Phát triển du lịch biển Bà Rịa - Vũng Tàu - Thực trạng và giải pháp
lượt xem 1
download
Ngày nay, khi mà cuộc sống vật chất ngày càng được nâng cao, du lịch biển trở thành nhu cầu thiết yếu không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Vì thế, nhu cầu của du khách đến với du lịch biển ngày càng nhiều. Bài viết này phân tích, đánh giá các yếu tố tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch biển của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đưa ra một số giải pháp phát triển du lịch biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phát triển du lịch biển Bà Rịa - Vũng Tàu - Thực trạng và giải pháp
- PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN BÀ RỊA – VŨNG TÀU – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Mai Thị Lâm Linh1 1. Lớp CH22LS01, Trường Đại học Thủ Dầu Một TÓM TẮT Ngày nay, khi mà cuộc sống vật chất ngày càng được nâng cao, du lịch biển trở thành nhu cầu thiết yếu không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi người. Vì thế, nhu cầu của du khách đến với du lịch biển ngày càng nhiều. Bài viết này phân tích, đánh giá các yếu tố tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch biển của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đưa ra một số giải pháp phát triển du lịch biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Từ khoá: Bà Rịa - Vũng Tàu, bền vững, du lịch biển, tăng trưởng kinh tế. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Bà Rịa - Vũng Tàu được xem là cửa ngõ phía Đông của Sài Gòn - Gia Định và Đông Nam Bộ. Diện tích toàn tỉnh là 2047,66 km2, chiếm gần 0,6% diện tích của cả nước. Biển và bờ biển Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc nơi rất tiềm năng để phát triển du lịch biển. Bờ biển dài trên 100 km, trong đó 72 km có nhiều vũng, vịnh và bãi cát đẹp, lý tưởng với cơ sở dịch vụ - du lịch, nghỉ mát tiện nghi như Vũng Tàu, Côn Đảo, Long Hải, Hồ Cốc, Hồ Tràm, Hồ Linh, Bình Châu... đã thu hút hàng triệu du khách trong và ngoài nước mỗi năm. Thủy triều của biển Bà Rịa - Vũng Tàu theo chế độ bán nhật triều tương đối ổn định, với biên độ tối đa 4-5 mét cũng tạo cho vùng biển này thêm nhiều ưu thế. Với 156 km bờ biển, Bà Rịa - Vũng Tàu có những bãi tắm đẹp, cát dài thoai thoải, nước trong và sạch quanh năm, như Bãi Trước, Bãi Sau, Bãi Dâu, Bãi Dứa (Vũng Tàu), Long Hải (Long Đất), Hồ Cốc, Hồ Tràm (Xuyên Mộc)... Gắn liền với đó là các khu rừng nguyên sinh Bình Châu - Phước Bửu và suối nước khoáng nóng Bình Châu. Ngoài ra còn có Vườn quốc gia Côn Đảo, diện tích là 6.043 ha, với hệ động, thực vật phong phú và cạnh đó là di tích hệ thống nhà tù Côn Đảo, Bà Rịa - Vũng Tàu thực sự có tiềm năng để trở thành một trung tâm du lịch biển của cả nước nếu có một chính sách khai thác hợp lý. Bà Rịa - Vũng Tàu còn có nguồn nước khoáng Bình Châu, Suối Nghệ có giá trị chữa bệnh, giải khát và xuất khẩu. Cát trắng Bình Châu là nguyên liệu để sản xuất các sản phẩm thủy tinh cao cấp, như pha-lê. Các dãy núi đá hoa cương ở khu vực Núi Dinh - Thị Vải và khu vực núi Minh Đạm là nguyên liệu quan trọng cho nhu cầu xây dựng rất lớn trong tỉnh. Như vậy, với lợi thế về vị trí địa lý thuộc thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc, biển và bờ biển Bà Rịa - Vũng Tàu có nguồn sản vật, sản phẩm biển phong phú và đa dạng, cảnh quan đẹp, hiền hòa thuận lợi để khai thác và phát triển các loại hình du lịch biển. 2. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 2.1. Tình hình phát triển du lịch biển của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, các văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong những năm gần đây đều xác định “Bà Rịa - Vũng Tàu cơ bản trở thành một trong những trung tâm công nghiệp, du lịch và khai thác hải sản của khu vực và cả nước, một thương cảng quốc gia và quốc tế” (Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 2009). 459
- Từ năm 2007, triển khai thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu xây dựng Chương trình thực hiện số 12Ctr-TU của Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu: “Phấn đấu xây dựng, phát triển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành tỉnh mạnh về kinh tế biển, với hệ thống thương cảng quốc gia và quốc tế vào thời kì 2010 - 2015; là một trong những trung tâm dịch vụ, du lịch, hải sản của khu vực và cả nước” (Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 2008). Từ năm 2017 đến nay, thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, Bà Rịa - Vũng Tàu đã tạo ra bước đột phá, đưa ngành du lịch biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Sản phẩm du lịch biển có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực. Tính đến cuối năm 2020, thu hút được 17-20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 82 triệu lượt du lịch nội địa; đóng góp trên 10% GDP, tổng thu từ khách du lịch đạt 35 tỷ USD; giá trị xuất khẩu thông qua du lịch đạt 20 tỷ USD; tạo ra 4 triệu việc làm, trong đó có 1,6 triệu việc làm trực tiếp. Phấn đấu đến năm 2030, du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn” (Vũ Văn Đông, 2020). Thu nhập từ du lịch biển đã góp phần nâng tỷ trọng đóng góp của ngành du lịch trong GRDP toàn tỉnh, hướng đúng theo mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Tổng lượng khách tới tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu “trong giai đoạn 2017-2020 tăng trung bình 15%/năm; riêng khách có lưu trú là 12,32 triệu lượt khách (trong đó có 3,1 triệu lượt khách quốc tế), có tốc độ tăng trung bình đạt 14%/năm. Tổng số doanh thu từ hoạt động du lịch giai đoạn 2017-2020 đạt khoảng 23.991 tỷ đồng (trong đó doanh thu từ dịch vụ lưu trú đạt khoảng 7.516 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân đạt 7,25%/năm)” (Vũ Văn Đông, 2020). Bà Rịa - Vũng Tàu là vùng trọng điểm trong Chương trình Du lịch biển quốc gia, với nhiều loại hình du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh, giải trí cuối tuần, du lịch sinh thái rừng - biển - đảo và du lịch văn hóa - lịch sử - cách mạng. Với tiềm năng và điều kiện sẵn có, tỉnh luôn nắm lấy ưu thế vươn mình trở thành một trung tâm du lịch biển của cả nước. Để tạo điều kiện thu hút đầu tư khai thác, phát triển tiềm năng du lịch biển, Bà Rịa - Vũng Tàu đã huy động vốn đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật; nâng cấp, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông nối liền các cảng nước sâu, kết nối giao thông đường bộ và đường biển, nối liền Bà Rịa - Vũng Tàu với các tỉnh thành khác trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và khu vực để phục vụ tốt nhất cho nhu cầu đi lại, vận chuyển, lưu thông hàng hóa như đường Liên cảng Thị Vải - Cái Mép, đường cao tốc và đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu, các tuyến đường ngang nối Quốc lộ 51 với khu cảng Cái Mép… Quốc lô 51A (8 làn xe) chạy qua tỉnh dài gần 50 km, thúc đẩy tiến độ xây dựng đường cao tộc Biên Hòa - Vũng Tàu 6 làn xe song song với Quốc lộ 51A. Đồng thời, Bà Rịa - Vũng Tàu đã chú trọng đến việc xây dựng hệ thống giao thông ven biển. Tỉnh chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, quy hoạch phát triển hệ thống các đô thị như: thành phố Vũng Tàu là trung tâm kinh tế, văn hóa, dịch vụ công cộng và đầu mối giao lưu của miền Đông Nam bộ và của tỉnh, là trung tâm du lịch, dịch