Đề bài: Phân tích truyện ngắn Mùa Lạc của Nguyễn Khải <br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Trong văn học, có những nhà văn, nhà thơ chiếm lĩnh được tâm hồn độc giả ngay từ sáng <br />
tác đầu tiên. Nhưng điều đó rất hiếm. Nguyễn Khải không phải là tác giả nhanh chóng <br />
khẳng định được mình trên văn đàn. Ông bắt đầu viết văn từ năm 1950 song chưa thành <br />
công; càng về sau, văn phẩm của ông càng giữ được chỗ đứng vững chắc trong lòng bạn <br />
đọc. Khác với các nhà văn đương thời, Nguyễn Khải không chỉ thể hiện sự nhạy bén và <br />
năng lực khám phá với các vấn đề xã hội mà ông còn đi sâu miêu tả sự biến chuyển của <br />
cuộc sống, của con người. Qua việc đặc tả sự biến đổi về số phận và tâm lí nhân vật <br />
Đào (Mùa lạc – 1960), Nguyền Khải bộc lộ khá rõ cảm hứng chủ đạo thiên truyện: cảm <br />
hứng về sự hồi sinh cuộc sống sau chiến tranh..<br />
<br />
Truyện ngắn “Mùa lạc” phản ánh công cuộc đổi mới xã hội ở vùng đất sau chiến tranh, <br />
phản ánh cảnh sống con người trên nông trường Điện Biên. Đào cùng là một trong những <br />
người gắn bó với cuộc sống nơi đây. Chính mảnh đất này đã góp phần xây dựng cho cô <br />
một sức sống mãnh liệt, một cuộc đời mới.<br />
<br />
“Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài tết âm lịch chừng nửa tháng”. <br />
Trước khi lên nông trường, Đào “gặp nhiều điều đau buồn”. Cô “lấy chồng từ năm 17 <br />
tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều bỏ đi Nam đến đầu năm 1950 mới về quê. Ăn ở <br />
lại với nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Với người phụ nữ trẻ, mất chồng là <br />
nỗi bất hạnh cùng cực, nhưng “mấy tháng sau đứa con lên sởi bỏ đi để chị lại một mình” <br />
thì không còn gì có thể đau khổ hơn thế. Đào phải bôn ba kiếm sống với nỗi đau chưa tắt, <br />
với cô quạnh bao trùm: “đòn gánh trên vai, tới đâu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn <br />
Gai, cẩm Phả lấy muồng, khi ngược Lào Cai buôn gà, vịt.,.”, nơi nào cũng có dấu chân cô <br />
độc của chị. Với Đào, khó khăn về vật chất đã khổ (Mùa hè vài cái áo nâu vá vai, mùa <br />
đông một chiếc áo bông ngấn bạc…) nhưng sự thiếu thốn trong tâm hồn còn đáng sợ hơn <br />
nhiều. Nhìn “ngọn đèn dầu” chị tủi thân “sực nhớ trước đây mình cũng có một gia đình, <br />
có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho <br />
thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm”. Có thể nói Đào có một số <br />
phận bất hạnh. Những bi thương, khốn khổ hiện hình trên hình thức của chị: “Mái tóc <br />
óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn <br />
nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều”. Chính số phận bất <br />
hạnh, bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời đã tạo nên cho chị một tâm lý “Muốn chết, nhưng <br />
đời còn dài nên phải sống”, một tính cách “táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, <br />
hờn giận cho thân mình”.<br />
<br />
Cuộc sống của Đào khi chưa lên Điện Biên không được Nguyễn Khải miêu tả chi tiết. <br />
Nhưng dưới ngòi bút đầy cảm thông, Đào hiện ra với bao nhiêu xót thương. Tuy nhiên, <br />
nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đáng nói bởi văn học xưa nay đã đề cập đến nhiều nỗi đau <br />
nhân thế. Giả sử Đào hiện diện cho con người chỉ biết đến đau khổ thì sẽ chìm lấp giữa <br />
trăm nghìn hình tượng khác. Ở Đào, tuy trải qua nhiều tháng ngày cơ cực, nhưng trong cô <br />
vẫn le lói mong muốn được sống. “Muốn chết” nhưng lại tiếc “cuộc đời còn dài”. Chính <br />
vẻ đẹp quả cảm kiến nghị đã làm hình tượng nhân vật Đào sống mãi. Đã không thể chết <br />
thì quyết sống cho dù sống trong nỗi tủi nhục của con người biết phận mình trăm đường <br />
thua thiệt.<br />
<br />
Đào lên nông trường “với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi <br />
cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để <br />
quên đi cuộc đời đã chịu”. Ở nông trường, Đào hăng hái lao động bởi cô hiểu chỉ có lao <br />
động mới tìm thấy niềm vui và hạnh phúc. Cô thi đua với những người khỏe mạnh như <br />
Huân, Lâm… “bàn tay có ngón rất to vẫn thoăn thoắt quơ ra phía sau nắm từng bó lạc và <br />
bằng cử chỉ rất nhanh, chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục”. <br />
Lên Điện Biên, số phận của Đào dần dần thay đổi. Ít nhất ở thời gian này cô không phải <br />
bươn chải khắp nơi, không nhà không cửa. Cô đã tìm lại được chút niềm vui trong lao <br />
động, với những bạn bè xung quanh. Nhưng do Đào vẫn mang tâm lý mặc cảm, tự ti và <br />
chưa hiểu hết mọi người nên cô thấy đau khổ khi bị mọi người châm chọc. Đào mặc cảm <br />
vì cái xấu, cái nghèo… của mình, song anh chàng Lâm vô tâm lại khía đúng vào nỗi khổ <br />
ấy. Đào không có nhan sắc – vũ khí người phụ nữ nên cô dùng ngôn ngữ để tự vệ. Chị <br />
nhìn Lâm hờn dỗi, chua cay: “Trâu quá sá, mạ quá thì, hồng nhan bỏ bị thì còn gì là xuân <br />
nữa hỡi các anh”. Đào là một người phụ nữ, cô cũng buồn về sự xấu xí, ế ẩm, lỡ làng nên <br />
đôi lúc cô mềm lòng, giãi bày sự đau khổ với người đời “mỗi năm mỗi tuổi, cái tuổi nó <br />
đuổi xuân đi, nồi nào vung nấy, em đã có bố cháu ở dưới xuôi rồi”. Nhưng sau đó, Đào lại <br />
thấy tiếc cho sự thành thật của mình “chẳng việc gì phải tủi, phải nhún mình”. Cô khát <br />
vọng được sống bằng tất cả điều gì mình có, người nào chẳng có phần tốt đẹp. Cho nên <br />
Đào không chấp nhận sự thương hại. Cô dám nhìn thẳng vào sự thật, kiêu hãnh về sự <br />
thật ấy: “Huê thơm bán một đồng mười, Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng. Giá đôi lạng <br />
vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ…”. Giọng nói chanh chua, chua chát, đanh đá <br />
của Đào thật ra chẳng làm ác với ai. Đó chỉ là vũ khí tự vệ để dấu đi tâm lý mặc cảm, đau <br />
buồn trong lòng – nỗi đau của con người ý thức được mình. Đào hiểu muốn hòa nhập là <br />
phải tìm thấy trong cuộc sống, trong lao động nét chung, những tấm lòng bao dung. <br />
Nhưng hòa nhập không phải là hạ mình, mà vẫn ngẩng cao đầu kiêu hãnh. Tâm lý Đào <br />
thật phức tạp, lúc hờn giận, lúc tủi hổ, khi lại ngẩng đầu hãnh diện. Chính ở tình tiết <br />
này, Nguyễn Khải bộc lộ khá rõ cảm hứng về sự hồi sinh của sự sống. Chỉ khi nào tâm <br />
hồn con người biết đấu tranh, biết vươn lên, lạc quan, biết khát thèm sự sống thì tình <br />
cảm mới biến chuyển, thay đổi, thể hiện cho sự giằng xé đời hồi sinh. Nếu con người <br />
không muốn đến với sự sống thì tâm hồn mãi chỉ là chuỗi dài le lói, băng lạnh, chẳng nảy <br />
sinh ra nhiều diễn biến tâm lý, tình cảm phức tạp.<br />
<br />
Thời gian đầu lên nông trường Điện Biên, số phận và tâm lý Đào đã bước đầu thay đổi. <br />
Cô đã dần mất đi suy nghĩ “còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ”. Chị <br />
không còn tâm lí buông trôi chơ số kiếp, chị biết kiêu hãnh, biết sống vì phần tốt đẹp bên <br />
trong của mình. Nhưng phải đến thời gian sau – thời gian Đào thật sự hòa nhập với cuộc <br />
sống nông trường thì cuộc đời chị mới lật sang trang mới. Đến đây, cảm hứng về sự hồi <br />
sinh của cuộc sống sau chiến tranh mới được nhận thấy một cách rõ ràng, đầy đủ.<br />
<br />
Trước kia, tâm lý của Đào là “chán sống”, “quên đi cuộc đời”, nhưng sức sống vần ẩn <br />
giấu mãnh liệt trong con người chị qua hình dáng, cử chỉ, ngôn ngữ của chị. Con người <br />
với “hai mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh (…) hàm răng khểnh của người luôn <br />
luôn ưa đùa cợt” cùng tâm lý “đôi mắt nhỏ vẫn ánh lên thách thức” thì không bao giờ chán <br />
sống. Tâm lý mặc cảm, tự ti, đanh đá chỉ là lớp vỏ qua bao nhiêu nắng mưa dãi dầu. <br />
Niềm khát khao sống trong cô bao giờ cũng mãnh liệt, hễ khi gặp điều kiện sẽ hồi sinh, <br />
phát triển mạnh mẽ. Đào không chịu khép mình trong nỗi đau thầm lặng. Chị sống táo <br />
bạo và liều lĩnh bởi chị CẦN SỐNG, THÈM SỐNG. Nỗi khát thèm ấy dữ đội, bùng cháy <br />
chứ không thể âm ỉ, bằng lặng.<br />
<br />
Từ tâm lý ghen tị, Đào tìm thấy niềm vui, lao động hăng hái, lối sống tiêu cực bị đẩy lùi. <br />
Làm việc bên Huân, nhìn “đôi cánh tay cuồn cuộn thớ thịt cháy nắng, Đào cháy lên nỗi <br />
thèm muốn một cảnh gia đình”. Nguyễn Khải viết về sự hồi sinh của cuộc sống, nhưng <br />
không chỉ là cuộc sống vật chất, cái màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ, rút đồng, <br />
miếng vàng sẫm của mấy mảnh gianh…, mà quan trọng hơn là cuộc sống tinh thần. Sự <br />
“hồi sinh” là gì, nếu chẳng phải là sự sống lại mơ ước “cảnh gia đình” đầm ấm, tình cảm <br />
hạnh phúc. Đào thích gần Huân chưa hẳn là Đào yêu Huân, bởi lý trí mách cô đừng hy <br />
vọng gì ở người con trai ấy. Đào đến với Huân vì hơi thở, nụ cười, sức mạnh của anh đốt <br />
lên trong cô niềm hy vọng mới – hy vọng cuộc đời mình chưa tắt hẳn. Sự hồi sinh ở đây <br />
chính là tâm lý bền bỉ trong Đào không chịu tắt theo năm tháng.<br />
<br />
Sự hồi sinh – chủ yếu phải do bản thân vận động. Nhưng nếu gặp tác động nào đó, sức <br />
sống sẽ nhanh chóng, mạnh mẽ trỗi dậy, Với Đào, sự hồi sinh trong tâm hồn cô trở nên <br />
mãnh liệt, lúc âm ỉ, khi bùng cháy dữ dội từ lúc nhận được bức thư tỏ tình của thiếu úy <br />
Dịu.<br />
<br />
Lúc đẩu, Đào bất bình vì nghĩ “người ta đem mình ra mà đùa cợt”, người ta khinh mình, <br />
Những mặc cảm, tự ti trong chị vẫn chưa chết hẳn, nó khiến chị tức giận muốn xé bức <br />
thư ra “làm trăm mảnh”. Nhưng khi gấp lá thư lại, một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra <br />
như mạch nước rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn. Hình ảnh “thớ đất khô <br />
cằn” chỉ là hình ảnh ẩn dụ chỉ tâm hồn Đào đã chết cứng, đã chai sạn qua bao năm nay, <br />
vất vả. Song “mảnh tâm hồn” ấy đã tươi tốt, nảy mầm bởi cô nhận được lời yêu thương, <br />
gắn bó qua bức thư tình, Lời lẽ trong bức thư khiến cho số phận, tâm lý Đào chuyển đổi <br />
hoàn toàn, Chị không còn ác cảm với mọi người, vui vẻ, “sẵn sàng tha thứ cho mọi câu <br />
đùa nghịch khác. Tất cả đều là những người đáng yêu, tất cả đều vun xới cho hạnh phúc <br />
của chị, đây là anh em, là người làng, họ nhà gái cả”. Giờ đây, sự sống thật sự trở lại với <br />
Đào. Cô không còn chán sống mà thấy mình gắn bó với nông trường: “Chẳng ai ở vậy <br />
được suốt đời, chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương… em <br />
định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh. Phải đặt hoàn cảnh Đào trong <br />
hiện tại với quá khứ mới hiểu hết ý nghĩa, khát vọng trong câu nói của Đào. Hành trình <br />
hồi sinh của tâm hồn con người qua bao nhiêu thăng trầm đã SỐNG.<br />
<br />
Đào là con người đau khổ, cô không “hồng nhan” nhưng vẫn cứ “đa truân”. Cô xấu xí, <br />
mặc cảm, tự ti, chán nản với đời khi mới hai tám tuổi. Nhưng cô đã biết vượt qua những <br />
ranh giới hạn hẹp cá nhân để vươn lên chiếm lĩnh cuộc sống. Như vậy, Nguyễn Khải đã <br />
phát hiện ra sự sống của con người không bao giờ vơi cạn, kể cả khi tưởng chừng như cá <br />
nhân đó buông trôi số phận cho “con tạo xoay vần”.<br />
<br />
Sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh không chỉ thể hiện qua nhân vật Đào, mà còn <br />
bộc lộ qua Huân với “những khát khao, những ước mơ đốt cháy trái tim”, qua lời ngỏ “táo <br />
bạo” của ông trung đội trưởng già phụ trách lò gạch. Sau chiến tranh, sự sống hồi sinh <br />
khiến “khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng <br />
mời chào, tiếng đấm tay thùm thụp”. Mảnh đất Điện Biên trước kia là chiến trường ác <br />
liệt nhất Đông Dương, mà chỉ mấy năm sau, sức sống đã trở lại: “Trong những buổi lễ <br />
cưới người ta tặng nhau một quả mìn nhảy đã tháo kíp làm giá bút, một quả lựu đạn cối <br />
tiện đầu làm bình hoa, một ống khối thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giấy gia thú, <br />
giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây <br />
dù rất óng mượt”. Sự hy sinh xương máu và sức lao động đưa đến một màu xanh thay cho <br />
dây thép gai, mìn và còn tràn ngập những tiếng cười, tràn ngập niềm vui và hạnh phúc: <br />
“tiếng cười the thé, tiếng thủ thỉ, tiếng la hét, tiếng trẻ con khóc” mà Nguyễn Khải phát <br />
hiện ra chỉ sau bốn năm chiến tranh là biểu hiện sâu sắc sự sống đang hồi sinh khi chiến <br />
tranh đi qua: “cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi”.<br />
<br />
Bên cạnh sự hồi sinh trong tâm hồn cảnh sống con người là sự hồi sinh của thiên nhiên, <br />
của cơ sở vật chất: “Cũng chẳng ai ngờ khu pháo binh phía Tây Hồng Cúm của giặc năm <br />
xưa lại là bãi trồng lạc của đội sản xuất số sáu… Một năm đã đi qua, mùa xuân thứ hai đã <br />
đến. Màu xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của <br />
ớt chín lan dần lên các thứ màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang”.<br />
<br />
Thông qua nhân vật Đào, Nguyễn Khải đã thể hiện một cảm hứng mới – cảm hứng về <br />
sự hồi sinh của sự sống sau chiến tranh. Đồng thời biểu hiện một năng lực quan sát, <br />
khám phá tinh tế. Với Đào, ông không muốn diễn tả nỗi đau nhân thế mà muốn bộc lộ <br />
niềm tin mãnh liệt vào sự biến đổi của số phận con người. Đào là hình tượng điển hình <br />
cho những người biết vượt qua ranh giới, đứng lên bằng sức mạnh chính mình mà sống <br />
để tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống mới.<br />
<br />
<br />