DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Bảng Tên Bảng Trang
1 Bảng 2.1 Tình hình cơ sở vật chất-kỹ thuật của du lịch 50
Quảng Ninh giai đoạn 2001- 2010
2 Bảng 2.2 Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh 52
giai đoạn 2001- 2010
3 Bảng 2.3 Tình hình kinh doanh của ngành du lịch Quảng 54
i
Ninh giai đoạn 2001- 2010
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
Bảo vệ môi trường 1 BVMT
Cơ sở vật chất kỹ thuật 2 CSVCKT
Cơ sở hạ tầng 3 CSHT
4 ECOMOST Mô hình du lịch bền vững của cộng đồng châu âu
Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới 5 IUCN
Tài nguyên du lịch 6 TNDL
Tài nguyên du lịch tự nhiên 7 TNDLTN
Tài nguyên du lịch nhân văn 8 TNDLNV
Ủy ban nhân dân 9 UBND
Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới 10 WCED
ii
Tổ chức du lịch thế giới ( World Tourism Organization) 11 WTO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nắm bắt những thuận lợi do quá trình hội nhập quốc tế mang lại, tận
dụng ưu thế về tài nguyên, du lịch Quảng Ninh trong những năm qua có bước
phát triển mạnh mẽ, hệ thống cơ sở hạ tầng và chất lượng dịch vụ được cải
thiện, nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được trùng tu, tôn
tạo. Lượng khách trong nước và quốc tế không ngừng tăng, năm 2010 du lịch
Quảng Ninh đón 5,4 triệu lượt khách, doanh thu đạt 3100 tỷ đồng. Sự phát
triển của ngành du lịch góp phần vào sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tích cực, tạo việc làm góp phần xóa đói giảm nghèo , nâng
cao chất lượng đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, sau một thời kỳ dài tăng trưởng với tốc độ cao du lịch Quảng
Ninh đang dần phải đối mặt với những vấn đề có liên quan đến phát triển bền
vững. Điều đó được thể hiện qua sự ô nhiễm môi trường tại các khu du lịch,
sự thiếu đa dạng của sản phẩm du lịch, dẫn dến số ngày lưu trú, hệ số quay trở
lại và hệ số chi tiêu của khách du lịch thấp. Không có những sản phẩm du lịch
thực sự cao cấp và hấp dẫn. Cảnh quan Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long
bị phá vỡ do quá trình đô thị hóa. Sự phát triển du lịch không cân đối giữa các
trung tâm du lịch trong tỉnh. Hoạt động du lịch chủ yếu tập trung tại khu vực
Bãi Cháy, dẫn đến sự quá tải vào mùa cao điểm. Hiện tượng đầu tư thừa về cơ
sở lưu trú tại khu vực này cũng bắt đầu xuất hiện. Sự thờ ơ của doanh nghiệp
đối với công tác phúc lợi xã hội cuả địa phương. Công tác giáo dục và bảo vệ
các tài nguyên phục vụ phát triển du lịch chưa thực sự được chú trọng.
Với mục đích nghiên cứu thực trạng phát triển của du lịch Quảng Ninh
trên quan điểm bền vững, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển du lịch theo
1
hướng bền vững ở Quảng Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay vấn đề phát triển bền vững của ngành du lịch đang được quan
tâm nghiên cứu, tiêu biểu phải kể đến các công trình như “Phát triển du lịch
bền vững du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” của
PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh, trưởng khoa du lịch, Đại học Kinh tế Thành phố
Hồ Chí Minh (năm 2008). Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu đánh giá tác động qua
lại giữa môi trường xã hội với hoạt động du lịch nhằm góp phần phát triển du
lịch bền vững tại thị xã Sầm Sơn - Thanh Hóa” do GS.TS Nguyễn Văn Đính
làm chủ nhiệm đề tài( năm 2005). Luận án tiến sĩ “Phát triển Du lịch bền
vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng” của Trần Tiến Dũng,Trường đại học Kinh tế
Quốc dân Hà nội ( năm 2007) “Phát triển du lịch bền vững gắn với bảo vệ
môi trường” của PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục
Biển và Hải đảo Việt Nam (năm 2006). “Du lịch bền vững dựa vào cộng
đồng” của Tăng Thị Duyên Hồng (đăng trên tạp chí Du lịch Việt Nam, số 5
năm 2008). Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu được đăng trên các Báo trung
ương và địa phương. Đối với du lịch Quảng Ninh đã có một số nghiên cứu
liên quan đến vấn đề phát triển bền vững như “Đánh giá tác động của phát
triển du lịch đối với môi trường Vịnh Hạ Long của Viện Nghiên cứu Phát
triển Du lịch kết hợp với Sở Tài nguyên Môi trường Quảng Ninh” (năm
2002). “ Xây dựng sản phẩm đảm bảo phát triển du lịch bền vững ở Quảng
Ninh” của Tiến sĩ Nguyễn Thu Hạnh (Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch
Việt Nam, năm 2007). “Nguồn lực phát triển du lịch sinh thái tại một số đảo
Quảng Ninh” Luận Văn tốt nghiệp chuyên ngành Du lịch học của Đàm Thu
Huyền, chuyên viên Sở Du Lịch Quảng Ninh (năm 2007). Đây là công trình
đánh giá những tiềm năng của Quảng Ninh về du lịch sinh thái. Tuy nhiên số
2
lượng nghiên cứu sự phát triển của ngành du lịch trên quan điểm phát triển
bền vững ở Quảng Ninh chưa nhiều , vì vậy cần nhận được sự quan tâm
nghiên cứu của các cấp các ngành và giới học thuật trong và ngoài Tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ
*Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn lý giải một số vấn đề về sự bền
vững trong thực trạng phát triển của ngành du lịch Quảng Ninh.. Trên cơ sở
phân tích này, luận văn đề xuất một số gợi ý về giải pháp nhằm đưa du lịch
Quảng Ninh phát triển theo hướng bền vững và hiệu quả.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận văn này là tập trung nghiên cứu những lý luận cơ
bản nhất của phát triển du lịch bền vững. Bài học kinh nghiệm của một số
quốc gia trong việc phát triển du lịch bền vững và không bền vững. Đánh giá
tài nguyên du lịch của Quảng Ninh. Phân tích một số vấn đề liên quan đến
phát triển bền vững của du lịch Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sự phát triển của du lịch Quảng Ninh trên
quan điểm phát triển bền vững. Trong đó chú trọng một số trung tâm du lịch
như : trung tâm Hạ Long, Vân Đồn, Móng Cái, Đông Tiều – Uông Bí, Sự
phát triển của các trung tâm này tạo nên diện mạo cho ngành du lịch Quảng
Ninh. Đây cũng chính là đối tượng nghiên cứu cụ thể nhất của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về mặt không gian là tỉnh Quảng
Ninh. Phạm vi nghiên cứu của luận văn về mặt không gian còn diễn ra trên
các phương diện kinh tế - chính trị - xã hội và môi trường tự nhiên của tỉnh
Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của luận văn là khoảng thời gian
3
từ năm 2001 đến năm 2010. Đây là khoảng thời gian mà ngành du lịch
Quảng Ninh có tốc độ tăng trưởng nhanh, các vấn đề liên quan đến phát triển
bền vững được tương đối rõ nét.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực trạng phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh được
tiếp cận dưới góc độ của khoa học kinh tế chính trị vì vây luận văn có sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp kế thừa, Phương pháp trừu
tượng hóa khoa học, Phương pháp thống kê, Phương pháp phân tích và tổng
hợp
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luân văn góp phầnhệ thống một cách khái quát nhất những lý luận về
phát triển du lịch theo hướng bền vững, vận dụng phân tích thực trạng phát
triển của du lịch Quảng Ninh.
- Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch Quảng Ninh trên
quan điểm phát triển bền vững. Làm rõ nguyên nhân hệ số quay trở lại và hệ
số chi tiêu của khách du lịch thấp. Đánh giá vấn đề ô nhiễm môi trường và tác
động của hoạt động du lịch đối với cộng đồng cư dân địa phương.Sử dụng kết
quả đánh giá thực trạng để đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần đưa du
lịch Quảng Ninh phát triển theo hướng bền vững. Kết quả nghiên cứu của
luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong việc hoạch
định chính sách phát triển du lịch Quảng Ninh trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được kết cấu làm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển du lịch bền vững
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng
4
Ninh
Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng
Ninh
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DU LỊCH
BỀN VỮNG
1.1. Khái luận về phát triển du lịch bền vững
1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững và du lịch bền vững
* Khái niệm phát triển bền vững
Khái niệm "Phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn Thế giới” (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn
giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh
tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến
môi trường sinh thái học".[1]
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo
“Tương lai của chúng ta” của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới
(WCED). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp
ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.”[2]
Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những nhu cầu của hiện
tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương
lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo,
tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ
thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực
vật. Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm
5
và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố sinh thái mà còn đi vào các
nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu
và nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ
quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần
thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền vững.
Khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào những
năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Nó nhanh chóng nhận được sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước, điều đó được thể hiện thông qua hàng loạt các
văn bản chính sách có tính định hướng chiến lược như: “Kế hoạch quốc gia
về môi trường và phát triển bền vững”, đây là văn bản tạo tiền đề cho quá
trình phát triển bền vững ở nước ta. Quan điểm phát triển bền vững được
khẳng định lại trong chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ
Chính Trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chỉ thị nhấn mạnh “Bảo vệ môi trường là
nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối chủ trương và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của các cấp các ngành, là cơ sở để đảm bảo phát
triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”. Quan điểm phát triển bền vững lại được tái khẳng định trong văn
kiện Đại hội IX của Đảng và trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai
đoạn 2001 – 2010 là: “Phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả. Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”
và “Phát triển kinh tế gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự
hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng
sinh học”. Phát triển bền vững trở thành quan điểm đường lối của Đảng và Nhà
nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nhiều chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành, triển
khai thực hiện, nhiều công trình nghiên cứu đã được triển khai và bước đầu thu
được kết quả bước đầu. Nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi
6
vào cuộc sống và dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Chính phủ đã ban
hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” trong đó đề ra
các nguyên tắc cơ bản cho sự phát triển bền vững:
Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững, đáp ứng nhu
cầu đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân xây dựng dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, là nguyên tắc quán triệt nhất quán
trong quá trình triển.
Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát
triển sắp tới. Đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng cho phát triển
bền vững. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho nhân dân. Kết hợp chặt
chẽ, hài hòa, hợp lý với phát triển xã hội. Khai thác hợp lí, sử dụng tiết kiệm
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và
bảo vệ môi trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “ Mọi mặt”:
Kinh tế, xã hội và môi trường đều có lợi.
Thứ ba, bảo vệ và cải thiện môi trường phải được coi là yếu tố không
thể tách rời của phát triển. Tích cực chủ động phòng ngừa những tác động
xấu với môi trường do hoạt động của con người gây ra. Cần áp dụng nguyên
tắc người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường phải bồi thường. Xây
dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về bảo vệ môi trường; Chủ
động gắn kết và có chế tài bắt buộc, lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường
trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế
xã hội, coi yêu cầu bảo vệ môi trường là một tiêu chí quan trọng trong phát
triển bền vững.
Thứ tư, quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng
đối với thế hệ hiện tại mà không gây tổn hại đối vớ các thế hệ tương lai. Tạo
điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng
để phát triển, được tiếp cận với nguồn lực chung và được phân phối một cách
công bằng lợi ích công cộng, tạo ra những nền tảng vật chất , tri thức, văn hóa
7
tốt đẹp cho các thế hệ mai sau. Sử dụng tiết kiệm tài nguyên không thể tái tạo
được, gìn giữ và bảo vệ môi trường sống. Phát triển hệ thống “sản xuất sạch”
thân thiện với môi trường, xây dựng lối sống lành mạnh, hài hòa, gần gũi và
yêu quí thiên nhiên.
Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Công nghiệp hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường được ưu tiên sử dụng
trong các ngành sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh và có khả năng thúc
đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác.
Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính
quyền các bộ ngành, địa phương, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.
Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa
chọn các quyết định về phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường ở địa
phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả năng tiếp cận
thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ,
thanh niên, đồng bào dân tộc thiểu số trong việc đóng góp vào quá trình ra
quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn vá lâu dài của đất nước.
Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước. Phát triển quan
hệ song phương và đa phương thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực, tiếp
thu có chọn lọc những tiến bộ khoa học công nghệ , tăng cường hợp tác quốc tế
để phát triển bền vững. Chú trọng phát huy lợi thế , nâng cao chất lượng hiệu
quả, năng lực cạnh tranh, chủ động phòng ngừa những tác động xấu với môi
trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây nên.
Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và
bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội.[3]
*Khái niệm du lịch bền vững
Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, trên thế giới xuất hiện những
8
cảnh báo đầu tiên về sự suy thoái môi trường do hoạt động du lịch gây ra, các
nhà khoa học đã dùng khái niệm “ du lịch rắn”(Hard tourism) để chỉ các hoạt
động du lịch ồ ạt, không được quy hoạch hợp lí. Khái niệm “du lịch mềm”
(Soft tourism) chỉ một chiến lược du lịch mới tôn trọng tài nguyên môi
trường. Năm 1996 xuất hiện khái niệm “ du lịch bền vững “ ( Sustainable) do
Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế đưa ra trên cơ sở phát triển của khái
niệm “du lịch mềm”, nhưng có nội dung rộng hơn không chỉ dừng lại bảo vệ
môi trường mà còn phát triển bền vững về kinh tế, văn hóa và xã hội.
Khái niệm du lịch bền vững do Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế
đưa ra có nội dung: “Du lịch bền vững là sự đáp ứng các nhu cầu hiện tại của
du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu
về du lịch cho thế hệ tương lai”. ( World Travel and Tourism Council,
1996).[25]
Bên cạnh khái niệm của Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế Tổ chức
Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới cũng đưa ra khái niệm du lịch bền vững là “
Việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm
với môi trường và đánh giá cao tự nhiên, theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có
tác động thấp từ du khách và mang lại lợi ích cho sự tham gia chủ động về
kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương” (International Union for
Conservervation of Nature, 1996). [25]
Du lịch bền vững “đòi hỏi quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách
nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ
trong khi đó vẫn duy trì được bản sắc văn hóa, các quá trình sinh thái cơ bản,
đa dạng sinh học và các hệ thống đảm bảo sự sống”( Nikolova và Hens,
1998).[28]
Du lịch bền vững và du lịch đại chúng có sự khác biệt. Du lịch đại
chúng không được lập kế hoạch hợp lí cho việc nâng cao công tác bảo tồn
hoặc công tác giáo dục, không mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa
9
phương và có thể phá huỷ nhanh chóng các môi trường nhạy cảm. Kết quả là
có thể phá hủy hoặc làm thay đổi một cách không thể nhận ra được các nguồn
lợi tự nhiên và văn hoá mà chúng phụ thuộc vào. Ngược lại, Du lịch bền vững
thì được lập kế hoạch một cách cẩn thận từ lúc bắt đầu để mang lại những lợi
ích cho cộng đồng địa phương, tôn trọng văn hoá, bảo tồn nguồn lợi tự nhiên.
Giáo dục du khách và cả cộng đồng địa phương. Du lịch bền vững có thể tạo
ra một lợi tức tương tự như du lịch đại chúng, nhưng có nhiều lợi ích được
nằm lại với cộng đồng địa phương và các nguồn lợi tự nhiên, các giá trị văn
hoá của vùng được bảo vệ.
Trong nhiều trường hợp, các hoạt động du lịch đại chúng trong quá khứ
có thể mang đến những tác động xấu đến bảo tồn do việc thiếu các cơ chế
quản lý và cơ chế lập kế hoạch có hiệu quả. Ngược lại, du lịch bền vững có
những kế hoạch hợp lí để giảm thiểu các tác động xấu của du lịch, đồng thời
còn đóng góp vào công tác bảo tồn và mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng
về cả mặt kinh tế và xã hội. Du lịch đại chúng không cung cấp nguồn quỹ tài
trợ cho các chương trình phúc lợi cho cộng đồng địa phương, hoặc các
chương trình bảo tồn nhằm bảo vệ cảnh đẹp tự nhiên của vùng. Nói cách
khác du lịch đại chúng chỉ quan tâm đến những lợi ích trước mắt, những lợi
ích cá nhân của nhà kinh doanh. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài tìm đến các khu
vực có cảnh quan tự nhiên đẹp, đồng có những cơ chế quản lí lỏng lẻo về môi
trường, xây dựng các khu du lịch có những đặc điểm điển hình của du lịch đại
chúng. Đây là vấn đề mà Việt Nam cần lưu ý khi kêu gọi đầu tư nước ngoài.
Những cơ hội và các đe dọa có thể chỉ được điều khiển thông qua du lịch bền
vững đã được lập kế hoạch và quản lý cẩn thận. Thực tế phát triển cho thấy
du lịch bền vững là mô hình mang lại nhiều lợi ích hơn so với du lịch đại
chúng.
*Nguyên tắc phát triển du lịch bền vững
Những nguyên tắc để đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững không
10
tách rời khỏi những nguyên tắc chung của phát triển bền vững. Trên cơ sở đó
kết hợp với những đặc điểm của ngành du lịch, Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên
Thế giới đưa ra mười nguyên tắc cho sự phát triển bền vững của ngành du
lịch.
Thứ nhất, sử dụng tài nguyên một cách bền vững bao gồm cả tài nguyên
thiên nhiên, xã hội và văn hóa.
Thứ hai, giảm tiêu thụ và xả thải quá mức, nhằm giảm các chi phí khắc
phục các suy thoái môi trường, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng du lịch.
Thứ ba, duy trì tính đa dạng: duy trì và phát triển tính đa dạng của tự
nhiên xã hội và văn hóa là rất quan trọng đối với du lịch bền vững, tạo ra sức
bật cho ngành du lịch.
Thứ tư, lồng ghép phát triển du lịch bền vững vào trong quy hoạch
phát triển địa phương và quốc gia.
Thứ năm, hỗ trợ nền kinh tế địa phương, du lịch phải hỗ trợ các hoạt
động kinh tế địa phương, phải tính toán chi phí môi trường để bảo vệ nền kinh
tế bản địa cũng như tránh gây hại cho môi trường.
Thứ sáu, thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương, điều này
không chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho môi trường mà còn tăng cường
đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách.
Thứ bảy, sự tư vấn của nhóm quyền lợi và của công chúng. Tư vấn
giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng, các tổ chức và cơ quan đảm bảo cho
sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh.
Thứ tám, đào tạo cán bộ kinh doanh du lịch, nhằm thực thi các sáng
kiến và giải pháp phát triển du lịch bền vững, nhằm cải thiện chất lượng các
sản phẩm du lịch.
Thứ chín, Marketting du lịch một cách có trách nhiệm, phải cung cấp
cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn
trọng của du khách đến môi trường tự nhiên xã hội và văn hóa của khu du
11
lịch, qua đó góp phần thỏa mãn nhu cầu du khách.
Thứ mười, triển khai các nghiên cứu, nhằm hộ trợ giải quyết các vấn
đề, mang lại lợi ích cho khu du lịch, cho nhà kinh doanh du lịch và cho du
khách.[10]
1.1.2. Nội dung của phát triển du lịch bền vững
Phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường: Du lịch là ngành
có định hướng tài nguyên rõ rệt, bởi vì tài nguyên và môi trường là nhân tố cơ
bản để tạo ra sản phẩm du lịch. Hoạt động du lịch đại chúng tác động tiêu cực
đến nguồn lợi tự nhiên như ảnh hưởng đến nhu cầu và chất lượng nguồn
nước, các chất thải, ô nhiễm không khí, tiếng ồn và phong cảnh, làm nhiễu
loạn sinh thái tại khu du lịch,. Tình trạng này kéo dài sẽ gây ra những hậu quả
nghiêm trọng về môi trường, việc khắc phục sẽ rất tốn kém hoặc không thể
thực hiện. Phát triển du lịch bền vững coi phát triển bền vững tài nguyên môi
trường là nội dung quan trọng hàng đầu, điều đó có nghĩa hoạt động khai khác
sẽ đi đôi với hoạt động bảo tồn. Du lịch bền vững sẽ bảo vệ và quản lí các
nguồn tài nguyên đặc biệt là nguồn tài nguyên không thể phục hồi. Giảm
thiểu tối đa sự ô nhiễm tài nguyên đất, nước, và không khí. Bảo vệ sự đa dạng
sinh học và các tài sản thiên nhiên khác.
Phát triển bền vững về xã hội: Du lịch bền vững không gây hại đến
các cấu trúc xã hội hoặc văn hoá của cộng đồng nơi mà chúng được thực hiện.
Thay vào đó thì nó lại tôn trọng văn hoá và truyền thống địa phương. Khuyến
khích các bên liên quan tham gia trong tất cả các giai đoạn của việc lập kế
hoạch, phát triển và giám sát và tăng cường nhận thức của các bên liên quan
về vai trò của họ trong hoạt động du lịch. Du lịch bền vững chú trọng đến vấn
đề phân phối lợi ích cho cộng đồng địa phương, tạo ra cơ hội cải thiện cuộc
sống, nâng cao mức thu nhập và cung cấp dịch vụ cho người nghèo.
Phát triển bền vững về kinh tế: Du lịch bền vững đóng góp về mặt kinh
tế cho cộng đồng và tạo ra những thu nhập công bằng và ổn định cho cộng
12
đồng địa phương cũng như càng nhiều bên liên quan. Bên cạnh đó sự phát
triển bền vững về kinh tế còn có nghĩa là sức sống của doanh nghiệp và hiệu
quả của hoạt động kinh tế du lịch, sự tái đầu tư của ngành đối với công tác
bảo tồn nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn.
1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong phát triển du lịch bền vững
Nhìn từ phương diện phát triển kinh tế đơn thuần thì du lịch có thể
được điều khiển một cách hiệu quả bởi khu vực tư nhân, tuy nhiên đối với sự
phát triển của du lịch bền vững đòi nhất thiết phải có vai trò của Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước thể hiện một cách cơ bản nhất là giám sát hoạt động du
lịch có phù hợp với định hướng phát triển bền vững. Chính phủ có thể tác
động đến phát triển du lịch bền vững bằng cách thông qua hệ thống bộ máy
chính quyền, tiến hành nghiên cứu những ảnh hưởng về môi trường, văn hóa,
kinh tế. Xây dựng các mô hình kinh tế nhằm giúp cho việc xác định các mức
độ và hình thức phù hợp cho các hoạt động phát triển tại các khu vực thiên
nhiên và đô thị. Xây dựng các tiêu chuẩn và quy tắc cho việc đánh giá tác
động môi trường và văn hóa. Giám sát và kiểm toán các hoạt động phát triển
du lịch thực hiện có theo kế hoạch dự kiến không. Thực hiện hệ thống kiểm
toán môi trường khu vực cho ngành du lịch.
Chính phủ có thể xem xét đến du lịch trong khi lập quy hoạch sử dụng đất
nhằm giảm thiểu những mâu thuẫn với cách thức sử dụng đất lâu đời và đảm
bảo sức chứa của các điểm du lịch sẽ phản ánh mức độ bền vững của sự phát
triển được giám sát điều chỉnh một cách phù hợp.
Chính phủ đưa ra các tiêu chuẩn thiết kế và xây dựng mà những tiêu
chuẩn này sẽ đảm bảo rằng các dự án phát triển du lịch sẽ phù hợp với văn
hóa địa phương và môi trường tự nhiên
Chính phủ cũng có thể phát triển các kỹ thuật và công cụ thích hợp để
phân tích tác động của dự án du lịch đến các điểm được công nhận là di sản
văn hóa và các công trình cổ kính mà sự phân biệt này là một bộ phận không
13
thể thiếu của đánh giá tác động môi trường và văn hóa
Chính phủ có thể thực thi các quy định để ngăn ngừa việc buôn bán bất
hợp pháp các cổ vật, các sản phẩm thủ công dân gian các nghiên cứu khảo cổ
tự phát sự mất mát các giá trị thẩm mỹ.
Chính phủ cũng có thể lập nên những ban tư vấn về du lịch trong đó có
đại diện của: Dân bản địa, quảng đại quần chúng, ngành du lịch, các tổ chức
phi chính phủ, và những người khác và quá trình ra quyết định cần phải có sự
tham gia của tất cả các bên liên quan
Chính phủ có thể tăng cường và hỗ trợ du lịch bền vững bằng cách: Xây
dựng các chương trình giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng.Chỉ đạo các
cơ quan chức năng tham gia vào các hoạt động du lịch cùng với các bộ phận
khác có liên quan. Đảm bảo ngành du lịch có đại diện trong các buổi họp
quan trọng về quy hoạch kinh tế và môi trường. Đưa chính sách phát triển du
lịch bền vững vào tất cả các thỏa thuận về phát triển du lịch địa phương cũng
như quốc gia. Chính phủ xây dựng một sơ đồ cho việc phát triển du lịch và
bảo tồn đa dạng sinh học thông qua các chính sách và luật. Ví dụ :
• Luật và quy chế xác định các tiêu chuẩn cho các phương tiện du lịch,
tiếp cận với các nguồn lợi đa dạng sinh học và quy chế sử dụng đất, phân
vùng. Điều này có thể đòi hỏi những hiện trạng về tác động môi trường trước
khi phát triển.
• Cơ sở hạ tầng: thiết kế, phát triển và quy chế (nước, năng lượng,
đường, sân bay…)
• Công cụ kinh tế được xác định trong các chính sách, ví dụ như: những
động cơ cho việc đầu tư du lịch bền vững và việc tạo ra các khu bảo vệ tư
nhân.
• Tiêu chuẩn về sự lành mạnh và độ an toàn, bao gồm những quản lý
chất lượng và quy chế các hoạt động kinh doanh; mục đích là bảo vệ người
tiêu dùng và thoả mãn những nhu cầu của cư dân – bao gồm các cộng đồng
14
truyền thống và người bản xứ - và bảo vệ cách sống của họ.
• Hình thành và duy trì các khu bảo vệ và các hành lang bảo tồn của các
mối quan tâm về du lịch. Các nhà quản lý của các khu bảo vệ công cộng
thường là những người thực hiện hiệu qủa nhất cho những lợi ích bảo tồn từ
việc phát triển du lịch.
