Phát triển đội ngũ giảng viên đại học trong bối cảnh tự chủ ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 1
download
Bài viết "Phát triển đội ngũ giảng viên đại học trong bối cảnh tự chủ ở Việt Nam hiện nay" sử dụng phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp từ các nguồn thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ các bài báo, tạp chí trực tuyến để nghiên cứu thực trạng đội ngũ giảng viên đại học ở Việt Nam trong bối cảnh thực hiện tự chủ đại học. Từ đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát triển đội ngũ giảng viên đại học đáp ứng yêu cầu thực hiện quyền tự chủ đại học ở nước ta hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phát triển đội ngũ giảng viên đại học trong bối cảnh tự chủ ở Việt Nam hiện nay
- PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC TRONG BỐI CẢNH TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Thị Thu Hà1 Trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm, Việt Trì, Phú Thọ Abstract The article uses the method of collecting secondary documents from statistical sources of the Ministry of Education and Training, from online articles, magazines to study the current situation of university teaching staff in Vietnam in the context of implementing university autonomy. The results show that the university teaching staff has increased in both quantity and quality but there are many limitations. From there, the article proposes a number of solutions for further development of university teaching staff to meet the requirements of implementing university autonomy in our country today. Keywords: Teaching staff, university autonomy, higher education. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ở nước ta, tự chủ đại học (TCĐH) được coi là xu thế phát triển tất yếu, là điều kiện cần và đủ để các trường đại học tồn tại và phát triển trong xu thế cạnh tranh và hội nhập. Trong quá trình thực hiện TCĐH, đội ngũ giảng viên (ĐNGV) luôn được coi là nhân tố quan trọng, quyết định đến chất lượng đào tạo của cơ sở GDĐH. Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các cơ sở GDĐH đã và đang tiếp cận và từng bước ứng dụng những tiến bộ mới nhất của khoa học công nghệ vào các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học cũng như đổi mới phương pháp giảng dạy. Để đáp ứng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình tự chủ giáo dục đại học (GDĐH) thì chất lượng ĐNGV đóng vai trò then chốt, quyết định đến chất lượng giáo dục và kết quả của quá trình tự chủ GDĐH. Hiện nay, phát triển ĐNGV có chất lượng cao là một chiến lược đang được chú trọng ở tất cả các trường đại học. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ĐNGV đại học ở nước ta còn nhiều khuyết điểm như chất lượng chưa đồng đều, tỷ lệ giảng viên (GV) có trình độ cao còn thiếu, công tác nghiên cứu khoa học còn nhiều hạn chế, … Vì vậy, đẩy mạnh phát triển ĐNGV đáp ứng yêu cầu tự chủ GDĐH ở nước ta hiện nay là cần thiết. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.1. Vai trò của ĐNGV trong TCĐH GV là người thực hiện nhiệm vụ giảng dạy trong các trường cao đẳng, đại học trở lên, có nhân thân rõ ràng, phẩm chất cũng như đạo đức, sức khoẻ tốt. Tại Khoản 29 Điều 1 Luật GDĐH năm 2018 quy định, “GV trong cơ sở GDĐH là người có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ; có trình độ đáp ứng quy định của Luật này, quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở GDĐH” [7]. Đồng thời, Khoản 1 Điều 66 Luật Giáo dục năm 2019 có quy định các đối tượng được gọi là GV như sau: “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục khác, giảng dạy trình độ sơ cấp, trung cấp gọi là giáo viên; nhà giáo giảng dạy 1 hantt.cntpphutho@gmail.com 247