vụ hàng hải, phát triển cảng và khai thác dịch vụ dầu khí của cả nước; đô thị Phú Mỹ (huyện Tân Thành) sẽ được xây dựng với tính chất chủ yếu là đô thị công nghiệp - cảng biển, trung tâm kinh tế quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Thành phố Bà Rịa sẽ được xây dựng, phát triển với tính chất là trung tâm hành chính - chính trị của tỉnh, là trung tâm dịch vụ thương mại. Hệ thống các đô thị trên sẽ được kết nối với nhau trong một không gian kinh tế thống nhất, kết hợp với những đô thị của các địa phương khác trong vùng. Tỉnh quan tâm đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất tại các bến cảng, xây dựng mới các cảng phục vụ du lịch gồm: cảng Long Hải, cảng Sao Mai, cảng Cầu Đá, cảng Côn Đảo. Cải tạo những điều kiện về kỹ thuật, vệ sinh, an toàn tại các bến cảng hàng hóa để phù hợp cho việc đón tàu du lịch; tập trung đầu tư trang bị mới và cải tạo đội tàu du lịch để phục vụ du khách với chất lượng tốt nhất theo tiêu chuẩn quốc tế... Từ năm 2020 đến nay, tỉnh đã chú trọng tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch để phục vụ nhân dân, đồng thời quảng bá thương hiệu, thu hút khách du lịch như Festival Biển; khai hội Văn hóa - Du lịch hằng năm... Ngoài ra, tỉnh cũng tiến hành đầu tư tôn tạo các di tích 460
- lịch sử, phát triển các loại hình văn hóa-nghệ thuật truyền thống; xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào và các dự án du lịch trọng điểm; đăng cai tổ chức một số sự kiện kinh tế, văn hóa, du lịch lớn mang tầm quốc gia và quốc tế nhằm nâng cao tính hấp dẫn, đa dạng của du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu. Tỉnh đã nghiên cứu nâng cấp một số lễ hội dân gian để phục vụ du khách như Lễ hội Dinh Cô (thị trấn Long Hải, huyện Long Ðiền), Lễ trùng cửu (xã Long Sơn, Thành phố Vũng Tàu), lễ hội Nghinh Ông (Thành phố Vũng Tàu)... Các doanh nghiệp lữ hành có những biện pháp kích cầu và tạo ra những sản phẩm mới lạ, đa dạng cho nhóm du khách tàu biển với những chương trình đặc sắc; liên kết với các công ty dịch vụ, nhà hàng, khách sạn, cũng như các địa phương để giảm giá các dịch vụ, giá phòng, nâng cao chất lượng phục vụ cho du khách… Bên cạnh đó, tỉnh cần ban hành chính sách quản lý cụ thể, rõ ràng về mức thuế, phí, giấy phép cho du lịch nói chung và du lịch biển nói riêng. Tuy nhiên, một trong những vấn đề mà ngành du lịch các địa phương có biển, đảo đang gặp là sự trùng lặp và giẫm chân lên nhau, dẫn đến thiếu liên kết để phát triển. Du lịch biển đảo phải nằm trong hoạch định của vùng, làm như thế không những tránh khai thác trùng lặp mà còn hỗ trợ, tạo ra chuỗi liên kết sản phẩm đa dạng và phong phú hơn. Mỗi địa phương cần tạo ra những đặc thù riêng của mình dựa trên các yếu tố khác biệt về cảnh quan, địa lý, văn hóa. Bà Rịa - Vũng Tàu chú trọng các hoạt động đẩy mạnh quảng bá hình ảnh, nâng cao chất lượng phục vụ, bảo vệ môi trường sinh thái nói chung, đặc biệt là các khu du lịch trọng điểm. Nhằm chủ động làm tốt công tác bảo đảm an ninh, an toàn cho khách du lịch, Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng đã ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác bảo đảm trật tự công cộng, đô thị và trị an tại các khu du lịch trên địa bàn tỉnh. Để quản lý tốt an ninh ở các khu du lịch, tránh trường hợp tội phạm gây án ở khu du lịch làm mất hình ảnh trong mắt du khách, lẫn các hoạt động gián điệp, phá hoại của các đối tượng có quốc tịch nước ngoài. Mặt khác, để đơn giản thủ tục, tạo không khí nhẹ nhàng, thoải mái ở các khu du lịch. Thành phố Vũng Tàu đã thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành tiến hành kiểm tra thường xuyên các địa chỉ “đen” bị du khách phản ánh, kết hợp xử phạt nặng các trường hợp vi phạm và rút giấy phép đăng ký kinh doanh. Công khai số điện thoại, địa chỉ của cơ quan có thẩm quyền để du khách và nhân dân biết. Các sở như: Giao thông - Vận tải, Thông tin và Truyền thông, Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Lao động - Thương binh và Xã hội, Công thương, Công an tỉnh theo chức năng, nhiệm vụ được phân công xây dựng kế hoạch giải quyết các vấn đề cụ thể, tạo chuyển biến trong việc chấn chỉnh lập lại trật tự đô thị, công cộng và trị an tại khu du lịch. Trong những năm gần đây, công tác giáo dục, tuyên truyền những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường ở Bà Rịa - Vũng Tàu cũng đã phát huy hiệu quả, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức của các doanh nghiệp về bảo vệ môi trường du lịch biển. Trong đó, có sự nỗ lực tham gia của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Một trong những việc làm thiết thực được nhiều doanh nghiệp kinh doanh du lịch, nhất là du lịch biển thực hiện nhằm bảo vệ môi trường là đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải đạt chuẩn. Tính đến cuối năm 2023, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã trở thành một trong những trung tâm du lịch biển của cả nước. Tỉnh đã hoàn thành và đưa vào khai thác toàn bộ hay từng phần các dự án đã có chủ đầu tư, đã được cấp phép tại các khu vực đã được quy hoạch du lịch. Ưu tiên thu hút các nhà đầu tư có năng lực, có kinh nghiệm để thực hiện các dự án lớn: Khu du lịch lâm viên văn hóa Núi Dinh, khu du lịch lâm viên văn hóa Núi Minh Đạm, khu du lịch Hoa Anh Đào, các khu du lịch ở Côn Đảo… với 337 cơ sở lưu trú du lịch được xếp hạng từ đạt chuẩn đến 5 sao, với 12.258 phòng. Trong đó có: khách sạn 5 sao (4 cơ sở); khách sạn 4 sao (16 cơ sở); khách sạn 3 sao (20 cơ sở); khách sạn 2 sao (56 cơ sở); khách sạn 1 sao (115 cơ sở); nhà nghỉ đạt chuẩn (161 cơ sở); biệt thự cao cấp (1 cơ sở); biệt thự đạt chuẩn (1 cơ sở); căn hộ đạt chuẩn (3 cơ sở) (Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 2023). Bên cạnh những thành tựu, du lịch biển Bà Rịa – Vũng Tàu cũng đang đối mặt với hàng loạt khó khă, thách thức. 461
- Những khu Resort 5 sao, khu vui chơi, mua sắm hạng sang phục vụ nhu cầu khách hàng cao cấp còn hạn chế. Thống kê từ Sở Du Lịch Bà Rịa – Vũng Tàu, trong năm 2018, Vũng Tàu đón hơn 13,5 triệu khách tham quan, trong đó 3,1 triệu lượt khách lưu trú, tăng 14,8% so với cùng kỳ. Mục tiêu đến 2025 sẽ đón 8,6 triệu lượt khách lưu trú và 17 triệu lượt khách vào năm 2030. Với lượng khách này, Vũng Tàu nằm trong danh sách 5 thành phố biển hút khách bậc nhất Việt Nam. Tuy nhiên, lượng phòng khách sạn cao cấp 3 - 5 sao của Vũng Tàu chưa đáp ứng được nhu cầu du khách và thua xa các thành phố biển khác như Nha Trang, Đà Nẵng, Phú Quốc. Nguồn nhân sự cao cấp lĩnh vực du lịch biển, khách sạn hướng ra biển còn yếu kém. Ngoài ra, các cơ sở lưu trú du lịch hạng cao đang phát triển nhanh trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đòi hỏi phải có một số lượng lớn cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo chuyên sâu trong và ngoài nước, có khả năng quản lý rộng trong nhiều lĩnh vực dịch vụ cao cấp đang hoạt động tại khách sạn 3 sao trở lên. Để khắc phục tình trạng thiếu hụt về nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch biển, thời gian qua, ngành du lịch biển Bà Rịa - Vũng Tàu đã có nhiều giải pháp như tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho lao động ngành du lịch tại các địa phương và doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh. Hằng năm, trường Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu đào tạo