• Phân chia các lợi tức thuế cho việc bảo vệ các điểm thu hút du lịch dựa
trên đa dạng sinh học như các công viên quốc gia và các khu bảo tồn.
Tại điểm du lịch, chính quyền địa phương thường chịu trách nhiệm thực
hiện chính sách liên quan đến du lịch và công tác bảo tồn. Chính quyền địa
phương đóng vai trò đàm phán giữa các mối quan tâm của địa phương và các
đơn vị kinh doanh từ bên ngoài, xã hội và các cơ quan trung ương, và họ nắm
giữ quyền điều chỉnh cần thiết và uỷ nhiệm phân vùng mà cho phép thực hiện
cưỡng chế theo các hướng dẫn và tiêu chuẩn. Mặt khác, năng lực của chính
quyền địa phương để quản lý ngành phức tạp và rời rạc này một cách hiệu quả
cũng như đảm bảo những đóng góp tích cực của nó đến các chiến lược của
cộng đồng cho việc phát triển bền vững là còn phụ thuộc vào việc soạn thảo
các chính sách địa phương phải gắn kết với các công cụ và các cơ quan luật
quốc gia.
Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý đến sự thiếu đồng bộ trong chính sách, sự
phối hợp không nhịp nhàng giữa các cơ quan chức năng sẽ tạo ra những ảnh
hưởng tiêu cực đối với tài nguyên du lịch, đặc biệt là trong công tác bảo tồn
sự đa dạng sinh học. Đây cũng là bài học mà nhiều quốc đang phát triển đã
từng gặp phải, hậu quả là sự thất bại về mục tiêu của chính sách bảo tồn.
1.1.4. Chiến lược phát triển du lịch hướng đến sự bền vững
Vấn đề phát triển bền vững nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và
Nhà Nước, điều đó được cụ thể hóa bằng việc Chính phủ ban hành “Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam”, đây là văn kiện có tính
phương pháp luận chung cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội, ngành du lịch
15
cũng trên cơ sở này xây dựng chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược đã xác định phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành khác phát
triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mang lại tiến bộ xã hội. Phát triển du lịch
bền vững, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa, gắn với an ninh,
quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, khai thác tối ưu lợi thế quốc gia, các nguồn
lực trong và ngoài nước. Phấn đấu đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật tương đối đồng bộ, hiện đại, sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng,
có thương hiệu, có sức cạnh tranh mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, thân
thiện với môi trường, đưa Việt Nam trở thành điểm đến có đẳng cấp trong
khu vực. Năm 2030, đưa Việt Nam thành một trong những điểm đến du lịch
ưa chuộng, có đẳng cấp trên thế giới. Đồng thời chiến lược cũng xác định địa
bàn trọng điểm của du lịch Việt Nam,từ các địa bàn trọng điểm này, các khu
di lịch trọng điểm cũng được xác định trong chiến lược và trong quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch các trung tâm, các tỉnh trong địa bàn.
Quán triệt tinh thần nêu trên trong thời gian gần đây, các dự án, các kế
hoạch phát triển du lịch, đã chú trọng đến việc bảo tồn tài nguyên cho mục
tiêu phát triển bền vững lâu dài. Những tài nguyên có giá trị cao đối với du
lịch nhưng nhạy cảm với cá tác động của quá trình phát triển đã được đưa vào
không gian bảo tồn nghiêm ngặt, hoặc có kế hoạch khai thác giới hạn hoặc
đưa vào không gian có mức độ ưu tiên đầu tư phát triển thấp như các Vườn
quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu bảo vệ sinh cảnh, các khu bảo
tồn biển, các khu di sản… Trong các dự án phát triển du lịch ở các khu vực
nhạy cảm các nguyên tắc về phát triển bền vững đã được chú trọng. quá trình
khai thác tài nguyên cho phát triển du lịch đã thực hiện các hoạt động đánh
giá tác động môi trường đưa ra các phân tích, dự báo và biện pháp khắc phục
cụ thể cho từng dự án khi phê duyệt. Hiện nay, các dự án phát triển du lịch
16
trong các Vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu dự trữ sinh
quyển đều tập trung đầu tư phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng
như các dự án phát triẻn du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ,
các vườn quốc gia Hoàng Liên, Cát Bà, Ba Bể, Bạch Mã, Chư Yang Sin, Yok
Don, Tràm Chim, Phú Quốc…
Hoạt động phát triển du lịch đang dần hướng tới cộng đồng dân cư còn
nhiều khó khăn trong đời sống như ở các vùng nông thôn, vùng núi và hải đảo
xa xôi. Biểu hiện rõ rệt nhất là những loại hình du lịch thân thiện với môi
trường đồng thời khai thác các giá trị tự nhiên và nhân văn ở các vùng sâu,
vùng xa, góp phần phát triển du lịch và nâng cao đời sống cộng dồng dân cư
dư du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái ngày càng được chú trọng và phát triển
rộng rãi. Quy hoạch tổng thể của du lịch Việt Nam đã xác định sản phẩm du
lịch đặc trưng của các vùng du lịch: vùng du lịch Bắc bộ là du lịch văn hóa
kết hợp với du lịch sinh thái, tham quan, nghi dưỡng; vùng du lịch Bắc Trung
bộ là du lịch tham quan các di tích văn hóa - lịch sử kết hợp với du lịch biển,
hang động và du lịch quá cảnh; vùng Nam Trung bộ và Nam bộ là du lịch
tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi, du lịch sông nước và du lịch sinh thái.
Một số khu du lịch sinh thái ở Việt Nam đã và đang khai thác có hiệu quả
nguồn tài nguyên du lịch và đóng góp cho sự phát triển cộng đồng. Trong đó
đáng kể là hai khu du lịch sinh thái được tổ chức du lịch thế giới đánh giá là
khu du lịch sinh thái bền vững của thế giới bao gồm: khu du lịch Văn Xá
(Cần Giờ - TP Hồ Chí Minh) và khu du lịch suối nước nóng Bình Châu
(Xuyên Mộc – Vũng Tàu).
1.1.5. Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững
Xây dựng chính sách phát triển du lịch hướng đến sự bền vững. Xã hội
hiện đại là một xã hội có tính tổ chức cao, mọi hoạt động đều được quản lí
bởi một bộ máy nhất định và có nó có vai trò quyết định đến hoạt động của
cộng đồng, hoạt động du lịch cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, một
17
quốc gia hay một địa phương giàu tiềm năng về tài nguyên du lịch, nhưng
không có chính sách phát triển hợp lí thì cũng không phát huy một cách hiệu
quả các tiềm năng lợi thế sẵn có, hoạt động du lịch cũng là một hoạt động
kinh tế, nếu để nó diễn ra một cách tự phát sẽ dẫn đến tình trạng chạy theo
mục tiêu lợi nhuận, gây tổn hại đến tài nguyên và nhiều hậu quả nghiêm trọng
khác. Đây là bài học đã được lịch sử phát triển của ngành du lịch nhiều nơi
trên thế giới chứng minh. để đảm bảo phát triển du lịch bền vững cần phải có
chính sách phát triển hợp lí, thể hiện tầm nhìn chiến lược, phát huy được tiềm
năng thế mạnh, thu được lợi ích kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ
được tài nguyên môi trường. Tuy nhiên đây cũng là một thách thức không
nhỏ đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, bởi những hạn chế về
mặt kinh tế và trình độ hoạch định chính sách.
Phát triển cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật đảm bảo cho phát triển du
lịch bền vững. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những phương tiện vật chất của xã
hội, Nó bao gồm mạng lưới và phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên
lạc, công trình cung cấp điện, nước, công viên toàn dân, mạng lưới thương
nghiệp của khu dân cư, rạp chiếu phim, nhà hát, viện bảo tàng…v.v. Cơ sở
hạ tầng là đòn bẩy thúc đẩy sự mọi hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, đối
với ngành du lịch cơ sở hạ tầng là yếu tố khai thác tiềm năng du lịch và nâng
cao chất lượng dịch vụ du lịch, mặt khác phát triển du lịch cũng giúp phát
triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia hoặc một địa phương. Muốn phát triển
du lịch bền vững, cơ sở hạ tầng cần phải đi trước một bước, phải được đầu tư
hiện đại đồng bộ.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành
du lịch như hệ thống nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí và cơ sở vật
chất kỹ thuật của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia phục vụ du lịch:
thương nghiệp, dịch vụ… Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò quyết định
trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức
18
độ khai thác tài nguyên du lịch, thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì
vậy nên sự phát triển của ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây
dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật. Để đảm bảo cho việc phát triển du
lịch bền vững, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chú trọng mối quan hệ với tài
nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch có tính nhạy cảm cao.
Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ phát triển du lịch bền
vững. Trong hoạt động du lịch, chất lượng đội ngũ lao động luôn là yếu tố
quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển. Điều này càng trở nên
cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của hoạt động du lịch. Chất lượng
đội ngũ lao động là nhân tố quan trọng trong việc quyết định chất lượng sản
phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và kết qủa cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu
quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng du lịch nhìn từ góc độ kinh tế. Như vậy,
chất lượng cao của đội ngũ lao động không chỉ là yếu tố thu hút khách, nâng
cao uy tín của ngành, của đất nước mà còn là một yếu tố quan trọng trong
cạnh tranh thu hút khác, đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững và được coi
là một trong những dấu hiệu quan trọng để nhận biết sự phát triển bền vững
của du lịch.
Đầu tư cho du lịch đảm bảo phát triển bền vững: Đối với bất kỳ ngành
kinh tế nào, đầu tư luôn là đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành kinh tế
đó. Các nguồn vốn đầu tư tồn tại dưới hai dạng là các nguồn vốn huy động và
các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu như các nguồn vốn đầu tư
trong nước, đặc biệt là các nguồn vốn huy động trong nhân dân để phát triển
các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, có tác dụng làm phong phú thêm các
loại hình dịch vụ tạo công ăn việc làm tránh rủi ro… thì các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài lại có vai trò như đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch
nói riêng và nền kinh tế nói chung. Phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị
trường đòi hỏi có sự thích nghi nhanh đối với những thay đổi bởi nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan để hạn chế được những rủi ro. Điều này có thể thực
19
hiện được nhờ việc phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Với tư cách là một ngành kinh tế, hoạt động phát triển du lịch cần quan
tâm đến vấn đề này để đảm bảo sự phát triển bền vững đứng ở góc độ kinh tế.
Điều này càng có ý nghĩa đối với những quốc gia đang phát triển, nơi năng
lực quản lý ở quy mô quốc gia còn nhiều hạn chế. Đầu tư mang tính địa
phương sẽ hạn chế được tỷ lệ “rò rỉ” lợi nhuận du lịch. Ngoài ý nghĩa về mặt
kinh tế, việc phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có ý nghĩa về
xã hội, tạo điều kiện để một bộ phận lớn người lao động địa phương có việc
làm. Bên cạnh đó, đây còn là môi trường thu hút được nguồn lực to lớn của xã
hội cho phát triển du lịch, phù hợp tính chất xã hội hóa cao của du lịch, đảm
bảo sự phát triển bền vững.
Ngoài việc xem xét đến nguồn và giá trị vốn đầu tư, trên quan điểm phát
triển bền vững, đối tượng đầu tư (cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ du
lịch, tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực…) cũng
là yếu tố quan trọng cần được đánh giá và xem xét như một dấu hiệu quan
trọng của phát triển bền vững. Việc xem xét, đánh giá dấu hiệu này có thể
thông qua các chi tiêu về tỷ lệ vốn đấu tư cho tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi
trường trong một dự án hoặc tỷ lệ các khu, điểm du lịch của một địa phương
được đầu tư tôn tạo, bảo vệ. Khu vực nào, quốc gia nào càng có nhiều các
khu, điểm du lịch được đầu tư bảo vệ, tôn tạo chứng tỏ hoạt động phát triển
du lịch ở khu vực, quốc gia đó càng gắn với mục tiêu phát triển bền vững.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, nếu tỷ số này vượt quá 50% thì hoạt động du
lịch được xem là trong trạng thái phát triển bền vững.
Thêm vào đó, trong việc đầu tư, ngoài nguồn đầu tư từ Nhà nước hỗ trợ
phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn đầu tư quan trọng là từ thu nhập du lịch.
Nguồn đầu tư này càng lớn càng chứng tỏ được ý thức của ngành du lịch đối
với tầm quan trọng của phát triển bền vững. Chính vì vậy quy mô đầu tư (tỷ lệ
tái đầu tư) từ thu nhập du lịch sẽ được xem là dấu hiệu nhận biết quan trọng
20
của phát triển du lịch bền vững từ góc độ đảm bảo bền vững của tài nguyên,
môi trường. Không những vậy, tỷ lệ doanh thu mà ngành du lịch trích lại cho
cơ quan chủ quản các nguồn tài nguyên du lịch để tái đầu tư càng cao chứng
tỏ khả năng phối hợp liên ngành tốt.
Tổ chức và kiểm tra các hoạt động du lịch đảm bảo phát triển bền
vững: Trong quá trình tổ chức và quản lý các hoạt động phát triển du lịch,
việc xây dựng quy hoạch làm căn cứ cho triển khai thực hiện các kế hoạc phát
triển cụ thể đóng vai trò quan trọng. Quy hoạch là quá trình phân tích các tiềm
lực tài nguyên và các điều kiện có liên quan để xác định phương án phát triển
phù hợp, đảm bảo việc khai thác có hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch và
có được các giải pháp hạn chế tác động của hoạt động phát triển đến môi
trường, mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, số lượng các khu,
điểm du lịch được quy hoạch sẽ là dấu hiệu nhận biết của quá trình phát triển
du lịch bề vững đứng từ góc độ đảm bảo sự bền vững về tài nguyên, môi
trường cũng như từ góc góc đảm bảo sự phát triển về kinh tế, góp phần tích
cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của khu vực.
Việc quản lý và hạn chế những áp lực lên môi trường và các nguồn tài
nguyên thông qua các biện pháp quản lý và giảm thiểu chất thải, mức độ kiểm
soát các hoạt động phát triển bao gồm cả các hoạt động bảo tồn và duy trì tính
đa dạng trong đó việc duy trì các hệ sinh thái đặc hữu đang bị đe dọa. Việc
kiểm soát các hoạt động phát triển phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cũng
được thực hiện thông qua việc tiến hành các thủ tục đánh giá tác động môi
trường tại các khu, điểm du lịch, hoặc một hình thức tương đương như các
hoạt động kiểm soát chính thức về môi trường tại các khu, điểm du lịch. Đây
là một trong những dấu hiệu nhận biết quá trình phát triển bền vững khá quan
trọng và được xác định thông qua việc xem xét có hay chưa có, thực hiện hay
chưa thực hiện các biện pháp quản lý, kiểm soát trên.
Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo xác định được cường độ hoạt
21
động của các điểm du lịch sao cho không vượt quá ngưỡng tiêu chuẩn về môi
trường, tiêu thụ năng lượng và sức chứa. Giới hạn lượng khách là cần thiết, vì
nó bảo vệ sự đa dạng sinh học, đảm bảo cung cấp năng lượng vừa đủ.
Phát triển du lịch bền vững cần chú ý đến độ hài lòng của cộng đồng
địa phương. Hoạt động phát triển du lịch sẽ bền vững nếu có được ủng hộ
của cộng đồng địa phương. Chính vì vậy, mức độ hài lòng của cộng đồng đối
với hoạt động du lịch sẽ phản ánh trạng thái bền vững của hoạt động du lịch
trong phát triển.
Để đạt được sự hài lòng của cộng đồng, vài trò của cộng đồng phải được phát
huy cũng như đem lại lợi ích cho cộng đồng, cụ thể:
- Phát huy được vai trò của cộng đồng trong xây dựng, triển khai quy
hoạch phát triển du lịch.
- Phát huy vai trò của cộng đồng trong giám sát thực hiện dự án đầu tư,
phát triển du lịch trên địa bàn.
- Tăng cường quy mô và mức độ tham gia của cộng đồng vào hoạt động
du lịch.
- Nâng cao mức sống của cộng động nhờ có hoạt động du lịch.
- Phúc lợi xã hội chung của cộng đồng được nâng lên
Để xác định được dấu hiệu này, cần tiến hành điều tra phỏng vấn cộng
đồng. Kết quả điều tra sẽ là căn cứ để điều chỉnh hoạt động sao cho phát triển
hoạt động du lịch mang tính bền vững hơn từ góc độ xã hội.
Nếu như việc thu hút khách du lịch quốc tế chủ yếu nhằm tăng nguồn thu
ngoại tệ cho nền kinh tế thì việc thu hút khách du lịch nội địa còn có ý nghĩa
tạo điều kiện phân phối lại thu nhập giữa các thành phần lao động trong xã
hội, góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội, hỗ trợ tích cực cho các
chương trình cứu trợ của Chính phủ như các chương trình xóa đói giảm
nghèo, nâng cao nhận thức cho cộng đồng… Như vậy đã góp phần quan trọng
trong việc thực hiện thành công mục tiêu đặt ra của phát triển bền vững cả
22
dưới góc độ về kinh tế và góc độ xã hội.
1.1.6. Tiêu chí đánh giá tính bền vững của hoạt động du lịch
Đánh giá tính bền vững của hoạt động du lịch bộ chỉ thị đánh giá
nhanh tính bền vững của điểm du lịch
Hoạt động du lịch dễ bị tổn thương bởi những tác động tiêu cực từ môi
trường, kinh tế và xã hội. Chỉ một sự cố môi trường xảy ra, du khách lập tức
sẽ chọn địa điểm du lịch khác. Vì vậy cần phải có những phương pháp thích
hợp đánh giá sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch. Những phương
pháp này một mặt là thước đo sự thành công của công tác quản lí điều hành,
mặt khác là hệ thống cảnh báo sớm giúp nhà quản lí phát hiện sớm phát hiện
tình trạng nguy hiểm của khu du lịch. Phương pháp đánh giá dựa vào bộ chỉ
thị môi trường là một cách giải quyết tối ưu cho vấn đề này. Nội của nó như
sau:
Thứ nhất, Bộ chỉ thị về đáp ứng nhu cầu của du khách:
Tỷ lệ % số khách quay trở lại/tổng số khách
Số ngày lưu chú bình quân/đầu du khách
Tỷ lệ % các rủi ro về sức khỏe (bệnh tật, tai nạn) do du lịch/số lượng du
khách.
Thứ hai, Bộ chỉ thị để đánh giá tác động của du lịch lên phân hệ sinh thái
tự nhiên:
% chất thải chưa được thu gom và xử lý
Lượng điện tiêu thụ/du khách/ngày (tính theo mùa)
Lượng nước tiêu thụ/du khách/ngày (tính theo mùa)
% diện tích cảnh quan bị xuống cấp do xây dựng/tổng diện tích sử dụng do
du lịch.
% số công trình kiến trúc không phù hợp với kiến trúc bản địa (hoặc cảnh
quan)/tổng số công trình.
Mức độ tiêu thụ các sản phẩm động, thực vật quý hiếm (phổ biến, hiếm hoi,
23
không có).
% khả năng vận tải sạch/khả năng vận tải cơ giới (tính theo trọng tải)
Thứ ba, Bộ chỉ thị đánh giá tác động lên phân hệ kinh tế:
% vốn đầu tư từ du lịch cho các phúc lợi xã hội của địa phương so với tổng
giá trị đầu tư từ các nguồn khác.
% số việc làm trong ngành du lịch dành cho người địa phương so với tổng
số lao động địa phương.
% GDP của kinh tế địa phương bị thiệt hại do du lịch gây ra hoặc có lợi cho
du lịch mang lại.
% chi phí vật liệu xây dựng địa phương/tổng chi phí vật liệu xây dựng.
% giá trị hàng hóa địa phương/tổng giá trị hàng hóa tiêu dùng cho du lịch.
Thứ tư,Bộ chỉ thị đánh giá tác động của du lịch lên phân hệ xã hội – nhân
văn:
Chỉ số Doxey
Sự xuất hiện các bệnh/dịch liên quan với du lịch
Tệ nạn xã hội liên quan đến du lịch
Hiện trạng các di tích lịch sử - văn hóa của địa phương (so với dạng nguyên
thủy)
Số người ăn xin/tổng số dân địa phương
Tỷ lệ % mất giá đồng tiền vào mùa cao điểm du lịch
Độ thương mại hóa của cá sinh hoạt văn hóa truyền thống (lễ hội, ma chay,
cưới xin, phong tục, tập quán…) xác định thông qua trao đổi với các
chuyên gia.[10]
Đánh giá sự bền vững của hoạt động du lịch dựa vào bộ tiêu chuẩn du
lịch bền vững của IUCN
Tháng 10/2008, Hội nghị Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới của IUCN lần
đầu tiên công bố bộ tiêu chuẩn du lịch bền vững toàn cầu. Bộ tiêu chí này
được xây dựng dựa trên cơ sở hàng nghìn các tiêu chí đã được áp dụng thực
24
tiễn hiệu quả trên khắp thế giới. Nội dung của Bộ tiêu chuẩn này bao gồm:
Thứ nhất,quản lý hiệu quả và bền vững
Các công ty du lịch cần thực thi một hệ thống quản lý bền vững, phù hợp
với quy mô và thực lực của mình để bao quát các vấn đề về môi trường, văn
hóa xã hội, chất lượng, sức khỏe và an toàn.
Tuân thủ các điều luật và quy định có liên quan trong khu vực và quốc tế.
Tất cả nhân viên được đào tạo định kỳ về vai trò của họ trong quản lý môi
trường, văn hóa xã hội, sức khỏe và các thói quen an toàn.
Cần đánh giá sự hài lòng của khách hàng để có các biện pháp điều chỉnh
phù hợp. Quảng cáo đúng sự thật và không hứa hẹn những điều không có
trong chương trình kinh doanh.
Thiết kế và thi công cơ sở hạ tầng: (i) Chấp hành những quy định về bảo
tồn di sản tại địa phương; (ii) Tôn trọng những di sản thiên nhiên và văn hóa
địa phương trong công tác thiết kế, đánh giá tác động, quyền sở hữu đất đai và
lợi nhuận thu được; (iii) Áp dụng các phương pháp xây dựng bền vững thích
hợp tại địa phương; (iv) Đáp ứng yêu cầu của các cá nhân có nhu cầu đặc biệt.
Cung cấp thông tin cho khách hàng về môi trường xung quanh, văn hóa
địa phương và di sản văn hóa, đồng thời giải thích cho khách hàng về những
hành vi thích hợp khi tham quan các khu vực tự nhiên, các nền văn hóa và các
địa điểm di sản văn hóa.
Thứ hai, gia tăng lợi ích kinh tế xã hội và giảm thiểu tác động tiêu cực
đến cộng đồng địa phương.
Công ty du lịch tích cực ủng hộ các sáng kiến phát triển cơ sở hạ tầng xã
hội và phát triển cộng đồng như xây dựng công trình giáo dục, y tế và hệ
thống thoát nước. Sử dụng lao động địa phương, có thể tổ chức đào tạo nếu
cần thiết, kể cả đối với vị trí quản lý. Các dịch vụ và hàng hóa địa phương nên
được doanh nghiệp bày bán rộng rãi ở bất kỳ nơi nào có thể.
Công ty du lịch cung cấp phương tiện cho các doanh nghiệp nhỏ tại địa
25
phương để phát triển và kinh doanh các sản phẩm bền vững đựa trên đặc thù
về thiên nhiên, lịch sử và văn hóa địa phương (bao gồm thức ăn, nước uống,
sản phẩm thủ công, nghệ thuật biểu diễn và các mặt hàng nông sản).
Thiết lập một hệ thống quy định cho các hoạt động tại cộng đồng bản địa
hay địa phương, với sự đồng ý và hợp tác của cộng đồng Công ty phải thi
hành chính sách chống bóc lột thương mại, đặc biệt đối với trẻ em và thanh
thiếu niên, bao gồm cả hành vi bóc lột tình dục.
Đối xử công bằng trong việc tiếp nhận các lao động phụ nữ và người dân
tộc thiểu số, kể cả ở vị trí quản lý, đồng thời hạn chế lao động trẻ em. Tuân thủ
luật pháp quốc tế và quốc gia về bảo vệ nhân công và chi trả lương đầy đủ. Các
hoạt động của công ty không được gây nguy hiểm cho nguồn dự trữ cơ bản như
nước, năng lượng hay hệ thống thoát nước của cộng đồng lân cận.
Thứ ba, gia tăng lợi ích đối với các di sản văn hóa và giảm nhẹ các tác
động tiêu cực
Tuân thủ các hướng dẫn và quy định về hành vi ứng xử khi tham quan
các điểm văn hóa hay lịch sử, nhằm giảm nhẹ các tác động từ du khách.
Đồ tạo tác khảo cổ hay lịch sử không được phép mua bán hay trưng bày,
trừ khi được pháp luật cho phép. Có trách nhiệm đóng góp cho công tác bảo
tồn di tích lịch sử, văn hóa, khảo cổ và các tài sản có ý nghĩa quan trọng về
tinh thần, tuyệt đối không cản trở việc tiếp xúc của cư dân địa phương.
Tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của cộng đồng địa phương khi sử dụng
nghệ thuật, kiến trúc hay các di sản văn hóa của địa phương trong hoạt động
kinh doanh, thiết kế, trang trí, ẩm thực.
Thứ tư, gia tăng lợi ích môi trường và giảm nhẹ tác động tiêu cực
Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên: (i) Ưu tiên buôn bán những sản phẩm thân
thiện môi trường như vật liệu xây dựng, thức ăn và hàng tiêu dùng; (ii) Cân
nhắc khi buôn bán các sản phẩm tiêu dùng khó phân hủy và cần tìm cách hạn
chế sử dụng các sản phẩm này; (iii) Tính toán mức tiêu thụ năng lượng cũng
26
như các tài nguyên khác, cần cân nhắc giảm thiểu mức tiêu dùng cũng như
khuyến khích sử dụng năng lượng tái sinh; (iv) Kiểm soát mức tiêu dùng
nước sạch, nguồn nước và có biện pháp hạn chế lượng nước sử dụng.