- từ trình độ cao đẳng trở lên gọi là GV” [8]. Ngoài ra, vẫn tại Khoản 29 Điều 1 Luật GDĐH năm 2018, “Chức danh GV bao gồm trợ giảng, GV, GV chính, phó giáo sư, giáo sư. Cơ sở GDĐH bổ nhiệm chức danh GV theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động, quy định về vị trí việc làm và nhu cầu sử dụng của cơ sở GDĐH” [7]. Như vậy, GV là người giảng dạy trong các trường cao đẳng, đại học và gồm trợ giảng, GV, GV chính, phó giáo sư, giáo sư. Trong quá trình thực hiện tự chủ GDĐH, vai trò của ĐNGV là: Thứ nhất, GV là yếu tố then chốt, quyết định chất lượng giáo dục của các cơ sở GDĐH trong quá trình tự chủ. TCĐH chính là thể hiện vai trò chủ thể của trường đại học trên thị trường GDĐH. Sứ mệnh của đại học thường nhấn mạnh đến việc giảng dạy và chương trình đào tạo. Nhưng khi nghiên cứu trở thành một giá trị học thuật chiếm ưu thế, quyền tự do học thuật, châm ngòi cho việc nâng cao chất lượng đời sống của giáo viên thì tự khắc các cá nhân sẽ nỗ lực phấn đấu. Muốn vậy, chính đội ngũ nhân sự của nhà trường cần phải luôn có động lực để phấn đấu tự khẳng định mình trong cuộc cạnh tranh trên thị trường GDĐH. Khi tự chủ, đời sống giáo viên sẽ được nâng cao nếu mỗi cá nhân tự ý thức và nỗ lực vươn lên. Trao quyền tự chủ được xem là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của trường đại học. Quyền tự chủ tỉ lệ thuận với trách nhiệm xã hội. Quyền tự chủ, khi thực hiện với tính tự chịu trách nhiệm phải dẫn đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của trường đại học. Trách nhiệm xã hội của phần lớn GV đại học có ảnh hưởng đến cuộc sống nghề nghiệp của họ. Sự “thăng tiến” nhanh chóng trong nghề nghiệp và công việc chuyên môn của GV sẽ làm tăng hay giảm sự gắn bó trung thành đối với trường đại học. Chính điều này làm tăng sự cạnh tranh bình đẳng giữa các trường đại học trong việc thu hút người tài, đa dạng hóa các hoạt động đào tạo. Thứ hai, GV có vai trò định hướng cho sinh viên tính tự chủ gắn với trách nhiệm xã hội trong quá trình đào tạo. GV không chỉ là người cung cấp tri thức mà còn phải là người hướng dẫn sinh viên đến với tri thức, khoa học bằng đường đi ngắn nhất, tốt nhất và luôn luôn phải có sự sáng tạo. Có tri thức mà thiếu sáng tạo thì chỉ có thể học làm theo những cái có sẵn, và cho dù là bất cứ một lĩnh vực nào như khoa học, kinh doanh, hay văn hóa nghệ thuật, … không có sáng tạo đều đi đến một con đường là tri thức chết. Vì thế, bên cạnh việc trang bị và định hướng cho sinh viên tính tự chủ trong việc tiếp thu những kiến thức khoa học về ngành, nghề theo học, ĐNGV cũng phải cần điều chỉnh thái độ mang tính “dân chủ là tôn trọng người học” với sinh viên trong quá trình trao đổi, đối thoại. Như vậy, trong GDĐH, giảng viên và sinh viên là hai đối tượng trực tiếp tham gia vào kiến thiết nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển xã hội. Để đáp ứng được yêu cầu xã hội đòi hỏi cả hai đối tượng phải nhận thức được sự tương tác trong quá trình hình thành những giá trị tự chủ mà ở đây vai trò của giảng viên mang tính quyết định. 2.2. Thực trạng phát triển ĐNGV đại học trong bối cảnh tự chủ ở Việt Nam Trong bối cảnh hiện nay, các cơ sở GDĐH đang từng bước thực hiện tự chủ toàn diện cả về tài chính, nhân lực, tổ chức và học thuật. Đây là vấn đề được các nhà chức năng, hệ thống GDĐH Việt Nam và nhiều trường đại học trong khu vực và trên thế giới quan tâm. Theo đó, một trong những yếu tố quyết định đến thành công của quá trình TCĐH chính là chất lượng của ĐNGV. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 2010-2020 đã ghi rõ: “Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn 248
- cao, phong cách giảng dạy và quản lí tiên tiến” [1]. Đại hội XIII của Đảng đã xác định, “đẩy mạnh TCĐH” [2, tr. 137]. Sau hơn 35 năm đổi mới của đất nước, GDĐH Việt Nam đã từng bước phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo, nguồn lực xã hội được huy động nhiều hơn và đạt được nhiều kết quả tích cực, cung cấp nguồn lao động chủ yếu có trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm an ninh quốc phòng và hội nhập kinh tế quốc tế. Sau 10 năm thực hiện chủ trương đổi mới, GDĐH ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Trước hết, Việt Nam đã từng bước thể chế hóa các quan điểm, nội dung của Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới giáo dục thành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cụ thể, trong hai năm 2018 và 2019, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH (năm 