DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Bảng Tên Bảng Trang

1 Bảng 2.1 Tình hình cơ sở vật chất-kỹ thuật của du lịch 50

Quảng Ninh giai đoạn 2001- 2010

2 Bảng 2.2 Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh 52

giai đoạn 2001- 2010

3 Bảng 2.3 Tình hình kinh doanh của ngành du lịch Quảng 54

i

Ninh giai đoạn 2001- 2010

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa

Bảo vệ môi trường 1 BVMT

Cơ sở vật chất kỹ thuật 2 CSVCKT

Cơ sở hạ tầng 3 CSHT

4 ECOMOST Mô hình du lịch bền vững của cộng đồng châu âu

Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới 5 IUCN

Tài nguyên du lịch 6 TNDL

Tài nguyên du lịch tự nhiên 7 TNDLTN

Tài nguyên du lịch nhân văn 8 TNDLNV

Ủy ban nhân dân 9 UBND

Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới 10 WCED

ii

Tổ chức du lịch thế giới ( World Tourism Organization) 11 WTO

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nắm bắt những thuận lợi do quá trình hội nhập quốc tế mang lại, tận

dụng ưu thế về tài nguyên, du lịch Quảng Ninh trong những năm qua có bước

phát triển mạnh mẽ, hệ thống cơ sở hạ tầng và chất lượng dịch vụ được cải

thiện, nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được trùng tu, tôn

tạo. Lượng khách trong nước và quốc tế không ngừng tăng, năm 2010 du lịch

Quảng Ninh đón 5,4 triệu lượt khách, doanh thu đạt 3100 tỷ đồng. Sự phát

triển của ngành du lịch góp phần vào sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng tích cực, tạo việc làm góp phần xóa đói giảm nghèo , nâng

cao chất lượng đời sống nhân dân.

Tuy nhiên, sau một thời kỳ dài tăng trưởng với tốc độ cao du lịch Quảng

Ninh đang dần phải đối mặt với những vấn đề có liên quan đến phát triển bền

vững. Điều đó được thể hiện qua sự ô nhiễm môi trường tại các khu du lịch,

sự thiếu đa dạng của sản phẩm du lịch, dẫn dến số ngày lưu trú, hệ số quay trở

lại và hệ số chi tiêu của khách du lịch thấp. Không có những sản phẩm du lịch

thực sự cao cấp và hấp dẫn. Cảnh quan Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long

bị phá vỡ do quá trình đô thị hóa. Sự phát triển du lịch không cân đối giữa các

trung tâm du lịch trong tỉnh. Hoạt động du lịch chủ yếu tập trung tại khu vực

Bãi Cháy, dẫn đến sự quá tải vào mùa cao điểm. Hiện tượng đầu tư thừa về cơ

sở lưu trú tại khu vực này cũng bắt đầu xuất hiện. Sự thờ ơ của doanh nghiệp

đối với công tác phúc lợi xã hội cuả địa phương. Công tác giáo dục và bảo vệ

các tài nguyên phục vụ phát triển du lịch chưa thực sự được chú trọng.

Với mục đích nghiên cứu thực trạng phát triển của du lịch Quảng Ninh

trên quan điểm bền vững, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển du lịch theo

1

hướng bền vững ở Quảng Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Hiện nay vấn đề phát triển bền vững của ngành du lịch đang được quan

tâm nghiên cứu, tiêu biểu phải kể đến các công trình như “Phát triển du lịch

bền vững du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của

PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh, trưởng khoa du lịch, Đại học Kinh tế Thành phố

Hồ Chí Minh (năm 2008). Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu đánh giá tác động qua

lại giữa môi trường xã hội với hoạt động du lịch nhằm góp phần phát triển du

lịch bền vững tại thị xã Sầm Sơn - Thanh Hóa” do GS.TS Nguyễn Văn Đính

làm chủ nhiệm đề tài( năm 2005). Luận án tiến sĩ “Phát triển Du lịch bền

vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng” của Trần Tiến Dũng,Trường đại học Kinh tế

Quốc dân Hà nội ( năm 2007) “Phát triển du lịch bền vững gắn với bảo vệ

môi trường” của PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục

Biển và Hải đảo Việt Nam (năm 2006). “Du lịch bền vững dựa vào cộng

đồng” của Tăng Thị Duyên Hồng (đăng trên tạp chí Du lịch Việt Nam, số 5

năm 2008). Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu được đăng trên các Báo trung

ương và địa phương. Đối với du lịch Quảng Ninh đã có một số nghiên cứu

liên quan đến vấn đề phát triển bền vững như “Đánh giá tác động của phát

triển du lịch đối với môi trường Vịnh Hạ Long của Viện Nghiên cứu Phát

triển Du lịch kết hợp với Sở Tài nguyên Môi trường Quảng Ninh” (năm

2002). “ Xây dựng sản phẩm đảm bảo phát triển du lịch bền vững ở Quảng

Ninh” của Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh (Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch

Việt Nam, năm 2007). “Nguồn lực phát triển du lịch sinh thái tại một số đảo

Quảng Ninh” Luận Văn tốt nghiệp chuyên ngành Du lịch học của Đàm Thu

Huyền, chuyên viên Sở Du Lịch Quảng Ninh (năm 2007). Đây là công trình

đánh giá những tiềm năng của Quảng Ninh về du lịch sinh thái. Tuy nhiên số

2

lượng nghiên cứu sự phát triển của ngành du lịch trên quan điểm phát triển

bền vững ở Quảng Ninh chưa nhiều , vì vậy cần nhận được sự quan tâm

nghiên cứu của các cấp các ngành và giới học thuật trong và ngoài Tỉnh.

3. Mục đích và nhiệm vụ

*Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn lý giải một số vấn đề về sự bền

vững trong thực trạng phát triển của ngành du lịch Quảng Ninh.. Trên cơ sở

phân tích này, luận văn đề xuất một số gợi ý về giải pháp nhằm đưa du lịch

Quảng Ninh phát triển theo hướng bền vững và hiệu quả.

* Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhiệm vụ của luận văn này là tập trung nghiên cứu những lý luận cơ

bản nhất của phát triển du lịch bền vững. Bài học kinh nghiệm của một số

quốc gia trong việc phát triển du lịch bền vững và không bền vững. Đánh giá

tài nguyên du lịch của Quảng Ninh. Phân tích một số vấn đề liên quan đến

phát triển bền vững của du lịch Quảng Ninh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là sự phát triển của du lịch Quảng Ninh trên

quan điểm phát triển bền vững. Trong đó chú trọng một số trung tâm du lịch

như : trung tâm Hạ Long, Vân Đồn, Móng Cái, Đông Tiều – Uông Bí, Sự

phát triển của các trung tâm này tạo nên diện mạo cho ngành du lịch Quảng

Ninh. Đây cũng chính là đối tượng nghiên cứu cụ thể nhất của luận văn.

* Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn về mặt không gian là tỉnh Quảng

Ninh. Phạm vi nghiên cứu của luận văn về mặt không gian còn diễn ra trên

các phương diện kinh tế - chính trị - xã hội và môi trường tự nhiên của tỉnh

Quảng Ninh.

Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của luận văn là khoảng thời gian

3

từ năm 2001 đến năm 2010. Đây là khoảng thời gian mà ngành du lịch

Quảng Ninh có tốc độ tăng trưởng nhanh, các vấn đề liên quan đến phát triển

bền vững được tương đối rõ nét.

5. Phương pháp nghiên cứu

Thực trạng phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh được

tiếp cận dưới góc độ của khoa học kinh tế chính trị vì vây luận văn có sử dụng

các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp kế thừa, Phương pháp trừu

tượng hóa khoa học, Phương pháp thống kê, Phương pháp phân tích và tổng

hợp

6. Những đóng góp mới của luận văn

- Luân văn góp phầnhệ thống một cách khái quát nhất những lý luận về

phát triển du lịch theo hướng bền vững, vận dụng phân tích thực trạng phát

triển của du lịch Quảng Ninh.

- Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch Quảng Ninh trên

quan điểm phát triển bền vững. Làm rõ nguyên nhân hệ số quay trở lại và hệ

số chi tiêu của khách du lịch thấp. Đánh giá vấn đề ô nhiễm môi trường và tác

động của hoạt động du lịch đối với cộng đồng cư dân địa phương.Sử dụng kết

quả đánh giá thực trạng để đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần đưa du

lịch Quảng Ninh phát triển theo hướng bền vững. Kết quả nghiên cứu của

luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong việc hoạch

định chính sách phát triển du lịch Quảng Ninh trong tương lai.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn

được kết cấu làm 3 chương

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển du lịch bền vững

Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng

4

Ninh

Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng

Ninh

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DU LỊCH

BỀN VỮNG

1.1. Khái luận về phát triển du lịch bền vững

1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững và du lịch bền vững

* Khái niệm phát triển bền vững

Khái niệm "Phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980

trong ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn Thế giới” (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn

Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn

giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh

tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến

môi trường sinh thái học".[1]

Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo

“Tương lai của chúng ta” của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới

(WCED). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp

ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những

khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.”[2]

Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những nhu cầu của hiện

tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương

lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo,

tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ

thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực

vật. Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm

5

và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái mà còn đi vào các

nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu

và nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ

quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần

thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững.

Khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào những

năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Nó nhanh chóng nhận được sự quan

tâm của Đảng và Nhà nước, điều đó được thể hiện thông qua hàng loạt các

văn bản chính sách có tính định hướng chiến lược như: “Kế hoạch quốc gia

về môi trường và phát triển bền vững”, đây là văn bản tạo tiền đề cho quá

trình phát triển bền vững ở nước ta. Quan điểm phát triển bền vững được

khẳng định lại trong chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ

Chính Trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chỉ thị nhấn mạnh “Bảo vệ môi trường là

nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối chủ trương và kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội của các cấp các ngành, là cơ sở để đảm bảo phát

triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước”. Quan điểm phát triển bền vững lại được tái khẳng định trong văn

kiện Đại hội IX của Đảng và trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai

đoạn 2001 – 2010 là: “Phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả. Tăng trưởng

kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”

và “Phát triển kinh tế gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự

hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng

sinh học”. Phát triển bền vững trở thành quan điểm đường lối của Đảng và Nhà

nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nhiều chỉ thị, nghị quyết của

Đảng và văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành, triển

khai thực hiện, nhiều công trình nghiên cứu đã được triển khai và bước đầu thu

được kết quả bước đầu. Nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi

6

vào cuộc sống và dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.

Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Chính phủ đã ban

hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” trong đó đề ra

các nguyên tắc cơ bản cho sự phát triển bền vững:

Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững, đáp ứng nhu

cầu đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân xây dựng dân giàu nước

mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, là nguyên tắc quán triệt nhất quán

trong quá trình triển.

Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát

triển sắp tới. Đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng cho phát triển

bền vững. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho nhân dân. Kết hợp chặt

chẽ, hài hòa, hợp lý với phát triển xã hội. Khai thác hợp lí, sử dụng tiết kiệm

hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và

bảo vệ môi trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “ Mọi mặt”:

Kinh tế, xã hội và môi trường đều có lợi.

Thứ ba, bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là yếu tố không

thể tách rời của phát triển. Tích cực chủ động phòng ngừa những tác động

xấu với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng nguyên

tắc người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường phải bồi thường. Xây

dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về bảo vệ môi trường; Chủ

động gắn kết và có chế tài bắt buộc, lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường

trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế

xã hội, coi yêu cầu bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong phát

triển bền vững.

Thứ tư, quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng

đối với thế hệ hiện tại mà không gây tổn hại đối vớ các thế hệ tương lai. Tạo

điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng

để phát triển, được tiếp cận với nguồn lực chung và được phân phối một cách

công bằng lợi ích công cộng, tạo ra những nền tảng vật chất , tri thức, văn hóa

7

tốt đẹp cho các thế hệ mai sau. Sử dụng tiết kiệm tài nguyên không thể tái tạo

được, gìn giữ và bảo vệ môi trường sống. Phát triển hệ thống “sản xuất sạch”

thân thiện với môi trường, xây dựng lối sống lành mạnh, hài hòa, gần gũi và

yêu quí thiên nhiên.

Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Công nghiệp hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường được ưu tiên sử dụng

trong các ngành sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh và có khả năng thúc

đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác.

Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính

quyền các bộ ngành, địa phương, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.

Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa

chọn các quyết định về phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường ở địa

phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả năng tiếp cận

thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ,

thanh niên, đồng bào dân tộc thiểu số trong việc đóng góp vào quá trình ra

quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn vá lâu dài của đất nước.

Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước. Phát triển quan

hệ song phương và đa phương thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực, tiếp

thu có chọn lọc những tiến bộ khoa học công nghệ , tăng cường hợp tác quốc tế

để phát triển bền vững. Chú trọng phát huy lợi thế , nâng cao chất lượng hiệu

quả, năng lực cạnh tranh, chủ động phòng ngừa những tác động xấu với môi

trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây nên.

Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và

bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội.[3]

*Khái niệm du lịch bền vững

Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, trên thế giới xuất hiện những

8

cảnh báo đầu tiên về sự suy thoái môi trường do hoạt động du lịch gây ra, các

nhà khoa học đã dùng khái niệm “ du lịch rắn”(Hard tourism) để chỉ các hoạt

động du lịch ồ ạt, không được quy hoạch hợp lí. Khái niệm “du lịch mềm”

(Soft tourism) chỉ một chiến lược du lịch mới tôn trọng tài nguyên môi

trường. Năm 1996 xuất hiện khái niệm “ du lịch bền vững “ ( Sustainable) do

Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế đưa ra trên cơ sở phát triển của khái

niệm “du lịch mềm”, nhưng có nội dung rộng hơn không chỉ dừng lại bảo vệ

môi trường mà còn phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa và xã hội.

Khái niệm du lịch bền vững do Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế

đưa ra có nội dung: “Du lịch bền vững là sự đáp ứng các nhu cầu hiện tại của

du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu

về du lịch cho thế hệ tương lai”. ( World Travel and Tourism Council,

1996).[25]

Bên cạnh khái niệm của Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế Tổ chức

Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới cũng đưa ra khái niệm du lịch bền vững là “

Việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm

với môi trường và đánh giá cao tự nhiên, theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có

tác động thấp từ du khách và mang lại lợi ích cho sự tham gia chủ động về

kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương” (International Union for

Conservervation of Nature, 1996). [25]

Du lịch bền vững “đòi hỏi quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách

nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ

trong khi đó vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các quá trình sinh thái cơ bản,

đa dạng sinh học và các hệ thống đảm bảo sự sống”( Nikolova và Hens,

1998).[28]

Du lịch bền vững và du lịch đại chúng có sự khác biệt. Du lịch đại

chúng không được lập kế hoạch hợp lí cho việc nâng cao công tác bảo tồn

hoặc công tác giáo dục, không mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa

9

phương và có thể phá huỷ nhanh chóng các môi trường nhạy cảm. Kết quả là

có thể phá hủy hoặc làm thay đổi một cách không thể nhận ra được các nguồn

lợi tự nhiên và văn hoá mà chúng phụ thuộc vào. Ngược lại, Du lịch bền vững

thì được lập kế hoạch một cách cẩn thận từ lúc bắt đầu để mang lại những lợi

ích cho cộng đồng địa phương, tôn trọng văn hoá, bảo tồn nguồn lợi tự nhiên.

Giáo dục du khách và cả cộng đồng địa phương. Du lịch bền vững có thể tạo

ra một lợi tức tương tự như du lịch đại chúng, nhưng có nhiều lợi ích được

nằm lại với cộng đồng địa phương và các nguồn lợi tự nhiên, các giá trị văn

hoá của vùng được bảo vệ.

Trong nhiều trường hợp, các hoạt động du lịch đại chúng trong quá khứ

có thể mang đến những tác động xấu đến bảo tồn do việc thiếu các cơ chế

quản lý và cơ chế lập kế hoạch có hiệu quả. Ngược lại, du lịch bền vững có

những kế hoạch hợp lí để giảm thiểu các tác động xấu của du lịch, đồng thời

còn đóng góp vào công tác bảo tồn và mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng

về cả mặt kinh tế và xã hội. Du lịch đại chúng không cung cấp nguồn quỹ tài

trợ cho các chương trình phúc lợi cho cộng đồng địa phương, hoặc các

chương trình bảo tồn nhằm bảo vệ cảnh đẹp tự nhiên của vùng. Nói cách

khác du lịch đại chúng chỉ quan tâm đến những lợi ích trước mắt, những lợi

ích cá nhân của nhà kinh doanh. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài tìm đến các khu

vực có cảnh quan tự nhiên đẹp, đồng có những cơ chế quản lí lỏng lẻo về môi

trường, xây dựng các khu du lịch có những đặc điểm điển hình của du lịch đại

chúng. Đây là vấn đề mà Việt Nam cần lưu ý khi kêu gọi đầu tư nước ngoài.

Những cơ hội và các đe dọa có thể chỉ được điều khiển thông qua du lịch bền

vững đã được lập kế hoạch và quản lý cẩn thận. Thực tế phát triển cho thấy

du lịch bền vững là mô hình mang lại nhiều lợi ích hơn so với du lịch đại

chúng.

*Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững

Những nguyên tắc để đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững không

10

tách rời khỏi những nguyên tắc chung của phát triển bền vững. Trên cơ sở đó

kết hợp với những đặc điểm của ngành du lịch, Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên

Thế giới đưa ra mười nguyên tắc cho sự phát triển bền vững của ngành du

lịch.

Thứ nhất, sử dụng tài nguyên một cách bền vững bao gồm cả tài nguyên

thiên nhiên, xã hội và văn hóa.

Thứ hai, giảm tiêu thụ và xả thải quá mức, nhằm giảm các chi phí khắc

phục các suy thoái môi trường, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng du lịch.

Thứ ba, duy trì tính đa dạng: duy trì và phát triển tính đa dạng của tự

nhiên xã hội và văn hóa là rất quan trọng đối với du lịch bền vững, tạo ra sức

bật cho ngành du lịch.

Thứ tư, lồng ghép phát triển du lịch bền vững vào trong quy hoạch

phát triển địa phương và quốc gia.

Thứ năm, hỗ trợ nền kinh tế địa phương, du lịch phải hỗ trợ các hoạt

động kinh tế địa phương, phải tính toán chi phí môi trường để bảo vệ nền kinh

tế bản địa cũng như tránh gây hại cho môi trường.

Thứ sáu, thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương, điều này

không chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho môi trường mà còn tăng cường

đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách.

Thứ bảy, sự tư vấn của nhóm quyền lợi và của công chúng. Tư vấn

giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng, các tổ chức và cơ quan đảm bảo cho

sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh.

Thứ tám, đào tạo cán bộ kinh doanh du lịch, nhằm thực thi các sáng

kiến và giải pháp phát triển du lịch bền vững, nhằm cải thiện chất lượng các

sản phẩm du lịch.

Thứ chín, Marketting du lịch một cách có trách nhiệm, phải cung cấp

cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn

trọng của du khách đến môi trường tự nhiên xã hội và văn hóa của khu du

11

lịch, qua đó góp phần thỏa mãn nhu cầu du khách.

Thứ mười, triển khai các nghiên cứu, nhằm hộ trợ giải quyết các vấn

đề, mang lại lợi ích cho khu du lịch, cho nhà kinh doanh du lịch và cho du

khách.[10]

1.1.2. Nội dung của phát triển du lịch bền vững

Phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường: Du lịch là ngành

có định hướng tài nguyên rõ rệt, bởi vì tài nguyên và môi trường là nhân tố cơ

bản để tạo ra sản phẩm du lịch. Hoạt động du lịch đại chúng tác động tiêu cực

đến nguồn lợi tự nhiên như ảnh hưởng đến nhu cầu và chất lượng nguồn

nước, các chất thải, ô nhiễm không khí, tiếng ồn và phong cảnh, làm nhiễu

loạn sinh thái tại khu du lịch,. Tình trạng này kéo dài sẽ gây ra những hậu quả

nghiêm trọng về môi trường, việc khắc phục sẽ rất tốn kém hoặc không thể

thực hiện. Phát triển du lịch bền vững coi phát triển bền vững tài nguyên môi

trường là nội dung quan trọng hàng đầu, điều đó có nghĩa hoạt động khai khác

sẽ đi đôi với hoạt động bảo tồn. Du lịch bền vững sẽ bảo vệ và quản lí các

nguồn tài nguyên đặc biệt là nguồn tài nguyên không thể phục hồi. Giảm

thiểu tối đa sự ô nhiễm tài nguyên đất, nước, và không khí. Bảo vệ sự đa dạng

sinh học và các tài sản thiên nhiên khác.

Phát triển bền vững về xã hội: Du lịch bền vững không gây hại đến

các cấu trúc xã hội hoặc văn hoá của cộng đồng nơi mà chúng được thực hiện.

Thay vào đó thì nó lại tôn trọng văn hoá và truyền thống địa phương. Khuyến

khích các bên liên quan tham gia trong tất cả các giai đoạn của việc lập kế

hoạch, phát triển và giám sát và tăng cường nhận thức của các bên liên quan

về vai trò của họ trong hoạt động du lịch. Du lịch bền vững chú trọng đến vấn

đề phân phối lợi ích cho cộng đồng địa phương, tạo ra cơ hội cải thiện cuộc

sống, nâng cao mức thu nhập và cung cấp dịch vụ cho người nghèo.

Phát triển bền vững về kinh tế: Du lịch bền vững đóng góp về mặt kinh

tế cho cộng đồng và tạo ra những thu nhập công bằng và ổn định cho cộng

12

đồng địa phương cũng như càng nhiều bên liên quan. Bên cạnh đó sự phát

triển bền vững về kinh tế còn có nghĩa là sức sống của doanh nghiệp và hiệu

quả của hoạt động kinh tế du lịch, sự tái đầu tư của ngành đối với công tác

bảo tồn nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn.

1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong phát triển du lịch bền vững

Nhìn từ phương diện phát triển kinh tế đơn thuần thì du lịch có thể

được điều khiển một cách hiệu quả bởi khu vực tư nhân, tuy nhiên đối với sự

phát triển của du lịch bền vững đòi nhất thiết phải có vai trò của Nhà nước.

Vai trò của Nhà nước thể hiện một cách cơ bản nhất là giám sát hoạt động du

lịch có phù hợp với định hướng phát triển bền vững. Chính phủ có thể tác

động đến phát triển du lịch bền vững bằng cách thông qua hệ thống bộ máy

chính quyền, tiến hành nghiên cứu những ảnh hưởng về môi trường, văn hóa,

kinh tế. Xây dựng các mô hình kinh tế nhằm giúp cho việc xác định các mức

độ và hình thức phù hợp cho các hoạt động phát triển tại các khu vực thiên

nhiên và đô thị. Xây dựng các tiêu chuẩn và quy tắc cho việc đánh giá tác

động môi trường và văn hóa. Giám sát và kiểm toán các hoạt động phát triển

du lịch thực hiện có theo kế hoạch dự kiến không. Thực hiện hệ thống kiểm

toán môi trường khu vực cho ngành du lịch.

Chính phủ có thể xem xét đến du lịch trong khi lập quy hoạch sử dụng đất

nhằm giảm thiểu những mâu thuẫn với cách thức sử dụng đất lâu đời và đảm

bảo sức chứa của các điểm du lịch sẽ phản ánh mức độ bền vững của sự phát

triển được giám sát điều chỉnh một cách phù hợp.

Chính phủ đưa ra các tiêu chuẩn thiết kế và xây dựng mà những tiêu

chuẩn này sẽ đảm bảo rằng các dự án phát triển du lịch sẽ phù hợp với văn

hóa địa phương và môi trường tự nhiên

Chính phủ cũng có thể phát triển các kỹ thuật và công cụ thích hợp để

phân tích tác động của dự án du lịch đến các điểm được công nhận là di sản

văn hóa và các công trình cổ kính mà sự phân biệt này là một bộ phận không

13

thể thiếu của đánh giá tác động môi trường và văn hóa

Chính phủ có thể thực thi các quy định để ngăn ngừa việc buôn bán bất

hợp pháp các cổ vật, các sản phẩm thủ công dân gian các nghiên cứu khảo cổ

tự phát sự mất mát các giá trị thẩm mỹ.

Chính phủ cũng có thể lập nên những ban tư vấn về du lịch trong đó có

đại diện của: Dân bản địa, quảng đại quần chúng, ngành du lịch, các tổ chức

phi chính phủ, và những người khác và quá trình ra quyết định cần phải có sự

tham gia của tất cả các bên liên quan

Chính phủ có thể tăng cường và hỗ trợ du lịch bền vững bằng cách: Xây

dựng các chương trình giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng.Chỉ đạo các

cơ quan chức năng tham gia vào các hoạt động du lịch cùng với các bộ phận

khác có liên quan. Đảm bảo ngành du lịch có đại diện trong các buổi họp

quan trọng về quy hoạch kinh tế và môi trường. Đưa chính sách phát triển du

lịch bền vững vào tất cả các thỏa thuận về phát triển du lịch địa phương cũng

như quốc gia. Chính phủ xây dựng một sơ đồ cho việc phát triển du lịch và

bảo tồn đa dạng sinh học thông qua các chính sách và luật. Ví dụ :

• Luật và quy chế xác định các tiêu chuẩn cho các phương tiện du lịch,

tiếp cận với các nguồn lợi đa dạng sinh học và quy chế sử dụng đất, phân

vùng. Điều này có thể đòi hỏi những hiện trạng về tác động môi trường trước

khi phát triển.

• Cơ sở hạ tầng: thiết kế, phát triển và quy chế (nước, năng lượng,

đường, sân bay…)

• Công cụ kinh tế được xác định trong các chính sách, ví dụ như: những

động cơ cho việc đầu tư du lịch bền vững và việc tạo ra các khu bảo vệ tư

nhân.

• Tiêu chuẩn về sự lành mạnh và độ an toàn, bao gồm những quản lý

chất lượng và quy chế các hoạt động kinh doanh; mục đích là bảo vệ người

tiêu dùng và thoả mãn những nhu cầu của cư dân – bao gồm các cộng đồng

14

truyền thống và người bản xứ - và bảo vệ cách sống của họ.

• Hình thành và duy trì các khu bảo vệ và các hành lang bảo tồn của các

mối quan tâm về du lịch. Các nhà quản lý của các khu bảo vệ công cộng

thường là những người thực hiện hiệu qủa nhất cho những lợi ích bảo tồn từ

việc phát triển du lịch.

• Phân chia các lợi tức thuế cho việc bảo vệ các điểm thu hút du lịch dựa

trên đa dạng sinh học như các công viên quốc gia và các khu bảo tồn.

Tại điểm du lịch, chính quyền địa phương thường chịu trách nhiệm thực

hiện chính sách liên quan đến du lịch và công tác bảo tồn. Chính quyền địa

phương đóng vai trò đàm phán giữa các mối quan tâm của địa phương và các

đơn vị kinh doanh từ bên ngoài, xã hội và các cơ quan trung ương, và họ nắm

giữ quyền điều chỉnh cần thiết và uỷ nhiệm phân vùng mà cho phép thực hiện

cưỡng chế theo các hướng dẫn và tiêu chuẩn. Mặt khác, năng lực của chính

quyền địa phương để quản lý ngành phức tạp và rời rạc này một cách hiệu quả

cũng như đảm bảo những đóng góp tích cực của nó đến các chiến lược của

cộng đồng cho việc phát triển bền vững là còn phụ thuộc vào việc soạn thảo

các chính sách địa phương phải gắn kết với các công cụ và các cơ quan luật

quốc gia.

Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý đến sự thiếu đồng bộ trong chính sách, sự

phối hợp không nhịp nhàng giữa các cơ quan chức năng sẽ tạo ra những ảnh

hưởng tiêu cực đối với tài nguyên du lịch, đặc biệt là trong công tác bảo tồn

sự đa dạng sinh học. Đây cũng là bài học mà nhiều quốc đang phát triển đã

từng gặp phải, hậu quả là sự thất bại về mục tiêu của chính sách bảo tồn.

1.1.4. Chiến lược phát triển du lịch hướng đến sự bền vững

Vấn đề phát triển bền vững nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và

Nhà Nước, điều đó được cụ thể hóa bằng việc Chính phủ ban hành “Định

hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam”, đây là văn kiện có tính

phương pháp luận chung cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội, ngành du lịch

15

cũng trên cơ sở này xây dựng chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020 và

tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược đã xác định phát triển du lịch trở thành

ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành khác phát

triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mang lại tiến bộ xã hội. Phát triển du lịch

bền vững, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa, gắn với an ninh,

quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, khai thác tối ưu lợi thế quốc gia, các nguồn

lực trong và ngoài nước. Phấn đấu đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành

ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ

thuật tương đối đồng bộ, hiện đại, sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng,

có thương hiệu, có sức cạnh tranh mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, thân

thiện với môi trường, đưa Việt Nam trở thành điểm đến có đẳng cấp trong

khu vực. Năm 2030, đưa Việt Nam thành một trong những điểm đến du lịch

ưa chuộng, có đẳng cấp trên thế giới. Đồng thời chiến lược cũng xác định địa

bàn trọng điểm của du lịch Việt Nam,từ các địa bàn trọng điểm này, các khu

di lịch trọng điểm cũng được xác định trong chiến lược và trong quy hoạch

tổng thể phát triển du lịch các trung tâm, các tỉnh trong địa bàn.

Quán triệt tinh thần nêu trên trong thời gian gần đây, các dự án, các kế

hoạch phát triển du lịch, đã chú trọng đến việc bảo tồn tài nguyên cho mục

tiêu phát triển bền vững lâu dài. Những tài nguyên có giá trị cao đối với du

lịch nhưng nhạy cảm với cá tác động của quá trình phát triển đã được đưa vào

không gian bảo tồn nghiêm ngặt, hoặc có kế hoạch khai thác giới hạn hoặc

đưa vào không gian có mức độ ưu tiên đầu tư phát triển thấp như các Vườn

quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu bảo vệ sinh cảnh, các khu bảo

tồn biển, các khu di sản… Trong các dự án phát triển du lịch ở các khu vực

nhạy cảm các nguyên tắc về phát triển bền vững đã được chú trọng. quá trình

khai thác tài nguyên cho phát triển du lịch đã thực hiện các hoạt động đánh

giá tác động môi trường đưa ra các phân tích, dự báo và biện pháp khắc phục

cụ thể cho từng dự án khi phê duyệt. Hiện nay, các dự án phát triển du lịch

16

trong các Vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu dự trữ sinh

quyển đều tập trung đầu tư phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng

như các dự án phát triẻn du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ,

các vườn quốc gia Hoàng Liên, Cát Bà, Ba Bể, Bạch Mã, Chư Yang Sin, Yok

Don, Tràm Chim, Phú Quốc…

Hoạt động phát triển du lịch đang dần hướng tới cộng đồng dân cư còn

nhiều khó khăn trong đời sống như ở các vùng nông thôn, vùng núi và hải đảo

xa xôi. Biểu hiện rõ rệt nhất là những loại hình du lịch thân thiện với môi

trường đồng thời khai thác các giá trị tự nhiên và nhân văn ở các vùng sâu,

vùng xa, góp phần phát triển du lịch và nâng cao đời sống cộng dồng dân cư

dư du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái ngày càng được chú trọng và phát triển

rộng rãi. Quy hoạch tổng thể của du lịch Việt Nam đã xác định sản phẩm du

lịch đặc trưng của các vùng du lịch: vùng du lịch Bắc bộ là du lịch văn hóa

kết hợp với du lịch sinh thái, tham quan, nghi dưỡng; vùng du lịch Bắc Trung

bộ là du lịch tham quan các di tích văn hóa - lịch sử kết hợp với du lịch biển,

hang động và du lịch quá cảnh; vùng Nam Trung bộ và Nam bộ là du lịch

tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi, du lịch sông nước và du lịch sinh thái.

Một số khu du lịch sinh thái ở Việt Nam đã và đang khai thác có hiệu quả

nguồn tài nguyên du lịch và đóng góp cho sự phát triển cộng đồng. Trong đó

đáng kể là hai khu du lịch sinh thái được tổ chức du lịch thế giới đánh giá là

khu du lịch sinh thái bền vững của thế giới bao gồm: khu du lịch Văn Xá

(Cần Giờ - TP Hồ Chí Minh) và khu du lịch suối nước nóng Bình Châu

(Xuyên Mộc – Vũng Tàu).

1.1.5. Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững

Xây dựng chính sách phát triển du lịch hướng đến sự bền vững. Xã hội

hiện đại là một xã hội có tính tổ chức cao, mọi hoạt động đều được quản lí

bởi một bộ máy nhất định và có nó có vai trò quyết định đến hoạt động của

cộng đồng, hoạt động du lịch cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, một

17

quốc gia hay một địa phương giàu tiềm năng về tài nguyên du lịch, nhưng

không có chính sách phát triển hợp lí thì cũng không phát huy một cách hiệu

quả các tiềm năng lợi thế sẵn có, hoạt động du lịch cũng là một hoạt động

kinh tế, nếu để nó diễn ra một cách tự phát sẽ dẫn đến tình trạng chạy theo

mục tiêu lợi nhuận, gây tổn hại đến tài nguyên và nhiều hậu quả nghiêm trọng

khác. Đây là bài học đã được lịch sử phát triển của ngành du lịch nhiều nơi

trên thế giới chứng minh. để đảm bảo phát triển du lịch bền vững cần phải có

chính sách phát triển hợp lí, thể hiện tầm nhìn chiến lược, phát huy được tiềm

năng thế mạnh, thu được lợi ích kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ

được tài nguyên môi trường. Tuy nhiên đây cũng là một thách thức không

nhỏ đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, bởi những hạn chế về

mặt kinh tế và trình độ hoạch định chính sách.

Phát triển cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật đảm bảo cho phát triển du

lịch bền vững. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những phương tiện vật chất của xã

hội, Nó bao gồm mạng lưới và phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên

lạc, công trình cung cấp điện, nước, công viên toàn dân, mạng lưới thương

nghiệp của khu dân cư, rạp chiếu phim, nhà hát, viện bảo tàng…v.v. Cơ sở

hạ tầng là đòn bẩy thúc đẩy sự mọi hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, đối

với ngành du lịch cơ sở hạ tầng là yếu tố khai thác tiềm năng du lịch và nâng

cao chất lượng dịch vụ du lịch, mặt khác phát triển du lịch cũng giúp phát

triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia hoặc một địa phương. Muốn phát triển

du lịch bền vững, cơ sở hạ tầng cần phải đi trước một bước, phải được đầu tư

hiện đại đồng bộ.

Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành

du lịch như hệ thống nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí và cơ sở vật

chất kỹ thuật của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia phục vụ du lịch:

thương nghiệp, dịch vụ… Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò quyết định

trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức

18

độ khai thác tài nguyên du lịch, thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì

vậy nên sự phát triển của ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây

dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật. Để đảm bảo cho việc phát triển du

lịch bền vững, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chú trọng mối quan hệ với tài

nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch có tính nhạy cảm cao.

Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ phát triển du lịch bền

vững. Trong hoạt động du lịch, chất lượng đội ngũ lao động luôn là yếu tố

quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển. Điều này càng trở nên

cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của hoạt động du lịch. Chất lượng

đội ngũ lao động là nhân tố quan trọng trong việc quyết định chất lượng sản

phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và kết qủa cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu

quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng du lịch nhìn từ góc độ kinh tế. Như vậy,

chất lượng cao của đội ngũ lao động không chỉ là yếu tố thu hút khách, nâng

cao uy tín của ngành, của đất nước mà còn là một yếu tố quan trọng trong

cạnh tranh thu hút khác, đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững và được coi

là một trong những dấu hiệu quan trọng để nhận biết sự phát triển bền vững

của du lịch.

Đầu tư cho du lịch đảm bảo phát triển bền vững: Đối với bất kỳ ngành

kinh tế nào, đầu tư luôn là đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành kinh tế

đó. Các nguồn vốn đầu tư tồn tại dưới hai dạng là các nguồn vốn huy động và

các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu như các nguồn vốn đầu tư

trong nước, đặc biệt là các nguồn vốn huy động trong nhân dân để phát triển

các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, có tác dụng làm phong phú thêm các

loại hình dịch vụ tạo công ăn việc làm tránh rủi ro… thì các nguồn vốn đầu tư

nước ngoài lại có vai trò như đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch

nói riêng và nền kinh tế nói chung. Phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị

trường đòi hỏi có sự thích nghi nhanh đối với những thay đổi bởi nhiều yếu tố

khách quan và chủ quan để hạn chế được những rủi ro. Điều này có thể thực

19

hiện được nhờ việc phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Với tư cách là một ngành kinh tế, hoạt động phát triển du lịch cần quan

tâm đến vấn đề này để đảm bảo sự phát triển bền vững đứng ở góc độ kinh tế.

Điều này càng có ý nghĩa đối với những quốc gia đang phát triển, nơi năng

lực quản lý ở quy mô quốc gia còn nhiều hạn chế. Đầu tư mang tính địa

phương sẽ hạn chế được tỷ lệ “rò rỉ” lợi nhuận du lịch. Ngoài ý nghĩa về mặt

kinh tế, việc phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có ý nghĩa về

xã hội, tạo điều kiện để một bộ phận lớn người lao động địa phương có việc

làm. Bên cạnh đó, đây còn là môi trường thu hút được nguồn lực to lớn của xã

hội cho phát triển du lịch, phù hợp tính chất xã hội hóa cao của du lịch, đảm

bảo sự phát triển bền vững.

Ngoài việc xem xét đến nguồn và giá trị vốn đầu tư, trên quan điểm phát

triển bền vững, đối tượng đầu tư (cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ du

lịch, tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực…) cũng

là yếu tố quan trọng cần được đánh giá và xem xét như một dấu hiệu quan

trọng của phát triển bền vững. Việc xem xét, đánh giá dấu hiệu này có thể

thông qua các chi tiêu về tỷ lệ vốn đấu tư cho tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi

trường trong một dự án hoặc tỷ lệ các khu, điểm du lịch của một địa phương

được đầu tư tôn tạo, bảo vệ. Khu vực nào, quốc gia nào càng có nhiều các

khu, điểm du lịch được đầu tư bảo vệ, tôn tạo chứng tỏ hoạt động phát triển

du lịch ở khu vực, quốc gia đó càng gắn với mục tiêu phát triển bền vững.

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, nếu tỷ số này vượt quá 50% thì hoạt động du

lịch được xem là trong trạng thái phát triển bền vững.

Thêm vào đó, trong việc đầu tư, ngoài nguồn đầu tư từ Nhà nước hỗ trợ

phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn đầu tư quan trọng là từ thu nhập du lịch.

Nguồn đầu tư này càng lớn càng chứng tỏ được ý thức của ngành du lịch đối

với tầm quan trọng của phát triển bền vững. Chính vì vậy quy mô đầu tư (tỷ lệ

tái đầu tư) từ thu nhập du lịch sẽ được xem là dấu hiệu nhận biết quan trọng

20

của phát triển du lịch bền vững từ góc độ đảm bảo bền vững của tài nguyên,

môi trường. Không những vậy, tỷ lệ doanh thu mà ngành du lịch trích lại cho

cơ quan chủ quản các nguồn tài nguyên du lịch để tái đầu tư càng cao chứng

tỏ khả năng phối hợp liên ngành tốt.

Tổ chức và kiểm tra các hoạt động du lịch đảm bảo phát triển bền

vững: Trong quá trình tổ chức và quản lý các hoạt động phát triển du lịch,

việc xây dựng quy hoạch làm căn cứ cho triển khai thực hiện các kế hoạc phát

triển cụ thể đóng vai trò quan trọng. Quy hoạch là quá trình phân tích các tiềm

lực tài nguyên và các điều kiện có liên quan để xác định phương án phát triển

phù hợp, đảm bảo việc khai thác có hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch và

có được các giải pháp hạn chế tác động của hoạt động phát triển đến môi

trường, mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, số lượng các khu,

điểm du lịch được quy hoạch sẽ là dấu hiệu nhận biết của quá trình phát triển

du lịch bề vững đứng từ góc độ đảm bảo sự bền vững về tài nguyên, môi

trường cũng như từ góc góc đảm bảo sự phát triển về kinh tế, góp phần tích

cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của khu vực.

Việc quản lý và hạn chế những áp lực lên môi trường và các nguồn tài

nguyên thông qua các biện pháp quản lý và giảm thiểu chất thải, mức độ kiểm

soát các hoạt động phát triển bao gồm cả các hoạt động bảo tồn và duy trì tính

đa dạng trong đó việc duy trì các hệ sinh thái đặc hữu đang bị đe dọa. Việc

kiểm soát các hoạt động phát triển phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cũng

được thực hiện thông qua việc tiến hành các thủ tục đánh giá tác động môi

trường tại các khu, điểm du lịch, hoặc một hình thức tương đương như các

hoạt động kiểm soát chính thức về môi trường tại các khu, điểm du lịch. Đây

là một trong những dấu hiệu nhận biết quá trình phát triển bền vững khá quan

trọng và được xác định thông qua việc xem xét có hay chưa có, thực hiện hay

chưa thực hiện các biện pháp quản lý, kiểm soát trên.

Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo xác định được cường độ hoạt

21

động của các điểm du lịch sao cho không vượt quá ngưỡng tiêu chuẩn về môi

trường, tiêu thụ năng lượng và sức chứa. Giới hạn lượng khách là cần thiết, vì

nó bảo vệ sự đa dạng sinh học, đảm bảo cung cấp năng lượng vừa đủ.

Phát triển du lịch bền vững cần chú ý đến độ hài lòng của cộng đồng

địa phương. Hoạt động phát triển du lịch sẽ bền vững nếu có được ủng hộ

của cộng đồng địa phương. Chính vì vậy, mức độ hài lòng của cộng đồng đối

với hoạt động du lịch sẽ phản ánh trạng thái bền vững của hoạt động du lịch

trong phát triển.

Để đạt được sự hài lòng của cộng đồng, vài trò của cộng đồng phải được phát

huy cũng như đem lại lợi ích cho cộng đồng, cụ thể:

- Phát huy được vai trò của cộng đồng trong xây dựng, triển khai quy

hoạch phát triển du lịch.

- Phát huy vai trò của cộng đồng trong giám sát thực hiện dự án đầu tư,

phát triển du lịch trên địa bàn.

- Tăng cường quy mô và mức độ tham gia của cộng đồng vào hoạt động

du lịch.

- Nâng cao mức sống của cộng động nhờ có hoạt động du lịch.

- Phúc lợi xã hội chung của cộng đồng được nâng lên

Để xác định được dấu hiệu này, cần tiến hành điều tra phỏng vấn cộng

đồng. Kết quả điều tra sẽ là căn cứ để điều chỉnh hoạt động sao cho phát triển

hoạt động du lịch mang tính bền vững hơn từ góc độ xã hội.

Nếu như việc thu hút khách du lịch quốc tế chủ yếu nhằm tăng nguồn thu

ngoại tệ cho nền kinh tế thì việc thu hút khách du lịch nội địa còn có ý nghĩa

tạo điều kiện phân phối lại thu nhập giữa các thành phần lao động trong xã

hội, góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội, hỗ trợ tích cực cho các

chương trình cứu trợ của Chính phủ như các chương trình xóa đói giảm

nghèo, nâng cao nhận thức cho cộng đồng… Như vậy đã góp phần quan trọng

trong việc thực hiện thành công mục tiêu đặt ra của phát triển bền vững cả

22

dưới góc độ về kinh tế và góc độ xã hội.

1.1.6. Tiêu chí đánh giá tính bền vững của hoạt động du lịch

Đánh giá tính bền vững của hoạt động du lịch bộ chỉ thị đánh giá

nhanh tính bền vững của điểm du lịch

Hoạt động du lịch dễ bị tổn thương bởi những tác động tiêu cực từ môi

trường, kinh tế và xã hội. Chỉ một sự cố môi trường xảy ra, du khách lập tức

sẽ chọn địa điểm du lịch khác. Vì vậy cần phải có những phương pháp thích

hợp đánh giá sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch. Những phương

pháp này một mặt là thước đo sự thành công của công tác quản lí điều hành,

mặt khác là hệ thống cảnh báo sớm giúp nhà quản lí phát hiện sớm phát hiện

tình trạng nguy hiểm của khu du lịch. Phương pháp đánh giá dựa vào bộ chỉ

thị môi trường là một cách giải quyết tối ưu cho vấn đề này. Nội của nó như

sau:

Thứ nhất, Bộ chỉ thị về đáp ứng nhu cầu của du khách:

 Tỷ lệ % số khách quay trở lại/tổng số khách

 Số ngày lưu chú bình quân/đầu du khách

 Tỷ lệ % các rủi ro về sức khỏe (bệnh tật, tai nạn) do du lịch/số lượng du

khách.

Thứ hai, Bộ chỉ thị để đánh giá tác động của du lịch lên phân hệ sinh thái

tự nhiên:

 % chất thải chưa được thu gom và xử lý

 Lượng điện tiêu thụ/du khách/ngày (tính theo mùa)

 Lượng nước tiêu thụ/du khách/ngày (tính theo mùa)

 % diện tích cảnh quan bị xuống cấp do xây dựng/tổng diện tích sử dụng do

du lịch.

 % số công trình kiến trúc không phù hợp với kiến trúc bản địa (hoặc cảnh

quan)/tổng số công trình.

 Mức độ tiêu thụ các sản phẩm động, thực vật quý hiếm (phổ biến, hiếm hoi,

23

không có).

 % khả năng vận tải sạch/khả năng vận tải cơ giới (tính theo trọng tải)

Thứ ba, Bộ chỉ thị đánh giá tác động lên phân hệ kinh tế:

 % vốn đầu tư từ du lịch cho các phúc lợi xã hội của địa phương so với tổng

giá trị đầu tư từ các nguồn khác.

 % số việc làm trong ngành du lịch dành cho người địa phương so với tổng

số lao động địa phương.

 % GDP của kinh tế địa phương bị thiệt hại do du lịch gây ra hoặc có lợi cho

du lịch mang lại.

 % chi phí vật liệu xây dựng địa phương/tổng chi phí vật liệu xây dựng.

 % giá trị hàng hóa địa phương/tổng giá trị hàng hóa tiêu dùng cho du lịch.

Thứ tư,Bộ chỉ thị đánh giá tác động của du lịch lên phân hệ xã hội – nhân

văn:

 Chỉ số Doxey

 Sự xuất hiện các bệnh/dịch liên quan với du lịch

 Tệ nạn xã hội liên quan đến du lịch

 Hiện trạng các di tích lịch sử - văn hóa của địa phương (so với dạng nguyên

thủy)

 Số người ăn xin/tổng số dân địa phương

 Tỷ lệ % mất giá đồng tiền vào mùa cao điểm du lịch

 Độ thương mại hóa của cá sinh hoạt văn hóa truyền thống (lễ hội, ma chay,

cưới xin, phong tục, tập quán…) xác định thông qua trao đổi với các

chuyên gia.[10]

Đánh giá sự bền vững của hoạt động du lịch dựa vào bộ tiêu chuẩn du

lịch bền vững của IUCN

Tháng 10/2008, Hội nghị Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới của IUCN lần

đầu tiên công bố bộ tiêu chuẩn du lịch bền vững toàn cầu. Bộ tiêu chí này

được xây dựng dựa trên cơ sở hàng nghìn các tiêu chí đã được áp dụng thực

24

tiễn hiệu quả trên khắp thế giới. Nội dung của Bộ tiêu chuẩn này bao gồm:

Thứ nhất,quản lý hiệu quả và bền vững

Các công ty du lịch cần thực thi một hệ thống quản lý bền vững, phù hợp

với quy mô và thực lực của mình để bao quát các vấn đề về môi trường, văn

hóa xã hội, chất lượng, sức khỏe và an toàn.

Tuân thủ các điều luật và quy định có liên quan trong khu vực và quốc tế.

Tất cả nhân viên được đào tạo định kỳ về vai trò của họ trong quản lý môi

trường, văn hóa xã hội, sức khỏe và các thói quen an toàn.

Cần đánh giá sự hài lòng của khách hàng để có các biện pháp điều chỉnh

phù hợp. Quảng cáo đúng sự thật và không hứa hẹn những điều không có

trong chương trình kinh doanh.

Thiết kế và thi công cơ sở hạ tầng: (i) Chấp hành những quy định về bảo

tồn di sản tại địa phương; (ii) Tôn trọng những di sản thiên nhiên và văn hóa

địa phương trong công tác thiết kế, đánh giá tác động, quyền sở hữu đất đai và

lợi nhuận thu được; (iii) Áp dụng các phương pháp xây dựng bền vững thích

hợp tại địa phương; (iv) Đáp ứng yêu cầu của các cá nhân có nhu cầu đặc biệt.

Cung cấp thông tin cho khách hàng về môi trường xung quanh, văn hóa

địa phương và di sản văn hóa, đồng thời giải thích cho khách hàng về những

hành vi thích hợp khi tham quan các khu vực tự nhiên, các nền văn hóa và các

địa điểm di sản văn hóa.

Thứ hai, gia tăng lợi ích kinh tế xã hội và giảm thiểu tác động tiêu cực

đến cộng đồng địa phương.

Công ty du lịch tích cực ủng hộ các sáng kiến phát triển cơ sở hạ tầng xã

hội và phát triển cộng đồng như xây dựng công trình giáo dục, y tế và hệ

thống thoát nước. Sử dụng lao động địa phương, có thể tổ chức đào tạo nếu

cần thiết, kể cả đối với vị trí quản lý. Các dịch vụ và hàng hóa địa phương nên

được doanh nghiệp bày bán rộng rãi ở bất kỳ nơi nào có thể.

Công ty du lịch cung cấp phương tiện cho các doanh nghiệp nhỏ tại địa

25

phương để phát triển và kinh doanh các sản phẩm bền vững đựa trên đặc thù

về thiên nhiên, lịch sử và văn hóa địa phương (bao gồm thức ăn, nước uống,

sản phẩm thủ công, nghệ thuật biểu diễn và các mặt hàng nông sản).

Thiết lập một hệ thống quy định cho các hoạt động tại cộng đồng bản địa

hay địa phương, với sự đồng ý và hợp tác của cộng đồng Công ty phải thi

hành chính sách chống bóc lột thương mại, đặc biệt đối với trẻ em và thanh

thiếu niên, bao gồm cả hành vi bóc lột tình dục.

Đối xử công bằng trong việc tiếp nhận các lao động phụ nữ và người dân

tộc thiểu số, kể cả ở vị trí quản lý, đồng thời hạn chế lao động trẻ em. Tuân thủ

luật pháp quốc tế và quốc gia về bảo vệ nhân công và chi trả lương đầy đủ. Các

hoạt động của công ty không được gây nguy hiểm cho nguồn dự trữ cơ bản như

nước, năng lượng hay hệ thống thoát nước của cộng đồng lân cận.

Thứ ba, gia tăng lợi ích đối với các di sản văn hóa và giảm nhẹ các tác

động tiêu cực

Tuân thủ các hướng dẫn và quy định về hành vi ứng xử khi tham quan

các điểm văn hóa hay lịch sử, nhằm giảm nhẹ các tác động từ du khách.

Đồ tạo tác khảo cổ hay lịch sử không được phép mua bán hay trưng bày,

trừ khi được pháp luật cho phép. Có trách nhiệm đóng góp cho công tác bảo

tồn di tích lịch sử, văn hóa, khảo cổ và các tài sản có ý nghĩa quan trọng về

tinh thần, tuyệt đối không cản trở việc tiếp xúc của cư dân địa phương.

Tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của cộng đồng địa phương khi sử dụng

nghệ thuật, kiến trúc hay các di sản văn hóa của địa phương trong hoạt động

kinh doanh, thiết kế, trang trí, ẩm thực.

Thứ tư, gia tăng lợi ích môi trường và giảm nhẹ tác động tiêu cực

Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên: (i) Ưu tiên buôn bán những sản phẩm thân

thiện môi trường như vật liệu xây dựng, thức ăn và hàng tiêu dùng; (ii) Cân

nhắc khi buôn bán các sản phẩm tiêu dùng khó phân hủy và cần tìm cách hạn

chế sử dụng các sản phẩm này; (iii) Tính toán mức tiêu thụ năng lượng cũng

26

như các tài nguyên khác, cần cân nhắc giảm thiểu mức tiêu dùng cũng như

khuyến khích sử dụng năng lượng tái sinh; (iv) Kiểm soát mức tiêu dùng

nước sạch, nguồn nước và có biện pháp hạn chế lượng nước sử dụng.

Giảm ô nhiễm: (i) Kiểm soát lượng khí thải nhà kính và thay mới các dây

chuyền sản xuất nhằm hạn chế hiệu ứng nhà kính, hướng đến cân bằng khí

hậu; (ii) Nước thải, bao gồm nước thải sinh hoạt phải được xử lý triệt để và tái

sử dụng; (iii) Thực thi kế hoạch xử lý chất thải rắn với mục tiêu hạn chế chất

thải không thể tái sử dụng hay tái chế; (iv) Hạn chế sử dụng các hóa chất độc

hại như thuốc trừ sâu, sơn, thuốc tẩy, thay thế bằng các sản phẩm không độc

hại, quản lý chặt chẽ các hóa chất được sử dụng; (v) Áp dụng các quy định

giảm thiểu ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng, nước thải, chất gây xói mòn, hợp chất

gây suy giảm tầng ozon và chất làm ô nhiễm không khí, đất.

Bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh thái và cảnh quan tự nhiên: (i) Các loài

sinh vật hoang dã khai thác từ tự nhiên được tiêu dùng, trưng bày hay mua

bán phải tuân theo quy định nhằm đảm bảo việc sử dụng là bền vững; (ii)

Không được bắt giữ các loài sinh vật hoang dã, trừ khi đó là hoạt động điều

hòa sinh thái. Tất cả những sinh vật sống chỉ được bắt giữ bởi những tổ chức

có đủ thẩm quyền và điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc chúng; (iii) Việc kinh

doanh có sử dụng các loài sinh vật bản địa cho trang trí và tôn tạo cảnh quan

cần áp dụng các biện pháp ngăn ngừa các loài sinh vật ngoại lai xâm lấn; (iv)

Đóng góp ủng hộ cho hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học, bao gồm việc hỗ

trợ cho các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu vực có giá trị đa dạng sinh học

cao; (v) Các hoạt động tương tác với môi trường không được có bất kỳ tác hại

nào đối với khả năng tồn tại của quần xã sinh vật, cần hạn chế, phục hồi mọi

tác động tiêu cực lên hệ sinh thái cũng như có một khoản phí đóng góp cho

hoạt động bảo tồn. bảo tồn ven biển, biển, đảo.tăng cường nâng cao nhận thức

cho cộng đồng địa phương ven biển, tạo cơ hội cho họ tham gia vào các hoạt

động du lịch biển bền vững hoặc phát triển du lịch cộng đồng, nhằm chuyển

27

đổi nghề nghiệp, cải thiện sinh kế và góp phần xoá đói giảm nghèo.

1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phát triển du lịch bền vững.

1.2.1. Phát triển du lịch không bền vững

Trước khi được phát triển như là các khu nghỉ mát cho du khách vào

những năm 1970, chỉ có 12 gia đình sống trên hòn đảo Cancun (Mexico).

Toàn vùng này bấy giờ bao gồm Bang Quintana Roo - được hình thành gồm

những rừng nhiệt đới khá nguyên vẹn và những bãi biển hoang sơ và được

định cư bởi 45.000 cư dân địa phương của cộng đồng Maya. Ngày nay,

Cancun có hơn 2.6 triệu du khách hàng năm và có hơn 20.000 phòng khách

sạn và cộng đồng định cư lâu dài ở đây là hơn 300.000. Những tác động môi

trường và xã hội được xem là tầm quan trọng thứ cấp trong kế hoạch phát

triển của Cancun. Ví dụ: không cung cấp những ngôi nhà cho người thu nhập

thấp, người di cư làm việc ở trong vùng và kết quả là khu nhà ổ chuột được

phát triển và khoảng 75% rác thải sinh hoạt từ những khu cộng đồng này

không được xử lý. Các vùng rừng ngập mặn và rừng trong đất liền đã bị chặt

phá, các đầm phá đã bị san bằng và những đồi đất cũng biến mất. Nhiều loài

chim, sinh vật biển và những động vật khác cũng không còn nữa. (Jame E. N.

Sweeting. 1999). [25]

Câu chuyện tương tự cũng xảy ra ở Paytaya (Thái Lan). Vào nhưng năm

50 của thế kỷ trước, Pataya còn là một làng chài, đến đầu thập niên 80, nơi

đây đã xuất hiện một trung tâm du lịch ven biển lớn nhất Đông Nam Á. Do sự

tăng trưởng quá nhanh quá trình quy hoạch không theo kịp, tình hình trở nên

lộn xộn. Các hoạt động du lịch bị lèn chặt vào một không gian chật hẹp. Các

quán Bar, Hộp đêm, Massage chen chúc trong một đoạn phố dài 300m. Các

khác sạn xả rác và nước thải trực tiếp ra biển, bãi biển bị ô nhiễm bởi rác có

nguồn gốc từ khách du lịch, xen lẫn với du khách, tàu thuyền và những người

bán dạo. cho đến giữa thập kỷ 80, ô nhiễm môi trường đã ở mức không thể

chịu đựng nổi. thiếu cơ sở hạ tầng, nước, điện, hệ thống thông tin lẫn hệ thống

28

thoát nước. An ninh cho du khách ở mức độ tồi tệ. (Wong, P,P., 1991) [26]

Tuy nhiên sự phản ứng nhanh chóng của chính quyền có thể giúp khắc

phục được một phần những biến cố về môi trường do hoạt động du lịch tạo

nên, có thể lấy trường hợp của tỉnh An Huy với những nỗ lực bảo vệ đối với

khu du lịch Hoành Sơn làm minh chứng. Hoành Sơn là một vùng núi có

phong cảnh đẹp ở tỉnh An Huy miền đông Trung Quốc, đó là một khu danh

, khu vực này có 72 ngọn núi nhỏ khác nhau, 2 hồ, 3

thắng có cảnh quan thiên nhiên đẹp và là khu di tích lịch sử văn hóa. Bao phủ một diện tích 154 km2

thác nước, 36 suối nước khoáng, 24 dòng suối tự nhiên, 20 đầm lầy to nhỏ

khác nhau, tài nguyên thiên nhiên nơi đây là những rừng lá rụng, vùng đầm

lầy phẳng lặng, rừng thông, các loài động thực vật quý hiếm đang được bảo

vệ. Hoành Sơn còn có nhiều đền, những nhà tu kín, lầu, và những dòng chữ

khắc họa trên đá. Sự tăng trưởng nhanh của du lịch Hoành Sơn đã dẫn đến 5

vấn đề xuống cấp về môi trường như:

- Số lượng loài động thực vật giảm xuống.Sự xây dựng các công trình

đường xá và đường cáp treo qua núi cùng các dự án thủy lợi đã làm mất đi

hoặc tổn hại đến thảm thực vật rừng, trong đó có nhiều loài thực vật quý

hiếm. Thảm thực vật này một thời đã tạo nên môi trường sinh cảnh cho các

loài động vật mà ngày nay hiếm khi người ta nhìn thấy chúng.

- Xây dựng và phát triển đã làm giảm đi vẻ đẹp thiên nhiên, xây dựng

tràn lan ở điểm du lịch cảnh quan nổi tiếng Ôn Tuyền đã làm giảm đi vẻ đẹp

của nó.

- Sự cấp nước sinh hoạt cho du khách đã làm lệch đi các hệ thống thủy

văn. Các hồ chứa nước và công trình chứa nước khác được xây dựng để đảm

bảo để cung cấp cho khách du lịch. Vì vậy cần phải xây dựng đập chắn nước

ngang qua suối do đó gây ra sự thay đổi lớn đối với lưu vực sông.

- Một vài điểm tham quan bị quá tải với số lượng du khách. Du lịch ở

29

vùng núi Hoành Sơn đã phát triển từ số khách 282.000 trong năm 1979 lên

đến 1.300.000 trong năm 1990. Ở vào thời kì cao điểm hàng ngày có khoảng

1 vạn lượt khách đến tham quan.

- Chất thải rắn và nước thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Rất

nhiều rác đang thải ra khu thắng cảnh Hoành Sơn. Một số rác thải sinh hoạt

được chôn nhưng nước thải sinh hoạt hàng ngày lại đang chảy tự do xuống

các thung lũng và vào các dòng suối, dòng sông gây tác hại cho chất lượng

nguồn nước.

Những vấn đề nêu trên chính là biểu hiện của phát triển du lịch không

bền vững, để đối phó và quản lý các tác động môi trường tiêu cực bởi phát

triển du lịch không bền vững gây ra tại Hoành Sơn, chính quuyền tỉnh An

Huy đã xây dựng một chiến lược để bảo vệ khu du lịch bao gồm 10 điểm:

1. Tán thành nguyên tắc chỉ đạo phòng ngừa

2. củng cố chương trình tổng hợp để lồng ghép các hành động hành

chính và kế hoạch cần thiết

3. Giám sát chất lượng nước, cung cấp và quản lý hệ thống nước.

4. Phân tán du lịch ra một khu rộng hơn

5. Sự dụng hình thức tour tham quan đặt trước để điều tiết số khách

đến thăm quan một khu du lịch cụ thể nào đó.

6. Dừng hoạt động du lịch ở các khu có hệ sinh thái đang bị tổn hại để

các hệ sinh thái này tự phục hồi thông qua quá trình phát triển tự nhiên.

7. Thực hiện quản lý nghiêm ngặt hoạt động xây dựng trong khu du

lịch. Như vậy cảnh quan sẽ không bị hư hại và ô nhiễm sẽ được giảm tối đa.

Các công trình xây dựng phải được thiết kế hài hòa với cảnh quan và các đặc

tính của địa phương. Không cấp phép xây dựng cho các công trình không đạt

các tiêu chí trên.

8. Thực hiện các biện pháp quản lý có lợi cho môi trường và làm giảm

30

áp lực đối với hệ sinh thái.

9. Tạo lập các vườn thực vật và khu dự trữ nguồn gen để có thể phục

vụ cho công việc bảo tồn gen và cho các dự án khôi phục thảm thực vật

10. Lập đài quan sát môi trường để phát hiện ra những biến đổi về môi

trường.

Chiến lược bảo vệ vùng núi Hoành Sơn đang đã được thực thi. Chiến lược

này là cả một nỗ lực lớn của chính quyền nhằm sửa chữa những sai lầm trong

quá khứ và phòng ngữa những sai lầm trong tương lai mặc dù khu du lịch

Hoành Sơn vẫn còn tồn tại một vài biểu hiện suy thoái nhưng các biện pháp

và kế hoạch cần thiết để đạt được sự phát triển du lịch bền vững đã được thiết

lập và thi hành. (Nguồn IUCN, 1998) [27]

1.2.2. ECOMOST: Mô hình du lịch bền vững của cộng đồng châu âu

Mô hình ECOMOST (European Community Models of Sustainable

Tourism) được xây dựng thử nghiệm tại Mallorka, Tây ban Nha. Đây là trung

tâm du lịch lớn nhất của châu âu. Khu vực này phát triển được là nhờ du lịch.

50% GDP của vùng thu nhập từ du lịch. Để khắc phục tình trạng suy thoái

của ngành du lịch ở Mallorka, một chương trình nghiên cứu và xây dựng mô

hình du lịch bền vững được tiến hành.Theo mô hình ECOMOST, phát triển

du lịch bền vững với 3 mục tiêu chủ yếu là :

Thứ nhất, bền vững về mặt sinh thái : bảo tồn sinh thái và đa dạng sinh

học. Phát triển du lịch cần phải tôn trọng khả năng tải của hệ sinh thái

Thứ hai, bền vững về mặt văn hóa xã hội: Bảo tồn được bản sắc văn

hóa, muốn vậy mọi quyết định phải có sự tham gia của cộng đồng.

Thứ ba, bền vững về mặt kinh tế : đảm bảo hiệu quả kinh tế và quản lý

tốt tài nguyên du lịch sao cho tài nguyên có thể phục vụ tốt các thế hệ tương

lai.

Ba yêu cầu chính nhằm duy trì khu du lịch:

- Dân số cần được duy trì hợp lý và giữ được bản sắc văn hóa.

31

- Cảnh quan cần được duy trì được sự hấp dẫn du khách.

- Không gây hại cho môi trường sinh thái.

Muốn thực hiện được ba yêu cầu trên cần có một cơ chế chính sách hiệu

quả, cơ chế này phải nhằm vào các nguyên tắc phát triển bền vững, cho phép

sự tham gia của cộng đồng vào việc hoạch định các chính sách du lịch.

ECOMOST đã chia nhỏ các mục tiêu của du lịch bền vững thành các

thành tố và sau đó các thành tố được nhận diện và đánh giá qua các chỉ thị:

- Thành tố văn hóa xã hội: dân số phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế xã

hội và bảo tồn được bản sắc văn hóa

- Thành tố du lịch: thỏa mãn du khách và các nhà kinh doanh du lịch, bảo

trì và hiện đại hóa điều kiện ăn ở và giải trí.

- Thành tố sinh thái: khả năng tải, bảo tồn cảnh quan, sự quan tâm đến

môi trường.

- Thành tố chính sách: đánh giá được chất lượng du lịch, chính sách định

hướng sinh thái, quy hoạch vùng, sự tham gia của cộng đồng và các nhóm

quyền lợi trong quá trình quy hoạch.

ECOMOST xây dựng một kế hoạch hành động cụ thể trong đó chia các

hành động dựa vào mức độ ưu tiên và xác định rõ trách nhiệm cá nhân, các tổ

chức có liên quan. ( Nikolova và Hens, 1998) [28]

1.2.3. Bài học rút ra cho phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng

Ninh

Từ những nghiên cứu về các mô hình nêu trên có thể đưa ra một số bài học

kinh nghiệm cho phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh như sau:

- Bảo vệ môi trường và cảnh quan tự nhiên: Sự phát triển của du lịch

Quảng Ninh chủ yếu dựa vào các tài nguyên du lịch tự nhiên như: Vịnh Hạ

Long, Vịnh Bái Tử Long, các bãi tắm dọc theo bờ biển. Vì vậy, vấn đề bảo vệ

môi trường và cảnh quan tự nhiên có tầm quan trọng đặc biệt. Từ bài học của

Cancun, Paytaya và Hoành Sơn, Quảng Ninh cần có những chính sách nhằm

32

bảo vệ môi trường và cảnh quan tự nhiên đảm bảo phát triển bền vững. Trước

hết là dừng ngay việc lấn biển xây dựng các khu đô thị mới. Hoạt động này

khiến cho diện tích rừng ngập mặn bị suy giảm nghiêm trọng, sự hài hòa về

mặt cảnh quan của khu vực Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long bị phá vỡ do

xuất hiện những công trình không phù hợp, những ngọn đồi “nham nhở” do

lấy đất lấn biển, nghiêm cấm hoạt động khai thác đá vôi phục vụ nhu cầu dân

sinh và công nghiệp. Công tác bảo vệ môi trường tại các khu du lịch cần phải

được quan tâm đặc biệt, một số khu du lịch bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu

ô nhiễm môi trường do hoạt động du lịch tạo nên như rác thải sinh hoạt xả

bừa bãi trên các bãi bãi biển, nhiều khu du lịch không có hệ thống xử lí,nước

thải chảy trực tiếp ra môi trường biển. Nước ngầm hao hụt nghiêm trọng vào

mùa cao điểm. Rút kinh nghiệm từ trường hợp Cancun, Quảng Ninh cần có sự

thay đổi trong nhận thức phát triển du lịch, cần xem mục tiêu bảo vệ môi

trường và cảnh quan là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu, để không lặp lại sai

lầm của các mô hình đã nêu trên.

- Có chiến lược quy hoạch phát triển du lịch cụ thể và hợp lí, từ trường hợp

của Paytaya cho thấy, công tác quy hoạch nếu như chậm chễ so với tốc độ

phát triển du lịch sẽ tạo ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, việc khác

phục sẽ khó khăn và tốn kém, thậm chí sẽ không thể khắc phục, nếu như nó

ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch tự nhiên. Vì vậy, để đảm bảo cho ngành du

lịch phát triển bền vững, Quảng Ninh cần xây dựng quy hoạch phát triển du

lịch có tầm nhìn chiến lược, trong đó phải tính đến yếu tố môi trường và xã

hội. Đây là vấn đề mà Quảng Ninh còn yếu, những hạn chế của bản quy

hoạch phát triển giai đoạn 2001-2010, đã bộc lộ trong quá trình thực thi. Để

nâng cao năng lực quy hoạch, tỉnh cần mời những chuyên gia đầu ngành trong

nước và quốc tế tham gia, đồng thời tham khảo ý kiến của các cấp chính

quyền và nhân dân địa phương, nơi có các dự án quy hoạch.

- Nâng cao hơn nữa vai trò của công tác quản lí nhà nước đối với hoạt động

33

du lịch, đây cũng là kinh nghiệm của Hoành Sơn và Mallorka. Chính quyền

cần phải có những chính sách phát triển du lịch hiệu quả và bền vững, xây

dựng được bộ máy quản lí nhà nước hoạt động hiệu quả đối với hoạt động du

lịch, đồng thời có những phản ứng nhanh chóng trước các sự cố do hoạt động

du lịch tạo nên. Lưu ý chương trình 10 điểm của chính quyền An Huy đối với

khu du lịch Hoành Sơn. Công tác giám sát thực hiện quy hoạch cần phải được

thực hiện nghiêm ngặt, đặc biệt là công tác giám sát xây dựng các công trình

trong khu du lịch, cần phải đảm bảo sự hài hòa với cảnh quan, kiên quyết

không cấp phép đối với các công trình không đạt tiêu chí trên. Bài học kinh

nghiệm của khu du lịch Hoành Sơn và Mallorka cho thấy vai trò đặc biệt quan

trọng của chính quyền và chính sách trong phát triển du lịch bền vững. Quảng

Ninh cần có những chính sách hợp lí trong công tác bảo tồn và phát huy giá

trị của tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên, loại tài

nguyên này dễ bị tổn thương do các hoạt động du lịch, khi bị phá hủy là

không thể phục hồi, đồng thời có biện pháp và chính sách tăng cường trách

nhiệm của các bên tham gia hoạt động du lịch, đảm bảo phát triển bền vững,

nhất là doanh nghiệp tư nhân, vì các đơn vị này dễ chảy theo mục tiêu lợi

nhuận mà từ bỏ các nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững.

- Bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng địa phương, văn hóa của cộng

đồng địa phương chịu những tác động mạnh mẽ từ hoạt động du lịch. Cộng

đồng người Maya tại Cancun ngày nay đã từ bỏ những tập tục truyền thống

văn hóa của mình, thay vào đó là những nét đặc trưng của văn minh phương

tây, điều này phần lớn do hoạt động du lịch tạo ra. Mục tiêu của du lịch bền

vững là sự bảo tồn nền văn hóa bản địa và coi đó là một sản phẩm du lịch đặc

sắc, trên địa bàn Quảng Ninh có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số với

những nét văn hóa đặc sắc, hấp dẫn du khách, nhất là du khách đến từ các

quốc gia phát triển. Nhiệm vụ của du lịch Quảng Ninh là khéo léo biến những

nét đặc sắc này thành các sản phẩm du lịch, nhưng đồng thời phải đi đôi với

34

công tác bảo tồn. Phát triển du lịch bền vững nhìn từ góc độ kinh nghiệm của

Mallorka còn là sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch,

sự phân phối một cách hợp lí lợi ích kinh tế thu được từ hoạt động du lịch với

cộng đồng địa phương. Cần phải ưu tiên vấn đề việc làm cho người địa

phương, mở các khóa đào tạo nghiệp vụ cơ bản, trang bị những kiến thức về

nghiệp vụ du lịch cho người địa phương, công tác này giúp xóa đói giảm

nghèo, đảm bảo cho hoạt động du lịch phát triển bền vững.

- Duy trì một số lượng cư dân và du khách hợp lí tại các khu du lịch, điều

này giúp giảm một cách tối đa sức ép của du lịch đối với môi trường sinh thái.

Đây là kinh nghiệm giúp cho du lịch của Mallorka phát triển bền vững, các

sản phẩm du lịch cao cấp bản thân nó đã lựa chọn người sử dụng, vừa hạn chế

được số lượng người tham gia vào hoạt động du lịch, nhưng đồng thời vẫn

35

đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp.

Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG BỀN

VỮNG Ở QUẢNG NINH

2.1. Khái quát về du lịch Quảng Ninh

2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Quảng Ninh là một tỉnh lớn ở địa đầu phía Đông Bắc của Việt Nam, có

vị trí địa lý từ 2040' - 2140' vĩ độ Bắc; từ 10626' - 10831' kinh độ Đông,

Điểm cực Bắc là dãy núi cao thôn Mỏ Toòng, xã Hoành Mô, huyện Bình

Liêu. Điểm cực Nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn.

Điểm cực Tây là sông Vàng Chua ở phía Tây xã Bình Dương và xã Nguyễn

Huệ, huyện Đông Triều. Điểm cực Đông trên đất liền là múi Gót ở Đông Bắc

phường Trà Cổ, thị xã Móng Cái.Bề ngang từ đông sang tây, khoảng dài nhất

là 195 km. Bề dọc từ bắc xuống nam khoảng dài nhất là 102 km. Quảng Ninh

là tỉnh tiền tiêu phía Bắc của Việt Nam, có đường biên giới quốc gia và hải

phận giáp Trung Quốc. Trên đất liền, phía Bắc các huyện Bình Liêu, Hải Hà

và thị xã Móng Cái giáp huyện Phòng Thành và thành phố Đông Hưng, tỉnh

Quảng Tây với chiều dài 132,8km. Đôi bên có chỗ núi đồi và thung lũng nối

liền (40,8km), còn phần lớn (92km) ngăn cách bởi sông suối, trong đó có

đoạn thượng nguồn sông Ka Long và sông Bắc Luận.

Quảng Ninh nằm trong dải hành lang biển lớn của Bắc Bộ, trên đó có

mạng lưới đường bộ, đường sắt và cảng biển lớn đang được mở rộng và phát

triển. Cùng với Hải Phòng, Quảng Ninh giữ vai trò cửa mở lớn ra biển cho cả

nước ở phía Bắc (có thể cho cả các tỉnh Tây – Nam Trung Quốc và Bắc Lào)

để chuyển tải hàng hóa xuất nhập khẩu, đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các

vùng khác trong cả nước và với nước ngoài, đồng thời còn có khả năng thiết

lập mối quan hệ hàng hải và hàng không với các nước trong khu vực Đông Á,

36

Đông Nam Á và thế giới. Đây là ưu thế đặc biệt của Quảng Ninh.

Địa hình tương đối phức tạp và đa dạng. Bao gồm: địa hình phần lục địa,

địa hình bờ biển và bãi biển, địa hình đáy biển nông ven bờ và địa hình các

đảo. Tất cả đặc điểm trên đã tạo nên một Quảng Ninh có phong cảnh sơn thủy

hữu tình, giàu tiềm năng về tài nguyên du lịch.

Khí hậu và thời tiết đa dạng, độc đáo và có nhiều biến động nhất ở nước

ta; chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa tạo nên một mùa hè nóng ẩm, mưa

nhiều với hướng gió chủ yếu là gió Đông Nam và có một mùa đông lạnh, ít

mưa với hướng gió chính là hướng Bắc và Đông Bắc. Khí hậu nói chung là

thích hợp cho phát triển du lịch nhất là du lịch thăm quan, tắm biển, phơi

nắng, nghỉ dưỡng, thể thao và sinh thái. Tuy nhiên do có mùa đông lạnh và có

nhiều ngày thời tiết xấu do có liên quan đến sự hoạt động của gió mùa đông

bắc gây nên trở ngại cho hoạt động du lịch, tạo nên tính mùa vụ trong hoạt

động du lịch ở Quảng Ninh.

Thủy văn: có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, nhưng đa số là ngắn và

dốc, có tiềm năng lớn về cung cấp nước, thủy lợi, giao thông, cung cấp thủy

sản, và khai thác để phục vụ du lịch. Chế độ nhật triều với biên độ lớn 4 -

4,5m là hiện tượng hiếm thấy trên thế giới, tạo ra những thay đổi lớn trong

ngày về diện mạo và cảnh quan bờ, đảo. Việc lợi dụng con nước triều có thể

đưa khách đi thăm những nơi đẹp, huyền bí nhưng khó đến. Tài nguyên nước

ngầm cũng khá phong phú.

Sinh vật: Tài nguyên sinh vật khá phong phú, đặc biệt là ở các đảo, do

cách biệt với đất liền nên còn bảo tồn được nhiều loài sinh vật quý hiếm. Các

thảm thực vật có ý nghĩa đối với du lịch là các rừng ngập mặn ở Tiên Yên -

Ba Chẽ và Quan Lạn - Cẩm Phả, rừng nhiệt đới thường xanh có trên đảo Ba

Mùn. Thảm thực vật phát triển trên núi đá vôi có mặt ở tất cả các đảo và núi

đá vôi trong vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Một đặc điểm tự nhiên đáng chú

ý ở khu vực này là các rạn san hô ngầm. Các rạn san hô của khu vực phân bố

37

chủ yếu ở Đầu Bê và Long Châu. Độ sâu sườn rạn không lớn (2 - 6m).

2.1.2.Tiềm năng phát triển du lịch.

2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên.

Thắng cảnh: Quảng Ninh được thiên nhiên ưu đãi nhiều thắng cảnh đẹp.

Đây là điều kiện thuận lợi để Tỉnh phát triển nhiều loại hình sản phẩm du

lịch, hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Tiêu biểu nhất trong những ưu

đãi của thiên nhiên đối với Quảng Ninh là Vịnh Hạ Long. Đây là một vịnh kín, có diện tích khoảng 1.500km2, với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ, chủ yếu

là đảo đá vôi. Hệ thực vật trên các đảo chủ yếu là các quần thể cây bụi tự

nhiên. Hệ thống các đảo trong Vịnh với muôn hình muôn vẻ và được đặt tên

theo các con vật, đồ vật (hòn Con Cóc, hòn Con Voi, hòn Gà Chọi, hòn

Bút...), và nhiều hang động đẹp gắn với nhiều truyền thuyết huyền bí như

hang Đầu Gỗ, hang Trinh Nữ, hang Sửng Sốt, động Thiên Cung. Hạ Long có

mặt nước phẳng lặng, ít có sóng lớn, nước biển trong xanh, khí hậu ấm áp

trong lành. Hạ Long có nhiều đặc sản quý như các loại cá, tôm he, hải sâm,

bào ngư, sá sùng... Trên các đảo có nhiều chim, thú quý như gà ri, chim xanh,

sơn dương, khỉ, kỳ đà..., nhiều đảo khai thác được ngọc trai, san hô...

Hạ Long đã được UNESCO hai lần công nhận là Di sản thiên nhiên thế

giới bởi giá trị cảnh quan và giá trị địa chất ở đây. Ngoài ra, Vịnh Hạ Long

còn có giá trị về mặt đa dạng sinh học, giá trị về mặt văn hóa lịch sử. Hai giá

trị này đang được các cơ quan có thẩm quyền đệ trình lên ủy ban di sản của

UNESCO để tiếp tục được công nhận là di sản thế giới. Vịnh Hạ Long là tài

sản vô giá và là niềm tự hào của người Quảng Ninh nói riêng và người Việt

Nam nói chung.

Ngoài Vịnh Hạ Long nổi tiếng, Quảng Ninh còn có 28 thắng cảnh khác

đã được kiểm kê. Trong đó đáng chú ý hơn cả là các thắng cảnh Yên Tử, hồ

và đồi thông Yên Trung, thác Lụng Xanh (Uông Bí), Hồ và đồi thông Yên

38

Lập ở Hoành Bồ, thác Suối Mơ ở Yên Hưng.

Hang động, bãi tắm: Các hang động ở Quảng Ninh rất phong phú, đa

dạng muôn hình muôn vẻ và có sức hấp dẫn lớn với khách du lịch, tiêu biểu là

các hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, hang Luồn, động Thiên

Cung, động Tam Cung, Mê Cung...

Quảng Ninh có bãi biển Trà Cổ thoải, nông và rộng nhất nước ta, ngoài

ra còn nhiều bãi tắm đẹp, cát mịn, nước biển trong xanh và tĩnh lặng nằm

dưới chân các đảo đá Ba Trái Đào, Áng Dù, Cửa Dứa hoặc trải dài hàng

kilomet quanh các đảo Quan Lạn, Ngọc Vừng. Đây là những bãi tắm lý tưởng

cho khách du lịch trên hành trình thăm Vịnh Hạ Long.

Nước khoáng: Quảng Ninh có nhiều điểm nước khoáng dùng để uống

và điều trị được phát hiện ở Quang Hanh (Cẩm Phả), Khe Lạc (Tiên Yên),

Đồng Long (Bình Liêu). Đặc biệt nước khoáng Quang Hanh có trữ lượng trên 1000m3/ngày, có chất lượng cao, có vị hơi mặn, độ khoáng hóa từ 3,5 - 5g/l,

với thành phần vi lượng chủ yếu là Na, K, Ca, Mg, Cl, SO4, H2CO3 và một số điểm có nhiệt độ trên 35OC nên có tác dụng điều trị một số bệnh. Hiện nay dự

án khu du lịch nghỉ dưỡng kết hợp chữa bệnh đang được triển khai xây dựng,

thu hút được sự quan tâm của du khách Nhật Bản và Hàn Quốc.

Các hệ sinh thái đặc biệt: ở Quảng Ninh có nhiều hệ sinh thái đa dạng,

nguyên sinh với nhiều giống loài động thực vật quý hiếm. Đó là các hệ sinh

thái vùng biển nhiệt đới với thảm thực vật thường xanh quanh năm trên các

đảo, các rừng ngập mặn với nhiều loại chim thú rừng. ở Quảng Ninh còn có

các hệ sinh thái san hô rất độc đáo với 197 loài san hô, chiếm tới 80% tổng số

loài san hô ở khu vực bờ Tây Thái Bình Dương. San hô ở Vịnh Hạ Long được

mọc thành dải, có độ che phủ cao, trong đó có một loài san hô quý hiếm như

san hô đỏ, san hô sừng được ghi trong sách đỏ của Việt Nam và thế giới, các

vườn quốc gia Bái Tử Long (Vân Đồn), Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn -

Kỳ Thượng (Hoành Bồ), các công viên biển rất có ý nghĩa trong việc bảo tồn

39

các hệ sinh thái đặc biệt và rất có giá trị này.

2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn.

Các di tích lịch sử văn hóa, cách mạng. Hệ thống các di tích lịch sử văn

hóa, lịch sử cách mạng và kiến trúc nghệ thuật là những nguồn tài nguyên

quan trọng để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa.

Quảng Ninh là nơi có truyền thống đấu tranh yêu nước. Trong quá trình

phát triển của lịch sử từ ngàn đời nay, nơi đây còn lưu giữ được nhiều di tích

lịch sử văn hóa, cách mạng và kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Đây là tài sản vô

giá không những của riêng Quảng Ninh mà là còn của cả nước, của cả dân tộc

Việt Nam. Nhiều di tích lịch sử văn hóa, cách mạng ở đây có giá trị lớn không

những về mặt lịch sử mà còn là những khu danh thắng nổi tiếng có ý nghĩa

phục vụ phát triển du lịch (Bãi cọc Bạch Đằng...). Nhiều di tích trong số đó đã

được xếp hạng là những di tích cấp quốc gia. Tính đến năm 2004, trên địa bàn

tỉnh đã có 53 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và nhiều di tích khác được

xếp hạng cấp địa phương.

Nhóm di tích lịch sử văn hóa: Đây là nhóm di tích có ý nghĩa rất quan

trọng trong việc khai thác phục vụ du lịch. Trong số đó có những di tích có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng và có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. Tiêu

biểu là quần thể di tích và danh thắng Yên Tử (đã từng là thủ đô tâm linh của

Đại Việt); đền Cửa Ông; bãi cọc Bạch Đằng; quần thể đình miếu như chùa

Quan Lạn, miếu Tiên Công, chùa Bắc Mã v.v... Đặc biệt nhất là di sản thiên

nhiên và văn hóa thế giới Vịnh Hạ Long với hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ và

hàng chục hang động, trong đó nhiều hang có chứa dấu vết văn hóa Việt cổ,

đặc sắc nhất là khu di tích danh thắng Núi Bài Thơ với bài thơ bất hủ của Lê

Thánh Tông (1468) khắc trên vách núi.

Nhóm di tích cách mạng: Là vùng đất giàu lòng yêu nước, nơi đã sinh

ra nhiều tiền bối anh hùng của dân tộc. Nhiều vùng đất đã nổi danh trong cuộc

đấu tranh cách mạng của dân tộc như thôn Bắc Mã, xã Bình Dương, huyện

40

Đông Triều - nơi thành lập đội quân cách mạng của Đệ tứ chiến khu Trần

Hưng Đạo ngày 8/6/1945; mỏ than Mạo Khê - nơi thành lập Chi bộ Đảng

Cộng sản đầu tiên của vùng Mỏ. Khi nói đến Quảng Ninh là nhớ đến Núi Bài

Thơ với ngọn cờ đỏ sao vàng, tượng trưng cho khí phách đấu tranh cách mạng

quật cường của nhân dân đất Mỏ

Các lễ hội truyền thống: Cũng như bao miền quê khác của Việt Nam,

Quảng Ninh cũng là địa phương có nhiều lễ hội đặc sắc trong năm. Ngoài

những lễ hội chung của cả nước, còn có những lễ hội mang đậm nét của vùng

duyên hải Đông Bắc nước ta. Những lễ hội truyền thống ở Quảng Ninh thư-

ờng gắn với các sự kiện lịch sử hoặc các hoạt động văn hóa dân gian, gắn với

cuộc sống tín ngưỡng của người dân.

Những lễ hội dân gian tiêu biểu bao gồm: hội ó Pò của dân tộc Sán Chỉ

ở huyện Bình Liêu; hội hát giao duyên, hát đối của đồng bào các dân tộc thiểu

số mỗi dịp xuân về; hội Chèo cạn; tục hát cưới ở Hoành Bồ... Nét đặc sắc của

tục hát cưới Hoành Bồ là họ nhà trai phải hát đối với họ nhà gái cho đến khi

được chấp nhận thì mới được đón dâu, nếu thua thì phải về chuẩn bị lại.

Một số lễ hội lễ hội khác ở Quảng Ninh vừa mang tính du xuân vừa

mang tính tín ngưỡng như hội chùa Yên Tử, hội đền Cửa Ông, hội Tiên Công,

hội Chùa Quỳnh Lâm... Trong các lễ hội lịch sử phải kể đến lễ hội làng Quan

Lạn, là nơi thờ phó tướng Trần Khánh Dư, vị tướng hải quân kiệt xuất của

thời Trần. Hiện nay Sở Văn hóa Thể thao và du lịch đã tiến hành phục dựng

một số lễ hội của đồng bào dân tộc ít người và đạt được nhiều kết quả khả

quan. Khu vực Vịnh Hạ Long Sở tiến hành phục dựng lại những phong tục

tập quán đặc sắc của ngư dân vạn chài như: hát đối, lễ cưới hỏi, cách đánh bắt

thủy hải sản truyền thống, rất được du khách ưa thích.

Nghề thủ công truyền thống: Các làng nghề thủ công mỹ nghệ gốm

sứ ở thị trấn Đồng Triều, Mạo Khê; nghề đánh bắt hải sản (câu mực, câu cá

song, đánh cá đền, đào sái sùng, cào ngán...); nghề chế tác mỹ nghệ từ than

41

đá...Ngoài ra trong nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh còn có

các nghề dệt thổ cẩm, đan lát mây tre... Những nghề này nếu được đầu tư khai

thác thì có thể hấp dẫn khách du lịch rất lớn, cung cấp nhiều sản phẩm lưu

niệm cho du khách.

Văn hóa truyền thống của các dân tộc ít người như Dao, Tày, Sán Dìu,

Hoa (chiếm khoảng 10% dân số) tập trung nhiều ở các huyện Hoành Bồ, Ba

Chẽ, Tiên Yên, Bình Liêu, Quảng Hà, Móng Cái, Vân Đồn; các đặc sản như

rượu ngán Hạ Long, rượu nếp ngâm Hoành Bồ, nem chua, canh hà Quảng

Yên, Cà Sáy Tiên Yên, sá sùng rang, chả mực... có thể đưa vào khai thác phục

vụ du lịch.

2.1.2.3. Chính sách phát triển du lịch Quảng Ninh.

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của ngành du lịch đối với sự

phát triển chung của kinh tế xã hội Quảng Ninh,vấn đề phát triển du lịch đã

được đưa vào chương trình nghị sự của Đại hội đại biểu các khoá 9, 10 và 11,

12, 13 và được cụ thể hoá trong văn kiện nghị quyết của các Đại hội này. Du

lịch Quảng Ninh giai đoạn này có những bước phát triển đầu tiên. Năm 1994

du lịch Quảng Ninh đón nhận một sự kiện vô cùng quan trọng, tác động mạnh

mẽ đến sự phát triển của ngành đó là việc Vịnh Hạ Long được UNESCO công

nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển của du lịch Quảng

Ninh trong giai đoạn này còn chưa tương xứng với tiềm năng còn mang tính

đơn lẻ chưa tạo được mối quan hệ hữu cơ với các ngành kinh tế - xã hội khác.

Nhận thức được thực trạng này Đại hội đại biểu tỉnh lần thứ 11 đã giành nhiều

thời gian thảo luận về vấn đề phát triển du lịch, đây cũng là Đại hội đánh dấu

bước chuyển về nhận thức đối với sự phát triển của du lịch Quảng Ninh trong

giai đoạn mới. Bước đầu tiên du lịch được nhiều nhận thức như một ngành

kinh tế mũi nhọn là động lực chính của kinh tế - xã hội của tỉnh, cụ thể hoá

nhận thức này tỉnh uỷ Quảng Ninh lần đầu tiên đưa ra chỉ đạo cụ thể phương

hướng của ngành đó là nghị quyết số 08 về đổi mới và phát triển du lịch

42

Quảng Ninh giai đoạn 2001 – 2010.

Nghị quyết gồm có 3 phần, phần một là những đánh giá về tình hình về

hoạt động du lịch giai đoạn 1991 – 2000, trong đó chỉ ra những thành tựu mà

du lịch Quảng Ninh đạt được. Cùng với sự phát triển chung của cả tỉnh,

những năm qua du lịch Quảng Ninh có những tiến bộ đáng kể, nhận thức của

các cấp các ngành và các tầng lớp nhân dân về du lịch đã có những chuyển

biến rõ rệt hạ tầng du lịch ở những khu vực trọng điểm được đầu tư, tạo cơ sở

vật chất quan trọng cho ngành du lịch phát triển với tốc độ nhanh hơn. Nghị

quyết chỉ ra nhiều thành tựu cụ thể mà ngành du lịch đạt được trong giai đoạn

1991 – 2000, cơ sở vật chất kỹ thuật công tác quảng bá xúc tiến nhân lực.

Đồng thời nghị quyết cũng thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại yếu kém của

ngành. Hoạt động du lịch còn nhiều mặt yếu kém, sản phẩm du lịch đơn điệu,

nghèo nàn, chất lượng còn thấp. Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật

phục vụ du lịch còn thiếu đồng bộ, cơ sở lưu trú còn ít, chất lượng chưa cao.

Công tác quản lý nhà nước về du lịch chưa được quan tâm đúng mức và còn

nhiều thiếu sót, chưa có định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển lâu

dài. Đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn nghiệp cụ của ngành chưa ngang

tầm với nhiệm vụ. Sự phát triển hợp giữa các ngành chưa đồng bộ, hiệu quả

hoạt động kinh doanh du lịch thấp, môi trường du lịch chưa thực sự tốt, công

tác quảng bá xúc tiến du lịch còn ở mức độ thấp và ít hiệu quả chưa có chiến

lược khai thác tiếp thị đối với thị trường du lịch quốc tế. Trên cơ sở nhận định

những hạn chế nêu trên, nghị quyết đưa ra quan điểm mục tiêu, giải pháp phát

triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2010. Về quan điểm phát triển nghị quyết

yêu cầu ngành phát huy tận dụng mọi ưu thế phát triển du lịch thành kinh tế

mũi nhọn sự nghiệp phát triển ngành du lịch là sự nghiệp chung của các cấp

các ngành, tổ chức xã hội và toàn thể nhân đân trong tỉnh, phát triển du lịch

phải gắn liên với bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội giữ gìn thuần phong

mỹ tục và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Về mục tiêu đến năm 2010 đón 6

43

triệu khách, doanh thu du lịch chiếm 14% GDP cả tỉnh. Nghị quyết đưa ra

những gợi ý về giải pháp phát triển, trong đó nhấn mạnh đến việc hoàn thiện

thể chế chính sách, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước đồng thời phát huy sức

sáng tạo của các thành phần kinh tế.

Thực hiện nghị quyết số 08, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở du lịch và Sở Kế

hoạch và Đầu tư phối hợp nghiên cứu và quy hoạch phát triển cho ngành du

lịch trong giai đoạn trước mắt. Đây là quy hoạch chi tiết đầu tiên cho du lịch

Quảng Ninh. Trong đó đánh giá một cách toàn diện các nhân tố ảnh hưởng

đến sự phát triển của du lịch Quảng Ninh, thực trạng phát triển du lịch trong

giai đoạn 1991 – 2000, chỉ rõ những kết quả đạt được và những hạn chế tồn

tại. Quy hoạch đã đưa ra các nhận định về sự phát triển của bối cảnh trong

nước và quôc tế, phân tích sự ảnh hưởng của bối cảnh đối với sự phát triển

của ngành, trên cơ sở đó đưa ra những định hướng cụ thể về phát triển thị

trường khách, định hướng phát triển sản phẩm, định hướng phát triển về cơ sở

vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực. Theo quy hoạch giai đoạn 200 – 2010,

Quảng Ninh sẽ có 4 trung tâm du lịch chính là: Hạ Long, Móng Cái, Vân Đồn

và Uông Bí. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu và hướng phát triển của từng

khách du lịch. Cuối cùng là đưa ra các giải pháp cụ thể để thực hiện một cách

có hiệu quả quy hoạch này.

Tháng 3 năm 2005 tỉnh uỷ còn đưa ra nghị quyết số 21 về việc “đẩy

mạnh phát triển các ngành dịch vụ đến năm 2010 và định hướng đến năm

2015”. Trong đó có phần đề cập đến sự phát triển của ngành du lịch Quảng

Ninh. Nghị quyết số 21 cũng sơ bộ đánh giá kết quả hoạt động của ngành du

lịch sau năm thực hiện nghị quyết số 08. Cũng trong nghị quyết này mục tiêu

phát triển du lịch Quảng Ninh được nâng lên thành một trung tâm du lịch

hàng đầu của cả nước, phấn đấu xây dựng du lịch Quảng Ninh trở thành

thương hiệu mạnh trong khu vực Đông Nam Á vào năm 2015.

Năm 2010, Quảng Ninh tiến hành Đại hội đại biểu tỉnh lần thứ 13. Đại

44

hội cũng giành thời gian cho vấn đề phát triển du lịch, sự quan tâm của Đại

hội được cụ thể hoá trong nghị quyết: “Đẩy mạnh hơn nữa đầu tư phát triển

hạ tầng du lịch, phát triển các tuyến du lịch Uông Bí, Hạ Long, Vân Đồn,

Móng Cái. Nâng cao chất lượng hiệu quả du lịch Vịnh Hạ Long, phát triển du

lịch về phá Hòn Gai, hình thành các khu du lịch sinh thái biển cao cấp, du lịch

văn hoá đa dạng hoá sản phẩm du lịch gắn với Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử

Long, khu di tích Yên Tử, khu di tích lịch sử Bạch Đằng. Phấn đấu năm 2015

đón 6,9 triệu lượt khách du lịch trong đó 3,3 triệu lượt khách quốc tế. Nghị

quyết của Đại hội cũng yêu cầu UBND tỉnh, sở Văn hoá - Thể thao – Du lịch,

Sở Kế hoạch - Đầu tư khẩn trương hoàn thành đề án quy hoạch du lịch Quảng

Ninh giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn năm 2030”. Ngoài ra chính quyền

Tỉnh còn ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các công tác cụ thể có liên quan đến

sự phát triển của ngành du lịch như: Nghị quyết số 09 về “ Công tác, quản lí,

bảo tồn, phát huy giá trị di sản Vịnh Hạ Long đến năm 2005”. Quyết định

số4117/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân Tỉnh về “ Công tác quản lí tàu thuyền

trên Vịnh Hạ Long”. Các quy chế đánh giá hoạt động của các đơn vị kinh

doanh du lịch…v.v.

Du lịch đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo rất lớn từ phía chính quyền và

Đảng bộ tỉnh, điều đó thể hiện qua hàng loạt văn bản chính sách phương

hướng phát triển. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ phát triển bền vững thì chưa có

một văn bản chính sách nào cụ thể hoá vấn đề phát triển bền vững cho du lịch

Quảng Ninh mà chỉ được đề cập đến một cách chung chung qua các khái

niệm như: bảo vệ môi trường và du lịch sinh thái v.v… điều đó chưa đủ so

với yêu cầu thực tế đặt ra. Hy vọng trong đề án phát triển du lịch Quảng Ninh

giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn 2030 “Những vấn đề liên quan đến phát

45

triển bền vững sẽ được đề cập một cách cụ thể và sâu sắc hơn”.

2.2. Tình hình phát triển du lịch ở Quảng Ninh.

2.2.1. Công tác quản lý nhà nước về du lịch.

Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch là cơ quan quản lí nhà nước, có trách

nhiệm quản lí toàn bộ hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh. Sau khi sát nhập

vào năm 2007, công tác quản lí nhà nước dần đi vào ổn định, bộ máy tổ chức

được kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao năng lực quản lí theo cơ cấu

ngành dọc và theo cơ cấu lãnh thổ. Sở đã tiến hành sắp xếp tổ chức, quy

hoạch cán bộ cho phù hợp với tình hình mới. Xây dựng các phương án phối

hợp với các ban ngành chức năng để triển khai các hoạt động du lịch, tôn tạo

và bảo tài nguyên và môi trường du lịch, thường xuyên tiến hành các hoạt

động kiểm tra các đơn vị kinh doanh du lịch, chấn chỉnh và xử lí các vi phạm,

tham mưu cho lãnh đạo Tỉnh và Trung ương ban hành các các quy định phù

hợp với tình hình quản lí và phát triển du lịch trên địa bàn Tỉnh. Công tác

quản lí nhà nước còn được thể hiện thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế,

tiếp tục thực hiện các chương trình hợp tác với Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản.

Tuy nhiên, công tác quản lí nhà nước đối với hoạt động du lịch còn tồn tại

một số hạn chế: thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ trong quản lí các hoạt động du

lịch, thiếu cán bộ chuyên trách. Việc quản lí quy hoạch, môi trường du lịch

chưa chủ động và kịp thời, công tác đào tạo cán bộ còn chậm. Trong thời gian

tới Tỉnh cần phải có những giải pháp triệt để khắc phục những hạn chế này,

nhằm tạo động lực phát triển vững chắc, hội nhập với sự phát triển chung của

du lịch trong nước và quốc tế.

Với chủ trương xã hội hóa, hoạt động kinh doanh du lịch đã có sự tham

gia của nhiều thành phần kinh tế với nhiều loại hình kinh doanh.Trong đó

đóng vai trò chủ đạo là doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên giai đoạn gần đây

ngành du lịch cũng đã gi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ của khối doanh

nghiệp tư nhân, trong tương lai không xa chắc chắn đây sẽ là lực lượng chủ

46

đạo đóng góp cho sự phát triển của ngành du lịch Quảng Ninh.

2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch

Cơ sở lưu trú là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo cho hoạt động du

lịch. Sự phát triển của du lịch Quảng ninh trong những năm qua đã thúc đẩy

sự phát triển của các cơ sở lưu trú. Giai đoạn 2001 – 2010 chứng kiến sự phát

triển mạnh mẽ của cơ sở lưu trú với sự tham gia của nhiều thành phần kih tế,

các cơ quan tổ chức và tự nhiên lân lượt ra đời đáng kể nhất là loại hình

khách sạn mini và nhà nghỉ. Các cơ sở lưu trú này đáp ứng nhu cầu của khách

sạn du lịch vào mùa cao điểm. Tuy nhiên với đặc thù du lịch biển cho nên chỉ

hoạt động mạnh vào dịp hè còn các mùa khác trong năm sẽ gặp phải tình

trạng dư thừa. Vì vậy, công suất sử dụng phòng không cao năm 2001 là 51%,

năm 2010 đạt 54%. Riêng các khách sạn xếp sao đặt công suất sử dụng phòng

cao trên 70%. Ví dụ: Khách sạn Hạ Long 1,2,3 và Hạ Long Bay là 75,1%;

Khách sạn Sài Gòn - Hạ Long đạt 73,1%; Khách sạn Lợi Lại 70%.

Trong giai đoạn 2001 – 2010, Tổng số khách sạn và số phòng đạt tiêu

chuẩn không ngừng tăng. Năm 2001, Quảng Ninh có 224 CSLT với 2982

phòng. Trong đó 10 khách sạn được xếp hạng với 734 phòng. Năm 2010

Quảng Ninh có 975 cơ sở lưu trú với 13.665 buồng, trong đó có 02 khách sạn

5 sao, 5 khách sạn 4 sao, 10 khách sạn 3 sao, 35 khách sạn 1 – 2 sao và 923

khách sạn mini, nhà nghỉ. đáng chú ý giai đoạn này xuất hiện một lọai hình cơ

sở lưu trú mới là dịch vụ nghỉ đêm trên Vịnh Hạ Long rất được khách du

khách ưa chuộng, hiện nay có 155 tàu với 1405 phòng nghỉ.[8]

Tuy nhiên, về cơ sở lưu trú qua khảo sát cho thấy số lượng khách sạn có

quy mô lớn không nhiều và không đồng bộ, mặc dù quy hoạch phát triển du

lịch đã chỉ rõ có 4 trung tâm lớn là Hạ Long; Đông Triều – Uông Bí; Móng

Cái và Vân Đồn nhưng phần lớn các khách sạn lại tập trung ở Hạ Long, khu

vực thành phố, Móng Cái giai đoạn gần đây có bước phát triển, đặc biệt Móng

Cái là địa phương có khách sạn được công nhận tiêu chuẩn 5 sao đầu tiên của

47

tỉnh.

Cơ sở dịch vụ ăn uống ở Quảng Ninh rất đa dạng hầu hết các cơ sở lưu

trú du lịch đều phục vụ ăn uống. Ngoài ra, còn có các nhà hàng quán ăn, quán

giải khát, bar, cà phê của các thành phần kinh tế phục vụ khách du lịch và

nhân dân địa phương hoạt động suốt ngày đêm, vấn đề quan tâm của khách du

lịch và các nhà quản lý là vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng phục vụ và

giá cả.

Các cơ sở vui chơi - giải trí - thể thao phục vụ khách du lịch cũng như

nhân dân địa phương còn nhiều hạn chế. Hiện tại Quảng Ninh có một sân

Gold và chuẩn bị xây dựng thêm một sân ở Vân Đồn.

Ô tô và tàu chyến là hai loại phương tiện du lịch chủ yếu hiện nay. Giai

đoạn 2001 – 2010 chứng kiến bước nhảy quan trọng trong sự phát triển của

hai loại phương tiện này. Nếu như năm 2000 Quảng Ninh có 30 đầu xe phục

vụ du lịch và 220 tàu thuyền thì hiện nay Quảng Ninh có 250 đầu xe đạt tiêu

chuẩn quốc tế phục vụ cho du lịch hoạt động theo tuyến Hà Nội - Hạ Long;

Hạ Long - Móng Cái.

Bảng 2.1: Tình hình cơ sở vật chất-kỹ thuật của du lịch Quảng Ninh

giai đoạn 2001- 2010

Danh mục Năm2001 Năm2010

Khách sạn xếp hạng 16 86

Cơ sỏ lưu trú CSLT khác 214 889

Tổng số 230 975

Xe du lịch 41 256

Phương tiện vận tải 191 Tàu du lịch 485

Tổng số 232 741

4 16 Khu vui chơi, giải trí

48

Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh

Một số loại hình mới xuất hiện như: Xích lô du lịch, xe đạp đôi tại khu

du lịch Bãi Cháy, Móng Cái, Quan Lạn – Minh Châu tạo sự phong phú cho

khách du lịch lựa chọn. Tàu thuyền du lịch cũng phát triển nhanh về số lượng.

Năm 2010 có 485 tàu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, đón được 2,5

triệu lượt khách doanh thu từ vận chuyển khách đạt 350 tỷ đồng. Đặc biệt gần

đây xuất hiện loại hình nghỉ đêm trên Vịnh rất được du khách ưa chuộng.[8]

2.2.3. Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh

Theo số liệu thống kê của sở du lịch Quảng Ninh năm 2000 số lao động

trực tiếp của ngành du lịch là 5500 người, số lao động gián tiếp thuộc các

thành phần kinh tế ước đoán khoảng 20.000. Năm 2010 con số lao động trực

tiếp là khoảng 25.000 người, tăng 5 lần so với năm 2000, số lao động gián

tiếp khoảng 45.000 người.[8]

Nhìn chung chất lượng nguồn lao động của Quảng Ninh còn thấp. 2/3 số

lao động trực tiếp trong ngành chưa qua đào tạo. Khả năng giao tiếp và sử

dụng ngoại ngữ còn nhiều hạn chế, số lượng cán bộ công nhân viên có trình

độ đại học và sau đại học chiếm một số lượng rất nhỏ.

Việc nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động là một vấn đề quan trọng,

vì nó sẽ quyết định chất lượng phục vụ, chất lượng sản phẩm du lịch và hiệu

quả sản phẩm du lịch. Nhận thức được vai trò quan trọng trong việc đào tạo

và bỗi dưỡng nguồn nhân lực, trong giai đoạn 2001 – 2010 Đảng bộ tỉnh

Quảng Ninh đã giành sự quan tâm sâu sắc đối với ngành du lịch thông qua

văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần 11, 12, 13 các Nghị quyết số 08-NĐ-TW,

21 NQ-TW chỉ ra phương hướng cho công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân

lực ngành du lịch. Sở Văn hóa – Thông tin – Du lịch và Sở Du lịch trước đây

đã mở nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ quản lý, trình

độ nghiệp vụ, tinh thần phục vụ, khả năng giao tiếp và ngoại ngữ. Năm 2010

lần đầu tiên Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã liên kết hợp tác với trưởng

49

Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn mở khóa đào tạo sau đại học chuyên

ngành du lịch học tại Quảng Ninh. Đây là bước đi nhằm nâng cao trình độ

cho cán bộ ngành du lịch, đáp ứng yêu cầu cho giai đoạn phát triển mới 2011

– 2020 giai đoạn phấn đấu đưa du lịch Quảng Ninh thành trung tâm du lịch

hàng đầu của Châu lục.[4]

Bảng 2.2 Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh

giai đoạn 2001- 2010

Đơn vị Năm 2001 Năm 2010

Số lao động trực tiếp Người 5205 25000

Trình độ chuyên môn

Đại học và Sau đại học 457 4.499

Cao đẳng và Trung cấp 997 6135

Nhân viên nghiệp vụ qua đào tạo 1865 9816

Trình độ ngoại ngữ

Đại học ngoại ngữ 87 1431

Trình độ C 254 9025

Trình độ B 467 9816

Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh

2.2.4. Tình hình kinh doanh du lịch giai đoạn 2001 – 2010

Giai đoạn 2001 – 2010 tình hình kinh doanh du lịch Quảng Ninh có bức

phát triển vượt bậc, nếu như năm 2000 số lượng khách du lịch đến Quảng

Ninh là 1,5 triệu lượt khách trong đó khách quốc tế là 544.000 người, doanh

thu 224 tỷ đồng thì năm 2010 Quảng Ninh đón 5,4 triệu lượt khách du lịch,

trong đó khách quốc tế là 2,2 triệu lượt. Doanh thu đạt 3100 tỷ đồng tăng hơn

10 lần so với năm 2000. Hiện nay, Quảng Ninh là tỉnh có doanh thu từ du lịch

đứng thứ 3 cả nước sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội theo. tốc độ tăng

bình quân của khách du lịch giai đoạn 2001 – 2010 là 15,1%, tốc độ tăng của

50

doanh thu du lịch là 37%/năm. Năm 2000 có 544.000 du khách quốc té đến

Quảng Ninh chiếm 25,4% tổng lượng khách của cả nước, thì năm 2010 đón

2,2 triệu lượt khách quốc tế chiếm 65% lượng khách của cả nước. Như vậy,

có thể khẳng định Quảng Ninh là trọng điểm thu hút khách quốc tế nhất Việt

Nam.[8]

Những thành công trên có được là nhờ sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh ủy,

UBND tỉnh sự phát huy nội lực của ngành du lịch tỉnh. Trong những năm vừa

qua đã được vào khai thác, sử dụng nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, thu hút

được sự quan tâm của du khách như: các sản phẩm vui chơi giải trí của khu

du lịch quốc tế Tuần Châu, cáp treo Yên Tử, công viên quốc tế Hoàng Gia

Lợi Lai, sân Gold Trà Cổ, du lịch nghỉ đêm trên Vịnh Hạ Long, nhiều dự án

mới đang dược hoàn thành như: Dự án khu du lịch khách sạn 5 sao Bãi Cháy,

dự án sân Gold và quần thể sinh thái Ao Tiên, đặc biệt Vịnh Hạ Long lọt vào

giai đoạn 3 cuộc thi bình chọn 7 kỳ quan thiên nhiên hiện đại do New Open

World phát động, sẽ là động lực cho sự phát triển của du lịch Quảng Ninh

trong những năm tới.

Bảng 2.3 Tình hình kinh doanh của ngành du lịch Quảng Ninh

giai đoạn 2001- 2010

2006 2010 Đơn vị Danh mục

Trong nước 1,995 3,295 Triệu người

Khách du lịch Quốc tế 1,115 2,122 Triệu người

Tổng số 3.110 5,417 Triệu người

Tổng doanh thu 1,182 Ngìn tỷ đồng

Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh

2.3. Đánh giá tính bền vững của du lịch Quảng Ninh

2.3.1. Vấn đề đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.

Du lịch là một ngành kinh tế. Vì vậy,vấn đề tiêu thụ sản phẩm dịch vụ là

vấn đề sống còn. Người tiêu dùng trong du lịch có những nét đặc biệt so với

51

những lĩnh vực khác. Du khách có thể từ chối sản phẩm ngay khi họ đang tiêu

dùng, vì một lí do nào đó khiến họ không hài lòng. Sản phẩm du lịch là một

sản phẩm mang cả tính hữu hình lẫn vô hình. Nó có thể tăng giá trị khi đáp

ứng những nhu cầu này sinh tức thì của du khách. Do vậy, chiến lược chung

của ngành kinh tế du lịch là thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách để thu hút

khách đến với dịch vụ của mình đồng thời gia tăng doanh thu. Tuy nhiên, nhu

cầu của khách du lịch là rất đa dạng, bên cạnh những nhu cầu chính đáng còn

có cả những nhu cầu xâm hại đến tài nguyên, thuần phong mỹ tục, an ninh

chính trị, an toàn xã hội. Đối với những nhu cầu không chính đáng này việc

đáp ứng sẽ gây ra những hậu quả không thể lường trước cho doanh nghiệp và

cho xã hội.

Theo điều tra của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, tiến hành đối với

du khách nước ngoài về điểm đến yêu thích ở Việt Nam. Trong số các điểm

đến Hạ Long (Quảng Ninh), Hội An, Mỹ Sơn (Quảng Nam) Huế, Hà Nội,

Thành phố Hồ Chí Minh có đến 41,5% số khách được hỏi lựa chọn Hạ Long

là lựa chọn thứ nhất 27,5% coi Hạ Long là lựa chọn thứ hai khi đến thăm Việt

Nam; Những chỉ số này cho thấy Hạ Long - Quảng Ninh là điểm đến hấp dẫn

đối với khách quốc tế, vấn đề đặt ra là Quảng Ninh đã sẵn sàng cho việc tiếp

đón và đáp ứng tối đa nhu cầu của khách chưa?

Trong bộ chỉ thị đánh giá nhanh về tính bền vững của du lịch chỉ ra

rằng, tỷ lệ quay trở lại số ngày lưu trú bình quân, tỷ lệ rủi ro của du khách là

những tiêu chí tổng quát nhất đánh giá về khả năng đáp ứng nhu cầu của

khách đối với điểm du lịch. Đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng

nhất phản ánh sự phát triển bền vững trong hoạt động phát triển của du lịch

Quảng Ninh.

Tỷ lệ quay trở lại của khách du lịch ở Quảng Ninh nhìn chung là thấp. Số

ngày lưu trú bình quân của du khách là 1,5 ngày trong khi đó của Hà Nội là 2

52

ngày và thành phố Hồ Chí Minh là 2,1 ngày. Số ngày lưu trú bình quân thấp

nói lên sản phẩm du lịch và chất lượng dịch vụ của du lịch Quảng Ninh chưa

đủ sức hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.

Nhìn vào bức tranh toàn cảnh du lịch Quảng Ninh hiện nay, ai cũng nhận

thấy sự phát triển mất cân đối giữa các trung tâm du lịch trong Tỉnh. Trong

khi khu vực Hạ Long xuất hiện tình trạnh quá tải, thì các khu vực còn lại tốc

độ phát triển rất chậm chạp. Hầu như toàn bộ chương trình, điểm thăm quan

và các dịch vụ có liên quan đều tập trung trên Vịnh Hạ Long nhưng vấn đề

đặt ra với các hãng lữ hành là sau khi đi thăm Vịnh Hạ Long về cho khách

của mình xem gì, làm gì, đi đâu. Nhìn chung, hoạt động vui chơi giải trí ở Hạ

Long còn rất hạn hế, thành phố chưa có một rạp chiếu phim đạt tiêu chuẩn

quốc tế, chưa có khu vui chơi giải trí thực sự hấp dẫn du khách. Đặc biệt đối

với các du khách đều bằng đường tàu biển là những du hách có nhu cầu cao

cấp thì dịch vụ và chất lượng dịch vụ chưa thực sự làm họ hài lòng. Một hoạt

động được nhiều du khách quan tâm là tắm biển thì khó có thể thực hiện

được tại Bãi Cháy với chất lượng bãi tắm và điều kiện vệ sinh như hiện nay.

Nhiều du khách đành bằng lòng với việc tắm này và bơi trong bể bơi của

khách sạn, mà hiện nay còn rất nhiều khách sạn chưa có bể bơi đạt tiêu

chuẩn. Khu du lịch Tuần Châu và Hoàng Gia có xây dựng một số chương

trình vui chơi giải trí cho khách nhưng mới chủ yếu thu hút được một phần

khách nội địa và khách Trung Quốc, những chương trình này chưa đủ sức hấp

dẫn các du khách quốc tế khác. Ngoài ra trong hoạt động kinh doanh du lịch

đang còn tồn tại quan điểm muốn du khách nghỉ đêm lại Quảng Ninh thì phải

có khách sạn tốt, từ nhận thức này các nà đầu tư chủ yếu quan tâm đến vấn đề

nội thất của khách sạn nhưng những gì thuộc về bên ngoài như vị trí, tầm nhìn

khuôn viên cảnh quan của khách sạn nói riêng, cảnh quan môi trường, bãi

biển, đường xá, dịch vụ công cộng và dịch vụ du lịch nói chung của khu du

53

lịch chưa được đầu tư thỏa đáng.

Trong khi khách sạn và nhà nghỉ vẫn tiếp tục đầu tư xây dựng ở Hạ Long

thì số lượng nhà hàng có quy mô lớn, thiết kế độc đáo, cảnh quan đẹp, có

phong cách riêng, phục vụ chuyên nghiệp chất lượng tốt hầu như không được

xây dựng. Phần lớn nhà hàng chỉ ở quy mô vừa và nhỏ mang đậm phong cách

nghiệp dư, tập trung nhiều ở khu vực vườn Đào, Hùng Thắng, Cái Răm. Đây

là hạn chế đáng kể trong việc tăng số ngày lưu trú bình quân của khách du

lịch bởi vì điểm nhấn của một khu du lịch bao gồm việc phục vụ cho du

khách một bữa ăn ngon miệng, thư giãn tại một nhà hàng địa phương sạch,

đẹp và thơ mộng.

Vấn đề đáp ứng nhu cầu của khách còn hạn chế ở điểm sự đánh đồng về

mặt bằng dịch vụ, khách trả nhiều tiền hơn cảm thấy mình không được hưởng

một dịch vụ ưu việt hóa, vượt trội hơn so với những khách khác. Vì vậy, việc

các nhà cung cấp dịch vụ ở Quảng Ninh không đạt được hiệu quả kinh doanh

cao cũng do việc không bán được các tour cao cấp. Nguyên nhân của vấn đề

này nằm ở chỗ với cơ sở hạ tầng và các dịch vụ du lịch hiện có các công ty

kinh doanh du lich chỉ xây dựng được một số sản phẩm giống nhau về nội

dung cũng như quy định tổ chức. Trên thực tế đã có nhiều hãng lữ hành đầu

tư tiền bạc công sức và thời gian để xây dựng một sản phẩm độc đáo và mang

đặc trưng riêng, nhưng rất khó khăn và chưa mang lại hiệu quả với những hạn

chế về cơ sở hạ tầng và dịch vụ du lịch như hiện nay Quảng Ninh khó có thể

xây dựng được một tour du lịch thực sự cao cấp.

Vào mùa cao điểm lượng du khách đổ về trung tâm du lịch chính của

Quảng Ninh là thành phố Hạ Long tăng đột biến. Đây cũng chính là lúc diễn

ra các hiện tượng kinh doanh thiếu đạo đức như tăng giá, bắt chẹt khách du

lịch diễn ra một cách phổ biến. Mặc dù, đội tàu du lịch của khu vực Hạ Long

đã lên đến 500 chiếc, nhưng không đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch

vào thời điểm này. Đây cũng chính là nguyên nhân làm nảy sinh hàng loạt

54

tình trạng lộn xộn như thay đổi dịch vụ so với yêu cầu, chất lượng phục vụ

giám sát khách phải chờ đợi dồn ép ở bến tàu, hướng dẫn viên phải tranh

giành tàu cho khách của mình. Bên cạnh các đội tàu được đầu tư tốt, khẳng

định được thương hiệu, còn nhiều đội tàu nhỏ chỉ có 2-3 tàu cũ mua thanh lý

từ các đội tàu lớn hoạt động theo kiểu chộp giật, chặt chém, lừa đảo du khách.

Đặc biệt từ hiện tượng thuyền máy của người dân chạy bán theo các tàu du

lịch để bán hàng rong, thậm chí là xin tiền khách ngoại quốc đang có chiều

hướng gia tăng. Nhiền đoàn khách phàn nàn về hiện tượng này và cho biết họ

không thể làm gì được mặc dù thời gian đi thăm quan Vịnh kéo dài 5 tiếng

đồng hồ, thậm chí vào lúc ăn trưa trên tàu luôn có thuyền máy của người dân

bám theo, người lớn chào mua ốc, san hô, hải sản, hoa quả, trẻ em thì xin tiền.

Thủy thủ đoàn cũng ngại va chạm với những đối tượng này. Khu du lịch

Quan Lạn – Minh Châu, vào mùa cao điểm đón một lượng khách lớn, vào

những ngày lễ, thứ bảy, chủ nhật đón khoảng 3.000 du khách (trong khi đó

dân số trên Đảo chỉ khoảng 5.000 người) đã đẩy giá cả hàng hóa dịch vụ lên

gấp 2 đến 3 lần, với giá cả đắt đỏ như vậy khách du lịch đã phải mang theo đồ

ăn, thức uống từ trong đất liền ra. Nhiều khách du lịch đến lần đầu tiên vào

mùa cao điểm đã cảm thấy rất bất ngờ với các mức giá 50.000đ một gói mì,

75.000đ một bát phở, những thứ mà ngày bình thường có giá bằng 1/4. Khu

du lịch Yên Tử cũng rơi vào tình trạng này, mọi hàng hóa dịch vụ đều bị đội

lên nhiều lần mức bình thường. Hiện tượng lừa đảo, móc túi trong dịp cao

điểm cũng tác động mạnh đến độ hài lòng của khách du lịch khi đến với

Quảng Ninh. Hàng lưu niệm của du lịch Quảng Ninh còn thiếu sự đa dạng

chưa có những mặt hàng tiêu biểu cho địa phương. Qua khảo sát cho thấy các

gian hàng bán đồ lưu niệm cho khách du lịch hầu hết là các sản phảm mang

tính phổ biến mà khách du lịch có thể mua ở bất cứ nơi nào trên Việt Nam,

mặt hàng lưu niệm được cho là đặc trưng của Quảng Ninh là đồ thủ công mỹ

55

nghệ được chế tác từ than đá chưa thực sự hấp dẫn được du khách về chủng

loại và mẫu mã. Đây cũng chính là nguyên nhân làm giảm đi nhu cầu chi tiêu

của khách du lịch khi đến với Quảng Ninh.

Tỷ lệ rủi ro về sức khỏe đối với khách du lịch cũng là yếu tố quan trọng

trong bộ chỉ thị đáp ứng nhu cầu của du khách. Nhìn chung ở Quảng Ninh

chưa có vụ việc nào liên quan đến dịch bệnh do du lịch mang lại, công tác

phòng chống dịch bệnh vào mùa cao điểm được đặc biệt quan tâm, tại các khu

du lịch thường xuyên có mặt cán bộ y tế dự phòng, kịp thời xử lí các vấn đề

liên quan đến dịch bệnh phát sinh. Tuy nhiên ở các khu du lịch Biển đã xảy ra

những tai nạn liên quan đến vấn đề sông nước, một phần do sự chủ quan của

du khách, nhưng phần lớn do trách nhiệm của các đơn vị chủ quản kinh doanh

du lịch. Ở khu vực các bãi tắm chính chưa có các đội cứu hộ chuyên nghiệp

được trang bị các phương tiện cứu hộ hiện đại, chủ yếu dựng lại các khẩu hiệu

cảnh báo, nhắc nhở du khách, chưa có biển báo độ sâu của mực nước. Tại bãi

biển Quan Lạn vào mùa hè xuất hiện những cơn sóng lớn rất nguy hiểm, tuy

nhiên công tác cảnh báo tuyên truyền chưa được quan tâm. Khu vực Vịnh Hạ

Long thường xuất hiện những hiện tượng thời tiết nguy hiểm như Giông, Tố,

Lốc..v.v. Nhưng những yêu cầu đảm bảo an toàn cho du khách khi đi tham

quan Vịnh chưa được các tàu du lịch thực hiện nghiêm túc. Đặc biệt vào trung

tuần tháng 2 năm 2011 đã xảy ra vụ tai nạn nghiêm trọng làm thiệt mạng 12

du khách quốc tế, nguyên nhân do sự lơ là, thiếu tinh thần trách nhiệm của

thủy thủ đoàn dẫn đến sự cố nước tràn vào khoang máy không phát hiện ra

kịp, tai nạn xảy ra vào thời điểm lúc nửa đêm, thời điểm mà khách đã ngủ

say, khi xảy ra sự cố không kịp thoát ra ngoài. Đây là một vụ việc có tính

nghiêm trọng ảnh hưởng đến hình ảnh của Vịnh Hạ Long trong cuộc đua đến

danh hiệu một trong 7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới.

Nhìn chung, vấn đề đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu khách của Du lịch Quảng

Ninh là chưa cao. Nguyên nhân của tình trạng này có thể lí giải từ nhiều góc

56

độ. Đó là nhận thức của lãnh đạo địa phương về vị trí, vai trò của du lịch

trong phát triển kinh tế xã hội chưa thực sự cao. Nhìn từ góc độ chính sách, có

thể nhận thấy Quảng Ninh chưa có chính sách đầu tư hiệu quả, nhằm nâng

cao và đồng bộ hóa cơ sở hạ tầng của ngành du lịch. Cơ sở hạ tầng còn nhiều

hạn chế, thậm chí có những việc cấp thiết như nhà vệ sinh cho du khách đã đề

cập nhiều năm nhưng hầu như không có tiến bộ đáng kể nào. Vấn đề cơ sở hạ

tầng còn nhiều yếu kém là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự nghèo nàn về sản

phẩm du lịch, các Tour du lịch đều có sự trùng lặp, na ná như nhau, không tạo

ra nhiều sự lựa chọn cho du khách. Dấu ấn mà du lịch Quảng Ninh để lại

trong lòng du khách chủ yếu là sự hùng vĩ của Vịnh Hạ Long và vẻ đẹp thơ

mộng của các bãi biển. Sự đặc sắc của các sản phẩm du lịch mang tính nhân

tạo thì hầu như chưa có gì. Công tác quản lí nhà nước còn nhiều hạn chế, đặc

biệt là công tác quản lí đối với các phương tiện vận tải tham gia hoạt động du

lịch. Đối với vấn đề quản lí giá cả vào mùa cao điểm, chưa phối hợp với quản

lí thi trường trong việc yêu cầu niêm yết giá tại các cơ sở kinh doanh. Một số

văn bản pháp luật chồng chéo, quy định không rõ ràng, không rõ trách nhiệm,

gây khó khăn cho doanh nghiệp. Cụ thể, việc quy định về hạn chế tốc độ xe

trên các tuyến quốc lộ 18 kéo dài thời gian đi lại, gây ức chế cho du khách.

Công tác hành chính tại cửa khẩu còn nhiều thủ tục rườm rà, làm mất nhiều

thời gian của du khách. Doanh nghiệp kinh doanh du lịch còn tồn tại nhiều

hạn chế trong việc nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu của khách. Chưa xây

dựng được những sản phẩm thực sự cao cấp. Đội ngũ hướng dẫn viên du lịch

còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn tư tưởng kinh

doanh theo kiểu chộp giật, không chủ động phát triển các Tour du lịch mới.

Trong thời gian tới cần có những giải pháp khác phục những tồn tại nêu trên,

coi đó là một yếu tố đảm bảo cho du lịch Quảng Ninh phát triển bền vững.

2.3.2. Tác động của du lịch đối với hệ sinh thái tự nhiên

Tài nguyên và môi trường là nhân tố cơ bản để tạo ra sản phẩm du lịch.

Điều đó cũng có nghĩa là ngành du lịch có tác động đến vấn đề tài nguyên

57

môi trường. Sự tác động này bao gồm cả yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực.

Sự tác động tích cực thể hiện ở chỗ, du lịch giúp đẩy mạnh công tác bảo

tồn tài nguyên thiên nhiên. Nhờ có quy hoạch phát triển du lịch giai đoạn

2001 – 2010 Tỉnh đã xác định được các khu vực quan trọng để đẩy mạnh

công tác bảo tồn. Điển hình là khu du lịch Vân Đồn, các cấp chính quyền đã

có sự nhận thức sâu sắc hơn trong công tác bảo vệ đối với những tài nguyên

thiên nhiên có giá trị du lịch. Hàng loạt các hoạt động bảo tồn phục vụ phát

triển du lịch đã được tiến hành. Tiêu biểu là việc thành lập Vườn Quốc Gia

Bái Tử Long. Hoạt động du lịch sinh thái cũng bắt đầu được triển khai ở nơi

này, đến với Vườn Quốc Gia Bái Tử Long du khách sẽ được chiêm ngưỡng giá

trị đặc sắc về cảnh quan và đa dạng sinh học bao gồm: Hệ sinh thái rừng nhiệt

đới lá rộng thường xanh trên núi đá vôi, Rừng ngập mặn, Rạn san hô, Tùng

áng, hồ nước mặn. Sự đa dạng, độc đáo của các hệ sinh thái rừng, biển ở Vườn

Quốc Gia Bái Tử Long có thể xây dựng nhiều loại hình du lịch hấp dẫn từ nghỉ

ngơi, thưởng ngoạn đến khám phá thiên nhiên và nghiên cứu khoa học.

Quảng Ninh còn có chủng loại cát trắng silic (nguyên liệu cho công

nghiệp sản xuất thủy tinh và pha lê), được phân bố dọc theo 200km bờ biển.

Trước đây hoạt động khai thác cát phục vụ mục đích dân dụng và công

nghiệp diễn ra nhộn nhịp. Tuy nhiên nhờ có sự thay đổi về quan điểm, chính

quyền địa phương đã nhận thấy, so với phục vụ các mục đích khác, giá trị

kinh tế do hoạt động du lịch mang lại lớn hơn gấp nhiều lần, hoạt động khai

thác dần được hạn chế (đặc biệt ở các khu vực có cảnh quan đẹp). Mỏ cát Vân

Hải (Vân Đồn) đã cơ bản ngừng khai thác và bản thân công ty quản lý mỏ

cát cũng chuyển sang kinh doanh du lịch.

Hoạt động du lịch có những tác động tích cực đối với tài nguyên rừng

trên địa bàn của Tỉnh( tỷ lệ che phủ của rừng đạt 43%). Tại các khu quy

hoạch phát triển du lịch công tác bảo vệ và trồng phục hồi tài nguyên rừng

được chú trọng. Hiện nay du khách thăm quan ở khu vực Bãi Dài (Vân Đồn)

58

đã lại thấy màu xanh ngút ngàn của rừng tái sinh, xen kẽ với những mảng

rừng nguyên sinh còn sót lại. Ý thức của người dân địa phương về bảo vệ

rừng cũng được nâng cao. Nhiều hộ gia đình triển khai mô hình trang trại kết

hợp với rừng sang phục vụ du lịch, thu thút được sự chú ý của du khách. Để

bảo vệ tài nguyên rừng trên núi đá vôi và giá trị cảnh quan, hoạt động khai

thác đá vôi ở khu vực Bái Tử Long đã được hạn chế. Tại khu vực Bãi Cháy

diện tích rừng thông trồng mới không ngừng tăng. Tại khu danh thắng Yên

Tử, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương chuyển khu rừng đặc dụng

thành rừng quốc gia Yên Tử. Nơi đây có hệ động vật đa dạng và phong phú,

trong đó có 23 loài đặc hữu quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam như

voọc mũi hếch, sóc bay lớn, ếch gai, ếch ang... có giá trị cao trong việc bảo

tồn nguồn gen, nghiên cứu khoa học, giáo dục và du lịch. Việc nâng cấp rừng

đặc dụng Yên Tử thành rừng quốc gia Yên Tử sẽ đẩy mạnh hơn nữa việc bảo

vệ, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, cảnh quan môi trường cũng như bảo

tồn và phát triển các mẫu chuẩn hệ động, thực vật, bảo vệ sự đa dạng sinh

học, các nguồn gen động, thực vật quý hiếm.

Du lịch giúp cho chất lượng môi trường ở một số khu vực được cải thiện.

Điển hình như Vịnh Hạ Long, một số dự án môi trường do ngành du lịch triển

khai đã được nhân dân các Làng chài Vông Viên, Cửa Vạn hưởng ứng tham

gia, nhiều dân khu vực này đã tiến hành vệ sinh môi trường trong khu vực,

dọn rác thải trên mặt nước. Với sự tham gia của tỉnh đoàn Quảng Ninh phát

động nhiều chiến dịch thu gom rác thải dọc bờ biển thu hút được sự tham gia

của đông đảo học sinh sinh viên khu vực thành phố Hạ Long. Hiểu biết về

môi trường của công đồng dân cư được tăng cường thông qua việc trao đổi

học tập với khách du lịch. Cơ sở hạ tầng được cải thiện, hệ thống đường xá hệ

thống cấp thoát nước ở các khu vực có hoạt động du lịch phát triển mạnh,

được tăng cường đầu tư, một phần kinh phí được đầu tư chính nguồn lợi do

59

du lịch mang lại.

Sự tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đối vối môi trường tự nhiên.

Điều này được thể hiện rõ nét nhất tại khu vực thành phố Hạ Long, nơi mà

hoạt động du lịch diễn ra mạnh mẽ nhất. Do sự đầu tư một cách ồ ạt xây dựng

cơ sở lưu trú trên bờ đã phá vỡ cảnh quan tự nhiên, bức tranh toàn cảnh của

khu vực Bãi Cháy - Tuần Châu không còn hấp dẫn về mặt kiến trúc và thất

bại về quy hoạch, việc phá núi lấy đất lấn biển tạo ra hình ảnh nham nhở,

nhiều khách sạn, nhà nghỉ cao thấp đủ loại được xây dựng một cách lộn xộn,

chen chúc. Thấp thoáng những khách sạn sang trọng là những nhà tạm mái

tôn, lôm nhôm biển quảng cáo, vỉa hè xộc xệch. Biển chỉ nhìn thấy từ xa do

một dải bờ biển bị rào bởi các công trình dự án. Trong tương lai khu vực

Tuần Châu – Hùng Thắng sẽ trở thành một khu đô thị ven biển, khó có thể trở

thành một thị trấn du lịch biển theo đúng nghĩa.

Khu vực Vân Đồn cũng đang đứng trước nguy cơ lặp lại sai lầm của Bãi

Cháy - Tuần Châu về quy hoạch và kiến trúc, qúa trình đô thị hóa tại khu vực

này diễn ra khá nhanh việc san núi lấy đất lần biển xây dựng, khu đô thị mới

làm ảnh hưởng đến cảnh quan của vịnh Bái Tử Long. Vấn đề xây dựng dân

dụng diễn ra không tuân thủ quy hoạch, vai trò của chính quyền chưa được

thể hiện trong công tác quản lý xây dựng.

Hoạt động du lịch phát triển cũng đồng nghĩa với việc gia tăng khối

lượng chất thải, gây sức ép đến môi trường. Đối với tài nguyên nước, để đáp

ứng cho 5,5 triệu du khách với thời gian lưu trú 1,5 ngày, với tiêu chuẩn sử dụng 0,5 m3/ngày thì sẽ phải mất 4 triệu m3 nước sạch. Nhu cầu về nước sạch

hoạt động gây sức ép lớn lên hệ thống cấp thoát nước của Quảng Ninh, đặc

biệt tại khu vực thành phố Hạ Long. Để phục vụ nhu cầu quá lớn của khách

du lịch và nhân dân địa phương ba giếng khoan ngầm sâu của Hạ Long được

bơm thẳng vào hệ thống mà không qua xử lý. Vì vậy, chất lượng nước chưa

cao, không thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng. Xử lý nước thải còn nhiều bất

60

cập, hiện nay hai trạm xử lý nước thải của thành phố mới chỉ xử lý được 65%

lượng nước thải, phần còn lại xả trực tiếp qua Vịnh, khu vực Bãi Cháy nước

biển ô nhiẽm do nước thải ra từ khu du lịch là nguyên nhân khiến nhiều du

khách e ngại khi tắm biển ở khu vực này. Nhìn chung chất lượng môi trường

ở khu vực thành phố Hạ Long đang gặp phải những vấn đề nghiêm trọng, mà

một trong những nguyên nhân là do hoạt động du lịch.

Rác thải từ hoạt động du lịch cũng là một yếu tố tác động lên chất lượng

môi trường. Đối với các khu di tích lịch sử văn hóa lượng rác thải do du ịch

tăng đột biến vào dịp đầu năm mới âm lịch, tại các khu du lịch Biển hiện

tượng xả rác bừa bãi trên bãi biển là một vấn đề nhức nhối lâu nay của những

người làm công tác du lịch, nguyên nhân do ý thức của khách du lịch còn

thấp, đối tượng chủ yếu rơi vào khách nội địa, chính quyền thường xuyên

phải phát dộng các chiến dịch thu gom rác trên bãi biển trọng điểm. Tại khu

du lịch Vân Đồn đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu ô nhiễm do rác thải từ

hoạt động du lịch không được thu gom, xử lý.

Điện sinh hoạt vào mùa cao điểm là vấn đề gây bức xúc hiện nay. Mùa

du lịch Quảng Ninh hoạt động nhộn nhịp nhất lại rơi vào mùa thiếu điện trầm

trọng của cả nước. Lượng du khách đến Quảng Ninh vào thời điểm này theo

thống kê vào khoảng 2 triệu du khách, gây nên sự quá tải về nhu cầu sử dụng

điện càng làm cho vấn đề thiếu điện trở nên trầm trọng. Điện lực Quảng Ninh

buộc phải thực hiện biện pháp điều tiết bằng cách cắt điện luân phiên ở các

địa phương khác trong Tỉnh, ưu tiên cho khu vực Bãi Cháy - Hạ Long. Hiện

tượng ô nhiễm tiếng ồn do sử dụng máy phát điện cá nhân cũng bắt đầu xuất

hiện gây cảm giác khó chịu cho du khách.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên phần lớn là do công tác quy

hoạch và dự án phát triển kinh tế xã hội còn có những bất cập, chồng chéo.

Công tác quản lí xây dựng cơ bản bị buông lỏng. Tại Hạ long khi quy hoạch

tổng thể phát triển du lịch còn chưa được phê duyệt và triển khai, thì các dự

61

án chi tiết và các dự án đầu tư đã chiếm gần hết quỹ đất xây dựng. Sự chồng

chéo này suýt gây ra hậu quả nghiêm trọng cho khu danh thắng Yên Tử, khi

Quyết định số 2809/GP-BTNMT của Bộ Tài nguyên - Môi trường cho phép

Tổng Công ty Đông Bắc khai thác than bằng phương pháp hầm lò tại xã

Tràng Lương (huyện Đông Triều). Các chuyên gia nhận định, khi khai thác

than đơn vị thi công sẽ đi sâu vào các vỉa 4, 5, 7 theo chiều ngang (xuyên vào

trong lòng quả núi). Để tận thu than thì bắt buộc phải phá hỏa, như thế sẽ tạo

ra các khoảng rỗng lớn bên trong làm biến dạng bề mặt bên trên gây rạn nứt

mặt đất. Với hướng khai thác này sẽ đi thẳng vào khu vực di tích Yên Tử, trực

tiếp ảnh hưởng đến chùa Hoa Yên. Nhiều khu vực thiếu một chiến lược phát

triển hiệu quả, dẫn đến tình trạng đầu tư thừa, khai thác tài nguyên quá mức,

quá tải đối với quỹ đất . Sự nhận thức chưa thực sự sâu sắc về phát triển du

lịch bền vững, dẫn đến tư tưởng chạy theo giá trị kinh tế, xem nhẹ các giá trị

môi trường. Xây dựng cảng Cái Lân đã làm dấy lên những lo ngại về hậu quả

môi trường đối với Vịnh Hạ Long. Chính quyền Tỉnh chưa có biện pháp hiệu

quả trong việc quản lí chất thải nhà máy, bệnh viện, khu du lịch, khu dân cư

cũng như việc thải chất chứa dầu xuống biển. Ngoài ra những hạn chế nêu

trên còn có nguyên nhân là sự thiếu ý thức trách nhiệm của các bên tham gia

vào hoạt động du lịch. Khách du lịch nội địa là đối tượng nguyên nhân chính

của tình trạng xả rác bừa bãi. Nhận thức của doanh nghiệp về bảo vệ môi

trường chưa cao. Nhìn chung tác động của du lịch đến hệ sinh thái tự nhiên

còn trong giới hạn chấp nhận được. Nhưng những hạn chế nêu trên không

được khắc phục và xử lý kịp thời sẽ gây nên những hậu quả khôn lường cho

chất lượng môi trường tự nhiên và cả bản thân ngành du lịch.

2.3.3. Tác động của du lịch đối với kinh tế Quảng Ninh

Giai đoạn 2001- 2010, ngành du lịch Quảng Ninh đã có bước phát triển

vượt bậc. Du lịch dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Năm 2010 tổng

doanh thu từ du lịch đạt 3.100 tỷ đồng, chiếm 19,5% giá trị GDP toàn tỉnh.

62

Đây là ngành có đóng góp thứ hai chỉ sau ngành than (24,6%). Một phần kinh

phí thu được từ hoạt động du lịch được tỉnh tái đầu tư cho các khu vực vùng

sâu, vùng xa nơi mà điều kiện kinh tế xã hội còn có nhiều khó khăn.

Sự phát triển của ngành du lịch là động lực mạnh mẽ giúp cho cơ cấu

kinh tế của Quảng Ninh chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng của nhóm

ngành công nghiệp, dịch vụ giảm dần tỷ trọng của nhóm ngành Nông – Lâm –

Ngư nghiệp. Sự phát triển của du lịch đã tạo ra một lượng việc làm đáng kể

góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Theo

thống kê hiện nay Quảng Ninh có khoảng 25.000 lao động phục vụ trực tiếp

trong ngành du lịch và 45.000 lao động gián tiếp. Phát triển du lịch là một

hướng đi đúng đắn của Quảng Ninh. Đây là lĩnh vực mà Quảng Ninh có nhiều

thế mạnh, bản thân ngành có những đặc điểm riêng phù hợp với chát lượng

nguồn nhân lực của tỉnh, đó là số lượng lớn lao động phổ thông chưa qua đào

tạo, nhiều vị trí công việc trong hoạt động du lịch không cần lao động trình độ

cao. Sự phát triển của du lịch góp phần phát triển kinh tế nhiều thành phần ở

địa phương. Du lịch đã tạo ra những cơ hội kinh doanh cho các thành phần

kinh tế trong các lĩnh vực như: Công nghiệp chế biến, nông nghiệp, dịch vụ

cung ứng vận tải, phục vụ nhu cầu ăn nghỉ, phục vụ nhu cầu mua sắm của

khách du lịch. Trong những năm qua ngành du lịch chứng kiến sự phát triển

mạnh mẽ của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với sự năng động của mình

những doanh nghiệp này đã tạo ra bức tranh sinh động cho hoạt động kinh

doanh du lịch ở Quảng Ninh.

Sự phát triển của du lịch thúc đẩy sản xuất đối với nhiều loại hàng hóa

của địa phương như: Gốm sứ, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản, hàng thủ

công mỹ nghệ chế tác từ ngọc trai, than đá. Đặc biệt là đối với mặt hàng Ngọc

Trai, Du khách nước ngoài rất ấn tượng với trang sức chế tác từ ngọc trai của

Quảng Ninh, nhiền đơn đặt hàng đến với các doanh nghiệp nuôi cấy ngọc trai

thông qua con đường du lịch. Hiện nay, ngọc trai Quảng Ninh đã có mặt tại

63

các trung tâm thời trang lớn trên thế giới như: London, Paris, Milan, v.v…

Doanh nghiệp đã chủ động mở những cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại các

khu du lịch và bước đầu gặt hái những thành công. Đây cũng là một phần của

kế hoạch xây dựng các sản phẩm du lịch cao cấp ở Quảng Ninh.

Du lịch đã giúp phát triển kinh tế - xã hội, tại nhiều vùng sâu, vùng xa

của tỉnh, điển hình là ở huyện đảo Vân Đồn, xã Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc

Vừng, Bản Sen vốn là những xã đảo nghèo. Giao thông đi lại rất là khó khăn,

từ trung tâm huyện Vân Đồn phải mất nhiều giờ đồng hồ, tàu mới đến được

các xã này, Dân cư chủ yếu sống nhờ nghề chài lưới. Nhưng khu vực này lại

sở hữu vẻ đẹp hoang sơ làm ngây ngất lòng, đó là những bãi cát trắng, những

khu rừng thơ mộng chạy dài theo bờ biển, sóng hiền hòa trong xanh. Hoạt

động du lịch lúc đầu mang tính tự phát bởi những người ưa thám hiểm, nhưng

sau đó lượng du khách tăng nhanh chóng. Hoạt động du lịch hình và làm biến

đổi sâu sắc bộ mặt nơi này. Nhằm phục vụ nhu cầu của khách du lịch, nhiều

tuyến tàu cao tốc ra đời, rút ngắn thời gian đi lại. Cơ sở hạ tầng được đầu tư

xây dựng, đường giao thông trên đảo đã được bêtông hóa, Cảng du lịch được

xây dựng, khách sạn nhà nghỉ mọc lên làm cho các khu dân cư trên Đảo đã có

dáng dấp của đô thị. Hạ tầng thông tin liên lạc được đầu tư, mạng viễn thông

di động được phủ sóng 3G, du khách có thể dễ dàng truy cập internet như ở

đất liền. Điều đáng ghi nhận là nguồn vốn đầu tư còn có sự tham gia của các

doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn. Lao động địa phương có sự

chuyển đổi từ ngư nghiệp sang làm dịch vụ du lịch. Hoạt động du lịch còn

kích thích các ngành kinh tế có liên quan, điển hình là nuôi trồng thủy hải sản,

hiện nay khu vực này có khoảng 350 hộ nuôi trồng thủy hải sản, cung cấp cho

các nhà hàng ở địa phương và cho nhu cầu mua sắm của du khách. Tại các

huyện miền núi như Tiên Yên, Ba Chẽ, Bình Liêu, loại hình du lịch sinh thái

nhân văn đang được triển khai, mang lại cơ hội phát triển kinh tế cho đồng

bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Hoạt động du lịch giúp cho các nghề truyền

64

thống của đồng bào thiểu số được khôi phục, giai đoạn vừa qua đã chứng kiến

sự quay trở lại của các sản phẩm dệt thổ cẩm và mây tre đan tại các gian hàng

của hội chợ thương mại du lịch. Một số doanh nghiệp du lịch hàng đầu của

Quảng Ninh đã tiến hành tài trợ cho một số dự án phát triển khu nguyên liệu

và phục hồi nghề truyền thống tại các Huyện miền núi nêu trên. Tại Khu bảo

tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng (Hoành Bồ), người dân vùng đệm

cũng được hưởng lợi từ dự án phát triển du lịch sinh thái, thông qua chương

trình đào tạo các kỹ năng cơ bản về nghiệp vụ du lịch.

Sự tham gia của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch vào hoạt động

phúc lợi xã hội trên địa bàn Tỉnh còn hạn chế. Theo ghi nhận của cơ quan

chức năng thì hiện nay mới chỉ có một số công trình theo diện này được thực

hiện. Sự tham gia của doanh nghiệp vào hoạt động phúc lợi chủ yếu dừng lại

ở việc quảng bá thương hiệu( theo kiểu một công đôi việc). Nguyên nhân của

vấn đề này nằm ở chỗ, Quảng Ninh chưa có những chính sách hợp lí, nhằm

động viên sự tích cực tham gia của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh

nghiệp tư nhân.

Sự phát triển của ngành du lịch tác động tích cực đối với sự phát triển

kinh tế của Quảng Ninh, nó là một trong những đầu tàu kéo theo sự phát triển

của nhiều ngành có liên quan. Đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo nâng

cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Thành quả đó có được là nhờ sự quan

tâm của các cấp lãnh đạo, chính sách phát triển đúng đắn đã phát huy được

tiềm năng thế mạnh của địa phương. Sự nỗ lực của bản thân ngành du lịch và

các ban ngành liên quan. Nhận thức và sự tham gia của cộng đồng vào hoạt

động du lịch được nâng cao.

2.3.4. Tác động của du lịch lên xã hội – nhân văn

Sự tác động của du lịch đến phân hệ xã hội – nhân văn của địa phương

chủ yếu mang tính chất tích cực nhiều hơn tiêu cực. Du lịch mang lại lợi ích

kinh tế cho cộng đồng địa phương như: giải quyết công ăn việc làm, tạo thu

65

nhập, nâng cao mức sống. Sự phát triển của du lịch tạo động lực phát triển

cho các khu vực kinh tế khác. Với vùng sâu vùng xa của tỉnh, sự phát triển

của du lịch là động lực cơ bản để xóa đói giảm nghèo. Sự giao lưu văn hóa

giữa người địa phương với khách du lịch giúp cho trình độ dân trí phát triển.

Dấu ấn sâu sắc nhất sự tác động của du lịch đối với phân hệ xã hội –

nhân văn là tạo ra cơ hội hỗ trợ việc bảo tồn các di tích lịch sử và phong tục

tập quán đặc sắc của người địa phương. Các di tích lịch sử trên địa bàn Quảng

Ninh như khu di tích Yên Tử, Đền Cửa Ông v.v… một nửa kinh phí trùng tu

tôn tạo được lấy từ nguồn du lịch, thông qua việc bán vé, thăm quan, tiền

công đức của du khách, phục vụ cho nhu cầu du lịch nhiều nét đặc sắc về văn

hóa của cư dân bản địa cũng đã được phục dựng lại. Một trong những phong

tục đặc sắc được phục dựng là không gian văn hóa làng chài Cửa Vạn và

Vông Viên. Những nét đẹp trong văn hóa của ngư dân vạn chài được tái hiện,

đám cưới, hát đối, thuyền bè và ngư cụ … theo kiểu dáng truyền thống, du

khách được chiêm ngưỡng một đám cưới theo đúng phong tục truyền thống

của người dân vạn chài, được tham gia vào các sinh hoạt đời thường của

người dân. Đây là một sản phẩm du lịch đặc sắc thu hút được sự chú ý của du

khách đặc biệt là du khách nước ngoài. Người dân có thêm một nguồn thu

nhập băng chính lối sống truyền thống của mình.

Tuy nhiên, sự phát triển của du lịch cũng có những tác động tiêu cực đối

với hệ xã hội nhân văn, đó là những tệ nạn xã hội liên quan đến du lịch bùng

phát vào mùa cao điểm như: mê tín dị đoan, mại dâm, cờ bạc, sử dụng ma túy.

Tháng giêng âm lịch hàng năm, tại các di tích lịch sử văn hóa và lễ hội,

những hoạt động mê tín dị đoan, cờ bạc ngang nhiên hoạt động. Nhiều băng

nhóm tội phạm dựa vào sự cả tin của du khách để tiến hành hoạt động lừa

đảo. Vào mùa cao điểm, một số lượng lớn gái mại dâm tập trung về khu vực

Bãi Cháy, Vân Đồn để hành nghề. Có thể dễ dàng nhận thấy cảnh các cô gái

đứng chèo kéo khách trên các tuyến đường dọc bờ biển. Đây là nguồn lây lan

66

của những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như HIV/ AIDS, Giang

mai..v.v. Hiện tượng này đã tồn tại đã lâu, gây bức xúc cho dư luận và làm

xấu đi hình ảnh của du lịch Quảng Ninh.

Những năm gần đây xuất hiện phong trào giới trẻ sử dụng ma túy tổng

hợp phát triển mạnh mẽ, Quảng Ninh vốn là một địa phương nhức nhối về tệ

nạn ma túy. Có thể dễ dàng tìm mua loại mặt hàng chết người ở bất cứ nơi

nào, vì vậy một bộ phận khách du lịch trẻ coi đây là cơ hội sử dụng ma túy,

đặc biệt khi tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng tiến hành các đợt

truy quyét mạnh tay. Vào mùa cao điểm lượng lớn du khách đổ về khiến cho

công tác quản lí đối với loại tệ nạn này càng trở nên khó khăn hơn.

Sự gia tăng của giá cả hàng hóa và dịch vụ vào mùa cao điểm cũng gây

ra sự bức xúc cho người dân, với một lượng lớn du khách đổ về các khu du

lịch Biển làm cho giá cả những mặt hàng tiêu dùng hàng ngày, đặc biệt là

thực phẩm tăng gấp đôi, đây là hiện tượng lạm phát do hoạt động du lịch gây

ra. Có thể cảm nhận tình trạng quá tải ở hầu hết các khu du lịch Biển trên địa

bàn Quảng Ninh. Người dân địa phương không thể hài lòng với việc xe

khách, tàu thuyền luôn chật cứng người, cũng như sự khó khăn trong việc tiếp

cận với các tiện nghi xã hội khác.

Nguyên nhân của sự tác động tiêu cực của hoạt động du lịch lên phân hệ

xã hội nhân văn nằm ở sự lơi lỏng của công tác quản lí nhà nước, cơ quan

chức năng đã tỏ ra không đều tay, chỉ tiến hành mạnh mẽ vào các đợt làm

điểm. đó chính là nguyên do khiến cho các loại tệ nạn liên quan đến hoạt

67

động du lịch còn có cơ hội tồn tại.

Chương 3:

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG BỀN

VỮNG Ở QUẢNG NINH

3.1. Quan điểm phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh

3.1.1. Bối cảnh mới về kinh tế - xã hội

Năm 2010 nền kinh tế thế giới đang có những tín hiệu phục hồi khả

quan, báo hiệu một chu kỳ tăng trưởng mới. Ngành du lịch thế giới cũng hồi

phục sau khủng hoảng. Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới, năm

2010 số lượng khách du lịch trên toàn thế giới đạt khoảng 1 tỷ người doanh

thu 880 tỷ USD. Dự báo lượng khách du lịch năm 2020 số lượng khách du

lịch sẽ đạt 1,6 tỷ người. Trong đó Đông Á – Thái Bình Dương sẽ là điểm đến

chiếm 26,1% tổng lượng khách du lịch toàn thế giới, xu hướng quốc tế hóa

diễn ra mạnh mẽ các phương tiện vận tải hiện đại ra đời sẽ giúp cho việc di

chuyển quốc tế diễn ra dễ dàng hơn, du khách ưa thích những điểm đến ổn

định về chính trị và có nhiều phong cảnh đẹp. Đặc biệt nhu cầu về du dịch

bền vững tăng cao du khách có nhu cầu về du lịch bền vững thường đến từ

những quốc gia có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao như Châu Âu hoặc

Bắc Mỹ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ có khả năng chi tiêu lớn. Theo

dự báo của Viện Tài nguyên thế giới trong khoảng thời gian đến năm 2020

Đông Nam Á sẽ thu hút tới 1/3 lượng du khách giàu có này, bởi vì Đông Nam

Á đang sở hữu rất nhiều tài nguyên có thể phát triển du lịch bền vững. Đây là

một cơ hội cho du lịch Việt Nam nói chung và du lịch quảng Ninh nói riêng.

Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến tích

cực, lần đầu tiên chúng ta thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp, trở thành

nước có thu nhập trung bình trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và

ổn định. Trong giai đoạn 2011 – 2020 nỗ lực phấn đấu để cơ bản trở thành

68

một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội được

đầu tư phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch, chất lượng đời

sống của người dân được nâng cao. Cho nên nhu cầu du lịch và nghỉ ngơi của

nhân dân cũng tăng lên. Nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới sẽ hội

nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, với tư cách là thành viên chính thức

của WTO sẽ mang lại nhiều thuận lợi cũng như những thách thức đối với Việt

Nam. Tuy nhiên chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ trong thời

gian tới như những bất ổn về kinh tế vĩ mô, khoảng cách giàu nghèo, sự

chống phát của các thế lực phản động quốc tế.

Năm 2010 ngành du lịch Việt Nam cũng thu được những thắng lợi kỷ lục

về số lượng khách: 5 triệu khách quốc tế, 28 triệu khách nội địa. Doanh thu từ

du lịch đạt gần 100 tỷ đồng, góp 5% GDP tạo việc làm 1,5 triệu lao động. Tốc

độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 – 2010 là 16,7%.

Ngành du lịch Việt Nam sẽ có những thuận lợi để phát triển, tình hình

phát triển trong giai đoạn tới đã được xác định trong chiến lược phát triển du

ịch Việt Nam giai đọan 2011 – 2020 tầm nhìn 2030. Mục tiêu của du lịch Việt

Nam là phấn đấu đuổi kịp các nước có ngành du lịch phát triển hàng đầu khu

vực Đông Nam Á. Ngành du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn,

có tính chuyên nghiệp, hiện đại, có sức cạnh tranh, mang đậm bản sắc văn

hóa và thân thiện với môi trường. Phấn đấu năm 2020 đón 7 đến 8 triệu lượt

khách quốc tế, phục vụ 32 đến 35 triệu khách nội địa, thu nhập trực tiếp từ du

lịch đạt 10 tỷ USD tạo việc làm cho 2,2 triệu lao động. Để đạt được những

mục tiêu nêu trên, ngành du lịch trong giai đoạn tới cần bám sát xu hướng hội

nhập, hợp tác và cạnh tranh toàn cầu. Tăng cường ứng dụng khoa học công

nghệ tiên tiến trong bối cảnh kinh tế tri thức, đưa ra những giải pháp phát

triển có tính chất đột phá trên cơ sở phát huy tối đa các nguồn lực của đất

nước.

Bối cảnh kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn tới cũng có

69

nhiều thuận lợi, sự thành công của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13 đã vạch ra

những phương hướng phát triển cơ bản cho tỉnh trong những năm tới, với tốc

độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, tỉnh Quảng Ninh sẽ cơ bản trở thành

một tỉnh công nghiệp hiện đại. Nhiều dự án có tính đột phá được triển khai

như đường cao tốc Hà Nội - Hạ Long; Hạ Long – Móng Cái, đường nối

Quảng Ninh với quốc lộ 5B. Đặc biệt sân bay quốc tế Vân Đồn được xây

dựng là một điều kiện thuận lợi lớn cho sự phát triển của ngành du lịch Quảng

Ninh. Các cảng biển lớn được xây dựng như Cảng Hải Hà, Vạn Hoa. Tỉnh

Quảng Ninh cũng đã có những văn bản chỉ đạo, đầu tư cho ngành du lịch môi

trường đầu tư và huy động nguồn lực đầu tư cũng được đẩy mạnh.

3.1.2. Quan điểm phát triển du lịch theo hướng bền vững

- Phát huy triệt để các lợi thể về vị trí địa lý, các tài nguyên du lịch tự

nhiên và nhân văn, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch phấn đấu

phát triển du lịch Quảng Ninh có tốc độ tăng trưởng nhanh, có tính đến sự

phát triển đột biến, tạo tiền đề định hướng phát triển vững chắc, lâu dài, thực

sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế tỉnh; Hạ Long trở thành 1

trong 9 trung tâm du lịch lớn cua cả nước và là một trung tâm du lịch quốc tế

quan trọng của châu lục trong tương lai.

- Du lịch là một ngành kinh tế mang tính tổng hợp cao và có quan hệ với

nhiều ngành khác nhất là công nghiệp than, công nghiệp vật liệu xây dựng các

cấp, các ngành nhằm hỗ trợ tác động cùng nhau phát triển, bảo vệ được cảnh

quan môi trường, đảm bảo sự phát triển bề vững.

- Phát triển du lịch Quảng Ninh phải gắn kết chặt chẽ với việc bảo vệ an

ninh quốc gia, củng cố quốc phòng, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ

của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Trong quá trình phát triển du lịch, đi đôi với việc khai thác tối đa các

đối tượng để tạo ra sản phẩm du lịch như cảnh quan tự nhiên, bãi biển, hang

động, các di tích văn hóa, di tích lịch sử… thì đồng thời phải coi trọng công

70

tác bảo vệ, tu bổ cải tạo, nâng cấp, phải giữ gìn được cảnh quan, bảo vệ môi

trường sinh thái, nhất là đối với di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long giữ

gìn và phát huy các thuần phong mỹ tục, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

- Du lịch ngành kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu sắc, có mỗi

quan hệ liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Sản phẩm du lịch của tỉnh là

sản phẩm tổng hợp của nhiều ngành kinh tế, văn hóa, gắn liền với sự phát

triển của các ngành, mang tính đồng bộ và đặc trưng. Để phát triển du lịch trở

thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, cần phải phát huy tổng hợp các thành

phần kinh tế, tranh thủ mọi nguồn vốn trong tỉnh trong nước và nước ngoài.

Phát triển cả du lịch quốc tế và nội địa, lấy du lịch quốc tế làm đột phá, lấy du

lịch biển làm trọng tâm, đồng thời coi trọng du lịch nội địa, đảm bảo cho mỗi

người dân trong nước trong trong tỉnh Quảng Ninh có nhu cầu về du lịch, đều

được tận hưởng các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh. Đảm bảo cho ngành

du lịch đạt hiệu quả kinh tế cao cả về kinh tế, chính trị và xã hội, góp phần

thúc đẩy nền kinh tế, đóng góp ngày càng lớn cho ngân sách tỉnh, giải quyết

công ăn việc làm cho xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng

biên giới và hải đảo, đóng góp thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng biên giới

và hải đảo, đóng góp thiết thực cho chương trình xóa đói, giảm nghèo trên

lãnh thổ tỉnh.

3.2. Mục tiêu và định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững

3.2.1. Mục tiêu phát triển:

Mục tiêu kinh tế: Quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh phải phù

hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Phải khai thác triệt để các

lợi thế về tiềm năng du lịch của tỉnh để nhanh chóng phát triển du lịch góp

phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ

trọng trong ngành du lịch GDP của tỉnh, tăng tỷ trọng đóng góp của ngành du

lịch vào ngân sách của tỉnh. Phấn đấu du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế

71

mũi nhọn của tỉnh.

Mục tiêu về văn hóa – xã hội: Phát triển du lịch trong mối quan hệ

khăng khít với những vấn đề xã hội như giải quyết việc làm, tăng thu nhập và

giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Một trong những yếu tố quan trọng

để thu hút khách du lịch chính là cảnh quan tự nhiên và nền văn hóa mang

đậm bản sắc dân tộc. Do vậy, quy hoạch phát triển du lịch Quảng Ninh phải

mang được nội dung khuyến khích du lịch nội địa, nhằm đáp ứng nhu cầu

nghỉ ngơi tham quan du lịch của nhân dân, góp phần cải thiện, nâng cao đời

sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Mặt khác phát triển các ngành nghề dịch

vụ đi theo du lịch.

Mục tiêu về an ninh chính trị và an toàn xã hội: Phát triển du lịch phải

luôn tôn trọng phương châm bảo đảm an ninh chính trị và an toàn xã hội.

Phương châm trên cần được quán triệt trong thiết kế quy hoạch các không

gian, các tuyến du lịch, nhất là tuyến du lịch biển đảo thuộc Vịnh Hạ Long,

vịnh Bái Tử Long, huyện đảo Vân Đồn, huyện đảo Cô Tô và biên giới, cửa

khẩu Móng Cái. Đây là vấn đề nhạy cảm nên phải khéo léo, linh hoạt, kết hợp

chặt chẽ với các ngành nội dung chính trong tỉnh để đạt được mục tiêu đảm

bảo an ninh chính trị, an toàn xã hội, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ quốc

gia. Đồng thời làm cho khách du lịch (nhất là khách du lịch quốc tế) hài lòng

và yên tâm khi đến du lịch ở Quảng Ninh.

Mục tiêu về môi trường: Quy hoạch du lịch gắn với bảo vệ moi trường

sinh thái đảm bảo sự phát triển bền vững. Do vậy, các kế hoạch và cơ chế

quản lý phải phù hợp với tôn tạo khai thác các tài sản thiên nhiên và nhan

văn, sao cho môi trường cảnh quan tự nhiên và các khu danh thắng không

những không bị xâm hại, mà còn được bảo trì và nâng cấp. Mặt khác phát

triển du lịch cần phải quan tâm đến việc bảo vệ môi trường xã hội trong sạch.

Cần có biện pháp tổ chức và quản lý chặt chẽ để ngăn ngừa các ảnh hưởng

tiêu cực từ các hoạt động du lịch mang lại đối với môi trương văn hóa xã hội

72

của địa phương.

3.2.2. Định hướng phát triển

Định hướng phát triển thị trường khách: Đối với thị trường khách du lịch

quốc tế sẽ có sự thay đổi cơ bản trong phương thức di chuyển chủ yếu là

đường hàng không và đường biển. Trước đây, khách du lịch dừng tại hai sân

bay là Nội Bài và Cát Bi sau đó di chuyển bằng đường bộ đến Hạ Long, trong

tương lai gần sẽ có đường bay quốc tế đến Hạ Long thông qua sân bay Vân

Đồn. Triển vọng du khách đến bằng đường biển là rất lớn, bởi vì hiện nay du

lịch thế giới xuất hiện hình thức du lịch đường biển trên các con tàu sang

trọng tiện nghi. Đây là những du khách có tiềm lực tài chính ổn định nhu cầu

chi tiêu cao. Trong những năm tới ngành du lịch Quảng Ninh cần có biện

pháp thu thút những đối tượng khách này nâng cao hiệu quả kinh doanh của

ngành. Trong thời gian tới với cơ chế xuất nhập cảnh thông thoáng hơn dự

báo số lượng khách Trung Quốc đến Quảng Ninh sẽ tăng mạnh thông qua cửa

khẩu Móng Cái. Đây là đối tượng khách có nhu cầu về dịch vụ giá rẻ, đa phần

từ các tỉnh phía Nam Trung Quốc.

Trong những năm tới lượng khách du lịch đến Quảng Ninh chủ yếu từ

Đông Á, Bắc Mỹ và Châu Âu. Căn cứ vào nhu cầu, tâm lý xã hội ngành du

lịch cần xây dựng các chiến lược phục vụ ho phù hợp với từng đối tượng

khách. Khách du lịch đến từ Châu Âu và Bắc Mỹ quan tâm chủ yếu đến các

loại hình du lịch thăm quan vịnh đảo, hang động; Du lịch sinh thái, du lịch

mạo hiểm như lặn biển, câu cá. Đối với khách du lịch đến từ Đông Á chú

trọng phát triển dịch vụ tham quan, du lịch kết hợp hội thảo.

Trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng, người dân cả nước đều biết

ở Quảng Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh, nhưng kỳ quan thiên nhiên

Vịnh Hạ Long vẫn có sức hấp dẫn nhất và là điểm đến mong ước của nhiều

người muốn đến tận nơi để chiêm ngưỡng. Kinh tế đất nước trong những năm

qua có bước phát triển vượt bậc đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt, nhu

cầu du lịch của người dân ngày càng nhiều. Năm 2010 ngành du lịch Quảng

73

Ninh đón 3,2 triệu lượt khách nội địa đến thăm quan nghỉ dưỡng. Chủ yếu là

từ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, một bộ phận khách phía Nam đi theo tour

Thành phố Hồ Chí Minh – Hà Nội - Hạ Long. Tỷ lệ khách nội địa lưu trú đạt

1 triệu lượt khách (chiếm 29%) đây là một tỷ lệ thấp, trong thời gian tới cần

đầu tư đồng bộ cho ngành du lịch để thu hút nhiều khách lưu trú hơn. Khách

du lịch nội địa đến với Quảng Ninh bao gồm nhiều lứa tuổi, nhiều đối tượng

như khách nghỉ cuối tuần, tham quan nghỉ dưỡng, khách đi tour gói, khách

nghỉ tuần trăng mật, thanh niên, học sinh ở địa phương và các vùng phụ cận

ngành du lịch Quảng Ninh cần có giải pháp tăng tượng khách mùa thù và mùa

xuân, giảm bớt lượng khách vào mùa hè. Đặc biệt là đối tượng khách du lịch

có thu nhập thấp, đảm bảo cho biểu đồ khách du lịch đồng đều quanh năm.

Định hướng phát triển sản phẩm du lịch cần phải căn cứ vào cảnh quan

tự nhiên của địa phương, các di tích lịch sử văn hóa. Quan trọng nhất là phải

căn cứ vào nhu cầu của khách. Kinh tế càng phát triển, thu nhập và đời sống

của dân cư càng cao thì nhu cầu đi du lịch càng tăng. Sau thời gian làm việc

căng thẳng, con người mong muốn tìm một nơi yên tính để nghỉ ngơi, họ

thường quan tâm tới những nơi có thắng cảnh đẹp, không khí trong lành để

tận hưởng cuộc sống.

Định hướng không gian du lịch. Hiện nay, Quảng Ninh quy hoạch 4

trung tâm du lịch chính, nhưng hiện nay do tình trạng quá tải về các hoạt động

du lịch tại khu vực Hạ Long cần tính đến phương án dịch chuyển không gian

du lịch về hướng Vân Đồn và Vịnh Bái Tử Long, nơi có tính chất tương tự

như Vịnh Hạ Long.

3.3. Giải pháp phát triển du lịch Quảng Ninh theo hướng bền vững

3.3.1. Các giải pháp phát triển bền vững về kinh tế

3.3.1.1. Nâng cao vai trò của quản lý Nhà nước đối với việc thực hiên các

mục tiêu phát triển du lịch bền vững.

Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh gặp nhiều khó khăn, do tình trạng của một giai đoạn mà “Người

74

người làm du lịch, nhà nhà làm du lịch” các cơ quan đoàn thể từ trung ương

đến địa phương đều tham gia hoạt động du lịch xây dựng khách sạn, nhà nghỉ

một cách tuỳ tiện, cảnh quan vệ sinh môi trường du lịch ít được quan tâm,

hoạt động kinh doanh du lịch không được quản lý chặt chẽ. Vấn đề sát nhập

Sở Du lịch vào Sở Văn hoá thể thao cũng tạo ra những tác động không nhỏ

đến sự ổn định. Sự phối hợp của bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch với các

cơ quan ban ngành của tỉnh chưa thực sự chặt chẽ, hậu quả là một số vụ đắm

tàu du lịch gây thiệt hại về người và của. Vấn đề xây dựng các công trình làm

phá vỡ cảnh quan tự nhiên của Vịnh Hạ Long là hậu quả sự phối hợp không

tốt gây ra sự chồng chéo về mặt quy hoạch. Rút kinh nghiệm từ những hạn

chế nêu trên, công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch cần có sự

phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan ban ngành có liên quan. Đổi mới công

tác quản lý theo hướng gọn nhẹ về mặt tổ chức, có hiệu lực cao theo cơ cấu

ngành dọc và theo cơ cấu lãnh thổ. Bộ máy quản lý Nhà nước về hoạt động

du lịch cần phải thực hiện tốt công tác tham mưu cho các cấp lãnh đạo trong

công tác hoạt định chiến lược phát triển du lịch, trước mắt là chiến lược phát

triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn 2030. Công tác

quản lý Nhà nước trong thời gian tới cần tằng cường sự kiểm tra giám sát đối

với các đơn vị tham gia hoạt động du lịch, kịp thời và kiên quyết xử lý các vi

phạm, tránh tình trạng nể nang, bao che.

Xây dựng một bộ tiêu chí phát triển du lịch bền vững trên cơ sở đặc điểm

của địa phương, trong đó chú trọng đến các nội dung bảo vệ môi trường, đồng

thời là những chế tài xử phạt kèm theo. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước

đối với lĩnh vực quan sát thực hiện quy hoạt, đặc biệt đối với các vùng sinh

thái nhạy cảm. Rút kinh nghiệm bài học quy hoạch của khu vực Tuần Châu –

Bãi Cháy, khu vực Vân Đồn cần được quy hoạch cẩn thận và mang tính

chuyên nghiệp trong thành phẩm của đoàn quy hoạch cần có sự tham gia của

Tổng cục du lịch và chuyên gia có kinh nghiệm. Công tác kiểm tra quan sát

thực hiện quy hoạch cần phải thực hiện nghiêm túc quy hoạch tổng thể, sau

đó mới kêu gọi đầu tư và giao đất ưu tiên những dự án lớn, tổng thể và trọn 75

gói của các tập đoàn du lịch nổi tiếng trên thế giới. Không cấp phép cho các

dự án xây dựng khu du lịch từ 3 sao trở xuống, chỉ cho phép xây dựng các

khu 4 sao trở lên có quy mô thích hợp, kiến trúc hài hoà với môi trường, cảnh

quan của các hòn đảo.

3.3.1.2. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ

phát triển du lịch bền vững.

Cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc phát

triển kinh tế xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng. Trong những năm

tới Quảng Ninh cần tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này, đặc biệt phải đẩy

nhanh tiến độ những dự án quan trọng mang tính chất “đòn bẩy” điển hình là

cao tốc Hà Nội - Hạ Long. Đây là tuyến đường huyết mạch nối với thủ đô Hà

Nội. Hiện nay, do mật độ các phương tiện giao thông tham gia quá cao, dẫn

đến tình trạng quá tải. Tập trung xây dựng và hiện đại hoá trục giao thông ven

biển Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng – Ninh Bình huy động mọi nguồn lực

lồng ghép có hiệu quả các chương trình dự án trên địa bản để phát triển giao

thông nông thôn, nhất là cá khu vực miền núi hải đảo. Khẩn trương xây dựng

sân bay Vân Đồn. Đây là công trình có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc

phát triển du lịch trong tương lai, nghiên cứu xây dựng một cảng biển hiện

đại, chuyên đón tàu du lịch có trọng tải lớn. Xây dựng mạng lưới điện đồng

bộ, đảm bảo cung cấp điện ổn định. Xây dựng hệ thống cấp thoát nước đồng

bộ, hiện đại trên toàn tỉnh. Phát triển hạ tầng thông tin - truyền thông với công

nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Đối với cơ sở vật chất: Tỉnh cần có chủ trương tăng cường đầu tư cho

khu vực Vân Đồn, có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào khu vực

này, đặc biệt là đầu tư đồng bộ, hạn chế xây dựng thêm cơ sở lưu trú tại Tuần

Châu – Bãi Cháy, bởi vì đã xuất hiện tình trạng dư thừa, dẫn đến công suất sử

dụng phòng không cao. Tại khu vực này chỉ cho phép xây dựng nhà hàng

76

khách sạn có quy mô lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế.

3.3.1.3. Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm du lịch, xây dựng các sản

phẩm du lịch cao cấp.

Trong thời gian qua, du lịch Quảng Ninh chủ yếu dựa vào các nguồn tài

nguyên du lịch sẵn có để xây dựng thành sản phẩm du lịch, mang lại những

lợi ích to lớn về mặt kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, về lâu dài phương thức này

dẫn đến sự suy giảm tài nguyên do thiếu sự đầu tư bảo vệ tôn tạo. Đây là

nguyên nhân làm cho sản phẩm du lịch Quảng Ninh đơn điệu cùng với nó là

sự xuống cấp của nhiều điểm du lịch. Để phát triển một cách bền vững việc

đa dạng hoá sản phẩm du lịch cần tuân thủ nguyên tắc thoả mãn nhu cầu hiện

tại của du khách về sản phẩm du lịch mà vẫn không làm tổn hại đến giá trị

của tài nguyên du lịch trong tương lai. Muốn xây dựng sản phẩm du lịch phù

hợp với nhu cầu của khách ngành du lịch cần phải thực hiện biện pháp điều

tra thăm dò nhu cầu của khách du lịch. Khai thác có hiệu quả tài nguyên du

lịch nhân văn, phục dựng các nét đẹp văn hoá của đời sống nhân dân địa

phương, đầu tư cho dự án khôi phục lại các phong tục của cư dân vạn chài

khu vực Vịnh Hạ Long. Có kế hoạch khôi phục các lễ hội đặc sắc của đồng

bào dân tộc thiểu số. Trong thời gian tới cần đầu tư xây dựng các sản phẩm du

lịch cao cấp như sân Golf, caiso. Phát triển loại hình du lịch kết hợp với hội

thảo. Chú trọng phát triển du lịch sinh thái tham gia vườn quốc gia, các mô

hình trang trại, các khu nuôi trồng thuỷ hải sản. Nghiên cứu đầu tư phát triển

quy mô và hiện đại hoá loại hình du lịch tắm, nghỉ dưỡng và chữa bệnh nước

khoáng tại khu suối khoáng Quang Hanh, nghiên cứu phát triển tour du lịch

tham quan mỏ than. Xây dựng bảo tàng chung giới thiệu về Hạ Long, phát

triển sản phẩm du lịch tham quan hang động dưới nước ở Vịnh Hạ Long,

đồng thời triển khai dịch vụ ngắm Vịnh Hạ Long từ trực thăng.

3.3.1.4. Đẩy mạnh quảng bá, hợp tác quốc tế và phát triển thị trường

khách cao cấp.

Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch trong nước thời gian tới cần có

77

tính sáng tạo và chuyên nghiệp, tiếp tục đổi mới hoạt động quảng bá và xúc

tiến du lịch gắn với chiến lược phát triển thị trường. Tập trung vào các thị

trường truyền thống như Trung Quốc, Hàn Quốc. Xây dựng chiến lược phát

triển hướng tới các thị trường cao cấp như Châu Âu và Bắc Mỹ. Đây chính là

hướng đi bền vững nhất, bởi vì du khách đến từ các quốc gia này đều có tiềm

lực tài chính và nhu cầu chi tiêu cao, nếu như thu hút được thị trường này, tuy

số lượng khách ít, nhưng hiệu quả kinh doanh cao, làm giảm sức ép cho

ngành. Đồng thời, chú trọng phát triển thị trường khách cao cấp ở trong nước.

Ngành du lịch Quảng Ninh cần tận dụng cuộc thi “7 kỳ quan thiên nhiên” tiến

hành quảng bá, cần có biện pháp thu hút cộng đồng người Việt ở nước ngoài

chú ý tham gi. Đầu tư kinh phí để tiến hành quảng bá hình ảnh Vịnh Hạ Long

trên các phương tiện thông tin của các tập đoàn truyền thống lớn trên thế giới.

Không ngừng đổi mới hình thức chất lượng và phương thức quảng bá, xúc

tiến để phù hợp với thị trường khách cao cấp, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ

thông tin cho các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch. Đẩy mạnh quan hệ hợp

tác quốc tế mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các nước thành

viên trong tổ chức EATOF. Tổ chức cán bộ đoàn doanh nghiệp tham gia các

hội thảo quốc tế về xúc tiến điểm đến du lịch, tham gia các gia hàng hội chợ

giới thiệu về tiềm năng du lịch, hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia các hội

chợ triển lãm thương mại du lịch quốc tế, tiến hành khảo sát các thị trường

khách du lịch nước ngoài. Đặc biệt là các thị trường trọng điểm.

3.3.1.5. Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển du

lịch trong thời đại hội nhập.

Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực phải được chú trọng theo

hướng phù hợp với mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Mỗi cá nhân phải là

những tuyên truyền viên về du lịch bền vững. Muốn vậy, ngành cần tổ chức

các lớp bồi dưỡng về phát triển du lịch bền vững. Trong những năm tới cần có

bước đột phá về chất lượng nguồn nhân lực những năm tới cần có bước đột

phá về chất lượng nguồn nhân lực tranh thủ sự hỗ trợ của Tổng cục du lịch,

78

các dự án đào tạo nguồn nhân lực của các tổ chức quốc tế và nguồn kinh phí

hỗ trợ của tỉnh để đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực

cho ngành, khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức đào tạo tại chỗ cho cán bộ

công nhân viên. Tổ chức các hình thức tham quan học tập trong nước và quốc

tế. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo nâng

cao kỹ năng chuyên môn, ngoại ngữ và đào tạo nghề. Phối hợp với các viện

nghiên cứu, trường cao đẳng, đại học chuyên về du lịch tham gia vào công tác

đào tạo nhân lực. Tiếp tục quan tâm tới công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực

lao động thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ du

lịch, bồi dưỡng kiến thức phòng cháy chữa cháy, lớp nghiệp vụ buồng, bàn,

bar. Tích cực phối hợp với doanh nghiệp để sàng lọc các hướng dẫn viên yếu

kém, tiến hành đào tạo tại chỗ theo hình thức một hướng dẫn viên giỏi kèm

một hướng dẫn viên kém. Mời các chuyên gia giỏi về chuyên môn, có kinh

nghiệm thực tế tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn cho hướng dẫn viên du

lịch trên toàn tỉnh. Nâng cao trình độ công nghệ thông tin cho cán bộ nhân

viên quản lý. Tỉnh cần có nguồn kinh phí đầu tư cho công tác phát triển nguồn

nhân lực du lịch, coi đây là một giải pháp quan trọng thực hiện mục tiêu đưa

du lịch Quảng Ninh đạt đẳng cấp châu lục vào năm 2015 như nghị quyết Đại

hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13 vừa ra.

3.3.2. Các giải pháp phát triển bền vững về mặt xã hội.

3.3.2.1. Nâng cao nhận thức về du lịch bền vững, khuyến khích cộng đồng

địa phương tham gia vào các hoạt động du lịch.

Sở Văn hoá thể thao và du lịch cần phải có chiến dịch tuyên truyền về lợi

ích của du lịch bền vững đối với cộng đồng dân cư. Đẩy lùi quan niệm làm du

lịch theo kiểu “Chộp giật”. Đặc biệt có biện pháp yêu cầu các hộ kinh doanh

cá thể không tăng giá một cách đột ngột. Lồng ghép việc nâng cao nhận thức

về du lịch bền vững trong các chương trình dự án. Đối với các vùng sinh thái

nhạy cảm cần phổ biến cho người dân nắm được những tác động tích cực

79

cũng như tiêu cực do hoạt động du lịch mang lại. Cần mở các lớp tập huấn

ngắn ngày cho cán bộ xã, thôn tại địa phương có khu du lịch, sau đó lồng

ghép chương trình tuyên truyền về du lịch bền vững trong các buổi sinh hoạt

tập thể tại khu vực của mình. Cơ quan quản lý du lịch cũng cần thường xuyên

đưa cán bộ về tham gia và hướng dẫn người dân về du lịch bền vững.

Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch có ý

nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của du lịch. Cần nhân rộng

mô hình về sự tham gia của cộng đồng với hoạt động du lịch ở làng chài

Vông Viên và Cửa Vạn. Trong quá trình thực hiện quy hoạch du lịch cần phải

có sự tham gia của đại diện nhân dân địa phương. Động viên người dân tham

gia vào công tác tôn tạo, bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch, tham gia giữ

gìn vệ sinh môi trường chung tại địa bàn sinh sống của họ.

Khi phát triển du lịch sinh thái tại khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng

bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Ví dụ như: Huyện Bình Liêu, Ba Chĩ, Vân Đồn

cần khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương, đồng thời cũng phải

xây dựng năng lực cho người dân. Bởi vì, đặc thù khu vực này trình độ dân trí

còn nhiều hạn chế. Do vậy, hàng ngày phải tiếp xúc với khách du lịch làm cho

họ hết sức bỡ ngỡ. Người dân không ý thức được những tác động mà du lịch

có thể gây ra đối với môi trường, văn hoá của họ, họ thường không hiểu rõ

những nhu cầu của khách. Vì vậy, cần xây dựng những năng lực cơ bả cho

cộng đồng địa phương.

Tuyên truyền giáo dục cho nhân dân địa phương những kiến thức và

chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc bảo vệ tài nguyên rừng, bảo tồn

tài nguyên du lịch.

- Nâng cao trình độ giáo dục phổ thông cho nhân dân địa phương về các

lĩnh vực liên quan đến du lịch như tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn về địa lý

thế giới, lịch sử thế giới, tiếng và văn hoá nước ngoài.

- Tổ chức chương trình trao đổi kiến thức về giao tiếp, môi trường, cảnh

quan vệ sinh an toàn thực phẩm, an ninh trật tự nhằm tạo đào cho phát triển

80

du lịch bền vững.

Xác định cho người dân những lợi ích khi họ tham gia vào hoạt động du

lịch, cơ hội bình dẳng về giới, những nguồn thu từ hoạt động giúp họ có khả

năng nâng cao dịch vụ giáo dục y tế. Những yếu tố này sẽ ảnh hưởng lâu dài

tới nhận thức về bảo tồn trong cộng đồng, giảm các mối đe doạ với cộng

đồng.

3.3.2.2. Gia tăng lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương.

Mục tiêu của du lịch bền vững là sự gia tăng lợi ích kinh tế cho cộng

đồng địa phương. Vì vậy, các dự án phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh cần chú ý đến vấn đề này bằng cách thu hút nguồn lao động tại chỗ. Đối

với những việc làm không đòi hỏi trình độ chuyên môn như phục vụ trong các

cơ sở lưu trú, nhân viên trong các nhà hàng ăn uống và một số hoạt động khác

như xây dựng, duy trì các cơ sở hạ tầng du lịch cần phải ưu tiên cho lao động

là người địa phương. Tuy nhiên về phía nhà quản lý và doanh nghiệp kinh

doanh du lịch cần phải thực hiện công tác đào tạo các kỹ năng cơ bản về

nghiệp vụ du lịch , động tác này nên thực hiện song song với quá trình giải

phóng mặt bằng, thu hồi đất. Công tác đào tạo nhân lực địa phương cần thực

hiện theo các hướng sau:

- Tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho những lao động thời vụ là

người địa phương. Họ được tham gia phục vụ một số công việc đơn giản phụ

trợ cho các hoạt động tham quan, tâm linh, nghỉ dưỡng hoặc chữa bệnh.

- Cần chú ý đến việc cung cấp kiến thức về môi trường sinh thái như

cảnh quan tự nhiên các giá trị du lịch sinh thái hiểm hoạ môi trường sinh thái

với phát triển kinh tế - xã hội phát triển du lịch xã hội hoá du lịch.

- Cung cấp kiến thức về nhu cầu thói quen tập quán giao tiếp ứng xử,

kỹ năng bán hàng, vệ sinh môi trường, tiếp thị du lịch.

Biện pháp tăng gia lợi ích kinh tế nhất cho cộng đồng địa phương là có

biện pháp tăng cường sử dụng hàng hoá dịch vụ cho nhân dân quanh các khu

du lịch sản xuất. Điều này sẽ giúp tạo ra những sản phẩm du lịch mới, hấp

81

dẫn và kéo dài thời gian lưu trú của khách.

3.3.2.3. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của đồng bào các dân tộc

thiểu số.

Hiện nay, trên địa bàn Quảng Ninh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số

sinh sống: Sán Dùi, Sau Chỉ, Cao Lau, Tày, Dao vấn đề bảo tồn bản sắc văn

hoá đang là một vấn đề cấp thiết trong bối cảnh kinh tế - xã hội có bước hội

nhập sâu rộng. Chiêm ngưỡng những nét đặc sắc trong đời sống văn hoá của

đồng bào thiểu số là một nhu cầu có thực và ngành càng tăng của khách du

lịch.Vì vậy, cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch cần tham mưu cho các cấp

lãnh đạo của tỉnh có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của vấn đề này.

Trước mắt cần có đề án đánh giá cụ thể về giá trị văn hoá của đồng bào dân

tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Sau đó, cần lựa chọn những lĩnh vực tiêu biểu

vào diện bảo tồn phục dựng phục vụ mục đích phát triển du lịch bền vững.

Đầu tư nghiên cứu sưu tầm bảo tồn những giá trị văn hoá vật thể và phi vật

thể của đồng bào dân tộc. Khuyến khiách các già làng, dòng họ tham gia vào

việc giữ gìn văn hoá truyền thống, khôi phục các lễ hội cần cấp chứng nhận

nghệ nhân cho những người có công trong lĩnh vực này. Mặt khác tiến hành

tuên truyền vận động đồng bào xoá bỏ những hủ tục lạc hậu trong đời sống

hàng ngày. Muốn thực hiện tốt vấn đề này, cần phải có sự quan tâm của các

cấp chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội. Doanh nghiệp kinh doanh du

lịch cần có hướng nghiên cứu thiết kế các tour du lịch đến thăm quan tại khu

vực này. Đồng thời, hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động phụ dựng lễ hội cũng

như các trò chơi dân gian. Tỉnh Quảng Ninh cần có quan tâm đầu tư phát triển

hệ thống cơ sở hạ tầng đối với khu vực này, trước mắt là đầu tư xây dựng hệ

thống đường gia thông.

3.3.3. Nhóm các giải pháp phát triển bền vững về môi trường.

3.3.3.1. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.

Trong thời gian tới du lịch Quảng Ninh cần phối hợp với các cơ quan

82

chức năng của tỉnh đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi

trường trong toàn thể nhân dân, đặc biệt là dân cư xung quanh các khu du

lịch, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục và hướng dẫn cụ thể cho các cơ

quan đoàn thể, doanh nghiệp cùng toàn thể nhân dân có nhận thức đúng đắn

về môi trường biển khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh du lịch đóng

thuế và mua bảo hiểm môi trường.

Trước mắt cần có kế hoạch di chuyển các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra

khỏi khu vực trung tâm các đô thị đầu tư xây dựng các công rình xử ý chất

thải cho các khu vực trọng điểm. Sớm nghiên cứu vào ban hành các chính

sách cụ thể về môi trường như chính sách thuế môi trường, các quy định xử

phạt, bồi thường đối với những trường hợp làm giảm sút tài nguyên và ô

nhiễm môi trường biển, ven biển và hải đảo. Banh hành các quy định chặt chẽ

về bảo vẹ môi trường biển dối với các tàu thuyền hoạt động trên biển, đặc biệt

là khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long.

Quy định chặt chẽ về thẩm định luận chứng và các phương án bảo vệ

môi trường trong quá trình xét duyệt dự án, nhất là các công trình có thể gây ô

nhiễm nặng như hoá chất cảng biển, vật liệu xây dựng, hạn chế đưa các công

trình khó xử lý ô nhiễm vào các khu vực sinh thái nhạy cảm và gần các trung

tâm du lịch biển như: Vịnh Hạ Long, Vân Đồn, Trà Cổ. Chú trọng công tác

phòng chống xỏi lở bờ biên, nhất là các đoạn bờ biển xung yếu đảm bảo cho

các công trình kinh tế, quốc hòng cũng như cho sản xuất và đời sống cư dân

ven biển.

Nghiên cứu một hệ thống của khu bảo tồn thiên nhiên với các kiểu loại

phù hợp nhằm bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái đặc thù và đa dạng sinh

học. Tiếp tục nghiên cứu phương án bảo tồn vườn quốc gia Bái Tử Long, xây

dựng quy định bảo vệ, có chế độ quản lý thích hợp trên cơ sở gắn kết chặt chẽ

giữa các hoạt động bảo vệ với các mục tieu kinh tế - xã hội. Dừng ngay việc

xâm hại rừng ngập mặn, có phương án phục hồi những diện tích bị phá hoại.

Kiểm soát lượng nước thải bảo vệ các rặng san hô của Vịnh Hạ Long, hạn chế

83

việc khai thác san hô để nung vôi phục vụ xây dựng.

3.3.3.2. Bảo tồn giá trị Vịnh Hạ Long và các tài nguyên du lịch khác.

Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long là hai thắng cảnh nổi tiếng của Quảng

Ninh. Đây cũng chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch

trong tương lai. Chính vì vậy, việc khai thác cần phải tiến hành song song với

công tác bảo tồn, nghiên cứu, bảo vệ cảnh quan môi trường. Cần thực hiện

nghiêm ngặt công văn số 142/2002/QĐ-TTg về công tác quy hoạch bảo tồn

và phát huy giá trị di sản Vịnh Hạ Long là khu vực nổi tiếng về cảnh quan

thiên nhiên nhưng đồng thời cũng là nơi tập trung của nhiều ngành kinh té

quan trọng như cảng biển, công nghiệp khai thác than, sản xuất vật liệu xây

dựng. Vì vậy, cần có những chính sách và quy chế đặc biệt để bảo vệ tài

nguyên và môi trường của khu vực phát triển cảng Cái Lân và cảng chuyên

dùng cho than, dầu, xi măng… phải được tính toán về quy mô và công nghệ

phù hợp trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển công nghiệp du lịch và dịch

vụ ở dải ven biển Hạ Long – Bãi Cháy cũng như toàn khu vực. Cần phát triển

loại hình du lịch sinh thái ở Vịnh Hạ Long, vì hai loại hình này chủ yéu dựa

vào tự nhiên và văn hoá bản địa. Có tính giáo dục môi trường và đóng góp

cho các nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững.

Với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương, khẩn trương xây

dựng bảo tàng sinh thái Hạ Long, phát triển các phương tiện vận chuyển

khách trên biển không gây tiếng ồn, hình thức hài hoà với cảnh quan, ưu tiên

phát triển các loại thuyền rồng, thuyền buồm để hoà nhập và tôn vinh các sắc

thái đặc trưng cho Vịnh Hạ Long. Các phương tiện vận chuyển cần được quản

lý chất thải, vị trí neo đậu để không gây tác động xấu đến môi trường cảnh

quan. Đối với hoạt động tổ chức tham quan huy odọng cần hạn chế tối đa sự

can thiệp của con người. Các công trình như bến cập tàu, đường đi, lan can,

ánh sáng nhân tạo cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng đưa ra các giải pháp

tinh tế sao cho hài hoà với chất liệu hình thái tự nhiên. Hệ thống bến cập tàu,

84

thuyền cần xây dựng ở quy mô nhỏ, nằm phân tán trong các hang đảo, khống

chế số lượng tàu thuyền ra vào sao cho không quá đông. Các công trình dịch

vụ tiện nghi du lịch cần phải được thiết kế hài hoà, công trình phải ẩn mình

trong thiên nhiên, vị trí đặt ở nơi kín đáo, dùng vật liệu đá và giả đá. Lối đi

lên hang và lối đi trong hang cần sử dụng các vật liệu tự nhiên, kích thước

không được quá lớn, hệ thống đèn chiếu sáng phải mang tính nghệ thuật cao.

Nghiên cứu việc chuyên chở bằng tàu xuồng cao tốc trong khu vực Vịnh, cấm

các hoạt động bốc dỡ than theo khuyến cáo của UNESCO. Vận động nhân

dân đặc biệt là các làng chài tham gia giữ gìn vật sinh môi trường.

Khẩn trương đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về giá trị của các

hệ sinh thái, giá trị văn hoá lịch sử của Vịnh Hạ Long, đề nghị UNESCO

công nhận lần thứ 3.

Tài nguyên du lịch được hiểu là cảnh quan thiên nhiên di tích lịch sử, di

tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình sáng tạo của con người có thể sử

dụng nhằm thoả mãn các nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các

điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sức ép hấp dẫn du lịch. Bảo tồn tôn tạo

phát triển tài nguyên du lịch đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững.

3.3.4. Tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia du lịch.

Đối với các sở kinh doanh dịch vụ lưu trú cần nâng cao ý thức bảo vệ

môi trường cho chính nhân viên, bởi vì chính họ sẽ là tấm gương cho du

khách học tập. Thực hiện nghiêm túc các quy định về vệ sinh an toàn thực

phẩm. Khuyến khích các cơ sở lưu trú áp dụng các biện pháp tiết kiệm tài

nguyên và năng lượng, cơ quan quản lý Nhà nước cần kiến nghị hỗ trợ kinh

phí từ nguồn quỹ phát triển du lịch đối với các cơ sở lưu trú lắp đặt sử dụng

các thiết bị công nghệ thân thiện với môi trường như điện gió năng lượng, cơ

quan quản lý nhà nước cần kiến nghị hỗ trợ kinh phí từ nguồn quỹ phát triển

du lịch đối với các cơ sở lưu trú lắp đặt sử dụng các thiết bị công nghệ thân

thiện với môi trường điện gió năng lượng mặt trời, khí sinh học đặc biệt trong

85

bối cảnh thiếu hụt điện năng như hiện nay, giải pháp này giúp cho cơ sở lưu

trú giảm chi phí nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm sức ép cho môi

trường.

Đối với doanh nghiệp lữ hành khi xây dựng, thiết kế tour du lịch nên

lồng ghép vấn đề bảo vệ môi trường, lịch trình tham quan nên giành một chút

thời gian cho cán bộ tuyên truyền thuyết trình về các hoạt động bền vững cho

hệ sinh thái và môi trường cảnh quan. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào

tài liệu hướng dẫn du lịch. Chỉ dẫn khách tuân thủ các quy định bảo vệ môi

trường trên đường đi và tại điểm tham quan du lịch. Trang bị cho hướng dẫn

viên kiến thức về bảo vệ môi trường và các kỹ năng ứng cứu khi gặp sự cố về

môi trường. Xây dựng những mô hình du lịch phù hợp với cảnh quan thiên

nhiên, quản lý khách tham quan. Tổ chức các hoạt động hướng dẫn nhằm đảm

bảo cho khách du khách có hiểu biết đầy đủ về môi trường tự nhiên và hạn

chế các tác động tiêu cực. Tổ chức về số lượng khách tham quan ở mức độ

vừa phải.

Đối với cơ quan quản lý các khu vực du lịch và điểm du lịch cần xây

dựng nội quy baỏi vệ môi trường trên cơ sở đặc điểm tài nguyên cho cơ quan

quản lý. In tờ rơi phát cho du khách, đặt thùng rác nhà vệ sinh công cộng tại

các địa điểm hợp lý. Đề xuất với các cấp lãnh đạo biên chế cho cơ quan một

cán bộ chuyên về lĩnh vực bảo vẹ môi trường, trích một phần kinh phí thu

được từ điểm du lịch, đầu tư cho công tác cải thiện môi trường. Kịp thời phát

hiện các vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường, báo cáo cho cơ quan chức

năng.

Đối với du khách cần nghiêm túc tuân thủ các quy định bảo vệ môi

trường tại các địa điểm tham quan. Đối với các khu bảo tồn thiên nhiên cần

phải có nhân viên quản lý khu bảo tồn đi kèm. Không có hành vi xâm hại đến

môi trường cảnh quan, đặc biệt là thạch nhũ trong các hang động. Không mua

bán sử dụng động thực vật quý hiếm trong danh mục quy định của Nhà nước.

86

Du khách cần có thái độ tôn trọng văn hoá của cộng đồng địa phương.

Đối với cộng đồng địa phương cần tích cực tham gia hoạt động du lịch

tại địa phương, có thái độ giao tiếp phù hợp với du khách. Mỗi một người dân

trong khu du lịch cần là một tấm gương về bảo vệ môi trường để khách du

lịch noi theo. Đối với người dân sống gần khu bảo tồn thiên nhiên như Bái Tử

Long, Ba Mùn, Hoành Bồ..v.v. không tham gia vào các hoạt động săn bắn,

mua bán các loài động vật hoang dã trong danh mục bị cấm để chế biến món

87

ăn hoặc nhồi bông làm hàng lưu niệm.

KẾT LUẬN

Phát triển du lịch bền vững là hướng đi tất yếu của ngành du lịch Quảng

Ninh, bởi vì sau một thời gian dài có tốc độ tăng trưởng cao, ngành kinh tế

này đang phải đối mặt với những vấn đề mang tính bền vững, nổi bật là sự ô

nhiễm môi trường, sự xuống cấp của tài nguyên du lịch, điều này đặc biệt

nguy hiểm vì sản phẩm du lịch ở đây được xây dựng chủ yếu trên cơ sở

nguồn tài nguyên tự nhiên sẵn có, đó là những tài nguyên có độ nhạy cảm

cao, nếu bị hủy hoại sẽ khó có khả năng hồi phục. Xuất phát từ nguyên nhân

này, luận văn” Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh” đã

tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển của du lịch Quảng Ninh trên quan

điểm của phát triển bền vững và đạt được một số kết quả như sau:

- Khái quát những lí luận cơ bản của phát triển du lịch bền vững, đưa ra

một số tiêu chí và nguyên tắc phát triển du lịch bền vững. Những vấn đề này

có thể sử dụng tham khảo cho công tác hoạch định chiến lược phát triển du

lịch của Quảng Ninh trong thời gian tới.

- Tìm hiểu quá trình phát triển du lịch tại một số quốc gia có điểm tương

đồng với Việt Nam nói chung và Quảng Ninh nói riêng. Từ đó rút ra những

bài học kinh nghiệm về phát triển du lịch bền vững và không bền vững. Đây

cũng là sự tham khảo quý báu cho việc hoạch định chiến lược phát triển du

lịch của Tỉnh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

- Nghiên cứu những tiềm năng về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân

văn của Quảng Ninh. Trên cơ sỏ đó đề xuất những định hướng phát triển sản

phẩm du lịch phù hợp, có tính bền vững và hấp dẫn cao với du khách trong và

ngoài nước.

- Đánh giá thực trạng phát triển du lịch Quảng Ninh trong thời gian qua,

làm rõ nguyên nhân của những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững như:

88

Sự xuống cấp của tài nguyên du lịch, vấn đề ô nhiễm môi trường tại các trung

tâm du lịch, số ngày lưu trú bình quân và hệ số chi tiêu thấp của khách du

lịch.

- Luận văn đã nghiên cứu những tác động tích cực cũng như tiêu cực của

hoạt động phát triển du lịch trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường

trong phạm vi không gian của tỉnh Quảng Ninh. Phân tích những đóng góp

tích cực của phát triển du lịch đối với việc tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập

cho người dân, tích cực góp phần xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó luận văn

cũng phân tích những áp lực của hoạt động du lịch đối với môi trường tự

nhiên, sự buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác quy hoạch,

khiến cho hoạt động xây dựng cơ bản ảnh hưởng đến cảnh quan của Vịnh Hạ

Long, di sản thiên nhiên được UNESCO công nhận hai lần.

- Trên cơ sỏ đánh giá thực trạng phát triển của du lịch Quảng Ninh, luận

văn đã đề xuất một số giải pháp phát triển có tính bền vững về mặt kinh tế, xã

hội và môi trường, nhằm khắc phục những hạn chế tồn tại và đưa ngành du

lịch phát triển theo hướng bền vững.

- Tuy nhiên, đây là một đề tài còn mới mẻ, liên quan đến nhiều lĩnh vực

phạm vi nghiên cứu đánh giá rộng, vì vậy luận văn không tránh được những

89

thiếu sót, cần phải được tiếp tục nghiên cứu bổ sung thêm.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế -

2. Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới – WCED(1987), Tương lai của

IUCN(1980), Chiến lược bảo tồn Thế giới, NewYork.

chúng ta, NewYork.

3. Chính phủ nước CHXHCNVN (2004), Định hướng chiến lược phát triển

bền vững ở Việt Nam, Hà Nội.

4. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ Tỉnh

lần thứ 13, Quảng Ninh.

5. UBND tỉnh Quảng Ninh (2011), Quy hoạch phát triển du lịch Quảng Ninh

giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Quảng Ninh.

6. Sở Du Lịch Quảng Ninh (2006), Báo cáo tổng kết 5 năm của ngành Du

lịch Quảng Ninh(2001- 2006), Quảng Ninh.

7. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh (2011), Báo cáo kết quả

công tác năm2010 và phương hướng nhiêm vụ năm 2011 của ngành Du

Lịch Quảng Ninh, Quảng Ninh.

8. Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Ninh (2011), Định hướng kế hoạch

bảo vệ môi trường giai đoạn 2011-2016, Quảng Ninh.

9. Trần Đức Thanh (2000), Nhập môn khoa học du lịch. Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

10. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch bền vững, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

11. Lê Huy Bá (chủ biên), Du lịch sinh thái, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà

Nội, năm 2009.

12. Thế Đạt (2003), Du lịch và du lịch sinh thái, Nxb Lao động, Hà Nội.

13. Trần Tiến Dũng (2006), Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha - Kẻ

90

Bàng, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường ĐHKTQD Hà Nội, Hà Nội.

14. Đoàn Thị Thanh Trà (2007), Giải pháp phát triển du lịch bền vững ở

Vườn Quốc gia Ba Vì, Luận văn thạc sĩ du lịch học, Trường ĐHKHXH &

NV, Hà Nội

15. Phạm Văn Thắng (2009), Nghiên cứu phát triển du lịch bền vững khu

vực Hoa Lư và phụ cận, Luận văn Thạc sĩ Khu vực học, Viện Việt Nam học

và Khoa học Phát triển, Hà Nội.

16. Đặng Huy Huỳnh(2005), Bảo vệ các cảnh quan và đa dạng sinh học để

phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (4), trang

12.

17. Trịnh Lê Anh(2005), Môi trường xã hội nhân văn và vấn đề phát triển du

lịch bền vững, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (4),trang 8.

18. Lê Hải(2006), Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững,

Tạp chí Du lịch Việt Nam, (3), trang 15.

19. Nguyễn Thị Hải(2006), Quản lý tài nguyên và môi trường phục vụ phát

triển du lịch bền vững ở Yên Tử, Tạp chí Quản lí nhà nước, (2), trang 17.

20. Phạm Lê Thảo (2005), Môi trường tự nhiên với phát triển du lịch bền

vững ở Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (8) trang 9.

21. Phạm Trung Lương (2004), Thực trạng và những vấn đề đặt ra để phát

triển du lịch bền vững, Tạp chí Du lịch Việt Nam (12) trang 7.

22. Phạm Trung Lương (2004), Phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi

trường, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (10) trang 11.

23. Nguyễn Trọng Hoàng(2004), Xây dựng môi trường phát triển du lịch bền

vững, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (12) trang 8.

24. Trần Trung Dũng(2005), Hải Phòng với những dự án đầu tư phát triển du

lịch bền vững, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (2) trang 3.

25. Sweeting, J. 1999. The green host effect: An Integrated Approach to

Sustainable Tourism and Resort Development. Washington, DC:

91

Conservation International.

26. Wong, P,P., 1991. Coastal Tuorsirm in South East Asia. ASEAN.

Education Series 8.

27. IUCN, 1998. Tuyển tập báo cáo, Hội thảo kế hoạch du lịch cộng đồng

Sapa. Hà Nội.

28. Nikolova, A. and L.Hens, 1998. Sustainable Tourism. Free University of

92

Brussel, Belgium.

MỤC LUC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i

MỤC LỤC ....................................................................................................... ii

DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................ vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... vii

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DU LỊCH

BỀN VỮNG ...................................................................................................... 5

1.1. Khái luận về phát triển du lịch bền vững ................................................... 5

1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững và du lịch bền vững ............................... 5

1.1.2. Nội dung của phát triển du lịch bền vững ............................................. 12

1.1.3. Vai trò của nhà nước trong phát triển du lịch bền vững………………13

1.1.4. Chiến lược phát triển du lịch hướng đến sự bền vững……………......16

1.1.5. Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững…...18

1.1.6. Tiêu chuẩn đánh giá tính bền vững của hoạt động du lịch……………24

1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phát triển du lịch bền vững. ..... 28

1.2.1. Phát triển du lịch không bền vững ........................................................ 28

1.2.2. ECOMOST: Mô hình du lịch bền vững của cộng đồng châu âu .......... 31

1.2.3. Bài học cho phát triển du lịch theo hướng bền vững ở QuảngNinh…..32

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG

BỀN VỮNG Ở QUẢNG NINH .................................................................... 36

2.1. Khái quát về du lịch Quảng Ninh............................................................. 36

2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ......................................................... 36

2.1.2.Tiềm năng phát triển du lịch. ................................................................. 38

2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên. .............................................................. 38

2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn. ............................................................. 40

2.1.2.3. Chính sách phát triển du lịch ở Quảng Ninh. ..................................... 42

4

2.2. Tình hình phát triển du lịch ở Quảng Ninh. ............................................ 46

2.2.1. Công tác quản lý nhà nước về du lịch. .................................................. 46

2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch ................................................ 47

2.2.3. Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh ............................. 49

2.2.4. Tình hình kinh doanh du lịch giai đoạn 2001 – 2010 ........................... 50

2.3.2. Đánh giá tính bền vững của du lịch Quảng Ninh.................................. 51

2.3.2.1. Vấn đề đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. ...................................... 51

2.3.2.2. Tác động của du lịch đối với hệ sinh thái tự nhiên ............................ 57

2.3.2.3. Tác động của du lịch đối với kinh tế Quảng Ninh ............................. 62

2.3.2.4. Tác động của du lịch lên xã hội – nhân văn ....................................... 65

Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG BỀN

VỮNG Ở QUẢNG NINH ............................................................................. 68

3.1. Quan điểm phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh......... 68

3.1.1. Bối cảnh mới về kinh tế - xã hội ........................................................... 68

3.1.2. Quan điểm phát triển du lịch bền vững ................................................. 70

3.2. Mục tiêu và định hướng phát triển du lịch bền vững ............................... 71

3.2.1. Mục tiêu phát triển: ............................................................................... 71

3.2.2. Định hướng phát triển ........................................................................... 73

3.3. Giải pháp phát triển du lịch Quảng Ninh theo hướng bền vững .............. 74

3.3.1. Các giải pháp phát triển bền vững về kinh tế ........................................ 74

3.3.1.1. Nâng cao vai trò của quản lý Nhà nước đối với việc thực hiên các

mục tiêu phát triển du lịch bền vững. .............................................................. 74

3.3.1.2. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ phát

triển du lịch...................................................................................................... 76

3.3.1.3. Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm du lịch, xây dựng các sản phẩm

du lịch cao cấp. ................................................................................................ 77

3.3.1.4. Đẩy mạnh quảng bá, hợp tác quốc tế và phát triển thị trường khách

5

cao cấp. ............................................................................................................ 77

3.3.1.5. Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển du lịch

trong thời đại hội nhập. ................................................................................... 78

3.3.2. Các giải pháp phát triển bền vững về mặt xã hội. ................................. 79

3.3.2.1. Nâng cao nhận thức về du lịch bền vững, khuyến khích cộng đồng địa

phương tham gia vào các hoạt động du lịch. .................................................. 79

3.3.2.2. Gia tăng lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương. .......................... 81

3.3.2.3. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số.

......................................................................................................................... 82

3.3.3. Nhóm các giải pháp phát triển bền vững về môi trường. ..................... 82

3.3.3.1. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. .................................................. 82

3.3.3.2. Bảo tồn giá trị Vịnh Hạ Long và các tài nguyên du lịch khác. .......... 84

3.3.4. Tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia du lịch. ........................ 85

KẾT LUẬN .................................................................................................... 88

6

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!

Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger

 Merge multiple PDF files into one

 Select page range of PDF to merge

 Select specific page(s) to merge

 Extract page(s) from different PDF

files and merge into one