Giảm ô nhiễm: (i) Kiểm soát lượng khí thải nhà kính và thay mới các dây
chuyền sản xuất nhằm hạn chế hiệu ứng nhà kính, hướng đến cân bằng khí
hậu; (ii) Nước thải, bao gồm nước thải sinh hoạt phải được xử lý triệt để và tái
sử dụng; (iii) Thực thi kế hoạch xử lý chất thải rắn với mục tiêu hạn chế chất
thải không thể tái sử dụng hay tái chế; (iv) Hạn chế sử dụng các hóa chất độc
hại như thuốc trừ sâu, sơn, thuốc tẩy, thay thế bằng các sản phẩm không độc
hại, quản lý chặt chẽ các hóa chất được sử dụng; (v) Áp dụng các quy định
giảm thiểu ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng, nước thải, chất gây xói mòn, hợp chất
gây suy giảm tầng ozon và chất làm ô nhiễm không khí, đất.
Bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh thái và cảnh quan tự nhiên: (i) Các loài
sinh vật hoang dã khai thác từ tự nhiên được tiêu dùng, trưng bày hay mua
bán phải tuân theo quy định nhằm đảm bảo việc sử dụng là bền vững; (ii)
Không được bắt giữ các loài sinh vật hoang dã, trừ khi đó là hoạt động điều
hòa sinh thái. Tất cả những sinh vật sống chỉ được bắt giữ bởi những tổ chức
có đủ thẩm quyền và điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc chúng; (iii) Việc kinh
doanh có sử dụng các loài sinh vật bản địa cho trang trí và tôn tạo cảnh quan
cần áp dụng các biện pháp ngăn ngừa các loài sinh vật ngoại lai xâm lấn; (iv)
Đóng góp ủng hộ cho hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học, bao gồm việc hỗ
trợ cho các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu vực có giá trị đa dạng sinh học
cao; (v) Các hoạt động tương tác với môi trường không được có bất kỳ tác hại
nào đối với khả năng tồn tại của quần xã sinh vật, cần hạn chế, phục hồi mọi
tác động tiêu cực lên hệ sinh thái cũng như có một khoản phí đóng góp cho
hoạt động bảo tồn. bảo tồn ven biển, biển, đảo.tăng cường nâng cao nhận thức
cho cộng đồng địa phương ven biển, tạo cơ hội cho họ tham gia vào các hoạt
động du lịch biển bền vững hoặc phát triển du lịch cộng đồng, nhằm chuyển
27
đổi nghề nghiệp, cải thiện sinh kế và góp phần xoá đói giảm nghèo.
1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phát triển du lịch bền vững.
1.2.1. Phát triển du lịch không bền vững
Trước khi được phát triển như là các khu nghỉ mát cho du khách vào
những năm 1970, chỉ có 12 gia đình sống trên hòn đảo Cancun (Mexico).
Toàn vùng này bấy giờ bao gồm Bang Quintana Roo - được hình thành gồm
những rừng nhiệt đới khá nguyên vẹn và những bãi biển hoang sơ và được
định cư bởi 45.000 cư dân địa phương của cộng đồng Maya. Ngày nay,
Cancun có hơn 2.6 triệu du khách hàng năm và có hơn 20.000 phòng khách
sạn và cộng đồng định cư lâu dài ở đây là hơn 300.000. Những tác động môi
trường và xã hội được xem là tầm quan trọng thứ cấp trong kế hoạch phát
triển của Cancun. Ví dụ: không cung cấp những ngôi nhà cho người thu nhập
thấp, người di cư làm việc ở trong vùng và kết quả là khu nhà ổ chuột được
phát triển và khoảng 75% rác thải sinh hoạt từ những khu cộng đồng này
không được xử lý. Các vùng rừng ngập mặn và rừng trong đất liền đã bị chặt
phá, các đầm phá đã bị san bằng và những đồi đất cũng biến mất. Nhiều loài
chim, sinh vật biển và những động vật khác cũng không còn nữa. (Jame E. N.
Sweeting. 1999). [25]
Câu chuyện tương tự cũng xảy ra ở Paytaya (Thái Lan). Vào nhưng năm
50 của thế kỷ trước, Pataya còn là một làng chài, đến đầu thập niên 80, nơi
đây đã xuất hiện một trung tâm du lịch ven biển lớn nhất Đông Nam Á. Do sự
tăng trưởng quá nhanh quá trình quy hoạch không theo kịp, tình hình trở nên
lộn xộn. Các hoạt động du lịch bị lèn chặt vào một không gian chật hẹp. Các
quán Bar, Hộp đêm, Massage chen chúc trong một đoạn phố dài 300m. Các
khác sạn xả rác và nước thải trực tiếp ra biển, bãi biển bị ô nhiễm bởi rác có
nguồn gốc từ khách du lịch, xen lẫn với du khách, tàu thuyền và những người
bán dạo. cho đến giữa thập kỷ 80, ô nhiễm môi trường đã ở mức không thể
chịu đựng nổi. thiếu cơ sở hạ tầng, nước, điện, hệ thống thông tin lẫn hệ thống
28
thoát nước. An ninh cho du khách ở mức độ tồi tệ. (Wong, P,P., 1991) [26]
Tuy nhiên sự phản ứng nhanh chóng của chính quyền có thể giúp khắc
phục được một phần những biến cố về môi trường do hoạt động du lịch tạo
nên, có thể lấy trường hợp của tỉnh An Huy với những nỗ lực bảo vệ đối với
khu du lịch Hoành Sơn làm minh chứng. Hoành Sơn là một vùng núi có
phong cảnh đẹp ở tỉnh An Huy miền đông Trung Quốc, đó là một khu danh
, khu vực này có 72 ngọn núi nhỏ khác nhau, 2 hồ, 3
thắng có cảnh quan thiên nhiên đẹp và là khu di tích lịch sử văn hóa. Bao phủ một diện tích 154 km2
thác nước, 36 suối nước khoáng, 24 dòng suối tự nhiên, 20 đầm lầy to nhỏ
khác nhau, tài nguyên thiên nhiên nơi đây là những rừng lá rụng, vùng đầm
lầy phẳng lặng, rừng thông, các loài động thực vật quý hiếm đang được bảo
vệ. Hoành Sơn còn có nhiều đền, những nhà tu kín, lầu, và những dòng chữ
khắc họa trên đá. Sự tăng trưởng nhanh của du lịch Hoành Sơn đã dẫn đến 5
vấn đề xuống cấp về môi trường như:
- Số lượng loài động thực vật giảm xuống.Sự xây dựng các công trình
đường xá và đường cáp treo qua núi cùng các dự án thủy lợi đã làm mất đi
hoặc tổn hại đến thảm thực vật rừng, trong đó có nhiều loài thực vật quý
hiếm. Thảm thực vật này một thời đã tạo nên môi trường sinh cảnh cho các
loài động vật mà ngày nay hiếm khi người ta nhìn thấy chúng.
- Xây dựng và phát triển đã làm giảm đi vẻ đẹp thiên nhiên, xây dựng
tràn lan ở điểm du lịch cảnh quan nổi tiếng Ôn Tuyền đã làm giảm đi vẻ đẹp
của nó.
- Sự cấp nước sinh hoạt cho du khách đã làm lệch đi các hệ thống thủy
văn. Các hồ chứa nước và công trình chứa nước khác được xây dựng để đảm
bảo để cung cấp cho khách du lịch. Vì vậy cần phải xây dựng đập chắn nước
ngang qua suối do đó gây ra sự thay đổi lớn đối với lưu vực sông.
- Một vài điểm tham quan bị quá tải với số lượng du khách. Du lịch ở
29
vùng núi Hoành Sơn đã phát triển từ số khách 282.000 trong năm 1979 lên
đến 1.300.000 trong năm 1990. Ở vào thời kì cao điểm hàng ngày có khoảng
1 vạn lượt khách đến tham quan.
- Chất thải rắn và nước thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Rất
nhiều rác đang thải ra khu thắng cảnh Hoành Sơn. Một số rác thải sinh hoạt
được chôn nhưng nước thải sinh hoạt hàng ngày lại đang chảy tự do xuống
các thung lũng và vào các dòng suối, dòng sông gây tác hại cho chất lượng
nguồn nước.
Những vấn đề nêu trên chính là biểu hiện của phát triển du lịch không
bền vững, để đối phó và quản lý các tác động môi trường tiêu cực bởi phát
triển du lịch không bền vững gây ra tại Hoành Sơn, chính quuyền tỉnh An
Huy đã xây dựng một chiến lược để bảo vệ khu du lịch bao gồm 10 điểm:
1. Tán thành nguyên tắc chỉ đạo phòng ngừa
2. củng cố chương trình tổng hợp để lồng ghép các hành động hành
chính và kế hoạch cần thiết
3. Giám sát chất lượng nước, cung cấp và quản lý hệ thống nước.
4. Phân tán du lịch ra một khu rộng hơn
5. Sự dụng hình thức tour tham quan đặt trước để điều tiết số khách
đến thăm quan một khu du lịch cụ thể nào đó.
6. Dừng hoạt động du lịch ở các khu có hệ sinh thái đang bị tổn hại để
các hệ sinh thái này tự phục hồi thông qua quá trình phát triển tự nhiên.
7. Thực hiện quản lý nghiêm ngặt hoạt động xây dựng trong khu du
lịch. Như vậy cảnh quan sẽ không bị hư hại và ô nhiễm sẽ được giảm tối đa.
Các công trình xây dựng phải được thiết kế hài hòa với cảnh quan và các đặc
tính của địa phương. Không cấp phép xây dựng cho các công trình không đạt
các tiêu chí trên.
8. Thực hiện các biện pháp quản lý có lợi cho môi trường và làm giảm
30
áp lực đối với hệ sinh thái.
9. Tạo lập các vườn thực vật và khu dự trữ nguồn gen để có thể phục
vụ cho công việc bảo tồn gen và cho các dự án khôi phục thảm thực vật
10. Lập đài quan sát môi trường để phát hiện ra những biến đổi về môi
trường.
Chiến lược bảo vệ vùng núi Hoành Sơn đang đã được thực thi. Chiến lược
này là cả một nỗ lực lớn của chính quyền nhằm sửa chữa những sai lầm trong
quá khứ và phòng ngữa những sai lầm trong tương lai mặc dù khu du lịch
Hoành Sơn vẫn còn tồn tại một vài biểu hiện suy thoái nhưng các biện pháp
và kế hoạch cần thiết để đạt được sự phát triển du lịch bền vững đã được thiết
lập và thi hành. (Nguồn IUCN, 1998) [27]
1.2.2. ECOMOST: Mô hình du lịch bền vững của cộng đồng châu âu
Mô hình ECOMOST (European Community Models of Sustainable
Tourism) được xây dựng thử nghiệm tại Mallorka, Tây ban Nha. Đây là trung
tâm du lịch lớn nhất của châu âu. Khu vực này phát triển được là nhờ du lịch.
50% GDP của vùng thu nhập từ du lịch. Để khắc phục tình trạng suy thoái
của ngành du lịch ở Mallorka, một chương trình nghiên cứu và xây dựng mô
hình du lịch bền vững được tiến hành.Theo mô hình ECOMOST, phát triển
du lịch bền vững với 3 mục tiêu chủ yếu là :
Thứ nhất, bền vững về mặt sinh thái : bảo tồn sinh thái và đa dạng sinh
học. Phát triển du lịch cần phải tôn trọng khả năng tải của hệ sinh thái
Thứ hai, bền vững về mặt văn hóa xã hội: Bảo tồn được bản sắc văn
hóa, muốn vậy mọi quyết định phải có sự tham gia của cộng đồng.
Thứ ba, bền vững về mặt kinh tế : đảm bảo hiệu quả kinh tế và quản lý
tốt tài nguyên du lịch sao cho tài nguyên có thể phục vụ tốt các thế hệ tương
lai.
Ba yêu cầu chính nhằm duy trì khu du lịch:
- Dân số cần được duy trì hợp lý và giữ được bản sắc văn hóa.
31
- Cảnh quan cần được duy trì được sự hấp dẫn du khách.
- Không gây hại cho môi trường sinh thái.
Muốn thực hiện được ba yêu cầu trên cần có một cơ chế chính sách hiệu
quả, cơ chế này phải nhằm vào các nguyên tắc phát triển bền vững, cho phép
sự tham gia của cộng đồng vào việc hoạch định các chính sách du lịch.
ECOMOST đã chia nhỏ các mục tiêu của du lịch bền vững thành các
thành tố và sau đó các thành tố được nhận diện và đánh giá qua các chỉ thị:
- Thành tố văn hóa xã hội: dân số phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế xã
hội và bảo tồn được bản sắc văn hóa
- Thành tố du lịch: thỏa mãn du khách và các nhà kinh doanh du lịch, bảo
trì và hiện đại hóa điều kiện ăn ở và giải trí.
- Thành tố sinh thái: khả năng tải, bảo tồn cảnh quan, sự quan tâm đến
môi trường.
- Thành tố chính sách: đánh giá được chất lượng du lịch, chính sách định
hướng sinh thái, quy hoạch vùng, sự tham gia của cộng đồng và các nhóm
quyền lợi trong quá trình quy hoạch.
ECOMOST xây dựng một kế hoạch hành động cụ thể trong đó chia các
hành động dựa vào mức độ ưu tiên và xác định rõ trách nhiệm cá nhân, các tổ
chức có liên quan. ( Nikolova và Hens, 1998) [28]
1.2.3. Bài học rút ra cho phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng
Ninh
Từ những nghiên cứu về các mô hình nêu trên có thể đưa ra một số bài học
kinh nghiệm cho phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh như sau:
- Bảo vệ môi trường và cảnh quan tự nhiên: Sự phát triển của du lịch
Quảng Ninh chủ yếu dựa vào các tài nguyên du lịch tự nhiên như: Vịnh Hạ
Long, Vịnh Bái Tử Long, các bãi tắm dọc theo bờ biển. Vì vậy, vấn đề bảo vệ
môi trường và cảnh quan tự nhiên có tầm quan trọng đặc biệt. Từ bài học của
Cancun, Paytaya và Hoành Sơn, Quảng Ninh cần có những chính sách nhằm
32
bảo vệ môi trường và cảnh quan tự nhiên đảm bảo phát triển bền vững. Trước
hết là dừng ngay việc lấn biển xây dựng các khu đô thị mới. Hoạt động này
khiến cho diện tích rừng ngập mặn bị suy giảm nghiêm trọng, sự hài hòa về
mặt cảnh quan của khu vực Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long bị phá vỡ do
xuất hiện những công trình không phù hợp, những ngọn đồi “nham nhở” do
lấy đất lấn biển, nghiêm cấm hoạt động khai thác đá vôi phục vụ nhu cầu dân
sinh và công nghiệp. Công tác bảo vệ môi trường tại các khu du lịch cần phải
được quan tâm đặc biệt, một số khu du lịch bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu
ô nhiễm môi trường do hoạt động du lịch tạo nên như rác thải sinh hoạt xả
bừa bãi trên các bãi bãi biển, nhiều khu du lịch không có hệ thống xử lí,nước
thải chảy trực tiếp ra môi trường biển. Nước ngầm hao hụt nghiêm trọng vào
mùa cao điểm. Rút kinh nghiệm từ trường hợp Cancun, Quảng Ninh cần có sự
thay đổi trong nhận thức phát triển du lịch, cần xem mục tiêu bảo vệ môi
trường và cảnh quan là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu, để không lặp lại sai
lầm của các mô hình đã nêu trên.
- Có chiến lược quy hoạch phát triển du lịch cụ thể và hợp lí, từ trường hợp
của Paytaya cho thấy, công tác quy hoạch nếu như chậm chễ so với tốc độ
phát triển du lịch sẽ tạo ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, việc khác
phục sẽ khó khăn và tốn kém, thậm chí sẽ không thể khắc phục, nếu như nó
ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch tự nhiên. Vì vậy, để đảm bảo cho ngành du
lịch phát triển bền vững, Quảng Ninh cần xây dựng quy hoạch phát triển du
lịch có tầm nhìn chiến lược, trong đó phải tính đến yếu tố môi trường và xã
hội. Đây là vấn đề mà Quảng Ninh còn yếu, những hạn chế của bản quy
hoạch phát triển giai đoạn 2001-2010, đã bộc lộ trong quá trình thực thi. Để
nâng cao năng lực quy hoạch, tỉnh cần mời những chuyên gia đầu ngành trong
nước và quốc tế tham gia, đồng thời tham khảo ý kiến của các cấp chính
quyền và nhân dân địa phương, nơi có các dự án quy hoạch.
- Nâng cao hơn nữa vai trò của công tác quản lí nhà nước đối với hoạt động
33
du lịch, đây cũng là kinh nghiệm của Hoành Sơn và Mallorka. Chính quyền
cần phải có những chính sách phát triển du lịch hiệu quả và bền vững, xây
dựng được bộ máy quản lí nhà nước hoạt động hiệu quả đối với hoạt động du
lịch, đồng thời có những phản ứng nhanh chóng trước các sự cố do hoạt động
du lịch tạo nên. Lưu ý chương trình 10 điểm của chính quyền An Huy đối với
khu du lịch Hoành Sơn. Công tác giám sát thực hiện quy hoạch cần phải được
thực hiện nghiêm ngặt, đặc biệt là công tác giám sát xây dựng các công trình
trong khu du lịch, cần phải đảm bảo sự hài hòa với cảnh quan, kiên quyết
không cấp phép đối với các công trình không đạt tiêu chí trên. Bài học kinh
nghiệm của khu du lịch Hoành Sơn và Mallorka cho thấy vai trò đặc biệt quan
trọng của chính quyền và chính sách trong phát triển du lịch bền vững. Quảng
Ninh cần có những chính sách hợp lí trong công tác bảo tồn và phát huy giá
trị của tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên, loại tài
nguyên này dễ bị tổn thương do các hoạt động du lịch, khi bị phá hủy là
không thể phục hồi, đồng thời có biện pháp và chính sách tăng cường trách
nhiệm của các bên tham gia hoạt động du lịch, đảm bảo phát triển bền vững,
nhất là doanh nghiệp tư nhân, vì các đơn vị này dễ chảy theo mục tiêu lợi
nhuận mà từ bỏ các nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững.
- Bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng địa phương, văn hóa của cộng
đồng địa phương chịu những tác động mạnh mẽ từ hoạt động du lịch. Cộng
đồng người Maya tại Cancun ngày nay đã từ bỏ những tập tục truyền thống
văn hóa của mình, thay vào đó là những nét đặc trưng của văn minh phương
tây, điều này phần lớn do hoạt động du lịch tạo ra. Mục tiêu của du lịch bền
vững là sự bảo tồn nền văn hóa bản địa và coi đó là một sản phẩm du lịch đặc
sắc, trên địa bàn Quảng Ninh có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số với
những nét văn hóa đặc sắc, hấp dẫn du khách, nhất là du khách đến từ các
quốc gia phát triển. Nhiệm vụ của du lịch Quảng Ninh là khéo léo biến những
nét đặc sắc này thành các sản phẩm du lịch, nhưng đồng thời phải đi đôi với
34
công tác bảo tồn. Phát triển du lịch bền vững nhìn từ góc độ kinh nghiệm của
Mallorka còn là sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch,
sự phân phối một cách hợp lí lợi ích kinh tế thu được từ hoạt động du lịch với
cộng đồng địa phương. Cần phải ưu tiên vấn đề việc làm cho người địa
phương, mở các khóa đào tạo nghiệp vụ cơ bản, trang bị những kiến thức về
nghiệp vụ du lịch cho người địa phương, công tác này giúp xóa đói giảm
nghèo, đảm bảo cho hoạt động du lịch phát triển bền vững.
- Duy trì một số lượng cư dân và du khách hợp lí tại các khu du lịch, điều
này giúp giảm một cách tối đa sức ép của du lịch đối với môi trường sinh thái.
Đây là kinh nghiệm giúp cho du lịch của Mallorka phát triển bền vững, các
sản phẩm du lịch cao cấp bản thân nó đã lựa chọn người sử dụng, vừa hạn chế
được số lượng người tham gia vào hoạt động du lịch, nhưng đồng thời vẫn
35
đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp.
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG BỀN
VỮNG Ở QUẢNG NINH
2.1. Khái quát về du lịch Quảng Ninh
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Quảng Ninh là một tỉnh lớn ở địa đầu phía Đông Bắc của Việt Nam, có
vị trí địa lý từ 2040' - 2140' vĩ độ Bắc; từ 10626' - 10831' kinh độ Đông,
Điểm cực Bắc là dãy núi cao thôn Mỏ Toòng, xã Hoành Mô, huyện Bình
Liêu. Điểm cực Nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn.
Điểm cực Tây là sông Vàng Chua ở phía Tây xã Bình Dương và xã Nguyễn
Huệ, huyện Đông Triều. Điểm cực Đông trên đất liền là múi Gót ở Đông Bắc
phường Trà Cổ, thị xã Móng Cái.Bề ngang từ đông sang tây, khoảng dài nhất
là 195 km. Bề dọc từ bắc xuống nam khoảng dài nhất là 102 km. Quảng Ninh
là tỉnh tiền tiêu phía Bắc của Việt Nam, có đường biên giới quốc gia và hải
phận giáp Trung Quốc. Trên đất liền, phía Bắc các huyện Bình Liêu, Hải Hà
và thị xã Móng Cái giáp huyện Phòng Thành và thành phố Đông Hưng, tỉnh
Quảng Tây với chiều dài 132,8km. Đôi bên có chỗ núi đồi và thung lũng nối
liền (40,8km), còn phần lớn (92km) ngăn cách bởi sông suối, trong đó có
đoạn thượng nguồn sông Ka Long và sông Bắc Luận.
Quảng Ninh nằm trong dải hành lang biển lớn của Bắc Bộ, trên đó có
mạng lưới đường bộ, đường sắt và cảng biển lớn đang được mở rộng và phát
triển. Cùng với Hải Phòng, Quảng Ninh giữ vai trò cửa mở lớn ra biển cho cả
nước ở phía Bắc (có thể cho cả các tỉnh Tây – Nam Trung Quốc và Bắc Lào)
để chuyển tải hàng hóa xuất nhập khẩu, đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các
vùng khác trong cả nước và với nước ngoài, đồng thời còn có khả năng thiết
lập mối quan hệ hàng hải và hàng không với các nước trong khu vực Đông Á,
36
Đông Nam Á và thế giới. Đây là ưu thế đặc biệt của Quảng Ninh.
Địa hình tương đối phức tạp và đa dạng. Bao gồm: địa hình phần lục địa,
địa hình bờ biển và bãi biển, địa hình đáy biển nông ven bờ và địa hình các
đảo. Tất cả đặc điểm trên đã tạo nên một Quảng Ninh có phong cảnh sơn thủy
hữu tình, giàu tiềm năng về tài nguyên du lịch.
Khí hậu và thời tiết đa dạng, độc đáo và có nhiều biến động nhất ở nước
ta; chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa tạo nên một mùa hè nóng ẩm, mưa
nhiều với hướng gió chủ yếu là gió Đông Nam và có một mùa đông lạnh, ít
mưa với hướng gió chính là hướng Bắc và Đông Bắc. Khí hậu nói chung là
thích hợp cho phát triển du lịch nhất là du lịch thăm quan, tắm biển, phơi
nắng, nghỉ dưỡng, thể thao và sinh thái. Tuy nhiên do có mùa đông lạnh và có
nhiều ngày thời tiết xấu do có liên quan đến sự hoạt động của gió mùa đông
bắc gây nên trở ngại cho hoạt động du lịch, tạo nên tính mùa vụ trong hoạt
động du lịch ở Quảng Ninh.
Thủy văn: có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, nhưng đa số là ngắn và
dốc, có tiềm năng lớn về cung cấp nước, thủy lợi, giao thông, cung cấp thủy
sản, và khai thác để phục vụ du lịch. Chế độ nhật triều với biên độ lớn 4 -
4,5m là hiện tượng hiếm thấy trên thế giới, tạo ra những thay đổi lớn trong
ngày về diện mạo và cảnh quan bờ, đảo. Việc lợi dụng con nước triều có thể
đưa khách đi thăm những nơi đẹp, huyền bí nhưng khó đến. Tài nguyên nước
ngầm cũng khá phong phú.
Sinh vật: Tài nguyên sinh vật khá phong phú, đặc biệt là ở các đảo, do
cách biệt với đất liền nên còn bảo tồn được nhiều loài sinh vật quý hiếm. Các
thảm thực vật có ý nghĩa đối với du lịch là các rừng ngập mặn ở Tiên Yên -
Ba Chẽ và Quan Lạn - Cẩm Phả, rừng nhiệt đới thường xanh có trên đảo Ba
Mùn. Thảm thực vật phát triển trên núi đá vôi có mặt ở tất cả các đảo và núi
đá vôi trong vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Một đặc điểm tự nhiên đáng chú
ý ở khu vực này là các rạn san hô ngầm. Các rạn san hô của khu vực phân bố
37
chủ yếu ở Đầu Bê và Long Châu. Độ sâu sườn rạn không lớn (2 - 6m).
2.1.2.Tiềm năng phát triển du lịch.
2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên.
Thắng cảnh: Quảng Ninh được thiên nhiên ưu đãi nhiều thắng cảnh đẹp.
Đây là điều kiện thuận lợi để Tỉnh phát triển nhiều loại hình sản phẩm du
lịch, hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Tiêu biểu nhất trong những ưu
đãi của thiên nhiên đối với Quảng Ninh là Vịnh Hạ Long. Đây là một vịnh kín, có diện tích khoảng 1.500km2, với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ, chủ yếu
là đảo đá vôi. Hệ thực vật trên các đảo chủ yếu là các quần thể cây bụi tự
nhiên. Hệ thống các đảo trong Vịnh với muôn hình muôn vẻ và được đặt tên
theo các con vật, đồ vật (hòn Con Cóc, hòn Con Voi, hòn Gà Chọi, hòn
Bút...), và nhiều hang động đẹp gắn với nhiều truyền thuyết huyền bí như
hang Đầu Gỗ, hang Trinh Nữ, hang Sửng Sốt, động Thiên Cung. Hạ Long có
mặt nước phẳng lặng, ít có sóng lớn, nước biển trong xanh, khí hậu ấm áp
trong lành. Hạ Long có nhiều đặc sản quý như các loại cá, tôm he, hải sâm,
bào ngư, sá sùng... Trên các đảo có nhiều chim, thú quý như gà ri, chim xanh,
sơn dương, khỉ, kỳ đà..., nhiều đảo khai thác được ngọc trai, san hô...
Hạ Long đã được UNESCO hai lần công nhận là Di sản thiên nhiên thế
giới bởi giá trị cảnh quan và giá trị địa chất ở đây. Ngoài ra, Vịnh Hạ Long
còn có giá trị về mặt đa dạng sinh học, giá trị về mặt văn hóa lịch sử. Hai giá
trị này đang được các cơ quan có thẩm quyền đệ trình lên ủy ban di sản của
UNESCO để tiếp tục được công nhận là di sản thế giới. Vịnh Hạ Long là tài
sản vô giá và là niềm tự hào của người Quảng Ninh nói riêng và người Việt
Nam nói chung.
Ngoài Vịnh Hạ Long nổi tiếng, Quảng Ninh còn có 28 thắng cảnh khác
đã được kiểm kê. Trong đó đáng chú ý hơn cả là các thắng cảnh Yên Tử, hồ
và đồi thông Yên Trung, thác Lụng Xanh (Uông Bí), Hồ và đồi thông Yên
38
Lập ở Hoành Bồ, thác Suối Mơ ở Yên Hưng.
Hang động, bãi tắm: Các hang động ở Quảng Ninh rất phong phú, đa
dạng muôn hình muôn vẻ và có sức hấp dẫn lớn với khách du lịch, tiêu biểu là
các hang Đầu Gỗ, hang Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, hang Luồn, động Thiên
Cung, động Tam Cung, Mê Cung...
Quảng Ninh có bãi biển Trà Cổ thoải, nông và rộng nhất nước ta, ngoài
ra còn nhiều bãi tắm đẹp, cát mịn, nước biển trong xanh và tĩnh lặng nằm
dưới chân các đảo đá Ba Trái Đào, Áng Dù, Cửa Dứa hoặc trải dài hàng
kilomet quanh các đảo Quan Lạn, Ngọc Vừng. Đây là những bãi tắm lý tưởng
cho khách du lịch trên hành trình thăm Vịnh Hạ Long.
Nước khoáng: Quảng Ninh có nhiều điểm nước khoáng dùng để uống
và điều trị được phát hiện ở Quang Hanh (Cẩm Phả), Khe Lạc (Tiên Yên),
Đồng Long (Bình Liêu). Đặc biệt nước khoáng Quang Hanh có trữ lượng trên 1000m3/ngày, có chất lượng cao, có vị hơi mặn, độ khoáng hóa từ 3,5 - 5g/l,
với thành phần vi lượng chủ yếu là Na, K, Ca, Mg, Cl, SO4, H2CO3 và một số điểm có nhiệt độ trên 35OC nên có tác dụng điều trị một số bệnh. Hiện nay dự
án khu du lịch nghỉ dưỡng kết hợp chữa bệnh đang được triển khai xây dựng,
thu hút được sự quan tâm của du khách Nhật Bản và Hàn Quốc.
Các hệ sinh thái đặc biệt: ở Quảng Ninh có nhiều hệ sinh thái đa dạng,
nguyên sinh với nhiều giống loài động thực vật quý hiếm. Đó là các hệ sinh
thái vùng biển nhiệt đới với thảm thực vật thường xanh quanh năm trên các
đảo, các rừng ngập mặn với nhiều loại chim thú rừng. ở Quảng Ninh còn có
các hệ sinh thái san hô rất độc đáo với 197 loài san hô, chiếm tới 80% tổng số
loài san hô ở khu vực bờ Tây Thái Bình Dương. San hô ở Vịnh Hạ Long được
mọc thành dải, có độ che phủ cao, trong đó có một loài san hô quý hiếm như
san hô đỏ, san hô sừng được ghi trong sách đỏ của Việt Nam và thế giới, các
vườn quốc gia Bái Tử Long (Vân Đồn), Khu bảo tồn thiên nhiên Đồng Sơn -
Kỳ Thượng (Hoành Bồ), các công viên biển rất có ý nghĩa trong việc bảo tồn
39
các hệ sinh thái đặc biệt và rất có giá trị này.
2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn.
Các di tích lịch sử văn hóa, cách mạng. Hệ thống các di tích lịch sử văn
hóa, lịch sử cách mạng và kiến trúc nghệ thuật là những nguồn tài nguyên
quan trọng để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa.
Quảng Ninh là nơi có truyền thống đấu tranh yêu nước. Trong quá trình
phát triển của lịch sử từ ngàn đời nay, nơi đây còn lưu giữ được nhiều di tích
lịch sử văn hóa, cách mạng và kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Đây là tài sản vô
giá không những của riêng Quảng Ninh mà là còn của cả nước, của cả dân tộc
Việt Nam. Nhiều di tích lịch sử văn hóa, cách mạng ở đây có giá trị lớn không
những về mặt lịch sử mà còn là những khu danh thắng nổi tiếng có ý nghĩa
phục vụ phát triển du lịch (Bãi cọc Bạch Đằng...). Nhiều di tích trong số đó đã
được xếp hạng là những di tích cấp quốc gia. Tính đến năm 2004, trên địa bàn
tỉnh đã có 53 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và nhiều di tích khác được
xếp hạng cấp địa phương.
Nhóm di tích lịch sử văn hóa: Đây là nhóm di tích có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc khai thác phục vụ du lịch. Trong số đó có những di tích có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng và có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. Tiêu
biểu là quần thể di tích và danh thắng Yên Tử (đã từng là thủ đô tâm linh của
Đại Việt); đền Cửa Ông; bãi cọc Bạch Đằng; quần thể đình miếu như chùa
Quan Lạn, miếu Tiên Công, chùa Bắc Mã v.v... Đặc biệt nhất là di sản thiên
nhiên và văn hóa thế giới Vịnh Hạ Long với hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ và
hàng chục hang động, trong đó nhiều hang có chứa dấu vết văn hóa Việt cổ,
đặc sắc nhất là khu di tích danh thắng Núi Bài Thơ với bài thơ bất hủ của Lê
Thánh Tông (1468) khắc trên vách núi.
Nhóm di tích cách mạng: Là vùng đất giàu lòng yêu nước, nơi đã sinh
ra nhiều tiền bối anh hùng của dân tộc. Nhiều vùng đất đã nổi danh trong cuộc
đấu tranh cách mạng của dân tộc như thôn Bắc Mã, xã Bình Dương, huyện
40
Đông Triều - nơi thành lập đội quân cách mạng của Đệ tứ chiến khu Trần
Hưng Đạo ngày 8/6/1945; mỏ than Mạo Khê - nơi thành lập Chi bộ Đảng
Cộng sản đầu tiên của vùng Mỏ. Khi nói đến Quảng Ninh là nhớ đến Núi Bài
Thơ với ngọn cờ đỏ sao vàng, tượng trưng cho khí phách đấu tranh cách mạng
quật cường của nhân dân đất Mỏ
Các lễ hội truyền thống: Cũng như bao miền quê khác của Việt Nam,
Quảng Ninh cũng là địa phương có nhiều lễ hội đặc sắc trong năm. Ngoài
những lễ hội chung của cả nước, còn có những lễ hội mang đậm nét của vùng
duyên hải Đông Bắc nước ta. Những lễ hội truyền thống ở Quảng Ninh thư-
ờng gắn với các sự kiện lịch sử hoặc các hoạt động văn hóa dân gian, gắn với
cuộc sống tín ngưỡng của người dân.
Những lễ hội dân gian tiêu biểu bao gồm: hội ó Pò của dân tộc Sán Chỉ
ở huyện Bình Liêu; hội hát giao duyên, hát đối của đồng bào các dân tộc thiểu
số mỗi dịp xuân về; hội Chèo cạn; tục hát cưới ở Hoành Bồ... Nét đặc sắc của
tục hát cưới Hoành Bồ là họ nhà trai phải hát đối với họ nhà gái cho đến khi
được chấp nhận thì mới được đón dâu, nếu thua thì phải về chuẩn bị lại.
Một số lễ hội lễ hội khác ở Quảng Ninh vừa mang tính du xuân vừa
mang tính tín ngưỡng như hội chùa Yên Tử, hội đền Cửa Ông, hội Tiên Công,
hội Chùa Quỳnh Lâm... Trong các lễ hội lịch sử phải kể đến lễ hội làng Quan
Lạn, là nơi thờ phó tướng Trần Khánh Dư, vị tướng hải quân kiệt xuất của
thời Trần. Hiện nay Sở Văn hóa Thể thao và du lịch đã tiến hành phục dựng
một số lễ hội của đồng bào dân tộc ít người và đạt được nhiều kết quả khả
quan. Khu vực Vịnh Hạ Long Sở tiến hành phục dựng lại những phong tục
tập quán đặc sắc của ngư dân vạn chài như: hát đối, lễ cưới hỏi, cách đánh bắt
thủy hải sản truyền thống, rất được du khách ưa thích.
Nghề thủ công truyền thống: Các làng nghề thủ công mỹ nghệ gốm
sứ ở thị trấn Đồng Triều, Mạo Khê; nghề đánh bắt hải sản (câu mực, câu cá
song, đánh cá đền, đào sái sùng, cào ngán...); nghề chế tác mỹ nghệ từ than
41
đá...Ngoài ra trong nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh còn có
các nghề dệt thổ cẩm, đan lát mây tre... Những nghề này nếu được đầu tư khai
thác thì có thể hấp dẫn khách du lịch rất lớn, cung cấp nhiều sản phẩm lưu
niệm cho du khách.
Văn hóa truyền thống của các dân tộc ít người như Dao, Tày, Sán Dìu,
Hoa (chiếm khoảng 10% dân số) tập trung nhiều ở các huyện Hoành Bồ, Ba
Chẽ, Tiên Yên, Bình Liêu, Quảng Hà, Móng Cái, Vân Đồn; các đặc sản như
rượu ngán Hạ Long, rượu nếp ngâm Hoành Bồ, nem chua, canh hà Quảng
Yên, Cà Sáy Tiên Yên, sá sùng rang, chả mực... có thể đưa vào khai thác phục
vụ du lịch.
2.1.2.3. Chính sách phát triển du lịch Quảng Ninh.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của ngành du lịch đối với sự
phát triển chung của kinh tế xã hội Quảng Ninh,vấn đề phát triển du lịch đã
được đưa vào chương trình nghị sự của Đại hội đại biểu các khoá 9, 10 và 11,
12, 13 và được cụ thể hoá trong văn kiện nghị quyết của các Đại hội này. Du
lịch Quảng Ninh giai đoạn này có những bước phát triển đầu tiên. Năm 1994
du lịch Quảng Ninh đón nhận một sự kiện vô cùng quan trọng, tác động mạnh
mẽ đến sự phát triển của ngành đó là việc Vịnh Hạ Long được UNESCO công
nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển của du lịch Quảng
Ninh trong giai đoạn này còn chưa tương xứng với tiềm năng còn mang tính
đơn lẻ chưa tạo được mối quan hệ hữu cơ với các ngành kinh tế - xã hội khác.
Nhận thức được thực trạng này Đại hội đại biểu tỉnh lần thứ 11 đã giành nhiều
thời gian thảo luận về vấn đề phát triển du lịch, đây cũng là Đại hội đánh dấu
bước chuyển về nhận thức đối với sự phát triển của du lịch Quảng Ninh trong
giai đoạn mới. Bước đầu tiên du lịch được nhiều nhận thức như một ngành
kinh tế mũi nhọn là động lực chính của kinh tế - xã hội của tỉnh, cụ thể hoá
nhận thức này tỉnh uỷ Quảng Ninh lần đầu tiên đưa ra chỉ đạo cụ thể phương
hướng của ngành đó là nghị quyết số 08 về đổi mới và phát triển du lịch
42
Quảng Ninh giai đoạn 2001 – 2010.
Nghị quyết gồm có 3 phần, phần một là những đánh giá về tình hình về
hoạt động du lịch giai đoạn 1991 – 2000, trong đó chỉ ra những thành tựu mà
du lịch Quảng Ninh đạt được. Cùng với sự phát triển chung của cả tỉnh,
những năm qua du lịch Quảng Ninh có những tiến bộ đáng kể, nhận thức của
các cấp các ngành và các tầng lớp nhân dân về du lịch đã có những chuyển
biến rõ rệt hạ tầng du lịch ở những khu vực trọng điểm được đầu tư, tạo cơ sở
vật chất quan trọng cho ngành du lịch phát triển với tốc độ nhanh hơn. Nghị
quyết chỉ ra nhiều thành tựu cụ thể mà ngành du lịch đạt được trong giai đoạn
1991 – 2000, cơ sở vật chất kỹ thuật công tác quảng bá xúc tiến nhân lực.
Đồng thời nghị quyết cũng thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại yếu kém của
ngành. Hoạt động du lịch còn nhiều mặt yếu kém, sản phẩm du lịch đơn điệu,
nghèo nàn, chất lượng còn thấp. Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ du lịch còn thiếu đồng bộ, cơ sở lưu trú còn ít, chất lượng chưa cao.
Công tác quản lý nhà nước về du lịch chưa được quan tâm đúng mức và còn
nhiều thiếu sót, chưa có định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển lâu
dài. Đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn nghiệp cụ của ngành chưa ngang
tầm với nhiệm vụ. Sự phát triển hợp giữa các ngành chưa đồng bộ, hiệu quả
hoạt động kinh doanh du lịch thấp, môi trường du lịch chưa thực sự tốt, công
tác quảng bá xúc tiến du lịch còn ở mức độ thấp và ít hiệu quả chưa có chiến
lược khai thác tiếp thị đối với thị trường du lịch quốc tế. Trên cơ sở nhận định
những hạn chế nêu trên, nghị quyết đưa ra quan điểm mục tiêu, giải pháp phát
triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2010. Về quan điểm phát triển nghị quyết
yêu cầu ngành phát huy tận dụng mọi ưu thế phát triển du lịch thành kinh tế
mũi nhọn sự nghiệp phát triển ngành du lịch là sự nghiệp chung của các cấp
các ngành, tổ chức xã hội và toàn thể nhân đân trong tỉnh, phát triển du lịch
phải gắn liên với bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội giữ gìn thuần phong
mỹ tục và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Về mục tiêu đến năm 2010 đón 6
43
triệu khách, doanh thu du lịch chiếm 14% GDP cả tỉnh. Nghị quyết đưa ra
những gợi ý về giải pháp phát triển, trong đó nhấn mạnh đến việc hoàn thiện
thể chế chính sách, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước đồng thời phát huy sức
sáng tạo của các thành phần kinh tế.
Thực hiện nghị quyết số 08, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở du lịch và Sở Kế
hoạch và Đầu tư phối hợp nghiên cứu và quy hoạch phát triển cho ngành du
lịch trong giai đoạn trước mắt. Đây là quy hoạch chi tiết đầu tiên cho du lịch
Quảng Ninh. Trong đó đánh giá một cách toàn diện các nhân tố ảnh hưởng
đến sự phát triển của du lịch Quảng Ninh, thực trạng phát triển du lịch trong
giai đoạn 1991 – 2000, chỉ rõ những kết quả đạt được và những hạn chế tồn
tại. Quy hoạch đã đưa ra các nhận định về sự phát triển của bối cảnh trong
nước và quôc tế, phân tích sự ảnh hưởng của bối cảnh đối với sự phát triển
của ngành, trên cơ sở đó đưa ra những định hướng cụ thể về phát triển thị
trường khách, định hướng phát triển sản phẩm, định hướng phát triển về cơ sở
vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực. Theo quy hoạch giai đoạn 200 – 2010,
Quảng Ninh sẽ có 4 trung tâm du lịch chính là: Hạ Long, Móng Cái, Vân Đồn
và Uông Bí. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu và hướng phát triển của từng
khách du lịch. Cuối cùng là đưa ra các giải pháp cụ thể để thực hiện một cách
có hiệu quả quy hoạch này.
Tháng 3 năm 2005 tỉnh uỷ còn đưa ra nghị quyết số 21 về việc “đẩy
mạnh phát triển các ngành dịch vụ đến năm 2010 và định hướng đến năm
2015”. Trong đó có phần đề cập đến sự phát triển của ngành du lịch Quảng
Ninh. Nghị quyết số 21 cũng sơ bộ đánh giá kết quả hoạt động của ngành du
lịch sau năm thực hiện nghị quyết số 08. Cũng trong nghị quyết này mục tiêu
phát triển du lịch Quảng Ninh được nâng lên thành một trung tâm du lịch
hàng đầu của cả nước, phấn đấu xây dựng du lịch Quảng Ninh trở thành
thương hiệu mạnh trong khu vực Đông Nam Á vào năm 2015.
Năm 2010, Quảng Ninh tiến hành Đại hội đại biểu tỉnh lần thứ 13. Đại
44
hội cũng giành thời gian cho vấn đề phát triển du lịch, sự quan tâm của Đại
hội được cụ thể hoá trong nghị quyết: “Đẩy mạnh hơn nữa đầu tư phát triển
hạ tầng du lịch, phát triển các tuyến du lịch Uông Bí, Hạ Long, Vân Đồn,
Móng Cái. Nâng cao chất lượng hiệu quả du lịch Vịnh Hạ Long, phát triển du
lịch về phá Hòn Gai, hình thành các khu du lịch sinh thái biển cao cấp, du lịch
văn hoá đa dạng hoá sản phẩm du lịch gắn với Vịnh Hạ Long, Vịnh Bái Tử
Long, khu di tích Yên Tử, khu di tích lịch sử Bạch Đằng. Phấn đấu năm 2015
đón 6,9 triệu lượt khách du lịch trong đó 3,3 triệu lượt khách quốc tế. Nghị
quyết của Đại hội cũng yêu cầu UBND tỉnh, sở Văn hoá - Thể thao – Du lịch,
Sở Kế hoạch - Đầu tư khẩn trương hoàn thành đề án quy hoạch du lịch Quảng
Ninh giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn năm 2030”. Ngoài ra chính quyền
Tỉnh còn ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các công tác cụ thể có liên quan đến
sự phát triển của ngành du lịch như: Nghị quyết số 09 về “ Công tác, quản lí,
bảo tồn, phát huy giá trị di sản Vịnh Hạ Long đến năm 2005”. Quyết định
số4117/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân Tỉnh về “ Công tác quản lí tàu thuyền
trên Vịnh Hạ Long”. Các quy chế đánh giá hoạt động của các đơn vị kinh
doanh du lịch…v.v.
Du lịch đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo rất lớn từ phía chính quyền và
Đảng bộ tỉnh, điều đó thể hiện qua hàng loạt văn bản chính sách phương
hướng phát triển. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ phát triển bền vững thì chưa có
một văn bản chính sách nào cụ thể hoá vấn đề phát triển bền vững cho du lịch
Quảng Ninh mà chỉ được đề cập đến một cách chung chung qua các khái
niệm như: bảo vệ môi trường và du lịch sinh thái v.v… điều đó chưa đủ so
với yêu cầu thực tế đặt ra. Hy vọng trong đề án phát triển du lịch Quảng Ninh
giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn 2030 “Những vấn đề liên quan đến phát
45
triển bền vững sẽ được đề cập một cách cụ thể và sâu sắc hơn”.
2.2. Tình hình phát triển du lịch ở Quảng Ninh.
2.2.1. Công tác quản lý nhà nước về du lịch.
Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch là cơ quan quản lí nhà nước, có trách
nhiệm quản lí toàn bộ hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh. Sau khi sát nhập
vào năm 2007, công tác quản lí nhà nước dần đi vào ổn định, bộ máy tổ chức
được kiện toàn theo hướng tinh gọn, nâng cao năng lực quản lí theo cơ cấu
ngành dọc và theo cơ cấu lãnh thổ. Sở đã tiến hành sắp xếp tổ chức, quy
hoạch cán bộ cho phù hợp với tình hình mới. Xây dựng các phương án phối
hợp với các ban ngành chức năng để triển khai các hoạt động du lịch, tôn tạo
và bảo tài nguyên và môi trường du lịch, thường xuyên tiến hành các hoạt
động kiểm tra các đơn vị kinh doanh du lịch, chấn chỉnh và xử lí các vi phạm,
tham mưu cho lãnh đạo Tỉnh và Trung ương ban hành các các quy định phù
hợp với tình hình quản lí và phát triển du lịch trên địa bàn Tỉnh. Công tác
quản lí nhà nước còn được thể hiện thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế,
tiếp tục thực hiện các chương trình hợp tác với Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản.
Tuy nhiên, công tác quản lí nhà nước đối với hoạt động du lịch còn tồn tại
một số hạn chế: thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ trong quản lí các hoạt động du
lịch, thiếu cán bộ chuyên trách. Việc quản lí quy hoạch, môi trường du lịch
chưa chủ động và kịp thời, công tác đào tạo cán bộ còn chậm. Trong thời gian
tới Tỉnh cần phải có những giải pháp triệt để khắc phục những hạn chế này,
nhằm tạo động lực phát triển vững chắc, hội nhập với sự phát triển chung của
du lịch trong nước và quốc tế.
Với chủ trương xã hội hóa, hoạt động kinh doanh du lịch đã có sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế với nhiều loại hình kinh doanh.Trong đó
đóng vai trò chủ đạo là doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên giai đoạn gần đây
ngành du lịch cũng đã gi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ của khối doanh
nghiệp tư nhân, trong tương lai không xa chắc chắn đây sẽ là lực lượng chủ
46
đạo đóng góp cho sự phát triển của ngành du lịch Quảng Ninh.
2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Cơ sở lưu trú là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo cho hoạt động du
lịch. Sự phát triển của du lịch Quảng ninh trong những năm qua đã thúc đẩy
sự phát triển của các cơ sở lưu trú. Giai đoạn 2001 – 2010 chứng kiến sự phát
triển mạnh mẽ của cơ sở lưu trú với sự tham gia của nhiều thành phần kih tế,
các cơ quan tổ chức và tự nhiên lân lượt ra đời đáng kể nhất là loại hình
khách sạn mini và nhà nghỉ. Các cơ sở lưu trú này đáp ứng nhu cầu của khách
sạn du lịch vào mùa cao điểm. Tuy nhiên với đặc thù du lịch biển cho nên chỉ
hoạt động mạnh vào dịp hè còn các mùa khác trong năm sẽ gặp phải tình
trạng dư thừa. Vì vậy, công suất sử dụng phòng không cao năm 2001 là 51%,
năm 2010 đạt 54%. Riêng các khách sạn xếp sao đặt công suất sử dụng phòng
cao trên 70%. Ví dụ: Khách sạn Hạ Long 1,2,3 và Hạ Long Bay là 75,1%;
Khách sạn Sài Gòn - Hạ Long đạt 73,1%; Khách sạn Lợi Lại 70%.
Trong giai đoạn 2001 – 2010, Tổng số khách sạn và số phòng đạt tiêu
chuẩn không ngừng tăng. Năm 2001, Quảng Ninh có 224 CSLT với 2982
phòng. Trong đó 10 khách sạn được xếp hạng với 734 phòng. Năm 2010
Quảng Ninh có 975 cơ sở lưu trú với 13.665 buồng, trong đó có 02 khách sạn
5 sao, 5 khách sạn 4 sao, 10 khách sạn 3 sao, 35 khách sạn 1 – 2 sao và 923
khách sạn mini, nhà nghỉ. đáng chú ý giai đoạn này xuất hiện một lọai hình cơ
sở lưu trú mới là dịch vụ nghỉ đêm trên Vịnh Hạ Long rất được khách du
khách ưa chuộng, hiện nay có 155 tàu với 1405 phòng nghỉ.[8]
Tuy nhiên, về cơ sở lưu trú qua khảo sát cho thấy số lượng khách sạn có
quy mô lớn không nhiều và không đồng bộ, mặc dù quy hoạch phát triển du
lịch đã chỉ rõ có 4 trung tâm lớn là Hạ Long; Đông Triều – Uông Bí; Móng
Cái và Vân Đồn nhưng phần lớn các khách sạn lại tập trung ở Hạ Long, khu
vực thành phố, Móng Cái giai đoạn gần đây có bước phát triển, đặc biệt Móng
Cái là địa phương có khách sạn được công nhận tiêu chuẩn 5 sao đầu tiên của
47
tỉnh.
Cơ sở dịch vụ ăn uống ở Quảng Ninh rất đa dạng hầu hết các cơ sở lưu
trú du lịch đều phục vụ ăn uống. Ngoài ra, còn có các nhà hàng quán ăn, quán
giải khát, bar, cà phê của các thành phần kinh tế phục vụ khách du lịch và
nhân dân địa phương hoạt động suốt ngày đêm, vấn đề quan tâm của khách du
lịch và các nhà quản lý là vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng phục vụ và
giá cả.
Các cơ sở vui chơi - giải trí - thể thao phục vụ khách du lịch cũng như
nhân dân địa phương còn nhiều hạn chế. Hiện tại Quảng Ninh có một sân
Gold và chuẩn bị xây dựng thêm một sân ở Vân Đồn.
Ô tô và tàu chyến là hai loại phương tiện du lịch chủ yếu hiện nay. Giai
đoạn 2001 – 2010 chứng kiến bước nhảy quan trọng trong sự phát triển của
hai loại phương tiện này. Nếu như năm 2000 Quảng Ninh có 30 đầu xe phục
vụ du lịch và 220 tàu thuyền thì hiện nay Quảng Ninh có 250 đầu xe đạt tiêu
chuẩn quốc tế phục vụ cho du lịch hoạt động theo tuyến Hà Nội - Hạ Long;
Hạ Long - Móng Cái.
Bảng 2.1: Tình hình cơ sở vật chất-kỹ thuật của du lịch Quảng Ninh
giai đoạn 2001- 2010
Danh mục Năm2001 Năm2010
Khách sạn xếp hạng 16 86
Cơ sỏ lưu trú CSLT khác 214 889
Tổng số 230 975
Xe du lịch 41 256
Phương tiện vận tải 191 Tàu du lịch 485
Tổng số 232 741
4 16 Khu vui chơi, giải trí
48
Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh
Một số loại hình mới xuất hiện như: Xích lô du lịch, xe đạp đôi tại khu
du lịch Bãi Cháy, Móng Cái, Quan Lạn – Minh Châu tạo sự phong phú cho
khách du lịch lựa chọn. Tàu thuyền du lịch cũng phát triển nhanh về số lượng.
Năm 2010 có 485 tàu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, đón được 2,5
triệu lượt khách doanh thu từ vận chuyển khách đạt 350 tỷ đồng. Đặc biệt gần
đây xuất hiện loại hình nghỉ đêm trên Vịnh rất được du khách ưa chuộng.[8]
2.2.3. Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh
Theo số liệu thống kê của sở du lịch Quảng Ninh năm 2000 số lao động
trực tiếp của ngành du lịch là 5500 người, số lao động gián tiếp thuộc các
thành phần kinh tế ước đoán khoảng 20.000. Năm 2010 con số lao động trực
tiếp là khoảng 25.000 người, tăng 5 lần so với năm 2000, số lao động gián
tiếp khoảng 45.000 người.[8]
Nhìn chung chất lượng nguồn lao động của Quảng Ninh còn thấp. 2/3 số
lao động trực tiếp trong ngành chưa qua đào tạo. Khả năng giao tiếp và sử
dụng ngoại ngữ còn nhiều hạn chế, số lượng cán bộ công nhân viên có trình
độ đại học và sau đại học chiếm một số lượng rất nhỏ.
Việc nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động là một vấn đề quan trọng,
vì nó sẽ quyết định chất lượng phục vụ, chất lượng sản phẩm du lịch và hiệu
quả sản phẩm du lịch. Nhận thức được vai trò quan trọng trong việc đào tạo
và bỗi dưỡng nguồn nhân lực, trong giai đoạn 2001 – 2010 Đảng bộ tỉnh
Quảng Ninh đã giành sự quan tâm sâu sắc đối với ngành du lịch thông qua
văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần 11, 12, 13 các Nghị quyết số 08-NĐ-TW,
21 NQ-TW chỉ ra phương hướng cho công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân
lực ngành du lịch. Sở Văn hóa – Thông tin – Du lịch và Sở Du lịch trước đây
đã mở nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ quản lý, trình
độ nghiệp vụ, tinh thần phục vụ, khả năng giao tiếp và ngoại ngữ. Năm 2010
lần đầu tiên Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã liên kết hợp tác với trưởng
49
Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn mở khóa đào tạo sau đại học chuyên
ngành du lịch học tại Quảng Ninh. Đây là bước đi nhằm nâng cao trình độ
cho cán bộ ngành du lịch, đáp ứng yêu cầu cho giai đoạn phát triển mới 2011
– 2020 giai đoạn phấn đấu đưa du lịch Quảng Ninh thành trung tâm du lịch
hàng đầu của Châu lục.[4]
Bảng 2.2 Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh
giai đoạn 2001- 2010
Đơn vị Năm 2001 Năm 2010
Số lao động trực tiếp Người 5205 25000
Trình độ chuyên môn
Đại học và Sau đại học 457 4.499
Cao đẳng và Trung cấp 997 6135
Nhân viên nghiệp vụ qua đào tạo 1865 9816
Trình độ ngoại ngữ
Đại học ngoại ngữ 87 1431
Trình độ C 254 9025
Trình độ B 467 9816
Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh
2.2.4. Tình hình kinh doanh du lịch giai đoạn 2001 – 2010
Giai đoạn 2001 – 2010 tình hình kinh doanh du lịch Quảng Ninh có bức
phát triển vượt bậc, nếu như năm 2000 số lượng khách du lịch đến Quảng
Ninh là 1,5 triệu lượt khách trong đó khách quốc tế là 544.000 người, doanh
thu 224 tỷ đồng thì năm 2010 Quảng Ninh đón 5,4 triệu lượt khách du lịch,
trong đó khách quốc tế là 2,2 triệu lượt. Doanh thu đạt 3100 tỷ đồng tăng hơn
10 lần so với năm 2000. Hiện nay, Quảng Ninh là tỉnh có doanh thu từ du lịch
đứng thứ 3 cả nước sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội theo. tốc độ tăng
bình quân của khách du lịch giai đoạn 2001 – 2010 là 15,1%, tốc độ tăng của
50
doanh thu du lịch là 37%/năm. Năm 2000 có 544.000 du khách quốc té đến
Quảng Ninh chiếm 25,4% tổng lượng khách của cả nước, thì năm 2010 đón
2,2 triệu lượt khách quốc tế chiếm 65% lượng khách của cả nước. Như vậy,
có thể khẳng định Quảng Ninh là trọng điểm thu hút khách quốc tế nhất Việt
Nam.[8]
Những thành công trên có được là nhờ sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh ủy,
UBND tỉnh sự phát huy nội lực của ngành du lịch tỉnh. Trong những năm vừa
qua đã được vào khai thác, sử dụng nhiều sản phẩm du lịch độc đáo, thu hút
được sự quan tâm của du khách như: các sản phẩm vui chơi giải trí của khu
du lịch quốc tế Tuần Châu, cáp treo Yên Tử, công viên quốc tế Hoàng Gia
Lợi Lai, sân Gold Trà Cổ, du lịch nghỉ đêm trên Vịnh Hạ Long, nhiều dự án
mới đang dược hoàn thành như: Dự án khu du lịch khách sạn 5 sao Bãi Cháy,
dự án sân Gold và quần thể sinh thái Ao Tiên, đặc biệt Vịnh Hạ Long lọt vào
giai đoạn 3 cuộc thi bình chọn 7 kỳ quan thiên nhiên hiện đại do New Open
World phát động, sẽ là động lực cho sự phát triển của du lịch Quảng Ninh
trong những năm tới.
Bảng 2.3 Tình hình kinh doanh của ngành du lịch Quảng Ninh
giai đoạn 2001- 2010
2006 2010 Đơn vị Danh mục
Trong nước 1,995 3,295 Triệu người
Khách du lịch Quốc tế 1,115 2,122 Triệu người
Tổng số 3.110 5,417 Triệu người
Tổng doanh thu 1,182 Ngìn tỷ đồng
Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh
2.3. Đánh giá tính bền vững của du lịch Quảng Ninh
2.3.1. Vấn đề đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Du lịch là một ngành kinh tế. Vì vậy,vấn đề tiêu thụ sản phẩm dịch vụ là
vấn đề sống còn. Người tiêu dùng trong du lịch có những nét đặc biệt so với
51
những lĩnh vực khác. Du khách có thể từ chối sản phẩm ngay khi họ đang tiêu
dùng, vì một lí do nào đó khiến họ không hài lòng. Sản phẩm du lịch là một
sản phẩm mang cả tính hữu hình lẫn vô hình. Nó có thể tăng giá trị khi đáp
ứng những nhu cầu này sinh tức thì của du khách. Do vậy, chiến lược chung
của ngành kinh tế du lịch là thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách để thu hút
khách đến với dịch vụ của mình đồng thời gia tăng doanh thu. Tuy nhiên, nhu
cầu của khách du lịch là rất đa dạng, bên cạnh những nhu cầu chính đáng còn
có cả những nhu cầu xâm hại đến tài nguyên, thuần phong mỹ tục, an ninh
chính trị, an toàn xã hội. Đối với những nhu cầu không chính đáng này việc
đáp ứng sẽ gây ra những hậu quả không thể lường trước cho doanh nghiệp và
cho xã hội.
Theo điều tra của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, tiến hành đối với
du khách nước ngoài về điểm đến yêu thích ở Việt Nam. Trong số các điểm
đến Hạ Long (Quảng Ninh), Hội An, Mỹ Sơn (Quảng Nam) Huế, Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh có đến 41,5% số khách được hỏi lựa chọn Hạ Long
là lựa chọn thứ nhất 27,5% coi Hạ Long là lựa chọn thứ hai khi đến thăm Việt
Nam; Những chỉ số này cho thấy Hạ Long - Quảng Ninh là điểm đến hấp dẫn
đối với khách quốc tế, vấn đề đặt ra là Quảng Ninh đã sẵn sàng cho việc tiếp
đón và đáp ứng tối đa nhu cầu của khách chưa?
Trong bộ chỉ thị đánh giá nhanh về tính bền vững của du lịch chỉ ra
rằng, tỷ lệ quay trở lại số ngày lưu trú bình quân, tỷ lệ rủi ro của du khách là
những tiêu chí tổng quát nhất đánh giá về khả năng đáp ứng nhu cầu của
khách đối với điểm du lịch. Đây cũng là một trong những tiêu chí quan trọng
nhất phản ánh sự phát triển bền vững trong hoạt động phát triển của du lịch
Quảng Ninh.
Tỷ lệ quay trở lại của khách du lịch ở Quảng Ninh nhìn chung là thấp. Số
ngày lưu trú bình quân của du khách là 1,5 ngày trong khi đó của Hà Nội là 2
52
ngày và thành phố Hồ Chí Minh là 2,1 ngày. Số ngày lưu trú bình quân thấp
nói lên sản phẩm du lịch và chất lượng dịch vụ của du lịch Quảng Ninh chưa
đủ sức hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Nhìn vào bức tranh toàn cảnh du lịch Quảng Ninh hiện nay, ai cũng nhận
thấy sự phát triển mất cân đối giữa các trung tâm du lịch trong Tỉnh. Trong
khi khu vực Hạ Long xuất hiện tình trạnh quá tải, thì các khu vực còn lại tốc
độ phát triển rất chậm chạp. Hầu như toàn bộ chương trình, điểm thăm quan
và các dịch vụ có liên quan đều tập trung trên Vịnh Hạ Long nhưng vấn đề
đặt ra với các hãng lữ hành là sau khi đi thăm Vịnh Hạ Long về cho khách
của mình xem gì, làm gì, đi đâu. Nhìn chung, hoạt động vui chơi giải trí ở Hạ
Long còn rất hạn hế, thành phố chưa có một rạp chiếu phim đạt tiêu chuẩn
quốc tế, chưa có khu vui chơi giải trí thực sự hấp dẫn du khách. Đặc biệt đối
với các du khách đều bằng đường tàu biển là những du hách có nhu cầu cao
cấp thì dịch vụ và chất lượng dịch vụ chưa thực sự làm họ hài lòng. Một hoạt
động được nhiều du khách quan tâm là tắm biển thì khó có thể thực hiện
được tại Bãi Cháy với chất lượng bãi tắm và điều kiện vệ sinh như hiện nay.
Nhiều du khách đành bằng lòng với việc tắm này và bơi trong bể bơi của
khách sạn, mà hiện nay còn rất nhiều khách sạn chưa có bể bơi đạt tiêu
chuẩn. Khu du lịch Tuần Châu và Hoàng Gia có xây dựng một số chương
trình vui chơi giải trí cho khách nhưng mới chủ yếu thu hút được một phần
khách nội địa và khách Trung Quốc, những chương trình này chưa đủ sức hấp
dẫn các du khách quốc tế khác. Ngoài ra trong hoạt động kinh doanh du lịch
đang còn tồn tại quan điểm muốn du khách nghỉ đêm lại Quảng Ninh thì phải
có khách sạn tốt, từ nhận thức này các nà đầu tư chủ yếu quan tâm đến vấn đề
nội thất của khách sạn nhưng những gì thuộc về bên ngoài như vị trí, tầm nhìn
khuôn viên cảnh quan của khách sạn nói riêng, cảnh quan môi trường, bãi
biển, đường xá, dịch vụ công cộng và dịch vụ du lịch nói chung của khu du
53
lịch chưa được đầu tư thỏa đáng.
Trong khi khách sạn và nhà nghỉ vẫn tiếp tục đầu tư xây dựng ở Hạ Long
thì số lượng nhà hàng có quy mô lớn, thiết kế độc đáo, cảnh quan đẹp, có
phong cách riêng, phục vụ chuyên nghiệp chất lượng tốt hầu như không được
xây dựng. Phần lớn nhà hàng chỉ ở quy mô vừa và nhỏ mang đậm phong cách
nghiệp dư, tập trung nhiều ở khu vực vườn Đào, Hùng Thắng, Cái Răm. Đây
là hạn chế đáng kể trong việc tăng số ngày lưu trú bình quân của khách du
lịch bởi vì điểm nhấn của một khu du lịch bao gồm việc phục vụ cho du
khách một bữa ăn ngon miệng, thư giãn tại một nhà hàng địa phương sạch,
đẹp và thơ mộng.
Vấn đề đáp ứng nhu cầu của khách còn hạn chế ở điểm sự đánh đồng về
mặt bằng dịch vụ, khách trả nhiều tiền hơn cảm thấy mình không được hưởng
một dịch vụ ưu việt hóa, vượt trội hơn so với những khách khác. Vì vậy, việc
các nhà cung cấp dịch vụ ở Quảng Ninh không đạt được hiệu quả kinh doanh
cao cũng do việc không bán được các tour cao cấp. Nguyên nhân của vấn đề
này nằm ở chỗ với cơ sở hạ tầng và các dịch vụ du lịch hiện có các công ty
kinh doanh du lich chỉ xây dựng được một số sản phẩm giống nhau về nội
dung cũng như quy định tổ chức. Trên thực tế đã có nhiều hãng lữ hành đầu
tư tiền bạc công sức và thời gian để xây dựng một sản phẩm độc đáo và mang
đặc trưng riêng, nhưng rất khó khăn và chưa mang lại hiệu quả với những hạn
chế về cơ sở hạ tầng và dịch vụ du lịch như hiện nay Quảng Ninh khó có thể
xây dựng được một tour du lịch thực sự cao cấp.
Vào mùa cao điểm lượng du khách đổ về trung tâm du lịch chính của
Quảng Ninh là thành phố Hạ Long tăng đột biến. Đây cũng chính là lúc diễn
ra các hiện tượng kinh doanh thiếu đạo đức như tăng giá, bắt chẹt khách du
lịch diễn ra một cách phổ biến. Mặc dù, đội tàu du lịch của khu vực Hạ Long
đã lên đến 500 chiếc, nhưng không đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch
vào thời điểm này. Đây cũng chính là nguyên nhân làm nảy sinh hàng loạt
54
tình trạng lộn xộn như thay đổi dịch vụ so với yêu cầu, chất lượng phục vụ
giám sát khách phải chờ đợi dồn ép ở bến tàu, hướng dẫn viên phải tranh
giành tàu cho khách của mình. Bên cạnh các đội tàu được đầu tư tốt, khẳng
định được thương hiệu, còn nhiều đội tàu nhỏ chỉ có 2-3 tàu cũ mua thanh lý
từ các đội tàu lớn hoạt động theo kiểu chộp giật, chặt chém, lừa đảo du khách.
Đặc biệt từ hiện tượng thuyền máy của người dân chạy bán theo các tàu du
lịch để bán hàng rong, thậm chí là xin tiền khách ngoại quốc đang có chiều
hướng gia tăng. Nhiền đoàn khách phàn nàn về hiện tượng này và cho biết họ
không thể làm gì được mặc dù thời gian đi thăm quan Vịnh kéo dài 5 tiếng
đồng hồ, thậm chí vào lúc ăn trưa trên tàu luôn có thuyền máy của người dân
bám theo, người lớn chào mua ốc, san hô, hải sản, hoa quả, trẻ em thì xin tiền.
Thủy thủ đoàn cũng ngại va chạm với những đối tượng này. Khu du lịch
Quan Lạn – Minh Châu, vào mùa cao điểm đón một lượng khách lớn, vào
những ngày lễ, thứ bảy, chủ nhật đón khoảng 3.000 du khách (trong khi đó
dân số trên Đảo chỉ khoảng 5.000 người) đã đẩy giá cả hàng hóa dịch vụ lên
gấp 2 đến 3 lần, với giá cả đắt đỏ như vậy khách du lịch đã phải mang theo đồ
ăn, thức uống từ trong đất liền ra. Nhiều khách du lịch đến lần đầu tiên vào
mùa cao điểm đã cảm thấy rất bất ngờ với các mức giá 50.000đ một gói mì,
75.000đ một bát phở, những thứ mà ngày bình thường có giá bằng 1/4. Khu
du lịch Yên Tử cũng rơi vào tình trạng này, mọi hàng hóa dịch vụ đều bị đội
lên nhiều lần mức bình thường. Hiện tượng lừa đảo, móc túi trong dịp cao
điểm cũng tác động mạnh đến độ hài lòng của khách du lịch khi đến với
Quảng Ninh. Hàng lưu niệm của du lịch Quảng Ninh còn thiếu sự đa dạng
chưa có những mặt hàng tiêu biểu cho địa phương. Qua khảo sát cho thấy các
gian hàng bán đồ lưu niệm cho khách du lịch hầu hết là các sản phảm mang
tính phổ biến mà khách du lịch có thể mua ở bất cứ nơi nào trên Việt Nam,
mặt hàng lưu niệm được cho là đặc trưng của Quảng Ninh là đồ thủ công mỹ
55
nghệ được chế tác từ than đá chưa thực sự hấp dẫn được du khách về chủng
loại và mẫu mã. Đây cũng chính là nguyên nhân làm giảm đi nhu cầu chi tiêu
của khách du lịch khi đến với Quảng Ninh.
Tỷ lệ rủi ro về sức khỏe đối với khách du lịch cũng là yếu tố quan trọng
trong bộ chỉ thị đáp ứng nhu cầu của du khách. Nhìn chung ở Quảng Ninh
chưa có vụ việc nào liên quan đến dịch bệnh do du lịch mang lại, công tác
phòng chống dịch bệnh vào mùa cao điểm được đặc biệt quan tâm, tại các khu
du lịch thường xuyên có mặt cán bộ y tế dự phòng, kịp thời xử lí các vấn đề
liên quan đến dịch bệnh phát sinh. Tuy nhiên ở các khu du lịch Biển đã xảy ra
những tai nạn liên quan đến vấn đề sông nước, một phần do sự chủ quan của
du khách, nhưng phần lớn do trách nhiệm của các đơn vị chủ quản kinh doanh
du lịch. Ở khu vực các bãi tắm chính chưa có các đội cứu hộ chuyên nghiệp
được trang bị các phương tiện cứu hộ hiện đại, chủ yếu dựng lại các khẩu hiệu
cảnh báo, nhắc nhở du khách, chưa có biển báo độ sâu của mực nước. Tại bãi
biển Quan Lạn vào mùa hè xuất hiện những cơn sóng lớn rất nguy hiểm, tuy
nhiên công tác cảnh báo tuyên truyền chưa được quan tâm. Khu vực Vịnh Hạ
Long thường xuất hiện những hiện tượng thời tiết nguy hiểm như Giông, Tố,
Lốc..v.v. Nhưng những yêu cầu đảm bảo an toàn cho du khách khi đi tham
quan Vịnh chưa được các tàu du lịch thực hiện nghiêm túc. Đặc biệt vào trung
tuần tháng 2 năm 2011 đã xảy ra vụ tai nạn nghiêm trọng làm thiệt mạng 12
du khách quốc tế, nguyên nhân do sự lơ là, thiếu tinh thần trách nhiệm của
thủy thủ đoàn dẫn đến sự cố nước tràn vào khoang máy không phát hiện ra
kịp, tai nạn xảy ra vào thời điểm lúc nửa đêm, thời điểm mà khách đã ngủ
say, khi xảy ra sự cố không kịp thoát ra ngoài. Đây là một vụ việc có tính
nghiêm trọng ảnh hưởng đến hình ảnh của Vịnh Hạ Long trong cuộc đua đến
danh hiệu một trong 7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới.
Nhìn chung, vấn đề đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu khách của Du lịch Quảng
Ninh là chưa cao. Nguyên nhân của tình trạng này có thể lí giải từ nhiều góc
56
độ. Đó là nhận thức của lãnh đạo địa phương về vị trí, vai trò của du lịch
trong phát triển kinh tế xã hội chưa thực sự cao. Nhìn từ góc độ chính sách, có
thể nhận thấy Quảng Ninh chưa có chính sách đầu tư hiệu quả, nhằm nâng
cao và đồng bộ hóa cơ sở hạ tầng của ngành du lịch. Cơ sở hạ tầng còn nhiều
hạn chế, thậm chí có những việc cấp thiết như nhà vệ sinh cho du khách đã đề
cập nhiều năm nhưng hầu như không có tiến bộ đáng kể nào. Vấn đề cơ sở hạ
tầng còn nhiều yếu kém là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự nghèo nàn về sản
phẩm du lịch, các Tour du lịch đều có sự trùng lặp, na ná như nhau, không tạo
ra nhiều sự lựa chọn cho du khách. Dấu ấn mà du lịch Quảng Ninh để lại
trong lòng du khách chủ yếu là sự hùng vĩ của Vịnh Hạ Long và vẻ đẹp thơ
mộng của các bãi biển. Sự đặc sắc của các sản phẩm du lịch mang tính nhân
tạo thì hầu như chưa có gì. Công tác quản lí nhà nước còn nhiều hạn chế, đặc
biệt là công tác quản lí đối với các phương tiện vận tải tham gia hoạt động du
lịch. Đối với vấn đề quản lí giá cả vào mùa cao điểm, chưa phối hợp với quản
lí thi trường trong việc yêu cầu niêm yết giá tại các cơ sở kinh doanh. Một số
văn bản pháp luật chồng chéo, quy định không rõ ràng, không rõ trách nhiệm,
gây khó khăn cho doanh nghiệp. Cụ thể, việc quy định về hạn chế tốc độ xe
trên các tuyến quốc lộ 18 kéo dài thời gian đi lại, gây ức chế cho du khách.
Công tác hành chính tại cửa khẩu còn nhiều thủ tục rườm rà, làm mất nhiều
thời gian của du khách. Doanh nghiệp kinh doanh du lịch còn tồn tại nhiều
hạn chế trong việc nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu của khách. Chưa xây
dựng được những sản phẩm thực sự cao cấp. Đội ngũ hướng dẫn viên du lịch
còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn tư tưởng kinh
doanh theo kiểu chộp giật, không chủ động phát triển các Tour du lịch mới.
Trong thời gian tới cần có những giải pháp khác phục những tồn tại nêu trên,
coi đó là một yếu tố đảm bảo cho du lịch Quảng Ninh phát triển bền vững.
2.3.2. Tác động của du lịch đối với hệ sinh thái tự nhiên
Tài nguyên và môi trường là nhân tố cơ bản để tạo ra sản phẩm du lịch.
Điều đó cũng có nghĩa là ngành du lịch có tác động đến vấn đề tài nguyên
57
môi trường. Sự tác động này bao gồm cả yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực.
Sự tác động tích cực thể hiện ở chỗ, du lịch giúp đẩy mạnh công tác bảo
tồn tài nguyên thiên nhiên. Nhờ có quy hoạch phát triển du lịch giai đoạn
2001 – 2010 Tỉnh đã xác định được các khu vực quan trọng để đẩy mạnh
công tác bảo tồn. Điển hình là khu du lịch Vân Đồn, các cấp chính quyền đã
có sự nhận thức sâu sắc hơn trong công tác bảo vệ đối với những tài nguyên
thiên nhiên có giá trị du lịch. Hàng loạt các hoạt động bảo tồn phục vụ phát
triển du lịch đã được tiến hành. Tiêu biểu là việc thành lập Vườn Quốc Gia
Bái Tử Long. Hoạt động du lịch sinh thái cũng bắt đầu được triển khai ở nơi
này, đến với Vườn Quốc Gia Bái Tử Long du khách sẽ được chiêm ngưỡng giá
trị đặc sắc về cảnh quan và đa dạng sinh học bao gồm: Hệ sinh thái rừng nhiệt
đới lá rộng thường xanh trên núi đá vôi, Rừng ngập mặn, Rạn san hô, Tùng
áng, hồ nước mặn. Sự đa dạng, độc đáo của các hệ sinh thái rừng, biển ở Vườn
Quốc Gia Bái Tử Long có thể xây dựng nhiều loại hình du lịch hấp dẫn từ nghỉ
ngơi, thưởng ngoạn đến khám phá thiên nhiên và nghiên cứu khoa học.
Quảng Ninh còn có chủng loại cát trắng silic (nguyên liệu cho công
nghiệp sản xuất thủy tinh và pha lê), được phân bố dọc theo 200km bờ biển.
Trước đây hoạt động khai thác cát phục vụ mục đích dân dụng và công
nghiệp diễn ra nhộn nhịp. Tuy nhiên nhờ có sự thay đổi về quan điểm, chính
quyền địa phương đã nhận thấy, so với phục vụ các mục đích khác, giá trị
kinh tế do hoạt động du lịch mang lại lớn hơn gấp nhiều lần, hoạt động khai
thác dần được hạn chế (đặc biệt ở các khu vực có cảnh quan đẹp). Mỏ cát Vân
Hải (Vân Đồn) đã cơ bản ngừng khai thác và bản thân công ty quản lý mỏ
cát cũng chuyển sang kinh doanh du lịch.
Hoạt động du lịch có những tác động tích cực đối với tài nguyên rừng
trên địa bàn của Tỉnh( tỷ lệ che phủ của rừng đạt 43%). Tại các khu quy
hoạch phát triển du lịch công tác bảo vệ và trồng phục hồi tài nguyên rừng
được chú trọng. Hiện nay du khách thăm quan ở khu vực Bãi Dài (Vân Đồn)
58
đã lại thấy màu xanh ngút ngàn của rừng tái sinh, xen kẽ với những mảng
rừng nguyên sinh còn sót lại. Ý thức của người dân địa phương về bảo vệ
rừng cũng được nâng cao. Nhiều hộ gia đình triển khai mô hình trang trại kết
hợp với rừng sang phục vụ du lịch, thu thút được sự chú ý của du khách. Để
bảo vệ tài nguyên rừng trên núi đá vôi và giá trị cảnh quan, hoạt động khai
thác đá vôi ở khu vực Bái Tử Long đã được hạn chế. Tại khu vực Bãi Cháy
diện tích rừng thông trồng mới không ngừng tăng. Tại khu danh thắng Yên
Tử, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương chuyển khu rừng đặc dụng
thành rừng quốc gia Yên Tử. Nơi đây có hệ động vật đa dạng và phong phú,
trong đó có 23 loài đặc hữu quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam như
voọc mũi hếch, sóc bay lớn, ếch gai, ếch ang... có giá trị cao trong việc bảo
tồn nguồn gen, nghiên cứu khoa học, giáo dục và du lịch. Việc nâng cấp rừng
đặc dụng Yên Tử thành rừng quốc gia Yên Tử sẽ đẩy mạnh hơn nữa việc bảo
vệ, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, cảnh quan môi trường cũng như bảo
tồn và phát triển các mẫu chuẩn hệ động, thực vật, bảo vệ sự đa dạng sinh
học, các nguồn gen động, thực vật quý hiếm.
Du lịch giúp cho chất lượng môi trường ở một số khu vực được cải thiện.
Điển hình như Vịnh Hạ Long, một số dự án môi trường do ngành du lịch triển
khai đã được nhân dân các Làng chài Vông Viên, Cửa Vạn hưởng ứng tham
gia, nhiều dân khu vực này đã tiến hành vệ sinh môi trường trong khu vực,
dọn rác thải trên mặt nước. Với sự tham gia của tỉnh đoàn Quảng Ninh phát
động nhiều chiến dịch thu gom rác thải dọc bờ biển thu hút được sự tham gia
của đông đảo học sinh sinh viên khu vực thành phố Hạ Long. Hiểu biết về
môi trường của công đồng dân cư được tăng cường thông qua việc trao đổi
học tập với khách du lịch. Cơ sở hạ tầng được cải thiện, hệ thống đường xá hệ
thống cấp thoát nước ở các khu vực có hoạt động du lịch phát triển mạnh,
được tăng cường đầu tư, một phần kinh phí được đầu tư chính nguồn lợi do
59
du lịch mang lại.
Sự tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đối vối môi trường tự nhiên.
Điều này được thể hiện rõ nét nhất tại khu vực thành phố Hạ Long, nơi mà
hoạt động du lịch diễn ra mạnh mẽ nhất. Do sự đầu tư một cách ồ ạt xây dựng
cơ sở lưu trú trên bờ đã phá vỡ cảnh quan tự nhiên, bức tranh toàn cảnh của
khu vực Bãi Cháy - Tuần Châu không còn hấp dẫn về mặt kiến trúc và thất
bại về quy hoạch, việc phá núi lấy đất lấn biển tạo ra hình ảnh nham nhở,
nhiều khách sạn, nhà nghỉ cao thấp đủ loại được xây dựng một cách lộn xộn,
chen chúc. Thấp thoáng những khách sạn sang trọng là những nhà tạm mái
tôn, lôm nhôm biển quảng cáo, vỉa hè xộc xệch. Biển chỉ nhìn thấy từ xa do
một dải bờ biển bị rào bởi các công trình dự án. Trong tương lai khu vực
Tuần Châu – Hùng Thắng sẽ trở thành một khu đô thị ven biển, khó có thể trở
thành một thị trấn du lịch biển theo đúng nghĩa.
Khu vực Vân Đồn cũng đang đứng trước nguy cơ lặp lại sai lầm của Bãi
Cháy - Tuần Châu về quy hoạch và kiến trúc, qúa trình đô thị hóa tại khu vực
này diễn ra khá nhanh việc san núi lấy đất lần biển xây dựng, khu đô thị mới
làm ảnh hưởng đến cảnh quan của vịnh Bái Tử Long. Vấn đề xây dựng dân
dụng diễn ra không tuân thủ quy hoạch, vai trò của chính quyền chưa được
thể hiện trong công tác quản lý xây dựng.
Hoạt động du lịch phát triển cũng đồng nghĩa với việc gia tăng khối
lượng chất thải, gây sức ép đến môi trường. Đối với tài nguyên nước, để đáp
ứng cho 5,5 triệu du khách với thời gian lưu trú 1,5 ngày, với tiêu chuẩn sử dụng 0,5 m3/ngày thì sẽ phải mất 4 triệu m3 nước sạch. Nhu cầu về nước sạch
hoạt động gây sức ép lớn lên hệ thống cấp thoát nước của Quảng Ninh, đặc
biệt tại khu vực thành phố Hạ Long. Để phục vụ nhu cầu quá lớn của khách
du lịch và nhân dân địa phương ba giếng khoan ngầm sâu của Hạ Long được
bơm thẳng vào hệ thống mà không qua xử lý. Vì vậy, chất lượng nước chưa
cao, không thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng. Xử lý nước thải còn nhiều bất
60
cập, hiện nay hai trạm xử lý nước thải của thành phố mới chỉ xử lý được 65%
lượng nước thải, phần còn lại xả trực tiếp qua Vịnh, khu vực Bãi Cháy nước
biển ô nhiẽm do nước thải ra từ khu du lịch là nguyên nhân khiến nhiều du
khách e ngại khi tắm biển ở khu vực này. Nhìn chung chất lượng môi trường
ở khu vực thành phố Hạ Long đang gặp phải những vấn đề nghiêm trọng, mà
một trong những nguyên nhân là do hoạt động du lịch.
Rác thải từ hoạt động du lịch cũng là một yếu tố tác động lên chất lượng
môi trường. Đối với các khu di tích lịch sử văn hóa lượng rác thải do du ịch
tăng đột biến vào dịp đầu năm mới âm lịch, tại các khu du lịch Biển hiện
tượng xả rác bừa bãi trên bãi biển là một vấn đề nhức nhối lâu nay của những
người làm công tác du lịch, nguyên nhân do ý thức của khách du lịch còn
thấp, đối tượng chủ yếu rơi vào khách nội địa, chính quyền thường xuyên
phải phát dộng các chiến dịch thu gom rác trên bãi biển trọng điểm. Tại khu
du lịch Vân Đồn đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu ô nhiễm do rác thải từ
hoạt động du lịch không được thu gom, xử lý.
Điện sinh hoạt vào mùa cao điểm là vấn đề gây bức xúc hiện nay. Mùa
du lịch Quảng Ninh hoạt động nhộn nhịp nhất lại rơi vào mùa thiếu điện trầm
trọng của cả nước. Lượng du khách đến Quảng Ninh vào thời điểm này theo
thống kê vào khoảng 2 triệu du khách, gây nên sự quá tải về nhu cầu sử dụng
điện càng làm cho vấn đề thiếu điện trở nên trầm trọng. Điện lực Quảng Ninh
buộc phải thực hiện biện pháp điều tiết bằng cách cắt điện luân phiên ở các
địa phương khác trong Tỉnh, ưu tiên cho khu vực Bãi Cháy - Hạ Long. Hiện
tượng ô nhiễm tiếng ồn do sử dụng máy phát điện cá nhân cũng bắt đầu xuất
hiện gây cảm giác khó chịu cho du khách.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên phần lớn là do công tác quy
hoạch và dự án phát triển kinh tế xã hội còn có những bất cập, chồng chéo.
Công tác quản lí xây dựng cơ bản bị buông lỏng. Tại Hạ long khi quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch còn chưa được phê duyệt và triển khai, thì các dự
61
án chi tiết và các dự án đầu tư đã chiếm gần hết quỹ đất xây dựng. Sự chồng
chéo này suýt gây ra hậu quả nghiêm trọng cho khu danh thắng Yên Tử, khi
Quyết định số 2809/GP-BTNMT của Bộ Tài nguyên - Môi trường cho phép
Tổng Công ty Đông Bắc khai thác than bằng phương pháp hầm lò tại xã
Tràng Lương (huyện Đông Triều). Các chuyên gia nhận định, khi khai thác
than đơn vị thi công sẽ đi sâu vào các vỉa 4, 5, 7 theo chiều ngang (xuyên vào
trong lòng quả núi). Để tận thu than thì bắt buộc phải phá hỏa, như thế sẽ tạo
ra các khoảng rỗng lớn bên trong làm biến dạng bề mặt bên trên gây rạn nứt
mặt đất. Với hướng khai thác này sẽ đi thẳng vào khu vực di tích Yên Tử, trực
tiếp ảnh hưởng đến chùa Hoa Yên. Nhiều khu vực thiếu một chiến lược phát
triển hiệu quả, dẫn đến tình trạng đầu tư thừa, khai thác tài nguyên quá mức,
quá tải đối với quỹ đất . Sự nhận thức chưa thực sự sâu sắc về phát triển du
lịch bền vững, dẫn đến tư tưởng chạy theo giá trị kinh tế, xem nhẹ các giá trị
môi trường. Xây dựng cảng Cái Lân đã làm dấy lên những lo ngại về hậu quả
môi trường đối với Vịnh Hạ Long. Chính quyền Tỉnh chưa có biện pháp hiệu
quả trong việc quản lí chất thải nhà máy, bệnh viện, khu du lịch, khu dân cư
cũng như việc thải chất chứa dầu xuống biển. Ngoài ra những hạn chế nêu
trên còn có nguyên nhân là sự thiếu ý thức trách nhiệm của các bên tham gia
vào hoạt động du lịch. Khách du lịch nội địa là đối tượng nguyên nhân chính
của tình trạng xả rác bừa bãi. Nhận thức của doanh nghiệp về bảo vệ môi
trường chưa cao. Nhìn chung tác động của du lịch đến hệ sinh thái tự nhiên
còn trong giới hạn chấp nhận được. Nhưng những hạn chế nêu trên không
được khắc phục và xử lý kịp thời sẽ gây nên những hậu quả khôn lường cho
chất lượng môi trường tự nhiên và cả bản thân ngành du lịch.
2.3.3. Tác động của du lịch đối với kinh tế Quảng Ninh
Giai đoạn 2001- 2010, ngành du lịch Quảng Ninh đã có bước phát triển
vượt bậc. Du lịch dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Năm 2010 tổng
doanh thu từ du lịch đạt 3.100 tỷ đồng, chiếm 19,5% giá trị GDP toàn tỉnh.
62
Đây là ngành có đóng góp thứ hai chỉ sau ngành than (24,6%). Một phần kinh
phí thu được từ hoạt động du lịch được tỉnh tái đầu tư cho các khu vực vùng
sâu, vùng xa nơi mà điều kiện kinh tế xã hội còn có nhiều khó khăn.
Sự phát triển của ngành du lịch là động lực mạnh mẽ giúp cho cơ cấu
kinh tế của Quảng Ninh chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng của nhóm
ngành công nghiệp, dịch vụ giảm dần tỷ trọng của nhóm ngành Nông – Lâm –
Ngư nghiệp. Sự phát triển của du lịch đã tạo ra một lượng việc làm đáng kể
góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Theo
thống kê hiện nay Quảng Ninh có khoảng 25.000 lao động phục vụ trực tiếp
trong ngành du lịch và 45.000 lao động gián tiếp. Phát triển du lịch là một
hướng đi đúng đắn của Quảng Ninh. Đây là lĩnh vực mà Quảng Ninh có nhiều
thế mạnh, bản thân ngành có những đặc điểm riêng phù hợp với chát lượng
nguồn nhân lực của tỉnh, đó là số lượng lớn lao động phổ thông chưa qua đào
tạo, nhiều vị trí công việc trong hoạt động du lịch không cần lao động trình độ
cao. Sự phát triển của du lịch góp phần phát triển kinh tế nhiều thành phần ở
địa phương. Du lịch đã tạo ra những cơ hội kinh doanh cho các thành phần
kinh tế trong các lĩnh vực như: Công nghiệp chế biến, nông nghiệp, dịch vụ
cung ứng vận tải, phục vụ nhu cầu ăn nghỉ, phục vụ nhu cầu mua sắm của
khách du lịch. Trong những năm qua ngành du lịch chứng kiến sự phát triển
mạnh mẽ của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với sự năng động của mình
những doanh nghiệp này đã tạo ra bức tranh sinh động cho hoạt động kinh
doanh du lịch ở Quảng Ninh.
Sự phát triển của du lịch thúc đẩy sản xuất đối với nhiều loại hàng hóa
của địa phương như: Gốm sứ, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản, hàng thủ
công mỹ nghệ chế tác từ ngọc trai, than đá. Đặc biệt là đối với mặt hàng Ngọc
Trai, Du khách nước ngoài rất ấn tượng với trang sức chế tác từ ngọc trai của
Quảng Ninh, nhiền đơn đặt hàng đến với các doanh nghiệp nuôi cấy ngọc trai
thông qua con đường du lịch. Hiện nay, ngọc trai Quảng Ninh đã có mặt tại
63
các trung tâm thời trang lớn trên thế giới như: London, Paris, Milan, v.v…
Doanh nghiệp đã chủ động mở những cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại các
khu du lịch và bước đầu gặt hái những thành công. Đây cũng là một phần của
kế hoạch xây dựng các sản phẩm du lịch cao cấp ở Quảng Ninh.
Du lịch đã giúp phát triển kinh tế - xã hội, tại nhiều vùng sâu, vùng xa
của tỉnh, điển hình là ở huyện đảo Vân Đồn, xã Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc
Vừng, Bản Sen vốn là những xã đảo nghèo. Giao thông đi lại rất là khó khăn,
từ trung tâm huyện Vân Đồn phải mất nhiều giờ đồng hồ, tàu mới đến được
các xã này, Dân cư chủ yếu sống nhờ nghề chài lưới. Nhưng khu vực này lại
sở hữu vẻ đẹp hoang sơ làm ngây ngất lòng, đó là những bãi cát trắng, những
khu rừng thơ mộng chạy dài theo bờ biển, sóng hiền hòa trong xanh. Hoạt
động du lịch lúc đầu mang tính tự phát bởi những người ưa thám hiểm, nhưng
sau đó lượng du khách tăng nhanh chóng. Hoạt động du lịch hình và làm biến
đổi sâu sắc bộ mặt nơi này. Nhằm phục vụ nhu cầu của khách du lịch, nhiều
tuyến tàu cao tốc ra đời, rút ngắn thời gian đi lại. Cơ sở hạ tầng được đầu tư
xây dựng, đường giao thông trên đảo đã được bêtông hóa, Cảng du lịch được
xây dựng, khách sạn nhà nghỉ mọc lên làm cho các khu dân cư trên Đảo đã có
dáng dấp của đô thị. Hạ tầng thông tin liên lạc được đầu tư, mạng viễn thông
di động được phủ sóng 3G, du khách có thể dễ dàng truy cập internet như ở
đất liền. Điều đáng ghi nhận là nguồn vốn đầu tư còn có sự tham gia của các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn. Lao động địa phương có sự
chuyển đổi từ ngư nghiệp sang làm dịch vụ du lịch. Hoạt động du lịch còn
kích thích các ngành kinh tế có liên quan, điển hình là nuôi trồng thủy hải sản,
hiện nay khu vực này có khoảng 350 hộ nuôi trồng thủy hải sản, cung cấp cho
các nhà hàng ở địa phương và cho nhu cầu mua sắm của du khách. Tại các
huyện miền núi như Tiên Yên, Ba Chẽ, Bình Liêu, loại hình du lịch sinh thái
nhân văn đang được triển khai, mang lại cơ hội phát triển kinh tế cho đồng
bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Hoạt động du lịch giúp cho các nghề truyền
64
thống của đồng bào thiểu số được khôi phục, giai đoạn vừa qua đã chứng kiến
sự quay trở lại của các sản phẩm dệt thổ cẩm và mây tre đan tại các gian hàng
của hội chợ thương mại du lịch. Một số doanh nghiệp du lịch hàng đầu của
Quảng Ninh đã tiến hành tài trợ cho một số dự án phát triển khu nguyên liệu
và phục hồi nghề truyền thống tại các Huyện miền núi nêu trên. Tại Khu bảo
tồn thiên nhiên Đồng Sơn - Kỳ Thượng (Hoành Bồ), người dân vùng đệm
cũng được hưởng lợi từ dự án phát triển du lịch sinh thái, thông qua chương
trình đào tạo các kỹ năng cơ bản về nghiệp vụ du lịch.
Sự tham gia của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch vào hoạt động
phúc lợi xã hội trên địa bàn Tỉnh còn hạn chế. Theo ghi nhận của cơ quan
chức năng thì hiện nay mới chỉ có một số công trình theo diện này được thực
hiện. Sự tham gia của doanh nghiệp vào hoạt động phúc lợi chủ yếu dừng lại
ở việc quảng bá thương hiệu( theo kiểu một công đôi việc). Nguyên nhân của
vấn đề này nằm ở chỗ, Quảng Ninh chưa có những chính sách hợp lí, nhằm
động viên sự tích cực tham gia của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh
nghiệp tư nhân.
Sự phát triển của ngành du lịch tác động tích cực đối với sự phát triển
kinh tế của Quảng Ninh, nó là một trong những đầu tàu kéo theo sự phát triển
của nhiều ngành có liên quan. Đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Thành quả đó có được là nhờ sự quan
tâm của các cấp lãnh đạo, chính sách phát triển đúng đắn đã phát huy được
tiềm năng thế mạnh của địa phương. Sự nỗ lực của bản thân ngành du lịch và
các ban ngành liên quan. Nhận thức và sự tham gia của cộng đồng vào hoạt
động du lịch được nâng cao.
2.3.4. Tác động của du lịch lên xã hội – nhân văn
Sự tác động của du lịch đến phân hệ xã hội – nhân văn của địa phương
chủ yếu mang tính chất tích cực nhiều hơn tiêu cực. Du lịch mang lại lợi ích
kinh tế cho cộng đồng địa phương như: giải quyết công ăn việc làm, tạo thu
65
nhập, nâng cao mức sống. Sự phát triển của du lịch tạo động lực phát triển
cho các khu vực kinh tế khác. Với vùng sâu vùng xa của tỉnh, sự phát triển
của du lịch là động lực cơ bản để xóa đói giảm nghèo. Sự giao lưu văn hóa
giữa người địa phương với khách du lịch giúp cho trình độ dân trí phát triển.
Dấu ấn sâu sắc nhất sự tác động của du lịch đối với phân hệ xã hội –
nhân văn là tạo ra cơ hội hỗ trợ việc bảo tồn các di tích lịch sử và phong tục
tập quán đặc sắc của người địa phương. Các di tích lịch sử trên địa bàn Quảng
Ninh như khu di tích Yên Tử, Đền Cửa Ông v.v… một nửa kinh phí trùng tu
tôn tạo được lấy từ nguồn du lịch, thông qua việc bán vé, thăm quan, tiền
công đức của du khách, phục vụ cho nhu cầu du lịch nhiều nét đặc sắc về văn
hóa của cư dân bản địa cũng đã được phục dựng lại. Một trong những phong
tục đặc sắc được phục dựng là không gian văn hóa làng chài Cửa Vạn và
Vông Viên. Những nét đẹp trong văn hóa của ngư dân vạn chài được tái hiện,
đám cưới, hát đối, thuyền bè và ngư cụ … theo kiểu dáng truyền thống, du
khách được chiêm ngưỡng một đám cưới theo đúng phong tục truyền thống
của người dân vạn chài, được tham gia vào các sinh hoạt đời thường của
người dân. Đây là một sản phẩm du lịch đặc sắc thu hút được sự chú ý của du
khách đặc biệt là du khách nước ngoài. Người dân có thêm một nguồn thu
nhập băng chính lối sống truyền thống của mình.
Tuy nhiên, sự phát triển của du lịch cũng có những tác động tiêu cực đối
với hệ xã hội nhân văn, đó là những tệ nạn xã hội liên quan đến du lịch bùng
phát vào mùa cao điểm như: mê tín dị đoan, mại dâm, cờ bạc, sử dụng ma túy.
Tháng giêng âm lịch hàng năm, tại các di tích lịch sử văn hóa và lễ hội,
những hoạt động mê tín dị đoan, cờ bạc ngang nhiên hoạt động. Nhiều băng
nhóm tội phạm dựa vào sự cả tin của du khách để tiến hành hoạt động lừa
đảo. Vào mùa cao điểm, một số lượng lớn gái mại dâm tập trung về khu vực
Bãi Cháy, Vân Đồn để hành nghề. Có thể dễ dàng nhận thấy cảnh các cô gái
đứng chèo kéo khách trên các tuyến đường dọc bờ biển. Đây là nguồn lây lan
66
của những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như HIV/ AIDS, Giang
mai..v.v. Hiện tượng này đã tồn tại đã lâu, gây bức xúc cho dư luận và làm
xấu đi hình ảnh của du lịch Quảng Ninh.
Những năm gần đây xuất hiện phong trào giới trẻ sử dụng ma túy tổng
hợp phát triển mạnh mẽ, Quảng Ninh vốn là một địa phương nhức nhối về tệ
nạn ma túy. Có thể dễ dàng tìm mua loại mặt hàng chết người ở bất cứ nơi
nào, vì vậy một bộ phận khách du lịch trẻ coi đây là cơ hội sử dụng ma túy,
đặc biệt khi tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng tiến hành các đợt
truy quyét mạnh tay. Vào mùa cao điểm lượng lớn du khách đổ về khiến cho
công tác quản lí đối với loại tệ nạn này càng trở nên khó khăn hơn.
Sự gia tăng của giá cả hàng hóa và dịch vụ vào mùa cao điểm cũng gây
ra sự bức xúc cho người dân, với một lượng lớn du khách đổ về các khu du
lịch Biển làm cho giá cả những mặt hàng tiêu dùng hàng ngày, đặc biệt là
thực phẩm tăng gấp đôi, đây là hiện tượng lạm phát do hoạt động du lịch gây
ra. Có thể cảm nhận tình trạng quá tải ở hầu hết các khu du lịch Biển trên địa
bàn Quảng Ninh. Người dân địa phương không thể hài lòng với việc xe
khách, tàu thuyền luôn chật cứng người, cũng như sự khó khăn trong việc tiếp
cận với các tiện nghi xã hội khác.
Nguyên nhân của sự tác động tiêu cực của hoạt động du lịch lên phân hệ
xã hội nhân văn nằm ở sự lơi lỏng của công tác quản lí nhà nước, cơ quan
chức năng đã tỏ ra không đều tay, chỉ tiến hành mạnh mẽ vào các đợt làm
điểm. đó chính là nguyên do khiến cho các loại tệ nạn liên quan đến hoạt
67
động du lịch còn có cơ hội tồn tại.
Chương 3:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG BỀN
VỮNG Ở QUẢNG NINH
3.1. Quan điểm phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh
3.1.1. Bối cảnh mới về kinh tế - xã hội
Năm 2010 nền kinh tế thế giới đang có những tín hiệu phục hồi khả
quan, báo hiệu một chu kỳ tăng trưởng mới. Ngành du lịch thế giới cũng hồi
phục sau khủng hoảng. Theo báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới, năm
2010 số lượng khách du lịch trên toàn thế giới đạt khoảng 1 tỷ người doanh
thu 880 tỷ USD. Dự báo lượng khách du lịch năm 2020 số lượng khách du
lịch sẽ đạt 1,6 tỷ người. Trong đó Đông Á – Thái Bình Dương sẽ là điểm đến
chiếm 26,1% tổng lượng khách du lịch toàn thế giới, xu hướng quốc tế hóa
diễn ra mạnh mẽ các phương tiện vận tải hiện đại ra đời sẽ giúp cho việc di
chuyển quốc tế diễn ra dễ dàng hơn, du khách ưa thích những điểm đến ổn
định về chính trị và có nhiều phong cảnh đẹp. Đặc biệt nhu cầu về du dịch
bền vững tăng cao du khách có nhu cầu về du lịch bền vững thường đến từ
những quốc gia có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao như Châu Âu hoặc
Bắc Mỹ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ có khả năng chi tiêu lớn. Theo
dự báo của Viện Tài nguyên thế giới trong khoảng thời gian đến năm 2020
Đông Nam Á sẽ thu hút tới 1/3 lượng du khách giàu có này, bởi vì Đông Nam
Á đang sở hữu rất nhiều tài nguyên có thể phát triển du lịch bền vững. Đây là
một cơ hội cho du lịch Việt Nam nói chung và du lịch quảng Ninh nói riêng.
Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến tích
cực, lần đầu tiên chúng ta thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp, trở thành
nước có thu nhập trung bình trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và
ổn định. Trong giai đoạn 2011 – 2020 nỗ lực phấn đấu để cơ bản trở thành
68
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội được
đầu tư phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch, chất lượng đời
sống của người dân được nâng cao. Cho nên nhu cầu du lịch và nghỉ ngơi của
nhân dân cũng tăng lên. Nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới sẽ hội
nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, với tư cách là thành viên chính thức
của WTO sẽ mang lại nhiều thuận lợi cũng như những thách thức đối với Việt
Nam. Tuy nhiên chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ trong thời
gian tới như những bất ổn về kinh tế vĩ mô, khoảng cách giàu nghèo, sự
chống phát của các thế lực phản động quốc tế.
Năm 2010 ngành du lịch Việt Nam cũng thu được những thắng lợi kỷ lục
về số lượng khách: 5 triệu khách quốc tế, 28 triệu khách nội địa. Doanh thu từ
du lịch đạt gần 100 tỷ đồng, góp 5% GDP tạo việc làm 1,5 triệu lao động. Tốc
độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 – 2010 là 16,7%.
Ngành du lịch Việt Nam sẽ có những thuận lợi để phát triển, tình hình
phát triển trong giai đoạn tới đã được xác định trong chiến lược phát triển du
ịch Việt Nam giai đọan 2011 – 2020 tầm nhìn 2030. Mục tiêu của du lịch Việt
Nam là phấn đấu đuổi kịp các nước có ngành du lịch phát triển hàng đầu khu
vực Đông Nam Á. Ngành du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn,
có tính chuyên nghiệp, hiện đại, có sức cạnh tranh, mang đậm bản sắc văn
hóa và thân thiện với môi trường. Phấn đấu năm 2020 đón 7 đến 8 triệu lượt
khách quốc tế, phục vụ 32 đến 35 triệu khách nội địa, thu nhập trực tiếp từ du
lịch đạt 10 tỷ USD tạo việc làm cho 2,2 triệu lao động. Để đạt được những
mục tiêu nêu trên, ngành du lịch trong giai đoạn tới cần bám sát xu hướng hội
nhập, hợp tác và cạnh tranh toàn cầu. Tăng cường ứng dụng khoa học công
nghệ tiên tiến trong bối cảnh kinh tế tri thức, đưa ra những giải pháp phát
triển có tính chất đột phá trên cơ sở phát huy tối đa các nguồn lực của đất
nước.
Bối cảnh kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn tới cũng có
69
nhiều thuận lợi, sự thành công của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13 đã vạch ra
những phương hướng phát triển cơ bản cho tỉnh trong những năm tới, với tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, tỉnh Quảng Ninh sẽ cơ bản trở thành
một tỉnh công nghiệp hiện đại. Nhiều dự án có tính đột phá được triển khai
như đường cao tốc Hà Nội - Hạ Long; Hạ Long – Móng Cái, đường nối
Quảng Ninh với quốc lộ 5B. Đặc biệt sân bay quốc tế Vân Đồn được xây
dựng là một điều kiện thuận lợi lớn cho sự phát triển của ngành du lịch Quảng
Ninh. Các cảng biển lớn được xây dựng như Cảng Hải Hà, Vạn Hoa. Tỉnh
Quảng Ninh cũng đã có những văn bản chỉ đạo, đầu tư cho ngành du lịch môi
trường đầu tư và huy động nguồn lực đầu tư cũng được đẩy mạnh.
3.1.2. Quan điểm phát triển du lịch theo hướng bền vững
- Phát huy triệt để các lợi thể về vị trí địa lý, các tài nguyên du lịch tự
nhiên và nhân văn, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch phấn đấu
phát triển du lịch Quảng Ninh có tốc độ tăng trưởng nhanh, có tính đến sự
phát triển đột biến, tạo tiền đề định hướng phát triển vững chắc, lâu dài, thực
sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế tỉnh; Hạ Long trở thành 1
trong 9 trung tâm du lịch lớn cua cả nước và là một trung tâm du lịch quốc tế
quan trọng của châu lục trong tương lai.
- Du lịch là một ngành kinh tế mang tính tổng hợp cao và có quan hệ với
nhiều ngành khác nhất là công nghiệp than, công nghiệp vật liệu xây dựng các
cấp, các ngành nhằm hỗ trợ tác động cùng nhau phát triển, bảo vệ được cảnh
quan môi trường, đảm bảo sự phát triển bề vững.
- Phát triển du lịch Quảng Ninh phải gắn kết chặt chẽ với việc bảo vệ an
ninh quốc gia, củng cố quốc phòng, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Trong quá trình phát triển du lịch, đi đôi với việc khai thác tối đa các
đối tượng để tạo ra sản phẩm du lịch như cảnh quan tự nhiên, bãi biển, hang
động, các di tích văn hóa, di tích lịch sử… thì đồng thời phải coi trọng công
70
tác bảo vệ, tu bổ cải tạo, nâng cấp, phải giữ gìn được cảnh quan, bảo vệ môi
trường sinh thái, nhất là đối với di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long giữ
gìn và phát huy các thuần phong mỹ tục, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
- Du lịch ngành kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu sắc, có mỗi
quan hệ liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Sản phẩm du lịch của tỉnh là
sản phẩm tổng hợp của nhiều ngành kinh tế, văn hóa, gắn liền với sự phát
triển của các ngành, mang tính đồng bộ và đặc trưng. Để phát triển du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, cần phải phát huy tổng hợp các thành
phần kinh tế, tranh thủ mọi nguồn vốn trong tỉnh trong nước và nước ngoài.
Phát triển cả du lịch quốc tế và nội địa, lấy du lịch quốc tế làm đột phá, lấy du
lịch biển làm trọng tâm, đồng thời coi trọng du lịch nội địa, đảm bảo cho mỗi
người dân trong nước trong trong tỉnh Quảng Ninh có nhu cầu về du lịch, đều
được tận hưởng các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh. Đảm bảo cho ngành
du lịch đạt hiệu quả kinh tế cao cả về kinh tế, chính trị và xã hội, góp phần
thúc đẩy nền kinh tế, đóng góp ngày càng lớn cho ngân sách tỉnh, giải quyết
công ăn việc làm cho xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng
biên giới và hải đảo, đóng góp thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng biên giới
và hải đảo, đóng góp thiết thực cho chương trình xóa đói, giảm nghèo trên
lãnh thổ tỉnh.
3.2. Mục tiêu và định hướng phát triển du lịch theo hướng bền vững
3.2.1. Mục tiêu phát triển:
Mục tiêu kinh tế: Quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh phải phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Phải khai thác triệt để các
lợi thế về tiềm năng du lịch của tỉnh để nhanh chóng phát triển du lịch góp
phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ
trọng trong ngành du lịch GDP của tỉnh, tăng tỷ trọng đóng góp của ngành du
lịch vào ngân sách của tỉnh. Phấn đấu du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế
71
mũi nhọn của tỉnh.
Mục tiêu về văn hóa – xã hội: Phát triển du lịch trong mối quan hệ
khăng khít với những vấn đề xã hội như giải quyết việc làm, tăng thu nhập và
giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Một trong những yếu tố quan trọng
để thu hút khách du lịch chính là cảnh quan tự nhiên và nền văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc. Do vậy, quy hoạch phát triển du lịch Quảng Ninh phải
mang được nội dung khuyến khích du lịch nội địa, nhằm đáp ứng nhu cầu
nghỉ ngơi tham quan du lịch của nhân dân, góp phần cải thiện, nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Mặt khác phát triển các ngành nghề dịch
vụ đi theo du lịch.
Mục tiêu về an ninh chính trị và an toàn xã hội: Phát triển du lịch phải
luôn tôn trọng phương châm bảo đảm an ninh chính trị và an toàn xã hội.
Phương châm trên cần được quán triệt trong thiết kế quy hoạch các không
gian, các tuyến du lịch, nhất là tuyến du lịch biển đảo thuộc Vịnh Hạ Long,
vịnh Bái Tử Long, huyện đảo Vân Đồn, huyện đảo Cô Tô và biên giới, cửa
khẩu Móng Cái. Đây là vấn đề nhạy cảm nên phải khéo léo, linh hoạt, kết hợp
chặt chẽ với các ngành nội dung chính trong tỉnh để đạt được mục tiêu đảm
bảo an ninh chính trị, an toàn xã hội, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ quốc
gia. Đồng thời làm cho khách du lịch (nhất là khách du lịch quốc tế) hài lòng
và yên tâm khi đến du lịch ở Quảng Ninh.
Mục tiêu về môi trường: Quy hoạch du lịch gắn với bảo vệ moi trường
sinh thái đảm bảo sự phát triển bền vững. Do vậy, các kế hoạch và cơ chế
quản lý phải phù hợp với tôn tạo khai thác các tài sản thiên nhiên và nhan
văn, sao cho môi trường cảnh quan tự nhiên và các khu danh thắng không
những không bị xâm hại, mà còn được bảo trì và nâng cấp. Mặt khác phát
triển du lịch cần phải quan tâm đến việc bảo vệ môi trường xã hội trong sạch.
Cần có biện pháp tổ chức và quản lý chặt chẽ để ngăn ngừa các ảnh hưởng
tiêu cực từ các hoạt động du lịch mang lại đối với môi trương văn hóa xã hội
72
của địa phương.
3.2.2. Định hướng phát triển
Định hướng phát triển thị trường khách: Đối với thị trường khách du lịch
quốc tế sẽ có sự thay đổi cơ bản trong phương thức di chuyển chủ yếu là
đường hàng không và đường biển. Trước đây, khách du lịch dừng tại hai sân
bay là Nội Bài và Cát Bi sau đó di chuyển bằng đường bộ đến Hạ Long, trong
tương lai gần sẽ có đường bay quốc tế đến Hạ Long thông qua sân bay Vân
Đồn. Triển vọng du khách đến bằng đường biển là rất lớn, bởi vì hiện nay du
lịch thế giới xuất hiện hình thức du lịch đường biển trên các con tàu sang
trọng tiện nghi. Đây là những du khách có tiềm lực tài chính ổn định nhu cầu
chi tiêu cao. Trong những năm tới ngành du lịch Quảng Ninh cần có biện
pháp thu thút những đối tượng khách này nâng cao hiệu quả kinh doanh của
ngành. Trong thời gian tới với cơ chế xuất nhập cảnh thông thoáng hơn dự
báo số lượng khách Trung Quốc đến Quảng Ninh sẽ tăng mạnh thông qua cửa
khẩu Móng Cái. Đây là đối tượng khách có nhu cầu về dịch vụ giá rẻ, đa phần
từ các tỉnh phía Nam Trung Quốc.
Trong những năm tới lượng khách du lịch đến Quảng Ninh chủ yếu từ
Đông Á, Bắc Mỹ và Châu Âu. Căn cứ vào nhu cầu, tâm lý xã hội ngành du
lịch cần xây dựng các chiến lược phục vụ ho phù hợp với từng đối tượng
khách. Khách du lịch đến từ Châu Âu và Bắc Mỹ quan tâm chủ yếu đến các
loại hình du lịch thăm quan vịnh đảo, hang động; Du lịch sinh thái, du lịch
mạo hiểm như lặn biển, câu cá. Đối với khách du lịch đến từ Đông Á chú
trọng phát triển dịch vụ tham quan, du lịch kết hợp hội thảo.
Trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng, người dân cả nước đều biết
ở Quảng Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh, nhưng kỳ quan thiên nhiên
Vịnh Hạ Long vẫn có sức hấp dẫn nhất và là điểm đến mong ước của nhiều
người muốn đến tận nơi để chiêm ngưỡng. Kinh tế đất nước trong những năm
qua có bước phát triển vượt bậc đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt, nhu
cầu du lịch của người dân ngày càng nhiều. Năm 2010 ngành du lịch Quảng
73
Ninh đón 3,2 triệu lượt khách nội địa đến thăm quan nghỉ dưỡng. Chủ yếu là
từ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, một bộ phận khách phía Nam đi theo tour
Thành phố Hồ Chí Minh – Hà Nội - Hạ Long. Tỷ lệ khách nội địa lưu trú đạt
1 triệu lượt khách (chiếm 29%) đây là một tỷ lệ thấp, trong thời gian tới cần
đầu tư đồng bộ cho ngành du lịch để thu hút nhiều khách lưu trú hơn. Khách
du lịch nội địa đến với Quảng Ninh bao gồm nhiều lứa tuổi, nhiều đối tượng
như khách nghỉ cuối tuần, tham quan nghỉ dưỡng, khách đi tour gói, khách
nghỉ tuần trăng mật, thanh niên, học sinh ở địa phương và các vùng phụ cận
ngành du lịch Quảng Ninh cần có giải pháp tăng tượng khách mùa thù và mùa
xuân, giảm bớt lượng khách vào mùa hè. Đặc biệt là đối tượng khách du lịch
có thu nhập thấp, đảm bảo cho biểu đồ khách du lịch đồng đều quanh năm.
Định hướng phát triển sản phẩm du lịch cần phải căn cứ vào cảnh quan
tự nhiên của địa phương, các di tích lịch sử văn hóa. Quan trọng nhất là phải
căn cứ vào nhu cầu của khách. Kinh tế càng phát triển, thu nhập và đời sống
của dân cư càng cao thì nhu cầu đi du lịch càng tăng. Sau thời gian làm việc
căng thẳng, con người mong muốn tìm một nơi yên tính để nghỉ ngơi, họ
thường quan tâm tới những nơi có thắng cảnh đẹp, không khí trong lành để
tận hưởng cuộc sống.
Định hướng không gian du lịch. Hiện nay, Quảng Ninh quy hoạch 4
trung tâm du lịch chính, nhưng hiện nay do tình trạng quá tải về các hoạt động
du lịch tại khu vực Hạ Long cần tính đến phương án dịch chuyển không gian
du lịch về hướng Vân Đồn và Vịnh Bái Tử Long, nơi có tính chất tương tự
như Vịnh Hạ Long.
3.3. Giải pháp phát triển du lịch Quảng Ninh theo hướng bền vững
3.3.1. Các giải pháp phát triển bền vững về kinh tế
3.3.1.1. Nâng cao vai trò của quản lý Nhà nước đối với việc thực hiên các
mục tiêu phát triển du lịch bền vững.
Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh gặp nhiều khó khăn, do tình trạng của một giai đoạn mà “Người
74
người làm du lịch, nhà nhà làm du lịch” các cơ quan đoàn thể từ trung ương
đến địa phương đều tham gia hoạt động du lịch xây dựng khách sạn, nhà nghỉ
một cách tuỳ tiện, cảnh quan vệ sinh môi trường du lịch ít được quan tâm,
hoạt động kinh doanh du lịch không được quản lý chặt chẽ. Vấn đề sát nhập
Sở Du lịch vào Sở Văn hoá thể thao cũng tạo ra những tác động không nhỏ
đến sự ổn định. Sự phối hợp của bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch với các
cơ quan ban ngành của tỉnh chưa thực sự chặt chẽ, hậu quả là một số vụ đắm
tàu du lịch gây thiệt hại về người và của. Vấn đề xây dựng các công trình làm
phá vỡ cảnh quan tự nhiên của Vịnh Hạ Long là hậu quả sự phối hợp không
tốt gây ra sự chồng chéo về mặt quy hoạch. Rút kinh nghiệm từ những hạn
chế nêu trên, công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch cần có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan ban ngành có liên quan. Đổi mới công
tác quản lý theo hướng gọn nhẹ về mặt tổ chức, có hiệu lực cao theo cơ cấu
ngành dọc và theo cơ cấu lãnh thổ. Bộ máy quản lý Nhà nước về hoạt động
du lịch cần phải thực hiện tốt công tác tham mưu cho các cấp lãnh đạo trong
công tác hoạt định chiến lược phát triển du lịch, trước mắt là chiến lược phát
triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn 2030. Công tác
quản lý Nhà nước trong thời gian tới cần tằng cường sự kiểm tra giám sát đối
với các đơn vị tham gia hoạt động du lịch, kịp thời và kiên quyết xử lý các vi
phạm, tránh tình trạng nể nang, bao che.
Xây dựng một bộ tiêu chí phát triển du lịch bền vững trên cơ sở đặc điểm
của địa phương, trong đó chú trọng đến các nội dung bảo vệ môi trường, đồng
thời là những chế tài xử phạt kèm theo. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước
đối với lĩnh vực quan sát thực hiện quy hoạt, đặc biệt đối với các vùng sinh
thái nhạy cảm. Rút kinh nghiệm bài học quy hoạch của khu vực Tuần Châu –
Bãi Cháy, khu vực Vân Đồn cần được quy hoạch cẩn thận và mang tính
chuyên nghiệp trong thành phẩm của đoàn quy hoạch cần có sự tham gia của
Tổng cục du lịch và chuyên gia có kinh nghiệm. Công tác kiểm tra quan sát
thực hiện quy hoạch cần phải thực hiện nghiêm túc quy hoạch tổng thể, sau
đó mới kêu gọi đầu tư và giao đất ưu tiên những dự án lớn, tổng thể và trọn 75
gói của các tập đoàn du lịch nổi tiếng trên thế giới. Không cấp phép cho các
dự án xây dựng khu du lịch từ 3 sao trở xuống, chỉ cho phép xây dựng các
khu 4 sao trở lên có quy mô thích hợp, kiến trúc hài hoà với môi trường, cảnh
quan của các hòn đảo.
3.3.1.2. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
phát triển du lịch bền vững.
Cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng. Trong những năm
tới Quảng Ninh cần tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này, đặc biệt phải đẩy
nhanh tiến độ những dự án quan trọng mang tính chất “đòn bẩy” điển hình là
cao tốc Hà Nội - Hạ Long. Đây là tuyến đường huyết mạch nối với thủ đô Hà
Nội. Hiện nay, do mật độ các phương tiện giao thông tham gia quá cao, dẫn
đến tình trạng quá tải. Tập trung xây dựng và hiện đại hoá trục giao thông ven
biển Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng – Ninh Bình huy động mọi nguồn lực
lồng ghép có hiệu quả các chương trình dự án trên địa bản để phát triển giao
thông nông thôn, nhất là cá khu vực miền núi hải đảo. Khẩn trương xây dựng
sân bay Vân Đồn. Đây là công trình có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
phát triển du lịch trong tương lai, nghiên cứu xây dựng một cảng biển hiện
đại, chuyên đón tàu du lịch có trọng tải lớn. Xây dựng mạng lưới điện đồng
bộ, đảm bảo cung cấp điện ổn định. Xây dựng hệ thống cấp thoát nước đồng
bộ, hiện đại trên toàn tỉnh. Phát triển hạ tầng thông tin - truyền thông với công
nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Đối với cơ sở vật chất: Tỉnh cần có chủ trương tăng cường đầu tư cho
khu vực Vân Đồn, có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào khu vực
này, đặc biệt là đầu tư đồng bộ, hạn chế xây dựng thêm cơ sở lưu trú tại Tuần
Châu – Bãi Cháy, bởi vì đã xuất hiện tình trạng dư thừa, dẫn đến công suất sử
dụng phòng không cao. Tại khu vực này chỉ cho phép xây dựng nhà hàng
76
khách sạn có quy mô lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế.
3.3.1.3. Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm du lịch, xây dựng các sản
phẩm du lịch cao cấp.
Trong thời gian qua, du lịch Quảng Ninh chủ yếu dựa vào các nguồn tài
nguyên du lịch sẵn có để xây dựng thành sản phẩm du lịch, mang lại những
lợi ích to lớn về mặt kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, về lâu dài phương thức này
dẫn đến sự suy giảm tài nguyên do thiếu sự đầu tư bảo vệ tôn tạo. Đây là
nguyên nhân làm cho sản phẩm du lịch Quảng Ninh đơn điệu cùng với nó là
sự xuống cấp của nhiều điểm du lịch. Để phát triển một cách bền vững việc
đa dạng hoá sản phẩm du lịch cần tuân thủ nguyên tắc thoả mãn nhu cầu hiện
tại của du khách về sản phẩm du lịch mà vẫn không làm tổn hại đến giá trị
của tài nguyên du lịch trong tương lai. Muốn xây dựng sản phẩm du lịch phù
hợp với nhu cầu của khách ngành du lịch cần phải thực hiện biện pháp điều
tra thăm dò nhu cầu của khách du lịch. Khai thác có hiệu quả tài nguyên du
lịch nhân văn, phục dựng các nét đẹp văn hoá của đời sống nhân dân địa
phương, đầu tư cho dự án khôi phục lại các phong tục của cư dân vạn chài
khu vực Vịnh Hạ Long. Có kế hoạch khôi phục các lễ hội đặc sắc của đồng
bào dân tộc thiểu số. Trong thời gian tới cần đầu tư xây dựng các sản phẩm du
lịch cao cấp như sân Golf, caiso. Phát triển loại hình du lịch kết hợp với hội
thảo. Chú trọng phát triển du lịch sinh thái tham gia vườn quốc gia, các mô
hình trang trại, các khu nuôi trồng thuỷ hải sản. Nghiên cứu đầu tư phát triển
quy mô và hiện đại hoá loại hình du lịch tắm, nghỉ dưỡng và chữa bệnh nước
khoáng tại khu suối khoáng Quang Hanh, nghiên cứu phát triển tour du lịch
tham quan mỏ than. Xây dựng bảo tàng chung giới thiệu về Hạ Long, phát
triển sản phẩm du lịch tham quan hang động dưới nước ở Vịnh Hạ Long,
đồng thời triển khai dịch vụ ngắm Vịnh Hạ Long từ trực thăng.
3.3.1.4. Đẩy mạnh quảng bá, hợp tác quốc tế và phát triển thị trường
khách cao cấp.
Công tác tuyên truyền quảng bá du lịch trong nước thời gian tới cần có
77
tính sáng tạo và chuyên nghiệp, tiếp tục đổi mới hoạt động quảng bá và xúc
tiến du lịch gắn với chiến lược phát triển thị trường. Tập trung vào các thị
trường truyền thống như Trung Quốc, Hàn Quốc. Xây dựng chiến lược phát
triển hướng tới các thị trường cao cấp như Châu Âu và Bắc Mỹ. Đây chính là
hướng đi bền vững nhất, bởi vì du khách đến từ các quốc gia này đều có tiềm
lực tài chính và nhu cầu chi tiêu cao, nếu như thu hút được thị trường này, tuy
số lượng khách ít, nhưng hiệu quả kinh doanh cao, làm giảm sức ép cho
ngành. Đồng thời, chú trọng phát triển thị trường khách cao cấp ở trong nước.
Ngành du lịch Quảng Ninh cần tận dụng cuộc thi “7 kỳ quan thiên nhiên” tiến
hành quảng bá, cần có biện pháp thu hút cộng đồng người Việt ở nước ngoài
chú ý tham gi. Đầu tư kinh phí để tiến hành quảng bá hình ảnh Vịnh Hạ Long
trên các phương tiện thông tin của các tập đoàn truyền thống lớn trên thế giới.
Không ngừng đổi mới hình thức chất lượng và phương thức quảng bá, xúc
tiến để phù hợp với thị trường khách cao cấp, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin cho các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch. Đẩy mạnh quan hệ hợp
tác quốc tế mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các nước thành
viên trong tổ chức EATOF. Tổ chức cán bộ đoàn doanh nghiệp tham gia các
hội thảo quốc tế về xúc tiến điểm đến du lịch, tham gia các gia hàng hội chợ
giới thiệu về tiềm năng du lịch, hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia các hội
chợ triển lãm thương mại du lịch quốc tế, tiến hành khảo sát các thị trường
khách du lịch nước ngoài. Đặc biệt là các thị trường trọng điểm.
3.3.1.5. Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển du
lịch trong thời đại hội nhập.
Công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực phải được chú trọng theo
hướng phù hợp với mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Mỗi cá nhân phải là
những tuyên truyền viên về du lịch bền vững. Muốn vậy, ngành cần tổ chức
các lớp bồi dưỡng về phát triển du lịch bền vững. Trong những năm tới cần có
bước đột phá về chất lượng nguồn nhân lực những năm tới cần có bước đột
phá về chất lượng nguồn nhân lực tranh thủ sự hỗ trợ của Tổng cục du lịch,
78
các dự án đào tạo nguồn nhân lực của các tổ chức quốc tế và nguồn kinh phí
hỗ trợ của tỉnh để đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực
cho ngành, khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức đào tạo tại chỗ cho cán bộ
công nhân viên. Tổ chức các hình thức tham quan học tập trong nước và quốc
tế. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo nâng
cao kỹ năng chuyên môn, ngoại ngữ và đào tạo nghề. Phối hợp với các viện
nghiên cứu, trường cao đẳng, đại học chuyên về du lịch tham gia vào công tác
đào tạo nhân lực. Tiếp tục quan tâm tới công tác bồi dưỡng nguồn nhân lực
lao động thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ du
lịch, bồi dưỡng kiến thức phòng cháy chữa cháy, lớp nghiệp vụ buồng, bàn,
bar. Tích cực phối hợp với doanh nghiệp để sàng lọc các hướng dẫn viên yếu
kém, tiến hành đào tạo tại chỗ theo hình thức một hướng dẫn viên giỏi kèm
một hướng dẫn viên kém. Mời các chuyên gia giỏi về chuyên môn, có kinh
nghiệm thực tế tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn cho hướng dẫn viên du
lịch trên toàn tỉnh. Nâng cao trình độ công nghệ thông tin cho cán bộ nhân
viên quản lý. Tỉnh cần có nguồn kinh phí đầu tư cho công tác phát triển nguồn
nhân lực du lịch, coi đây là một giải pháp quan trọng thực hiện mục tiêu đưa
du lịch Quảng Ninh đạt đẳng cấp châu lục vào năm 2015 như nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13 vừa ra.
3.3.2. Các giải pháp phát triển bền vững về mặt xã hội.
3.3.2.1. Nâng cao nhận thức về du lịch bền vững, khuyến khích cộng đồng
địa phương tham gia vào các hoạt động du lịch.
Sở Văn hoá thể thao và du lịch cần phải có chiến dịch tuyên truyền về lợi
ích của du lịch bền vững đối với cộng đồng dân cư. Đẩy lùi quan niệm làm du
lịch theo kiểu “Chộp giật”. Đặc biệt có biện pháp yêu cầu các hộ kinh doanh
cá thể không tăng giá một cách đột ngột. Lồng ghép việc nâng cao nhận thức
về du lịch bền vững trong các chương trình dự án. Đối với các vùng sinh thái
nhạy cảm cần phổ biến cho người dân nắm được những tác động tích cực
79
cũng như tiêu cực do hoạt động du lịch mang lại. Cần mở các lớp tập huấn
ngắn ngày cho cán bộ xã, thôn tại địa phương có khu du lịch, sau đó lồng
ghép chương trình tuyên truyền về du lịch bền vững trong các buổi sinh hoạt
tập thể tại khu vực của mình. Cơ quan quản lý du lịch cũng cần thường xuyên
đưa cán bộ về tham gia và hướng dẫn người dân về du lịch bền vững.
Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của du lịch. Cần nhân rộng
mô hình về sự tham gia của cộng đồng với hoạt động du lịch ở làng chài
Vông Viên và Cửa Vạn. Trong quá trình thực hiện quy hoạch du lịch cần phải
có sự tham gia của đại diện nhân dân địa phương. Động viên người dân tham
gia vào công tác tôn tạo, bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch, tham gia giữ
gìn vệ sinh môi trường chung tại địa bàn sinh sống của họ.
Khi phát triển du lịch sinh thái tại khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số của tỉnh. Ví dụ như: Huyện Bình Liêu, Ba Chĩ, Vân Đồn
cần khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương, đồng thời cũng phải
xây dựng năng lực cho người dân. Bởi vì, đặc thù khu vực này trình độ dân trí
còn nhiều hạn chế. Do vậy, hàng ngày phải tiếp xúc với khách du lịch làm cho
họ hết sức bỡ ngỡ. Người dân không ý thức được những tác động mà du lịch
có thể gây ra đối với môi trường, văn hoá của họ, họ thường không hiểu rõ
những nhu cầu của khách. Vì vậy, cần xây dựng những năng lực cơ bả cho
cộng đồng địa phương.
Tuyên truyền giáo dục cho nhân dân địa phương những kiến thức và
chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc bảo vệ tài nguyên rừng, bảo tồn
tài nguyên du lịch.
- Nâng cao trình độ giáo dục phổ thông cho nhân dân địa phương về các
lĩnh vực liên quan đến du lịch như tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn về địa lý
thế giới, lịch sử thế giới, tiếng và văn hoá nước ngoài.
- Tổ chức chương trình trao đổi kiến thức về giao tiếp, môi trường, cảnh
quan vệ sinh an toàn thực phẩm, an ninh trật tự nhằm tạo đào cho phát triển
80
du lịch bền vững.
Xác định cho người dân những lợi ích khi họ tham gia vào hoạt động du
lịch, cơ hội bình dẳng về giới, những nguồn thu từ hoạt động giúp họ có khả
năng nâng cao dịch vụ giáo dục y tế. Những yếu tố này sẽ ảnh hưởng lâu dài
tới nhận thức về bảo tồn trong cộng đồng, giảm các mối đe doạ với cộng
đồng.
3.3.2.2. Gia tăng lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương.
Mục tiêu của du lịch bền vững là sự gia tăng lợi ích kinh tế cho cộng
đồng địa phương. Vì vậy, các dự án phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh cần chú ý đến vấn đề này bằng cách thu hút nguồn lao động tại chỗ. Đối
với những việc làm không đòi hỏi trình độ chuyên môn như phục vụ trong các
cơ sở lưu trú, nhân viên trong các nhà hàng ăn uống và một số hoạt động khác
như xây dựng, duy trì các cơ sở hạ tầng du lịch cần phải ưu tiên cho lao động
là người địa phương. Tuy nhiên về phía nhà quản lý và doanh nghiệp kinh
doanh du lịch cần phải thực hiện công tác đào tạo các kỹ năng cơ bản về
nghiệp vụ du lịch , động tác này nên thực hiện song song với quá trình giải
phóng mặt bằng, thu hồi đất. Công tác đào tạo nhân lực địa phương cần thực
hiện theo các hướng sau:
- Tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho những lao động thời vụ là
người địa phương. Họ được tham gia phục vụ một số công việc đơn giản phụ
trợ cho các hoạt động tham quan, tâm linh, nghỉ dưỡng hoặc chữa bệnh.
- Cần chú ý đến việc cung cấp kiến thức về môi trường sinh thái như
cảnh quan tự nhiên các giá trị du lịch sinh thái hiểm hoạ môi trường sinh thái
với phát triển kinh tế - xã hội phát triển du lịch xã hội hoá du lịch.
- Cung cấp kiến thức về nhu cầu thói quen tập quán giao tiếp ứng xử,
kỹ năng bán hàng, vệ sinh môi trường, tiếp thị du lịch.
Biện pháp tăng gia lợi ích kinh tế nhất cho cộng đồng địa phương là có
biện pháp tăng cường sử dụng hàng hoá dịch vụ cho nhân dân quanh các khu
du lịch sản xuất. Điều này sẽ giúp tạo ra những sản phẩm du lịch mới, hấp
81
dẫn và kéo dài thời gian lưu trú của khách.
3.3.2.3. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của đồng bào các dân tộc
thiểu số.
Hiện nay, trên địa bàn Quảng Ninh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống: Sán Dùi, Sau Chỉ, Cao Lau, Tày, Dao vấn đề bảo tồn bản sắc văn
hoá đang là một vấn đề cấp thiết trong bối cảnh kinh tế - xã hội có bước hội
nhập sâu rộng. Chiêm ngưỡng những nét đặc sắc trong đời sống văn hoá của
đồng bào thiểu số là một nhu cầu có thực và ngành càng tăng của khách du
lịch.Vì vậy, cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch cần tham mưu cho các cấp
lãnh đạo của tỉnh có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của vấn đề này.
Trước mắt cần có đề án đánh giá cụ thể về giá trị văn hoá của đồng bào dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Sau đó, cần lựa chọn những lĩnh vực tiêu biểu
vào diện bảo tồn phục dựng phục vụ mục đích phát triển du lịch bền vững.
Đầu tư nghiên cứu sưu tầm bảo tồn những giá trị văn hoá vật thể và phi vật
thể của đồng bào dân tộc. Khuyến khiách các già làng, dòng họ tham gia vào
việc giữ gìn văn hoá truyền thống, khôi phục các lễ hội cần cấp chứng nhận
nghệ nhân cho những người có công trong lĩnh vực này. Mặt khác tiến hành
tuên truyền vận động đồng bào xoá bỏ những hủ tục lạc hậu trong đời sống
hàng ngày. Muốn thực hiện tốt vấn đề này, cần phải có sự quan tâm của các
cấp chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội. Doanh nghiệp kinh doanh du
lịch cần có hướng nghiên cứu thiết kế các tour du lịch đến thăm quan tại khu
vực này. Đồng thời, hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động phụ dựng lễ hội cũng
như các trò chơi dân gian. Tỉnh Quảng Ninh cần có quan tâm đầu tư phát triển
hệ thống cơ sở hạ tầng đối với khu vực này, trước mắt là đầu tư xây dựng hệ
thống đường gia thông.
3.3.3. Nhóm các giải pháp phát triển bền vững về môi trường.
3.3.3.1. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.
Trong thời gian tới du lịch Quảng Ninh cần phối hợp với các cơ quan
82
chức năng của tỉnh đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi
trường trong toàn thể nhân dân, đặc biệt là dân cư xung quanh các khu du
lịch, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục và hướng dẫn cụ thể cho các cơ
quan đoàn thể, doanh nghiệp cùng toàn thể nhân dân có nhận thức đúng đắn
về môi trường biển khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh du lịch đóng
thuế và mua bảo hiểm môi trường.
Trước mắt cần có kế hoạch di chuyển các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra
khỏi khu vực trung tâm các đô thị đầu tư xây dựng các công rình xử ý chất
thải cho các khu vực trọng điểm. Sớm nghiên cứu vào ban hành các chính
sách cụ thể về môi trường như chính sách thuế môi trường, các quy định xử
phạt, bồi thường đối với những trường hợp làm giảm sút tài nguyên và ô
nhiễm môi trường biển, ven biển và hải đảo. Banh hành các quy định chặt chẽ
về bảo vẹ môi trường biển dối với các tàu thuyền hoạt động trên biển, đặc biệt
là khu vực Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long.
Quy định chặt chẽ về thẩm định luận chứng và các phương án bảo vệ
môi trường trong quá trình xét duyệt dự án, nhất là các công trình có thể gây ô
nhiễm nặng như hoá chất cảng biển, vật liệu xây dựng, hạn chế đưa các công
trình khó xử lý ô nhiễm vào các khu vực sinh thái nhạy cảm và gần các trung
tâm du lịch biển như: Vịnh Hạ Long, Vân Đồn, Trà Cổ. Chú trọng công tác
phòng chống xỏi lở bờ biên, nhất là các đoạn bờ biển xung yếu đảm bảo cho
các công trình kinh tế, quốc hòng cũng như cho sản xuất và đời sống cư dân
ven biển.
Nghiên cứu một hệ thống của khu bảo tồn thiên nhiên với các kiểu loại
phù hợp nhằm bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái đặc thù và đa dạng sinh
học. Tiếp tục nghiên cứu phương án bảo tồn vườn quốc gia Bái Tử Long, xây
dựng quy định bảo vệ, có chế độ quản lý thích hợp trên cơ sở gắn kết chặt chẽ
giữa các hoạt động bảo vệ với các mục tieu kinh tế - xã hội. Dừng ngay việc
xâm hại rừng ngập mặn, có phương án phục hồi những diện tích bị phá hoại.
Kiểm soát lượng nước thải bảo vệ các rặng san hô của Vịnh Hạ Long, hạn chế
83
việc khai thác san hô để nung vôi phục vụ xây dựng.
3.3.3.2. Bảo tồn giá trị Vịnh Hạ Long và các tài nguyên du lịch khác.
Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long là hai thắng cảnh nổi tiếng của Quảng
Ninh. Đây cũng chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch
trong tương lai. Chính vì vậy, việc khai thác cần phải tiến hành song song với
công tác bảo tồn, nghiên cứu, bảo vệ cảnh quan môi trường. Cần thực hiện
nghiêm ngặt công văn số 142/2002/QĐ-TTg về công tác quy hoạch bảo tồn
và phát huy giá trị di sản Vịnh Hạ Long là khu vực nổi tiếng về cảnh quan
thiên nhiên nhưng đồng thời cũng là nơi tập trung của nhiều ngành kinh té
quan trọng như cảng biển, công nghiệp khai thác than, sản xuất vật liệu xây
dựng. Vì vậy, cần có những chính sách và quy chế đặc biệt để bảo vệ tài
nguyên và môi trường của khu vực phát triển cảng Cái Lân và cảng chuyên
dùng cho than, dầu, xi măng… phải được tính toán về quy mô và công nghệ
phù hợp trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển công nghiệp du lịch và dịch
vụ ở dải ven biển Hạ Long – Bãi Cháy cũng như toàn khu vực. Cần phát triển
loại hình du lịch sinh thái ở Vịnh Hạ Long, vì hai loại hình này chủ yéu dựa
vào tự nhiên và văn hoá bản địa. Có tính giáo dục môi trường và đóng góp
cho các nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững.
Với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương, khẩn trương xây
dựng bảo tàng sinh thái Hạ Long, phát triển các phương tiện vận chuyển
khách trên biển không gây tiếng ồn, hình thức hài hoà với cảnh quan, ưu tiên
phát triển các loại thuyền rồng, thuyền buồm để hoà nhập và tôn vinh các sắc
thái đặc trưng cho Vịnh Hạ Long. Các phương tiện vận chuyển cần được quản
lý chất thải, vị trí neo đậu để không gây tác động xấu đến môi trường cảnh
quan. Đối với hoạt động tổ chức tham quan huy odọng cần hạn chế tối đa sự
can thiệp của con người. Các công trình như bến cập tàu, đường đi, lan can,
ánh sáng nhân tạo cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng đưa ra các giải pháp
tinh tế sao cho hài hoà với chất liệu hình thái tự nhiên. Hệ thống bến cập tàu,
84
thuyền cần xây dựng ở quy mô nhỏ, nằm phân tán trong các hang đảo, khống
chế số lượng tàu thuyền ra vào sao cho không quá đông. Các công trình dịch
vụ tiện nghi du lịch cần phải được thiết kế hài hoà, công trình phải ẩn mình
trong thiên nhiên, vị trí đặt ở nơi kín đáo, dùng vật liệu đá và giả đá. Lối đi
lên hang và lối đi trong hang cần sử dụng các vật liệu tự nhiên, kích thước
không được quá lớn, hệ thống đèn chiếu sáng phải mang tính nghệ thuật cao.
Nghiên cứu việc chuyên chở bằng tàu xuồng cao tốc trong khu vực Vịnh, cấm
các hoạt động bốc dỡ than theo khuyến cáo của UNESCO. Vận động nhân
dân đặc biệt là các làng chài tham gia giữ gìn vật sinh môi trường.
Khẩn trương đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về giá trị của các
hệ sinh thái, giá trị văn hoá lịch sử của Vịnh Hạ Long, đề nghị UNESCO
công nhận lần thứ 3.
Tài nguyên du lịch được hiểu là cảnh quan thiên nhiên di tích lịch sử, di
tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình sáng tạo của con người có thể sử
dụng nhằm thoả mãn các nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các
điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sức ép hấp dẫn du lịch. Bảo tồn tôn tạo
phát triển tài nguyên du lịch đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững.
3.3.4. Tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia du lịch.
Đối với các sở kinh doanh dịch vụ lưu trú cần nâng cao ý thức bảo vệ
môi trường cho chính nhân viên, bởi vì chính họ sẽ là tấm gương cho du
khách học tập. Thực hiện nghiêm túc các quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm. Khuyến khích các cơ sở lưu trú áp dụng các biện pháp tiết kiệm tài
nguyên và năng lượng, cơ quan quản lý Nhà nước cần kiến nghị hỗ trợ kinh
phí từ nguồn quỹ phát triển du lịch đối với các cơ sở lưu trú lắp đặt sử dụng
các thiết bị công nghệ thân thiện với môi trường như điện gió năng lượng, cơ
quan quản lý nhà nước cần kiến nghị hỗ trợ kinh phí từ nguồn quỹ phát triển
du lịch đối với các cơ sở lưu trú lắp đặt sử dụng các thiết bị công nghệ thân
thiện với môi trường điện gió năng lượng mặt trời, khí sinh học đặc biệt trong
85
bối cảnh thiếu hụt điện năng như hiện nay, giải pháp này giúp cho cơ sở lưu
trú giảm chi phí nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm sức ép cho môi
trường.
Đối với doanh nghiệp lữ hành khi xây dựng, thiết kế tour du lịch nên
lồng ghép vấn đề bảo vệ môi trường, lịch trình tham quan nên giành một chút
thời gian cho cán bộ tuyên truyền thuyết trình về các hoạt động bền vững cho
hệ sinh thái và môi trường cảnh quan. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào
tài liệu hướng dẫn du lịch. Chỉ dẫn khách tuân thủ các quy định bảo vệ môi
trường trên đường đi và tại điểm tham quan du lịch. Trang bị cho hướng dẫn
viên kiến thức về bảo vệ môi trường và các kỹ năng ứng cứu khi gặp sự cố về
môi trường. Xây dựng những mô hình du lịch phù hợp với cảnh quan thiên
nhiên, quản lý khách tham quan. Tổ chức các hoạt động hướng dẫn nhằm đảm
bảo cho khách du khách có hiểu biết đầy đủ về môi trường tự nhiên và hạn
chế các tác động tiêu cực. Tổ chức về số lượng khách tham quan ở mức độ
vừa phải.
Đối với cơ quan quản lý các khu vực du lịch và điểm du lịch cần xây
dựng nội quy baỏi vệ môi trường trên cơ sở đặc điểm tài nguyên cho cơ quan
quản lý. In tờ rơi phát cho du khách, đặt thùng rác nhà vệ sinh công cộng tại
các địa điểm hợp lý. Đề xuất với các cấp lãnh đạo biên chế cho cơ quan một
cán bộ chuyên về lĩnh vực bảo vẹ môi trường, trích một phần kinh phí thu
được từ điểm du lịch, đầu tư cho công tác cải thiện môi trường. Kịp thời phát
hiện các vấn đề ô nhiễm, suy thoái môi trường, báo cáo cho cơ quan chức
năng.
Đối với du khách cần nghiêm túc tuân thủ các quy định bảo vệ môi
trường tại các địa điểm tham quan. Đối với các khu bảo tồn thiên nhiên cần
phải có nhân viên quản lý khu bảo tồn đi kèm. Không có hành vi xâm hại đến
môi trường cảnh quan, đặc biệt là thạch nhũ trong các hang động. Không mua
bán sử dụng động thực vật quý hiếm trong danh mục quy định của Nhà nước.
86
Du khách cần có thái độ tôn trọng văn hoá của cộng đồng địa phương.
Đối với cộng đồng địa phương cần tích cực tham gia hoạt động du lịch
tại địa phương, có thái độ giao tiếp phù hợp với du khách. Mỗi một người dân
trong khu du lịch cần là một tấm gương về bảo vệ môi trường để khách du
lịch noi theo. Đối với người dân sống gần khu bảo tồn thiên nhiên như Bái Tử
Long, Ba Mùn, Hoành Bồ..v.v. không tham gia vào các hoạt động săn bắn,
mua bán các loài động vật hoang dã trong danh mục bị cấm để chế biến món
87
ăn hoặc nhồi bông làm hàng lưu niệm.
KẾT LUẬN
Phát triển du lịch bền vững là hướng đi tất yếu của ngành du lịch Quảng
Ninh, bởi vì sau một thời gian dài có tốc độ tăng trưởng cao, ngành kinh tế
này đang phải đối mặt với những vấn đề mang tính bền vững, nổi bật là sự ô
nhiễm môi trường, sự xuống cấp của tài nguyên du lịch, điều này đặc biệt
nguy hiểm vì sản phẩm du lịch ở đây được xây dựng chủ yếu trên cơ sở
nguồn tài nguyên tự nhiên sẵn có, đó là những tài nguyên có độ nhạy cảm
cao, nếu bị hủy hoại sẽ khó có khả năng hồi phục. Xuất phát từ nguyên nhân
này, luận văn” Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh” đã
tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển của du lịch Quảng Ninh trên quan
điểm của phát triển bền vững và đạt được một số kết quả như sau:
- Khái quát những lí luận cơ bản của phát triển du lịch bền vững, đưa ra
một số tiêu chí và nguyên tắc phát triển du lịch bền vững. Những vấn đề này
có thể sử dụng tham khảo cho công tác hoạch định chiến lược phát triển du
lịch của Quảng Ninh trong thời gian tới.
- Tìm hiểu quá trình phát triển du lịch tại một số quốc gia có điểm tương
đồng với Việt Nam nói chung và Quảng Ninh nói riêng. Từ đó rút ra những
bài học kinh nghiệm về phát triển du lịch bền vững và không bền vững. Đây
cũng là sự tham khảo quý báu cho việc hoạch định chiến lược phát triển du
lịch của Tỉnh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
- Nghiên cứu những tiềm năng về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân
văn của Quảng Ninh. Trên cơ sỏ đó đề xuất những định hướng phát triển sản
phẩm du lịch phù hợp, có tính bền vững và hấp dẫn cao với du khách trong và
ngoài nước.
- Đánh giá thực trạng phát triển du lịch Quảng Ninh trong thời gian qua,
làm rõ nguyên nhân của những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững như:
88
Sự xuống cấp của tài nguyên du lịch, vấn đề ô nhiễm môi trường tại các trung
tâm du lịch, số ngày lưu trú bình quân và hệ số chi tiêu thấp của khách du
lịch.
- Luận văn đã nghiên cứu những tác động tích cực cũng như tiêu cực của
hoạt động phát triển du lịch trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường
trong phạm vi không gian của tỉnh Quảng Ninh. Phân tích những đóng góp
tích cực của phát triển du lịch đối với việc tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập
cho người dân, tích cực góp phần xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó luận văn
cũng phân tích những áp lực của hoạt động du lịch đối với môi trường tự
nhiên, sự buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác quy hoạch,
khiến cho hoạt động xây dựng cơ bản ảnh hưởng đến cảnh quan của Vịnh Hạ
Long, di sản thiên nhiên được UNESCO công nhận hai lần.
- Trên cơ sỏ đánh giá thực trạng phát triển của du lịch Quảng Ninh, luận
văn đã đề xuất một số giải pháp phát triển có tính bền vững về mặt kinh tế, xã
hội và môi trường, nhằm khắc phục những hạn chế tồn tại và đưa ngành du
lịch phát triển theo hướng bền vững.
- Tuy nhiên, đây là một đề tài còn mới mẻ, liên quan đến nhiều lĩnh vực
phạm vi nghiên cứu đánh giá rộng, vì vậy luận văn không tránh được những
89
thiếu sót, cần phải được tiếp tục nghiên cứu bổ sung thêm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế -
2. Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới – WCED(1987), Tương lai của
IUCN(1980), Chiến lược bảo tồn Thế giới, NewYork.
chúng ta, NewYork.
3. Chính phủ nước CHXHCNVN (2004), Định hướng chiến lược phát triển
bền vững ở Việt Nam, Hà Nội.
4. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ Tỉnh
lần thứ 13, Quảng Ninh.
5. UBND tỉnh Quảng Ninh (2011), Quy hoạch phát triển du lịch Quảng Ninh
giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Quảng Ninh.
6. Sở Du Lịch Quảng Ninh (2006), Báo cáo tổng kết 5 năm của ngành Du
lịch Quảng Ninh(2001- 2006), Quảng Ninh.
7. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Quảng Ninh (2011), Báo cáo kết quả
công tác năm2010 và phương hướng nhiêm vụ năm 2011 của ngành Du
Lịch Quảng Ninh, Quảng Ninh.
8. Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Ninh (2011), Định hướng kế hoạch
bảo vệ môi trường giai đoạn 2011-2016, Quảng Ninh.
9. Trần Đức Thanh (2000), Nhập môn khoa học du lịch. Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch bền vững, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Lê Huy Bá (chủ biên), Du lịch sinh thái, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội, năm 2009.
12. Thế Đạt (2003), Du lịch và du lịch sinh thái, Nxb Lao động, Hà Nội.
13. Trần Tiến Dũng (2006), Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha - Kẻ
90
Bàng, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường ĐHKTQD Hà Nội, Hà Nội.
14. Đoàn Thị Thanh Trà (2007), Giải pháp phát triển du lịch bền vững ở
Vườn Quốc gia Ba Vì, Luận văn thạc sĩ du lịch học, Trường ĐHKHXH &
NV, Hà Nội
15. Phạm Văn Thắng (2009), Nghiên cứu phát triển du lịch bền vững khu
vực Hoa Lư và phụ cận, Luận văn Thạc sĩ Khu vực học, Viện Việt Nam học
và Khoa học Phát triển, Hà Nội.
16. Đặng Huy Huỳnh(2005), Bảo vệ các cảnh quan và đa dạng sinh học để
phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (4), trang
12.
17. Trịnh Lê Anh(2005), Môi trường xã hội nhân văn và vấn đề phát triển du
lịch bền vững, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (4),trang 8.
18. Lê Hải(2006), Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững,
Tạp chí Du lịch Việt Nam, (3), trang 15.
19. Nguyễn Thị Hải(2006), Quản lý tài nguyên và môi trường phục vụ phát
triển du lịch bền vững ở Yên Tử, Tạp chí Quản lí nhà nước, (2), trang 17.
20. Phạm Lê Thảo (2005), Môi trường tự nhiên với phát triển du lịch bền
vững ở Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (8) trang 9.
21. Phạm Trung Lương (2004), Thực trạng và những vấn đề đặt ra để phát
triển du lịch bền vững, Tạp chí Du lịch Việt Nam (12) trang 7.
22. Phạm Trung Lương (2004), Phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi
trường, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (10) trang 11.
23. Nguyễn Trọng Hoàng(2004), Xây dựng môi trường phát triển du lịch bền
vững, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (12) trang 8.
24. Trần Trung Dũng(2005), Hải Phòng với những dự án đầu tư phát triển du
lịch bền vững, Tạp chí Du lịch Việt Nam, (2) trang 3.
25. Sweeting, J. 1999. The green host effect: An Integrated Approach to
Sustainable Tourism and Resort Development. Washington, DC:
91
Conservation International.
26. Wong, P,P., 1991. Coastal Tuorsirm in South East Asia. ASEAN.
Education Series 8.
27. IUCN, 1998. Tuyển tập báo cáo, Hội thảo kế hoạch du lịch cộng đồng
Sapa. Hà Nội.
28. Nikolova, A. and L.Hens, 1998. Sustainable Tourism. Free University of
92
Brussel, Belgium.
MỤC LUC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
MỤC LỤC ....................................................................................................... ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................ vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... vii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN DU LỊCH
BỀN VỮNG ...................................................................................................... 5
1.1. Khái luận về phát triển du lịch bền vững ................................................... 5
1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững và du lịch bền vững ............................... 5
1.1.2. Nội dung của phát triển du lịch bền vững ............................................. 12
1.1.3. Vai trò của nhà nước trong phát triển du lịch bền vững………………13
1.1.4. Chiến lược phát triển du lịch hướng đến sự bền vững……………......16
1.1.5. Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững…...18
1.1.6. Tiêu chuẩn đánh giá tính bền vững của hoạt động du lịch……………24
1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong phát triển du lịch bền vững. ..... 28
1.2.1. Phát triển du lịch không bền vững ........................................................ 28
1.2.2. ECOMOST: Mô hình du lịch bền vững của cộng đồng châu âu .......... 31
1.2.3. Bài học cho phát triển du lịch theo hướng bền vững ở QuảngNinh…..32
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG
BỀN VỮNG Ở QUẢNG NINH .................................................................... 36
2.1. Khái quát về du lịch Quảng Ninh............................................................. 36
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ......................................................... 36
2.1.2.Tiềm năng phát triển du lịch. ................................................................. 38
2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên. .............................................................. 38
2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn. ............................................................. 40
2.1.2.3. Chính sách phát triển du lịch ở Quảng Ninh. ..................................... 42
4
2.2. Tình hình phát triển du lịch ở Quảng Ninh. ............................................ 46
2.2.1. Công tác quản lý nhà nước về du lịch. .................................................. 46
2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch ................................................ 47
2.2.3. Lực lượng lao động của ngành du lịch Quảng Ninh ............................. 49
2.2.4. Tình hình kinh doanh du lịch giai đoạn 2001 – 2010 ........................... 50
2.3.2. Đánh giá tính bền vững của du lịch Quảng Ninh.................................. 51
2.3.2.1. Vấn đề đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. ...................................... 51
2.3.2.2. Tác động của du lịch đối với hệ sinh thái tự nhiên ............................ 57
2.3.2.3. Tác động của du lịch đối với kinh tế Quảng Ninh ............................. 62
2.3.2.4. Tác động của du lịch lên xã hội – nhân văn ....................................... 65
Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH THEO HƯỚNG BỀN
VỮNG Ở QUẢNG NINH ............................................................................. 68
3.1. Quan điểm phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh......... 68
3.1.1. Bối cảnh mới về kinh tế - xã hội ........................................................... 68
3.1.2. Quan điểm phát triển du lịch bền vững ................................................. 70
3.2. Mục tiêu và định hướng phát triển du lịch bền vững ............................... 71
3.2.1. Mục tiêu phát triển: ............................................................................... 71
3.2.2. Định hướng phát triển ........................................................................... 73
3.3. Giải pháp phát triển du lịch Quảng Ninh theo hướng bền vững .............. 74
3.3.1. Các giải pháp phát triển bền vững về kinh tế ........................................ 74
3.3.1.1. Nâng cao vai trò của quản lý Nhà nước đối với việc thực hiên các
mục tiêu phát triển du lịch bền vững. .............................................................. 74
3.3.1.2. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ phát
triển du lịch...................................................................................................... 76
3.3.1.3. Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm du lịch, xây dựng các sản phẩm
du lịch cao cấp. ................................................................................................ 77
3.3.1.4. Đẩy mạnh quảng bá, hợp tác quốc tế và phát triển thị trường khách
5
cao cấp. ............................................................................................................ 77
3.3.1.5. Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển du lịch
trong thời đại hội nhập. ................................................................................... 78
3.3.2. Các giải pháp phát triển bền vững về mặt xã hội. ................................. 79
3.3.2.1. Nâng cao nhận thức về du lịch bền vững, khuyến khích cộng đồng địa
phương tham gia vào các hoạt động du lịch. .................................................. 79
3.3.2.2. Gia tăng lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương. .......................... 81
3.3.2.3. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của đồng bào các dân tộc thiểu số.
......................................................................................................................... 82
3.3.3. Nhóm các giải pháp phát triển bền vững về môi trường. ..................... 82
3.3.3.1. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. .................................................. 82
3.3.3.2. Bảo tồn giá trị Vịnh Hạ Long và các tài nguyên du lịch khác. .......... 84
3.3.4. Tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia du lịch. ........................ 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!
Go to Purchase Now>>
AnyBizSoft
PDF Merger
Merge multiple PDF files into one
Select page range of PDF to merge
Select specific page(s) to merge
Extract page(s) from different PDF
files and merge into one