2018) và Luật Giáo dục (năm 2019) do Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo đã được Quốc hội thông qua và từng bước đi vào cuộc sống, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đổi mới GDĐH. Các cơ sở GDĐH được trải rộng khắp các miền đất nước, tạo điều kiện nâng cao tính công bằng trong việc tiếp cận loại hình GDĐH của người dân. - Về số lượng và trình độ ĐNGV đại học Chất lượng GDĐH từng bước được nâng lên và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Năm 2019, GDĐH Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới (tăng 12 bậc so với năm 2018). Sự thăng tiến về thứ hạng của các trường đại học đi đôi với sự tăng cường về chất lượng của ĐNGV theo chuẩn quốc tế. Theo thông tin từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổng số GV làm việc toàn thời gian của cả nước tính đến 31/12/2021 là hơn 85.000 người, công tác tại 238 trường đại học, học viện, 37 viện nghiên cứu khoa học, 28 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. Biểu đồ 1: Cơ cấu ĐNGV đại học toàn thời gian tính đến 31/12/2021 (Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021) Trong đó, số GV có chức danh Giáo sư chỉ là 757 người - đây là số lượng giáo sư đang giảng dạy, không tính những người đã về hưu hoặc không tham gia giảng dạy - chiếm tỷ lệ chỉ 0,89%. Đây cũng là thành phần ít nhất trong cơ cấu trình độ GV. Số GV có chức danh Phó giáo sư cũng chỉ chiếm 6,21%. Số GV có học vị tiến sĩ là 25,19%. 249
- Số GV có trình độ thạc sĩ chiếm tỷ lệ đông đảo nhất với 60,35% và có trình độ đại học là 7,36%. Như vậy, so với năm 2019, ĐNGV đại học đã có sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng (năm 2019 cả nước có 73.312 GV). Về nhân lực, từ thời điểm được giao thí điểm tự chủ, các cơ sở GDĐH đã từng bước hình thành cơ cấu nhân lực phù hợp. Các cơ sở GDĐH đã chủ động tăng số lượng GV và giảm số lượng lao động khối hành chính; đồng thời, thu hút ĐNGV, chuyên gia giỏi tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học với mục tiêu góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng quy mô, nâng cao thu nhập cho GV. Tỷ lệ SV/GV của Việt Nam là 27. Số GV tham gia giảng dạy các chương trình quốc tế cũng ngày một nhiều. Hiện nay, 20 cơ sở GDĐH của Việt Nam triển khai các “chương trình tiên tiến”, chủ yếu trong lĩnh vực STEM và kinh doanh bằng cách áp dụng chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh của các trường đại học hàng đầu thế giới. Ngoài ra, còn có khoảng 350 chương trình hợp tác quốc tế do 85 trường đại học Việt Nam phối hợp với 258 trường đại học từ 33 quốc gia. Trong đó, nhiều nhất là Pháp (86 chương trình), Anh (85 chương trình), Hoa Kỳ (84 chương trình), Úc (49 chương trình) và Trung Quốc (34 chương trình) [4]. Những con số này, chứng tỏ ĐNGV đại học Việt Nam đã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. - Về công tác nghiên cứu khoa học của ĐNGV đại học Công tác nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế được đẩy mạnh và chất lượng được nâng lên. Các cơ sở GDĐH ngày càng chủ động hơn trong việc quyết định hướng nghiên cứu và tham gia các nhiệm vụ khoa học công nghệ, từ đó chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nếu như trước đây, việc công nhận học hàm giáo sư, phó giáo sư và học vị tiến sĩ không bắt buộc phải có bài báo công bố quốc tế thì từ năm 2018, quy chế mới đòi hỏi ứng viên phải có công bố quốc tế nằm trong danh mục các tạp chí có uy tín như ISI hoặc Scopus, ... Năm 2019, tổng số bài báo khoa học của Việt Nam được công bố trên hệ thống ISI/ Scopus là 12.475 bài, đứng thứ 49 trên thế giới (tăng 2,7 lần so với năm 2015) [5]. Đến năm 2022, số lượng bài báo quốc tế trong danh mục Web of Science (WoS) tăng thêm 3,5 lần sau 4 năm; số bài báo trong danh mục SCOPUS của các cơ sở GDĐH tăng thêm hơn 4 lần. Sản phẩm của các đề tài, dự án, chương trình khoa học và công nghệ cấp bộ của các đơn vị trực thuộc Bộ đã tăng đáng kể trong các năm qua, trung bình 25%/năm [6]. Tính riêng các trường trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, số công bố khoa học quốc tế, công bố trong nước, sáng chế và tài sản trí tuệ khác tăng dần qua các năm; nhiều đề tài, nhiệm vụ đã đóng góp quan trọng, thiết thực cho các ngành công nghiệp, cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các địa phương. Như vậy, trong những năm qua, ĐNGV đại học ngày một nâng cao cả về số lượng và năng lực chuyên môn. Kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn từng bước được nâng cao về mọi mặt, góp phần tích cực vào thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai đoạn vừa qua. Bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của người GV ngày càng vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng. Công tác xây dựng và phát triển ĐNGV đại học trong hơn 35 năm đổi mới đã có những bước chuyển biến quan trọng về nhận thức, quan điểm tư tưởng được thể hiện trong cơ chế, chính sách, pháp luật từ khâu tuyển dụng, đào tạo và quản lý, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 250
- Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế nhất định: (1) Số lượng, cơ cấu ĐNGV chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài, tình trạng hụt hẫng giữa các thế hệ GV trong mỗi cơ quan, đơn vị còn phổ biến, thiếu ĐNGV nòng cốt kế cận có trình độ chuyên môn cao, dù tỉ lệ GV có trình độ tiến sĩ tăng lên nhưng số lượng GV có chức danh Giáo sư, Phó giáo sư lại có xu hướng giảm. (2) Chất lượng ĐNGV đại học nước ta hiện nay còn yếu, chưa thực sự tương xứng với đòi hỏi phát triển của đất nước, xã hội và xu thế hội nhập, tỷ lệ ĐNGV đại học có trình độ đại học vẫn chiếm 7.36%. (3) Tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận GV còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới, tinh thần phục vụ, nhiệt huyết chưa cao [3]. Sự xuống cấp đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận GV, theo đó, một bộ phận thầy, cô giáo chạy theo lối sống kiếm tiền, tự đánh mất mình, mất lòng tin của xã hội, làm hình ảnh của mình xấu dần trong mắt SV. Thậm chí, tình trạng một số thầy, cô lợi dụng uy tín của nhà giáo để thương mại hóa các hoạt động giáo dục, thậm chí vô tâm, có những hành động bạo lực, nhục hình xúc phạm nhân cách, danh dự của người học. Chính vì vậy, trong thời gian tới, công tác phát triển, đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV đại học rất cần chú trọng hơn nữa trong quá trình thực hiện tự chủ GDĐH. 2.3. Giải pháp phát triển ĐNGV đại học trong bối cảnh tự chủ ở Việt Nam hiện nay 2.3.1. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển ĐNGV đáp ứng yêu cầu TCĐH Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các cơ sở GDĐH xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV gắn với lộ trình tự chủ, hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo đúng chuẩn chức danh nghề nghiệp. ĐNGV cần có năng lực sư phạm, có năng lực tự học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trau dồi đạo đức, nhân cách nhà giáo. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cần xây dựng được ĐNGV đảm bảo về số lượng và đáp ứng tốt về chất lượng, có đạo đức nghề nghiệp. Các cơ sở GDĐH cần thường xuyên tạo điều kiện cho GV được tham gia các chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trong và ngoài nước; các khóa tập huấn chuyên sâu để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kĩ năng sư phạm cho ĐNGV cần sát với yêu cầu thực tế, tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn theo định kì. 2.3.2. Tạo sự chuyển biến về nhận thức trong các cơ sở GDĐH đối với việc phát triển ĐNGV Đây là giải pháp có ý nghĩa quyết định đối với phát triển ĐNGV đại học hiện nay. Bởi vì, trong mọi hoạt động của con người, nhận thức đúng bao giờ cũng là cơ sở để phát huy trách nhiệm, xây dựng động cơ thái độ đúng đắn, xây dựng ý chí quyết tâm cao của từng thành viên trong tổ chức để có biện pháp cụ thể và tự giác hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Nếu nhận thức lệch lạc, thiếu khoa học sẽ dẫn tới hành động thiếu kế hoạch, thụ động và tất yếu hiệu quả sẽ không cao. Vì vậy, tạo sự chuyển biến và thống nhất về nhận thức trong các cơ sở GDĐH đối với việc phát triển ĐNGV, nhất là GV chất lượng cao là giải pháp quan trọng hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến chất lượng ĐNGV đại học. 251
- 2.3.3. Chú trọng công tác tuyển dụng, bố trí, sắp xếp cán bộ, GV giảng dạy đúng chuyên môn và phù hợp với năng lực Để thực hiện tốt yêu cầu này, ngay từ khâu tuyển dụng cần khách quan, công bằng nhằm tuyển những ứng viên có năng lực giảng dạy, khả năng nghiên cứu khoa học, đạo đức phẩm chất tốt. Trong mỗi chuyên ngành, cần bố trí kết hợp giữa các thế hệ GV, GV trẻ với GV lớn tuổi để có sự đan xen, bổ sung về năng lực cũng như kinh nghiệm thực tiễn. Công tác quy hoạch cán bộ cần lựa chọn đúng GV có đủ tiêu chuẩn về năng lực, phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp. Để thực hiện tốt giải pháp này đòi hỏi các cơ sở GDĐH cần nắm rõ mặt mạnh, mặt yếu của từng GV, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho ĐNGV tham gia nghiên cứu khoa học, đổi mới phương pháp dạy học, cũng như phát huy khả năng sáng tạo của mình; thường xuyên trao đổi, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của GV. Xây dựng ĐNGV đạt chuẩn, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. 2.3.4. Thực hiện tốt các chính sách đối với ĐNGV Xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện tốt các chính sách sẽ tạo động lực, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và giảng dạy của GV. Bên cạnh đó, các trường đại học cần không ngừng chăm lo, nâng cao đời sống cho cán bộ GV, thực hiện tốt các chính sách ưu đãi về vật chất, tạo điều kiện cho GV phấn đấu trong công tác, có chính sách thu hút các nhà giáo, nhà khoa học, chuyên gia có kinh nghiệm và uy tín trong và ngoài nước tham gia giảng dạy; việc tuyển dụng, sử dụng, chế độ đãi ngộ cho ĐNGV cần dựa trên sự đánh giá thực tế về năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Tăng cường nguồn kinh phí hỗ trợ cho GV học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đầu tư cơ sở vật chất lớp học theo hướng hiện đại. Có thể nói, việc thực hiện tốt các chính sách của các trường đại học sẽ giúp GV yên tâm công tác. Đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng; liên kết với thị trường lao động, đào tạo đi vào thực chất; tăng cường kiểm soát các khoản chi, gia tăng tiết kiệm, bảo đảm tính hiệu quả trong quản lý và sử dụng nguồn lực. Thường xuyên tổ chức các hội thảo khoa học nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, đồng thời khuyến khích GV đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài để học hỏi nền giáo dục tiên tiến, hiện đại trên thế giới. 2.3.5. Phát huy khả năng tự nghiên cứu, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ cho ĐNGV Tự chủ không phải đơn thuần là tập trung vào yếu tố tự chủ, tăng quyền cho hiệu trưởng, mà cần phải trao thêm quyền tự chủ cho các nhà khoa học, GV để khai thác tốt hơn năng lực và tạo môi trường sáng tạo tri thức cho đội ngũ này. Vì vậy, phát triển đội ngũ GV theo hướng tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội; thực hiện tiêu chuẩn cán bộ quản lý, GV, các nhà nghiên cứu khoa học; nhanh chóng xây dựng quy chế tuyển dụng, làm việc, đề bạt cán bộ quản lý, GV và nghiên cứu viên để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, GV trong quản lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện cho công tác quản lý và điều hành hoạt động của cơ sở GDĐH hiệu quả, huy động các nguồn lực phục vụ cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học phù hợp với nhu cầu thực tế của xã hội. 2.3.6. Phát huy tính tích cực của ĐNGV trong việc tự học tập, tự bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu công việc Kết hợp chặt chẽ đào tạo, bồi dưỡng với tự đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện của ĐNGV. Chất lượng ĐNGV được hình thành do nhiều yếu tố tác động, trong đó, phần lớn 252
- thông qua con đường đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ trung tâm thường xuyên của công tác cán bộ. Phẩm chất và năng lực của người GV đại học được tạo nên bởi nhiều yếu tố. Việc đào tạo, bồi dưỡng tại trường và tại đơn vị giữ vai trò chủ đạo. Còn việc tự đào tạo, tự bồi dưỡng và tự rèn luyện của GV là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của ĐNGV khoa học quân sự chất lượng cao. Thực tiễn không ngừng biến đổi, vì thế, từng GV phải không ngừng học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. 3. KẾT LUẬN Như vậy, qua hơn 35 năm đổi mới đất nước, GDĐH Việt Nam đã có bước phát triển rõ rệt, ĐNGV có trình độ sau đại học đã góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, cũng còn nhiều hạn chế, khó khăn đòi hỏi ĐNGV cũng như các cơ quan chủ quản phải tích cực hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng ĐNGV đại học hiện nay. Do đó, để tiến tới thực hiện tự chủ trong GDĐH thì vấn đề xây dựng, phát triển, đào tạo và phát triển ĐNGV là yếu tố then chốt. ________________ Tài liệu tham khảo [1] Ban Chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 137. [3] Nguyễn Thị Thu Hương (2012), “Xây dựng đội ngũ giảng viên trong trường đại học - Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, 28. [4] Ngọc Linh (2021), “Hơn 28% giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ”. Nguồn: https://vietnamnet.vn, ngày 3/01/2021. [5] Thùy Linh (2020), “6 thành tựu ngành Giáo dục trong năm học 2019- 2020”. Nguồn: https://giaoduc.net.vn, ngày 31/10/2020. [6] Phương Liên (2022), “Tự chủ đại học: Cuộc cách mạng đổi mới giáo dục đại học”. Nguồn: https://baochinhphu.vn, ngày 4/8/2022. [7] Quốc hội (2018), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Luật số 34/2018/QH14, ngày 19/11/2018. [8] Quốc hội (2019), Luật Giáo dục, Luật số 43/2019/QH14, ngày 14/6/2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019. [9] Lê Đức Thọ (2021), “Tự chủ về nhân lực trong các trường đại học công lập ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh, số 21 tháng 3, tr. 46-52. 253
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số vấn đề phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường Cao đẳng, Đại học
8 p | 143 | 27
-
Phát triển đội ngũ giảng viên các trường cao đẳng vùng tây nguyên theo tiếp cận năng lực: Thực trạng và giải pháp
11 p | 73 | 10
-
Một số vấn đề lí luận về phát triển đội ngũ giảng viên các trường cao đẳng nghề trong bối cảnh mới
5 p | 95 | 10
-
Một số vấn đề lí luận về phát triển đội ngũ giảng viên đáp ứng đổi mới giáo dục đại học
6 p | 12 | 6
-
Phát triển đội ngũ giảng viên trong bối cảnh tự chủ đại học: Từ lí luận, chính sách đến thực tiễn tại Trường Đại học Tây Nguyên
10 p | 21 | 6
-
Kinh nghiệm quản lí phát triển đội ngũ giảng viên nữ trên cơ sở bình đẳng giới của một số nước trên thế giới
7 p | 33 | 5
-
Thực trạng và giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học ngoài công lập
7 p | 13 | 5
-
Phát triển đội ngũ giảng viên là vấn đề cơ bản của đổi mới giáo dục và đào tạo trong các trường đại học hiện nay
7 p | 26 | 5
-
Thực trạng và một số biện pháp quản lí nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên trường Đại học An Giang
5 p | 7 | 4
-
Phát triển đội ngũ giảng viên ngoại ngữ tại Trường Cao đẳng Ngoại ngữ và Công nghệ Hà Nội: Thực trạng và giải pháp
7 p | 18 | 4
-
Xây dựng mô hình quản lý phát triển đội ngũ giảng viên tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
3 p | 8 | 4
-
Phát triển đội ngũ giảng viên đáp ứng kế hoạch chiến lược phát triển trường đại học giai đoạn 2018-2025
5 p | 29 | 4
-
Phát triển đội ngũ giảng viên dạy ngoại ngữ ở Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế
5 p | 38 | 4
-
Quản lí phát triển đội ngũ giảng viên trong bối cảnh đổi mới giáo dục nghề nghiệp, nghiên cứu trường hợp Trường Cao đẳng Tây Đô
8 p | 28 | 3
-
Một số giải pháp quản lí phát triển đội ngũ giảng viên các trường cao đẳng trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
8 p | 73 | 3
-
Đề xuất mô hình phát triển đội ngũ giảng viên theo hướng tăng quyền tự chủ, trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học công lập
13 p | 44 | 3
-
Việc phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường cao đẳng - đại học ở Việt Nam
10 p | 24 | 2
-
Phát triển đội ngũ giảng viên chuyên ngành Phật học ở Việt Nam hiện nay
13 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn