễm<br />
nặng nhất. Cộng đồng dân cư sống quanh<br />
khu vực sân bay Biên Hòa đang chịu nguy<br />
cơ phơi nhiễm cao với dioxin thông qua<br />
nguồn nước và thực phẩm ô nhiễm trong<br />
và xung quanh sân bay. Một nghiên cứu<br />
gần đây về nồng độ dioxin trong sữa mẹ<br />
sinh sống tại Biên Hòa cho thấy 2,3,7,8tetrachlorodibenzo-p-dioxin (2,3,7,8-TetraCDD)<br />
tăng cao, một đồng đẳng dioxin có nguồn<br />
gốc đặc trưng từ chất da cam [2]. Tuy nhiên,<br />
các nghiên cứu về nồng độ dioxin trong<br />
máu của người dân sinh sống quanh sân<br />
bay vẫn còn hạn chế.<br />
Nhìn chung, thức ăn hằng ngày là<br />
nguồn phơi nhiễm dioxin chính ở người,<br />
chiếm > 90% lượng dioxin tích trữ trong<br />
cơ thể. Do đó, nghiên cứu thói quen sử<br />
dụng thực phẩm hằng ngày để tìm ra thực<br />
phẩm nguy cơ đóng vai trò quan trọng.<br />
Theo nhiều báo cáo trước đây trên thế<br />
giới, thực phẩm liên quan đến ô nhiễm<br />
dioxin thường đa dạng ở các quần thể<br />
dân cư khác nhau. Tại Nhật Bản, hải sản<br />
được coi là nguồn thực phẩm liên quan<br />
đến dioxin trong cơ thể [3]. Trong khi đó,<br />
tại Hà Lan, nơi có nồng độ dioxin cao<br />
<br />
nhất trong sữa mẹ tại châu Âu, thịt được<br />
coi là nguồn thực phẩm liên quan nhiều<br />
đến nồng độ dioxin trong cơ thể [4]. Tại<br />
Trung Quốc, thực phẩm liên quan đến<br />
dioxin là cá nước ngọt [5]. Từ những số<br />
liệu trên cho thấy, thói quen sử dụng thực<br />
phẩm hàng ngày là yếu tố quan trọng liên<br />
quan đến phơi nhiễm dioxin và mang tính<br />
đặc thù địa lý cho từng khu vực dân cư.<br />
Theo một nghiên cứu đánh giá nồng<br />
độ dioxin trong thực phẩm năm 2003 tại<br />
Thành phố Biên Hòa, nồng độ dioxin cao<br />
được ghi nhận ở thịt vịt, thịt bò, thịt gà<br />
nuôi thả tự do và cá nước ngọt nuôi tại<br />
địa phương [6]; tuy nhiên, liên quan giữa<br />
thực phẩm và thói quen sử dụng với nguy<br />
cơ phơi nhiễm ở người dân nơi đây vẫn<br />
chưa được nghiên cứu chi tiết.<br />
Trong nghiên cứu này, chúng tôi: Đánh<br />
giá tình trạng phơi nhiễm dioxin hiện nay,<br />
đồng thời tìm hiểu các loại thực phẩm sử<br />
dụng hàng ngày liên quan đến nguy cơ<br />
phơi nhiễm dioxin của nhóm dân cư sinh<br />
sống quanh sân bay Biên Hòa, một điểm<br />
nóng về ô nhiễm dioxin tại Việt Nam.<br />
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tƣợng nghiên cứu.<br />
Phường Trung Dũng và Bửu Long nằm<br />
sát sân bay Biên Hòa được lựa chọn đưa<br />
vào nghiên cứu. Năm 2014, một nghiên<br />
cứu đánh giá ảnh hưởng của dioxin đến<br />
sức khoẻ cho 212 người. Từ những đối<br />
tượng này, chúng tôi chọn 51 người gồm<br />
19 nam và 32 nữ để định lượng dioxin<br />
trong máu bằng phương pháp GCMS và<br />
phỏng vấn thói quen sử dụng các loại<br />
thực phẩm hàng ngày.<br />
21<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br />
<br />
* Tiêu chuẩn lựa chọn: đối tượng có<br />
thời gian sinh sống lâu dài (> 20 năm)<br />
tại khu vực nghiên cứu và trong độ tuổi từ<br />
40 - 50.<br />
2. Phƣơng pháp nghiên cứu.<br />
Các thông tin cơ bản về kinh tế, xã hội<br />
của đối tượng nghiên cứu được thu thập<br />
qua phỏng vấn trực tiếp. Đối tượng nghiên<br />
cứu được giải thích mục đích nghiên cứu<br />
và tình nguyện tham gia vào chương trình.<br />
Nghiên cứu được Hội đồng Y Đức Học viện<br />
Quân y thông qua.<br />
* Định lượng dioxin trong máu bằng<br />
phương pháp GC/MS:<br />
Lấy mẫu máu tĩnh mạch với thể tích<br />
khoảng 20 ml vào buổi sáng từ mỗi đối<br />
tượng và bảo quản ở -800 cho đến khi<br />
phân tích. Định lượng dioxin bằng hệ thống<br />
sắc ký khí khối phổ độ phân giải cao<br />
(GC/MS) tại Đại học Y khoa Kanazawa<br />
(Nhật Bản). Ban đầu, làm khô mẫu máu<br />
bằng hệ thống đông khô (EYELA FDU-1200,<br />
Tokyo Rikakikai Co., LTD) trong 8 giờ.<br />
Sau đó, nghiền nhỏ mẫu máu đông khô<br />
thành bột mịn để chuyển vào công đoạn<br />
tách mỡ. Tách mỡ toàn phần bằng hệ<br />
thống tách dung môi áp lực cao (ASE<br />
200, Thermo Fisher Scientific Inc), với dung<br />
môi là hỗn hợp hexan và aceton theo tỷ lệ<br />
1:1. Một chuỗi các bước làm sạch bao<br />
gồm xà phòng hóa, tách chiết bằng hexan,<br />
sắc ký qua cột Silica gel đa lớp. Cột sắc<br />
ký một lớp cacbon hoạt tính được dùng để<br />
tách thành phần dioxin và polychlorinated<br />
biphenyls (PCBs). Định lượng 17 đồng đẳng<br />
có vị trí clo ở 2,3,7,8 của polychlorinated<br />
dibenzo-p-dioxins (PCDDs), polychlorinated<br />
22<br />
<br />
dibenzofurans (PCDFs) và 4 non-ortho<br />
PCBs. Tính độ độc quy đổi của các đồng<br />
đẳng theo hệ số độc WHO (2005).<br />
* Thông tin thói quen sử dụng thực<br />
phẩm hàng ngày:<br />
Do ở Việt Nam chưa có bộ câu hỏi<br />
chuẩn hóa về thông tin thói quen sử dụng<br />
thực phẩm hàng ngày, nên bộ câu hỏi sử<br />
dụng trong nghiên cứu này được thiết<br />
kế phù hợp với mục đích nghiên cứu. Các<br />
nhóm thực phẩm chính có nguồn gốc<br />
động vật hay ăn hàng ngày và là nguồn<br />
thực phẩm có nguy cơ ô nhiễm dioxin<br />
như thịt (thịt gà, thịt lợn, thịt bò, thịt vịt),<br />
cá (cá biển, cá nước ngọt), trứng (gà, vịt),<br />
sữa được tìm hiểu chi tiết. Đối với mỗi<br />
loại thực phẩm trên đều có câu hỏi đánh<br />
giá tần suất sử dụng với 3 mức độ<br />
“không/hiếm khi”, “thỉnh thoảng” và “thường<br />
xuyên”, đồng thời câu hỏi ước lượng số<br />
lần/bữa ăn loại thực phẩm đó/tuần.<br />
Tất cả các đối tượng tham gia điền vào<br />
bộ câu hỏi về thực phẩm dưới sự hướng<br />
dẫn và giải thích của cán bộ y tế địa phương.<br />
* Phân tích thống kê:<br />
Phần mềm SPSS (phiên bản 21.0)<br />
sử dụng cho Windows (SPSS; Chicago,<br />
113 IL) được dùng để phân tích thống kê.<br />
So sánh nồng độ PCDDs, PCDFs và<br />
PCBs trong máu của nhóm nam và nữ<br />
bằng kiểm định independent-samples t<br />
test. Phân tích mối liên quan giữa nồng<br />
độ dioxin trong máu với tần suất sử dụng<br />
các loại thực phẩm bằng mô hình tuyến<br />
tính tổng quát, trong đó hiệu chỉnh tuổi và<br />
giới tính. Xác định ý nghĩa thống kê khi<br />
p ≤ 0,05.<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN<br />
1. Đặc điểm đối tƣợng nghiên cứu.<br />
Bảng 1:<br />
Nam<br />
<br />
Nữ<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
SD<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
SD<br />
<br />
Tuổi<br />
<br />
46,6<br />
<br />
2,5<br />
<br />
46,5<br />
<br />
2,4<br />
<br />
Thời gian định cư (năm)<br />
<br />
40,1<br />
<br />
10,8<br />
<br />
43,1<br />
<br />
9,6<br />
<br />
Học vấn (năm)<br />
<br />
7,4<br />
<br />
3,2<br />
<br />
7,9<br />
<br />
4,1<br />
<br />
Chiều cao (cm)<br />
<br />
163,6<br />
<br />
6,8<br />
<br />
153,7<br />
<br />
4,8<br />
<br />
Cân nặng (kg)<br />
<br />
54,3<br />
<br />
7,6<br />
<br />
52,0<br />
<br />
6,4<br />
<br />
20,3<br />
<br />
2,3<br />
<br />
52,0<br />
<br />
2,6<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
n<br />
<br />
%<br />
<br />
Hút thuốc<br />
<br />
14<br />
<br />
73,7<br />
<br />
1<br />
<br />
3,1<br />
<br />
Dùng chất có cồn<br />
<br />
12<br />
<br />
63,2<br />
<br />
2<br />
<br />
6,3<br />
<br />
Nội trợ<br />
<br />
4<br />
<br />
21,1<br />
<br />
17<br />
<br />
53,1<br />
<br />
Lao động phổ thông<br />
<br />
5<br />
<br />
26,3<br />
<br />
8<br />
<br />
25,0<br />
<br />
Lao động kỹ thuật<br />
<br />
10<br />
<br />
52,6<br />
<br />
7<br />
<br />
21,9<br />
<br />
2<br />
<br />
BMI (kg/m )<br />
<br />
Các loại nghề<br />
<br />
Tuổi trung bình cả hai nhóm khoảng 46,5; thời gian sinh sống tại địa phương<br />
> 40 năm. Người hút thuốc và người sử dụng chất có cồn lần lượt là 73,7% và<br />
63,2% ở nhóm nam, nhưng chiếm tỷ lệ thấp ở nhóm nữ (tỷ lệ hút thuốc và sử dụng<br />
đồ chất có cồn đều < 10%). Ở nhóm nam, 52,6% là lao động kỹ thuật. Trong đó,<br />
ở nhóm nữ, trên 1/2 là nội trợ gia đình. Ngoài ra, khoảng 1/4 số đối tượng ở mỗi<br />
nhóm làm nghề lao động phổ thông. Nghiên cứu này tập trung vào đối tượng đại<br />
diện cho cư dân nói chung sinh sống quanh sân bay Biên Hòa, vì vậy không bao<br />
gồm một số đối tượng có nguy cơ phơi nhiễm đặc biệt cao, ví dụ những người có<br />
công việc thường xuyên tiếp xúc với môi trường ô nhiễm trong sân bay. Chỉ số BMI<br />
trung bình của cả nam và nữ đều trong giới hạn bình thường (20,3 đối với nam và<br />
22 đối với nữ).<br />
23<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 2-2016<br />
<br />
2. Nồng độ dioxin và PCBs trong máu.<br />
Bảng 2: Nồng độ dioxin và PCBs trong máu ở hai nhóm nam và nữ.<br />
Đồng đẳng (pg/g mỡ)<br />
<br />
Nam (n = 19)<br />
G.M.<br />
G.S.D.<br />
<br />
Nữ (n = 32)<br />
G.M.<br />
G.S.D.<br />
<br />
Đồng đẳng PCDD<br />
2,3,7,8-TetraCDD<br />
7,2<br />
4,2<br />
6,1<br />
2,1<br />
1,2,3,7,8-PentaCDD<br />
6,4<br />
2,2<br />
6,4<br />
1,8<br />
1,2,3,4,7,8-HexaCDD<br />
4,7<br />
1,6<br />
4,9<br />
1,8<br />
1,2,3,6,7,8-HexaCDD<br />
12,2<br />
2,0<br />
12,4<br />
1,9<br />
1,2,3,7,8,9-HexaCDD<br />
6,0<br />
1,9<br />
6,7<br />
1,9<br />
1,2,3,4,6,7,8-HeptaCDD<br />
22,5<br />
1,7<br />
38,2<br />
1,6<br />
OctaCDD<br />
631,2<br />
1,8<br />
652,0<br />
1,6<br />
Đồng đẳng PCDF<br />
2,3,7,8-TetraCDF<br />
8,1<br />
1,9<br />
9,3<br />
1,8<br />
1,2,3,7,8-PentaCDF<br />
1,9<br />
1,7<br />
2,4<br />
2,1<br />
2,3,4,7,8-PentaCDF<br />
9,1<br />
1,8<br />
8,7<br />
1,6<br />
1,2,3,4,7,8-HexaCDF<br />
14,1<br />
1,6<br />
13,9<br />
1,6<br />
1,2,3,6,7,8-HexaCDF<br />
9,0<br />
1,7<br />
9,3<br />
1,7<br />
1,2,3,7,8,9-HexaCDF<br />
2,3<br />
1,8<br />
3,0<br />
1,8<br />
2,3,4,6,7,8-HexaCDF<br />
2,2<br />
1,8<br />
3,3<br />
2,0<br />
1,2,3,4,6,7,8-HeptaCDF<br />
11,8<br />
1,5<br />
14,2<br />
1,6<br />
1,2,3,4,7,8,9-HeptaCDF<br />
2,6<br />
1,9<br />
3,6<br />
2,1<br />
OctaCDF<br />
6,5<br />
1,8<br />
9,1<br />
2,2<br />
PCBs<br />
T4CB #77<br />
60,4<br />
1,9<br />
60,3<br />
1,6<br />
T4CB #81<br />
4,5<br />
1,8<br />
4,7<br />
1,7<br />
P5CB #126<br />
20,4<br />
2,0<br />
19,8<br />
1,7<br />
H6CB #169<br />
32,8<br />
2,0<br />
19,8<br />
1,7<br />
TEQ<br />
PCDDs TEQ<br />
18,5<br />
3,0<br />
16,8<br />
1,7<br />
PCDFs TEQ<br />
6,7<br />
1,7<br />
7,0<br />
1,6<br />
PCBs TEQ<br />
3,1<br />
2,0<br />
2,6<br />
1,6<br />
PCDDs/Fs TEQ<br />
26,3<br />
2,7<br />
24,2<br />
1,6<br />
PCDDs/Fs+PCBs TEQ<br />
29,8<br />
2,6<br />
27,0<br />
1,6<br />
P:<br />
so<br />
sánh<br />
giữa<br />
nhóm<br />
nam<br />
và<br />
nữ<br />
bằng<br />
Independent-samples<br />
T-test<br />
p: So sánh giữa nhóm nam và nữ bằng Independent-samples t-test<br />
<br />
Toàn bộ (n = 51)<br />
G.M.<br />
G.S.D.<br />
<br />
Pp<br />
<br />
6,5<br />
6,4<br />
4,8<br />
12,3<br />
6,4<br />
31,3<br />
644,2<br />
<br />
2,8<br />
1,9<br />
1,8<br />
1,9<br />
1,9<br />
1,7<br />
1,7<br />
<br />
0,588<br />
0,986<br />
0,762<br />
0,912<br />
0,574<br />
0,001<br />
0,844<br />
<br />
8,9<br />
2,2<br />
8,9<br />
14,0<br />
9,2<br />
2,7<br />
2,9<br />
13,3<br />
3,2<br />
8,0<br />
<br />
1,8<br />
2,0<br />
1,7<br />
1,6<br />
1,7<br />
1,8<br />
2,0<br />
1,6<br />
2,0<br />
2,1<br />
<br />
0,456<br />
0,187<br />
0,78<br />
0,956<br />
0,863<br />
0,154<br />
0,032<br />
0,146<br />
0,097<br />
0,086<br />
<br />
60,3<br />
4,6<br />
20,0<br />
23,9<br />
<br />
1,7<br />
1,7<br />
1,8<br />
1,9<br />
<br />
0,989<br />
0,829<br />
0,863<br />
0,011<br />
<br />
17,0<br />
6,9<br />
2,8<br />
24,9<br />
28,0<br />
<br />
2,2<br />
1,6<br />
1,8<br />
2,0<br />
2,0<br />
<br />
0,662<br />
0,767<br />
0,338<br />
0,677<br />
0.675<br />
<br />
Nhìn chung, nồng độ dioxin và PCBs ở nhóm nam và nữ không khác biệt, ngoại trừ<br />
một vài đồng đẳng. Nồng độ 1,2,3,4,6,7,8-HeptaCDD và 2,3,4,6,7,8-HexaCDF ở nữ cao<br />
hơn có ý nghĩa thống kê so với nồng độ ở nam (38,2 pg/g mỡ so với 22,5 pg/g mỡ,<br />
p = 0,001 đối với 1,2,3,4,6,7,8-HeptaCDD và 3,3 pg/g mỡ so với 2,2 pg/g mỡ; p = 0,032<br />
đối với 2,3,4,6,7,8-HexaCDF). Tuy nhiên, nồng độ H6CB #169 ở nữ thấp hơn có ý nghĩa<br />
thống kê so với nam (19,8 pg/g mỡ so với 32,8 pg/g mỡ, p = 0,011).<br />
Tương quan giữa nồng độ các đồng đẳng PCDDs, PCDFs và PCBs trong nhóm<br />
dân cư sinh sống gần sân bay Biên Hòa cho thấy dioxin trong cơ thể có nguồn gốc đặc<br />
trưng từ nguồn nhiễm chất da cam rõ rệt hơn nhóm dân cư sinh sống tại Đà Nẵng và<br />
Phù Cát. Nghiên cứu của Hồ Dũng Mạnh và CS (2014) cho thấy: nam giới sinh sống<br />
gần sân bay Phù Cát có nồng độ huyết thanh của 2,3,7,8-TetraCDD một đồng đẳng<br />
đặc trưng cho nguồn ô nhiễm từ chất da cam là 2,6 pg/g mỡ [7]. Trong nghiên cứu này,<br />
24<br />
<br />