khoảng 1.000 học viên tốt nghiệp các khoá nghiệp vụ sơ cấp du lịch biển và khoảng 750 sinh viên tốt nghiệp hệ trung cấp, cao đẳng thuộc các ngành như: quản trị kinh doanh, lễ tân, kỹ thuật phục vụ buồng... cung cấp nguồn nhân lực cho ngành. Chưa khai thác triệt để các thế mạnh tài nguyên của vùng để phát triển ngành du lịch biển, những lợi thế thúc đẩy các dịch vụ biển như sản phẩm du lịch biển, kinh doanh du lịch biển,…Bộ máy đội ngũ quản lý du lịch biển còn kém, thiếu chuyên nghiệp trong giải quyết các vấn đề dịch vụ đáp ứng nhu cầu du khách; Vai trò của cơ quan Nhà Nước chưa thật sự tập trung đẩy mạnh nhiều chính sách phát triển du lịch biển và biện pháp thu hút lượng khách du lịch trong và ngoài nước đến sử dụng các dịch vụ chi phí du lịch biển. Phần lớn du khách đến với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có số ngày lưu trú chỉ từ 1 - 2 ngày, lượng khách ở từ 3 ngày trở lên chiếm tỷ lệ tương đối thấp, do bởi trên địa bàn chưa có nhiều khu vui chơi giải trí hấp dẫn du khách lưu trú dài hạn. Tỷ trọng khách du lịch quốc tế thấp chiếm tỷ lệ 4 - 5%. Mất cân bằng nghiêm trọng giữa tỷ lệ khách trong những ngày thường và ngày cuối tuần, lễ, tết… Để thu hút du khách đến với thành phố Vũng Tàu, chính quyền địa phương đã triển khai nhiều chương trình, giải pháp kích cầu thu hút các doanh nghiệp du lịch, tổ chức nhiều sự kiện để phục vụ nhân dân và du khách. Nhiều hoạt động văn hoá - thể thao, sự kiện xã hội tạo điểm nhấn cho địa phương như: Lễ hội Nghinh Ông - Thắng Tam; Lễ hội Trùng Cửu - Long Sơn; các giải thường niên như Giải Lân sư rồng; Giải Diều quốc tế thiết lập kỷ lục Việt Nam; Giải đi bộ leo núi thành phố Vũng Tàu; Chương trình âm nhạc đường phố; Giải Việt dã truyền thống Báo Bà Rịa - Vũng Tàu; Vũng Tàu City Trail và hàng loạt hoạt động đã đem đến nhiều cung bậc trải nghiệm cho du khách và người dân địa phương. Qua đó kết hợp quảng bá hình ảnh, giới thiệu điểm đến, sản phẩm du lịch của thành phố Vũng Tàu. 2.2. Một số giải pháp Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của ngành du lịch biển; Xây dựng mới, rà soát điều chỉnh các quy hoạch hiện có, tạo quỹ đất cho các nhà đầu tư phát triển du lịch biển; Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và cộng đồng phát triển du lịch biển tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch biển; Phát triển sản phẩm du lịch chất lượng cao, gắn với xây dựng thương hiệu du lịch biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch biển; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng phục vụ du lịch biển; Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch biển và liên kết phát triển du lịch doanh nghiệp; Tạo môi trường du lịch biển văn minh, thân thiện, an toàn và hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Thứ hai, về vốn đầu tư cho phát triển du lịch biển của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Tự tạo nguồn vốn đây là giải pháp có ý nghĩa đối với hoàn cảnh nước ta nói chung và Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng. Thực hiện cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thực hiện đổi đất lấy cơ sở hạ tầng. Tập trung nguồn vốn ngân sách nhà nước cho xây dựng kết cấu hạ tầng (đường giao thông, điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông…) cho các khu du lịch 462
- biển trọng điểm. Nguồn vốn đầu tư này đóng vai trò quan trọng trong việc kích cầu, tạo môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư của các thành phần khác đầu tư vào các khu du lịch biển trọng điểm. Thứ ba, về phát triển nguồn nhân lực du lịch biển: Xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn. Phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, Sở văn hoá thể thao và du lịch, Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch, Trường Cao đẳng nghề du lịch Vũng Tàu. Thường xuyên tổ chức các lớp chuyên đề, tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên. Tổ chức các hội thảo, hội thi nhằm giúp cho lao động có cơ hội giao lưu học hỏi lẫn nhau. Thứ tư, về sản phẩm du lịch biển: Phân loại sản phẩm du lịch đặc trưng của thành phố, định vị sản phẩm chủ lực, sản phẩm bổ sung, sản phẩm thay thế để làm căn cứ phân bổ nguồn lực đầu tư hợp lý, hỗ trợ công tác quy hoạch, định hướng thu hút đầu tư nhằm khai thác tối đa hiệu quả các nguồn lực. Củng cố và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch biển đảm bảo lợi thế cạnh tranh, coi đây là sản phẩm chủ lực. Sản phẩm du lịch biển phải đa dạng: tắm biển, nghỉ dưỡng, các loại hình thể thao trên biển và thưởng thức các món ăn đặc sản miền biển. Tổ chức lại khu phố mua sắm, phố ẩm thực đêm để đáp ứng nhu cầu du khách lưu trú. Loại hình này đã tổ chức nhưng không duy trì, hiệu quả không cao do sản phẩm quá nghèo nàn, trùng lặp, chất lượng thấp và giá cả quá cao. Nâng cao chất lượng bãi tắm, tiếp tục xây dựng các bãi tắm du lịch kiểu mẫu. Thứ năm, về xúc tiến quảng bá, mở rộng thị trường du lịch biển: Đối với hoạt động tuyên truyền về du lịch, cần có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho du khách những thông tin để nâng cao sự tôn trọng của du khách đến môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá khu du lịch. Quảng cáo đúng sự thật và không hứa hẹn những điều không có trong chương trình kinh doanh du lịch. Marketing trong du lịch giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng các chương trình để quảng bá du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu như: Vũng Tàu - Biển hát, Cuộc thi thả diều quốc tế, ẩm thực thế giới, hoa hậu quý bà …đồng thời tuyên truyền, quảng bá hoạt động du lịch qua các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và Trung ương. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch thông qua hội chợ, triển lãm. Thứ sáu, về quy hoạch, liên kết với các tỉnh thành: Hoàn thành quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong thời gian tới, ngành du lịch biển Bà Rịa - Vũng Tàu cần chú trọng nâng cao nhận thức, quán triệt quan điểm, định hướng vai trò và nhiệm vụ của hợp tác và phát triển du lịch biển từ các cơ quan ban ngành đến các cơ sở kinh doanh du lịch biển. Trên cơ sở đó góp phần giúp các cơ quan, đơn vị định đúng hướng, xây dựng chính sách, kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện và nâng cao hiệu quả hợp tác. Thứ bảy, về phát triển bền vững du lịch biển: Quy hoạch phát triển ngành du lịch biển phải chú trọng đến yếu tố phát triển bền vững, cần quy hoạch các khu du lịch biển rõ ràng, hợp lý với điều kiện tự nhiên của tỉnh. Tăng cường công tác tuyên truyền ý thức người dân địa phương cũng như du khách trong việc bảo vệ môi trường. Tập trung quản lý, xây dựng các phương án thu gom rác tại những nơi tập trung đông khách du lịch, dễ bị ô nhiễm như các bãi biển trung tâm thành phố Vũng Tàu. Công tác kiểm tra, giám sát phải được thực hiện đồng bộ, thường xuyên. Khai thác tài nguyên du lịch biển phải đi liền với đầu tư tôn tạo, đối với tài nguyên tự nhiên chúng ta cần khai thác hiệu quả nhưng phải luôn đầu tư gìn giữ chúng, đối với tài nguyên nhân văn chúng ta không được xem nhẹ, phải dành một nguồn ngân sách lớn khôi phục và gìn giữ, tránh tình trạng thương mại hoá tài nguyên nhân văn. 3. KẾT LUẬN Việc phát triển du lịch biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập và thực hiện đúng quy hoạch của Chính phủ về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Trong đó, du lịch biển chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển du lịch biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong những nội dung quản lý nhà nước về du lịch biển, bao gồm những định hướng phát triển ngành và phát triển không gian lãnh thổ địa bàn tỉnh, được nghiên cứu trên cơ sở đánh giá tổng hợp tư liệu và số liệu những lợi thế về tài nguyên du lịch biển của tỉnh. Các khả năng khai thác tiềm năng phát triển du lịch biển Bà Rịa - Vũng Tàu được lồng ghép phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương gắn với thị trường du lịch biển trong vùng, khu vực, cả nước 463
- trong thời hội nhập kinh tế quốc tế. Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đang trên đà phát triển mạnh mẽ từng ngày trong công cuộc đổi mới toàn diện theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Chính vì vậy, trong quá trình khai thác và phát triển các tiềm năng du lịch biển cần có sự kết hợp của chính quyền, các ngành, các doanh nghiệp để huy động nguồn lực của mọi thành phần kinh tế trong tỉnh, nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của tỉnh về yếu tố tự nhiên, văn hoá dân tộc mang thế mạnh đặc trưng vùng với tăng cường liên kết, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy du lịch tỉnh nhà ngày càng phát triển. Nhìn lại, trong xu thế nền kinh tế hội nhập, để tạo cho địa phương có vị thế cạnh tranh trong nước và quốc tế, ngành du lịch biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không thể không tính đến vấn đề đa dạng hoá các sản phẩm du lịch của mình. Sản phẩm du lịch biển ra đời đòi hỏi phải có các nguồn lực đáp ứng, đó là nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chung của nền kinh tế, các chủ trương chính sách đầu tư của nhà nước cũng như địa phương về du lịch biển. Xây dựng thành công hay phát triển một sản phẩm du lịch biển đòi hỏi phải theo quan điểm khách hàng, mặt khác cần được xây dựng trên những quan hệ tốt giữa cộng đồng địa phương, doanh nghiệp du lịch biển, chính quyền địa phương và nhà nước. Trong quá trình phát triển du lịch biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Sản phẩm du lịch biển đã từng bước khẳng định được vị thế của mình trên thị trường trong và ngoài nước, thương hiệu du lịch biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã cũng được nhiều quốc gia biết đến. Tuy nhiên với loại hình, sản phẩm du lịch vẫn chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của địa phương, đánh giá chung của du khách với sản phẩm du lịch biển còn đơn điệu, trùng lắp, quy mô nhỏ, chất lượng kém. Nhìn lại chung, du khách chỉ đánh giá tốt trên các mặt yếu tố về khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, thái độ thân thiện của người dân. Để khắc phục những hạn chế cần phải thúc đẩy du lịch biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, trong điều kiện cạnh tranh thị trường trong nước và ngoài nước gay gắt như hiện nay đòi hỏi ngành du lịch biển của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cần có những chiến lược đúng đắn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Tấn Bình – Võ Thị Hồng Thu – Lưu Đức Thịnh (2014). Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu trên đường phát triển bền vững. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học, số 04, tr.56-64. 2. Vũ Văn Đông (2014). Phát triển du lịch bền vững Bà Rịa – Vũng Tàu (Luận án tiến sĩ). Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Hà Nội. 3. Vũ Văn Đông (2020). Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển sản phẩm dịch vụ du lịch chất lượng cao theo hướng bền vững tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Tạp chí Công thương, số 23, tr.88-96. 4. Lê Kinh Nam (2018), Một số giải pháp cho du lịch Vũng Tàu trước cách mạng công nghiệp 4.0. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Phát triển du lịch trong cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb.Đại học Quốc gia TPHCM, tr.62-67. 5. Đỗ Thanh Phong (2018). Những giải pháp về Logistics cho du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Phát triển du lịch trong cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb.Đại học Quốc gia TPHCM, tr.91- 98. 6. Phạm Thị Phượng (2018). Giải pháp đầu tư cho du lịch đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Đặc san Thông tin khoa học và công nghệ, tr.30-32. 7. Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu (2017). Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng Bộ Tỉnh về phát triển du lịch chất lượng cao tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030. Số 09-NQ/TU. 8. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2008), “Chương trình thực hiện số 12Ctr-TU của tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của hội nghị lần thứ 4, ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, theo website: htttp://thuvienphapluat.vn. 9. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (2009), “Chương trình hành động của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 27-5-2008 của Ban thường vụ tỉnh ủy về phát triển kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015”, theo website: http://thuvienphapluat.vn, truy cập 23-10-2013. 10. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2023), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2023. Lưu trữ tại VP UBND tỉnh BR – VT. 464
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khu du lịch hệ sinh thái: Phần 2
348 p | 233 | 50
-
Để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn: phần 2 - thư viện tỉnh bà rịa - vũng tàu
62 p | 87 | 12
-
Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch biển tỉnh Kiên Giang
11 p | 278 | 7
-
Phát triển du lịch sinh thái ở huyện An Biên (tỉnh Kiên Giang) từ quan điểm của nhiều bên liên quan
8 p | 11 | 5
-
Giải pháp phát triển du lịch biển ở huyện đảo Phú Quốc
6 p | 70 | 5
-
Phát triển du lịch bền vững tại căn cứ địa K20, thành phố Đà Nẵng
12 p | 69 | 5
-
Văn hóa trong phát triển du lịch
3 p | 59 | 5
-
Phát triển du lịch sinh thái bền vững tại thành phố Phú Quốc
11 p | 14 | 4
-
Tạp chí Khoa học trường Đại học Văn hóa, Thể thao và du lịch Thanh Hóa: Số 13/2016
132 p | 32 | 3
-
Phát huy giá trị của lễ hội hoa ban trong phát triển du lịch ở tỉnh Điện Biên hiện nay: Thực trạng và những vấn đề cần thực hiện
6 p | 16 | 3
-
Phân tích thực trạng phát triển lĩnh vực dịch vụ lữ hành vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung
7 p | 10 | 3
-
Đánh giá phát triển du lịch biển đảo bền vững Vịnh Bái Tử Long
11 p | 95 | 3
-
Phát triển du lịch bền vững thích ứng biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long
12 p | 4 | 1
-
Tạp chí Khoa học trường Đại học Văn hóa, Thể thao và du lịch Thanh Hóa: Số 14/2016
138 p | 27 | 1
-
Sản phẩm du lịch làng ven biển Gò Cỏ (Quảng Ngãi) dưới góc nhìn phát triển du lịch bền vững
12 p | 10 | 1
-
Khai thác giá trị ẩm thực phục vụ phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Hà Giang trong bối cảnh hội nhập
10 p | 7 | 1
-
Tác động của học tập liên tục, kết nối hệ thống, lãnh đạo chiến lược đến chia sẻ tri thức trong các tổ chức: Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp du lịch khu vực Quảng Nam – Đà Nẵng – Thừa Thiên Huế
17 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn