LUẬN VĂN:

Phát triển kinh tế hộ nông dân theo

hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng

Bằng Sông Hồng

Lời nói đầu

Trong gần 20 năm qua, Việt Nam đã thực hiện đường nối đổi mới toàn diện nền kinh tế

đất nước , nhằm dần chuyển từng bước từ cơ chế quản lý tập chung sang sản xuất hàng

hoá , vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng

XHCN . Chủ chương đổi mới quan trọng này từng bước được cụ thể hoá thành các hệ

thống chính sách . trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tư tưởng đổi mới đã được thể

hiện thông qua việc ban hành chỉ thị 100-CT/TƯ của ban bí thư trung ương(1981) , Nghị

quyết 10 của bộ chính trị (1988) . Các chính sách này có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát

triển sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung và tới việc khuyến khích chủ động sáng tạo

trong sản xuất của hộ nói riêng . với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ trong hoạt động sản

xuất theo cơ chế thị trường , các hộ nông dân cả nước đã và đang tích cực đẩy mạnh phát

triển sản xuất một cách năng động , đa dạng phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của

mỗi hộ , tạo ra thị trường hàng hoá dồi dào , phong phú ngay tại địa bàn nông thôn. Mặt

khác dưới sự tác động khách quan của các quy luật cơ chế thị trường , các hộ nông dân

đang gặp khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hoá do những yếu tố bên trong và

bên ngoài khu vực nông nghiệp . Cũng như những hộ khác trong cả nước , kinh tế hộ

nông dân ĐBSH có những lợi thế và khó khăn nhất định trong quá trình phát triển sản

xuất hàng hoá . Nhận thấy đươc những vấn đề đó và có những giải pháp phù hợp , sẽ cho

chúng ta khai thác và sử dụng các tiềm năng về đất đai , lao động , vốn ở nông thôn có

hiệu quả , nâng cao đời sống dân cư nông thôn .Vì vậy em chọn đề tài: “Phát triển kinh

tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng Bằng Sông Hồng”.

Phần I : Cơ cơ sở lý luận chung

I-sự cần thiết phải phát triển kinh tế hộ nông dân

1. Xuất phát từ mục tiêu CNH (Công nghiệp hoá). HĐH (Hiện đại hoá) nông nghiệp

nông thôn

-Thứ nhất giảI quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn nâng cao thu nhập và

mức sống cho dân cư ở nông thôn

-Thứ hai : đa dạng hoá nền kinh tế ở nông thôn đa dạng hoá nghành nghề tạo ra việc

làm ở nông thôn trên cơ sở tạo ra nghành nghề mới.

-Thứ ba : sử dụng lao động dư thừa ngay tại chỗ trên địa bàn nông thôn. Vừa làm

ruộng vừa làm nghề khác như công nghiệp và dịch vụ nông thôn (Rời ruộng nhưng

không rời làng).

Trong quá trình công nghiệp hoá đất nước thì công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn có

vai trò quan trọng hàng đầu.

2. Vai trò của kinh tế hộ.

+ Là cầu nối khâu trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá ,

gắn với lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá.Quy mô thị trường được mở rộng từ thị

truòng dịa phương đến thị trường trong nước va vươn ra thị truòng quốc tế.

+ Là đơn vị tích tụ vốn, nếu không có sự tích tụ đó thì những khoản dư thừa do hoạt

động kinh tế hộ sẽ không đựơc sử dụng vào mục đích tăng sản phẩm cho xã hội. Mức độ

tích luỹ vốn càng cao kinh tế hộ càng có điều kiện dể chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát

triển ngành nghề mở rộng sản xuất kinh doanh ( nguyên nhân tạo ra nghành nghề mới).

Từ yếu tố này quy định hộ là đơn vị cơ sở để phân công lao động xã hội. Sản xuất hàng

hoá theo cơ chế thị trừong đã phá vỡ cơ cấu kinh tế tự cấp tự túc. Điều đó đòi hỏi phát

triển kinh tế toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi giải quyết vấn đề lương thực thực phẩm

cho nông nghiệp tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Để phát huy lợi thế so

sánh của hộ( tay nghề, vốn, thị trường…), tạo thành các hộ chuyên sản xuất một loại sản

phẩm hàng hoá cho thị trường.

+ Là đơn vị kinh tế co sở tiếp nhận khoa học kỹ thuật đổi mới công nghệ nâng cao năng

suất lao động và hiệu quả kinh tế. Nó là một quá trình gắn với lợi ích thiết thân của hộ để

tăng hiệu quả thông qua áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh

doanh. Trong hộ diễn ra quá trình sàng lọc và cải tiến kỹ thuật (kết hợp kinh nghiệm

truyền thống và hiện đại).

+ Là đơn vị đáp ứng cung cầu và là đơn vị tiêu dùng- do đặc điểm của hộ: Có khả năng

thích ứng cao với mọi nhu cầu của thị trường, dể dàng tổ chức lại và phân công lao động

3. Từ thực tế những năm đổi mới .

Sau chỉ thị 100 của ban bí thư TW nhược điểm của chỉ thị biểu hiện ở:

Xã viên không làm chủ ruộng đất không yên tâm đầu tư thâm canh vì sợ hợp tác xã sẽ

điều chỉnh mức khoán khi năng suất tăng lên. Phần sản lượngvượt khoán nhiều khi

không đủ bù đắp chi phí tăng nên . 8 khâu sản xuất – HTX thực hiện 5 khâu , xã viên

thực hiện 3 khâu, không đảm bảo gắn lao động vàTLSX với sản phẩm cuối cùng trong

toàn bộ quy trình SX

Nghị quyết 10 của bộ chính trị : Khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ , trong

đó quan trọng nhất là chính sách ruộng đất ( do tính chất ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc

biệt – chủ yếu )và chính sách này tạo điều kiện cho hộ nông dân tập chung ruộng đất mở

rộng quy mô sản xuất, hình thành nên các trang trại .góp phần thúc đẩy phân công lao

động xã hội . Những người có khả năng chuyển sang các nghành nghề phi nông nghiệp

thì không bị trói buộc vào ruộng đất, họ có thể chuyển nhượng ruộng đất để tập chung

đầu tư cho hướng sx mới

II- Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản

xuất hàng hoá

1. Nhân tố tự nhiên :

ĐBSH gồm 12 tỉnh thành phố Hà Nội , Hải Dương , hưng yên , Bắc Ninh , vĩnh phúc ,

Hà Tây , Hà Nam , Nam Định , Ninh Bình , Thái Bình . Diện tích toàn vùng là

12.150km2 Do điều kiện khí hậu thuỷ văn thuận lợi . ĐBSH còn có hàng vạn ha mặt

nước (ao , hồ đầm , sông ngòi ) nội địa có thể nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt . Vùng ven

biển từ Hải Phòng đến Ninh Bình dài hàng trăm km vừa là ngư trường nuôi trồng, khai

thác hải sản lớn vừa thuận lợi cho việc sản suất muối và trồng cây ngập mặn. Nhưng lợi

thế cơ bản của kinh tế nông hộ vùng ĐBSH chính là sự phát triển của các điều kiện kết

cấu hạ tầng kinh tế- văn hoá- xã hội tạo nên một hệ thống tưới tiêu chủ động được xây

dựng khá hoàn chỉnh , mạng lưới điện quốc gia phủ khắp phục vụ sản xuất , sinh hoạt của

nhân dân , hệ thống giao thông quốclộ , đường liên tỉnh , liên huyện và trong thôn xóm đã

được thiết lập

Đất có khả năng nông nghiệp, đất nông nghiệp trong vùng là 805,8 ha chiếm 46,5%diện

tích lãnh thổ của vùng trong đó đất canh tác là713 nghìn ha . Do được thiên nhiên ban

phát nên đại bộ phận là đất phù sa màu mỡ thích hợp với các loại cây trồng và nông dân

có truyền thống thâm canh và có trình độ canh tác nên đất đai ở đây được khai thác , sử

dụng triệt để có hiệu quả. Hệ số sử dụng đất canh tác toàn vùng là 1.96 lần (1990) cao

nhất so với cả nước

2. Nhân tố kinh tế – xã hội

ĐBSH là một trong hai vùng có đông dân số và dân cư nông thôn so với cả nước . Đến

năm 1999 toàn vùng có 16.833.000 người chiếm 22,6% so với dân số cả nước. Mật độ

dân số lên tới 1183người/ km2 .Trong đó hơn 80,4% dân cư sống ở nông thôn. Sự tập

chung đông dân cư nông thôn trước hết trong lĩnh vực nông nghiệp .Cùng với tốc độ tăng

dân số cao làm cho diện tích canh tác đất đai của nông hộ ở mức thấp , mỗi nhân khẩu chỉ

có 500m2/khẩu đất lúa còn ít hơn 384m2/khẩu (1999) .Đặc điểm đất chật người đông dẫn

đến lao động dư thừa ,việc làm thiếu ở cả hai khu vực nông thôn và thành thị .Mặt khác

quá trình chuyển giao ruộng đất từ kinh tế tập thể sang kinh tế nông hộ đã dẫn đến tình

trạng nhỏ lẻ manh mún và phân tán đất đai của nông hộ gây nhiều khó khăn trong việc

canh tác sử dụng

Ngoài hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng là những trung tâm kinh tế,văn hoá thương

mại lớn trong vùng còn có 9 thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh ,có nhiều đầu mối giao

thông , tụ điểm kinh tế- văn hoá... Các nhân tố này tác động trực tiếp đến kinh tế nông hộ

từ phía sản xuất kinh doanh , tiêu thụ sản phẩm cũng như từ phía tiêu dùng và sinh hoạt

của hộ

III. Xu hướng phát triển kinh tế hộ .

- Tiếp tục tăng cường thâm canh trong nông nghiệp, nâng cao năng suất lúa, rau đậu và

các loại cây trồng khác đồng thời thay đổi cơ cấu cây trồng và cơ cấu mùa vụ, nhất là

hướng vào cây con có giá trị kinh tế cao .

- Phát triển công nghiệp nhỏ ,thương nghiệp dịch vụ và các hoạt động phi nông nghiệp

khác trong nông thôn, nhằm giải quyết cho lao động nông nghiệp dư thừa cải thiện thu

nhập của nông dân .

- Khả năng và xu hướng trên phụ thuộc rất lớn vào các chính sách và giải pháp nhằm

tạo môi trường và điều kiện kinh tế chung như: Chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ

thuật, công nghệ và công nghệ sinh học. Giá cả , thị trường tiêu thụ sản phẩm của nông

dân ( kể cả sản phẩm nông nghiệp , ngư nghiệp , tiểu thủ công ngiệp ). Một yếu tố hết sức

quan trọng đó là vốn cho sản suất, kinh doanh. Cần mở rộng và hoàn thiện thị trường

vốn, tăng cường vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn .

PhầnII: Thực trạng phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá

I- Đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội của vùng ĐBSH.

1. Đăc điểm tự nhiên vùng:

Là vùng có diện tích tự nhiên 12.150 Km2.Với dân số khoảng 15 triệu dân ( năm 2000)

.ĐBSH giáp với vùng kinh tế Đông Bắc ,Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.Diện tích nông

nhgiệp trên 720 nghìn ha, chiếm 9,2% của cả nước.Đất canh tác tuy không nhiều,độ màu

mỡ không được xếp vào loại cao, song địa hình khá bằng phẳng ,khí hậu chia 4 mùa rõ

rệt thích hợp với việc phát triển nông nghiệp lúa nước thâm canh cao hai vụ và có thế

mạnh rau vụ đông ,đặc biệt là rau quả vụ đông lớn nhất nước ta.Có thể nói đây là một

trong những lợi thế so sánh nổi bật củaĐBSH. Lợi thế này đã và đang tạo cho ĐBSH phát

triển nông sản hàng hoá phục vụ nhu cầu cung cấp nguyên liệu quanh năm cho nghành

công nghiệp chế biến với các sản phẩm chính như lúa gạo ,rau tươi, quả tươi, thịt lợn và

thịt gia cầm,thuỷ hải sản. ĐBSH vừa là cửa ngõ đi ra biển ,vừa là vùng trung chuyển

hàng hoá, nguyên vật liệu của 20 tỉnh Bắc Bộ qua lại hệ thống đường bộ, đường sắt

,đường thuỷ khá hoàn chỉnh nối liền với cảng biển hải phòng ,diêm điền .Đặc biệt hệ

thống sông ngòi chằng chịt với các sông Hồng, sông Đà, sông Đáy , sông Trà Lý vừa là

nguồn cung cấp nước ngọt cho sản xuất công, nông nghiệp và sinh hoạt,vừa là mạch máu

giao thông thuỷ thuận lợi cho các trung tâm đô thị, các khu công nghiệp tập chung .

ĐBSH có rừng quốc gia Cúc Phương ,Ba Vì và các khu rừng Tam đảo ,Cát Bà cùng với

hệ thống cây xanh ven biển,ven đường giao thông có tác dụng điều hoà khí hậu. Hệ thống

núi đá ở Ninh Bình ,Hà Nam, Hải Dương, Hải Phòng là nguồn vật liệu xây dựng quý giá

đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển giao thông và sản xuất vật liệu xây dựng .ĐBSH

là nơi có nhiều di tích lịch sử,văn hoá ,có nhiều danh lam thắng cảnh tạo ra tiềm năng lớn

để phát triển du lịch trong những năm tới .

Tuy nhiên hệ thống sông ngòi chằng chịt gây ra khó khăn trong phát triển mạng lưới

giao thông . Khí hậu hai mùa mưa và mùa khô gây ra thừa nước ở mùa mưa, có thể bị hạn

hán vào mùa khô .

1.1 Đặc điểm về xã hội .

1.1.1 Dân số và lao động :

- Dân số và lao động ĐBSH cũng là thế mạnh .Với số dân khoảng 15 triệu người (năm

2000) , trong đó có khoảng 7 triệu lao động (tỷ lệ dân số biết chữ trên 90%) ĐBSH là

vùng có trình độ dân trí cao,trình độ tay nghề của người lao động khá cao so với các vùng

khác . Đó là môi trường thuận lợi để nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nghề nghiệp cho

người người lao động .Bên cạnh trường đào tạo chính quy ,ĐBSH từ lâu đã hình thành

các làng nghề truyền thống , là nơi đào tạo nghề nghiệp tiểu thủ công nghiệp cho nhiều

thế hệ và ngày nay vẫn là điểm trội có một không hai của vùng này so với cả nước. Các

điều kiện của ĐBSH cũng khá thuận lợi, bên cạnh các thế mạnh về nônh nghiệp, ĐBSH

còn có thế mạnh về công nghiệp và dịch vụ .Các trung tâm công nghiệp và thương mại

lớn nhất miền bắc như Hà Nội , Hải Phòng ,Nam Định ngày càng phát triển cả bề rộng

và chiều sâu .Trong những năm đổi mới ,ĐBSH là vùng thu hút nhiều dự án đầu tư nước

ngoài lớn thứ 2 sau vùng Đông Nam Bộ , trong đó hầu hết là đầu tư vào công nghiệp và

dịch vụ .Các khu công nghiệp , khu chế xuất ở Hà Nội , Hải Phòng đã và đang thu hút các

nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, chủ yếu để phát triển công nghiệp .Giao thông vận

tải thuận lợi, tất cả chín tỉnh đều nằm trên hệ thống đường giao thông huyết mạch của cả

nước gắn với sân bay quốc tế Nội Bài , hệ thống cảng biển hiện đại gần vùng khoáng sản

tài nguyên Bắc Bộ ,đảm bảo nguyên liệu , vật liệu cho phát triển công nghiệp đa ngành

trong đó có công nghiệp nông thôn .

1.1.2 Cơ sở hạ tầng của vùng .

Kết cấu hạ tầng trong vùng cũng hơn hẳn các vùng khác,từ năm 1995 ĐBSH đã

hoàn thành điện khí hoá nông thôn sớm nhất cả nước.Hệ thống đường giao thông thôn

đến tận xã, thôn và không ngừng được nâng cấp . Hệ thống trường học ,trạm y tế ,nhà văn

hoá, chợ ,thông tin liên lạc,…Cũng thuộc loại nhất nhì so với các vùng khác .

Bảng : So sánh kết cấu hạ tầng ở ĐBSH so với cả nước. (%)

Vùng Tỷ lệ xã có Tỷ lệ xã có Tỷ lệ xã có Tỷ lệ xã có Tỷ lệ xã có

điện đường ô tô đường ô tô trường tiểu trạm y tế

đến trung đến thôn học

tâm xã

Cả nước 85,8 79,8 98,8 98,0 92,9

Đồng Bằng 99,9 99,9 99,6 99,9 100,0

Sông Hồng

Nguồn : Thời báo Kinh tế, 3-2000.

Yếu tố đầu tiên là thị trường sức lao động , thị trường tiêu thụ nông sản .Với số lượng 15

triệu dân ,trong đó khoảng 12 triệu dân sống ở nông thôn ,nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ

phi nông nghiệp ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng .

Bên cạnh những yếu tố thuận lợi trên, ĐBSH cũng còn khó khăn và hạn chế xuất phát từ

đặc điểm tự nhiên-xã hội của vùng :

- Mật độ dân số quá cao 1224 người/km2. Đất nông nghiệp vốn đã ít lại giảm dần

cùng với quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Đến nay bình quân đất nông

nghiệp chỉ còn 500m2/khẩu ,đất lúa còn ít hơn 384 m2/khẩu ( năm 1999 ) . Đặc

điểm đất chật người đông dẫn đến lao động dư thừa , việc làm thiếu ở cả hai khu

vực nông thôn và thành thị. Lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn tăng

nhanh dẫn đến thu nhập và tích luỹ của dân cư nông thôn vùng này thấp, nguồn

vốn trong dân đầu tư cho sản xuất hàng hoá hạn chế rất nhiều .

- Trong nông nghiệp , ruộng đất đã ít lại manh mún và phân tán trong nhiều hộ gia

đình , rất khó khăn cho quá trình cơ giới hoá, điện khí hoá nông nghệp .

- Tập quán canh tác tự cấp tự túc, tính chất tự phát, lại nhiều năm làm việc trong cơ

chế quản lý tập trung cùng với tính bảo thủ, trì trệ đã hạn chế khả năng tiếp cận cơ

chế thị trường, kiến thức sản suất hàng hoá của đội ngũ cán bộ và người lao động

ở khu vực nông thôn ĐBSH hiện nay còn thấp .

II- Vài nét về quy mô sản xuất kinh doanh .

1. Đặc điểm lao động :

Hộ là một đơn vị lao động, các hộ dựa vào sử dụng nhân công trong gia đình là chủ yếu

và hộ bao gồm một cơ cấu tuổi tác, giới tính, lao động nghề nghiệp khác nhau .Cơ cấu

này cho phép hộ sử dụng nguồn nhân lực rất linh hoạt theo nhiều chiều một cách có hiệu

quả. Nhưng lao động trong gia đình không được xem dưới hình thái hàng hoá. Trong

những điều kiện sản xuất khó khăn như thiên tai, Lao động trong nông nghiệp vẫn hạn

chế tiêu dùng vài gắng sức tìm nguồn sống trong gia đình với chi phí lao động rất lớn đã

làm cho người nông dân bị hạn chế khi bước vào sản xuất hàng hoá. Nhưng do sản xuất

hàng hoá trong nông nghiệp phát triển dẫn tới sự phân công lao động, hình thành lao

động làm thuê, Một đặc trưng nổi bật của việc sử dụng thời gian lao động của hộ trong

khu vực nông thôn là việc sử dụng quỹ thời gian lao động còn rất thấp

Chất lượng của lao động trong nông thôn còn yếu thể hiện qua trình độ chuyên môn của

lực lượng lao động nông thôn .

(%)

Bảng: Cơ cấu số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động ở khu

vực nông thôn phân theo trình độ chuyên môn ở một số tỉnh vùng ĐBSH.

Vùng Chưa Sơ cấp Trung Cao Đại học

qua đào Công cấp đẳng

tạo nhân

Kỹ thuật

91,12 3,46 3,21 ĐBSH 1,13 1,07

93,92 2,6 2,2 Hải Dương 0,78 0,49

91,57 2,65 3,21 Hà Tây 1,54 1,04

86,68 6,74 4,01 Hải Phòng 1,21 1,27

93,68 2,58 2,31 Hưng Yên 0,88 0,55

(Nguồn : Kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn , thuỷ sản. Nxb Thống kê-

2002)

Tỷ lao động chưa qua đào tạo toàn vùng là 91,12% trong khi đó số lao động qua đào tạo

ở các trường dạy nghề toàn vùng mới đạt 3,46%. Cơ cấu trên ảnh hưởng đến việc tiếp

nhận kỹ thuật mới vào sản xuất gặp khó khăn. Một trong những hướng phát triển nghành

nghề nông thôn là thu hút lao động từ nông nghiệp và hộ nông dân phải có trình độ đáp

ứng với nghành nghề phi nông nghiệp. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng

vật nuôi có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng phản ứng của nó là tạo ra lao động có

kỹ thuật hay không cũng có thể làm được, nên lao động chủ yếu tự đào tạo và truyền

nghề ,không qua đào tạo có hệ thống, trình độ chuyên môn lao động không cao. Việc sử

dụng quỹ thời gian của hộ trong khu vực nông thôn còn thấp (Trung bình ở ĐBSH trong

một năm có 74,98% ngày làm việc/năm), do vậy kiếm thêm việc làm trong khu vực nông

thôn rất khó khăn, đây là nguyên nhân dẫn đến thu nhập thấp. Muốn giải quyết vấn đề

này cần phải tạo việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, nâng cao hiệu số sử dụng đất đai

qua thâm canh, kết hợp với đa dạng hoá trong sản xuất. Mặt khác sự phát triển của các hộ

phi nông nghiệp, hay hộ kiêm nghành sẽ tạo ra sức hút lớn đối với lao động ở nông thôn,

xu hướng di chuyển lao động ở một số tỉnh sẽ phản ánh rõ điều này.

Xuất hiên ba xu hướng di chuyển lao động :

Xu hướng chuyển lao động vào khu công nghiệp nông thôn hoặc vào ngay trong nông

nghiệp nhưng là lao động làm thuê ở các nông, lâm trường, các trang trại. Xu hướng lao

động làm dịch vụ, thợ xây, buôn bán nhỏ…Nhưng vẫn phụ thuộc vào sản xuất nông

nghiệp. Như chúng ta đã biết những xu hướng này phụ thuộc rất lớn vào trình độ của

người lao động .

2. Quy mô đất canh tác.

Đặc trưng của nông hộ ĐBSH là quy mô canh tác rất nhỏ bé biểu hiện tính tiểu nông .

Toàn vùng có 738.527ha đất nông nghiệp trong đó chủ yếu là trồng cây lương thực

(507.025ha). Sau khoán 10 diện tích đất nông nghiệp ở ĐBSH hầu như không tăng và

quỹ đất nông nghiệp chỉ chiếm 9,5% đất nông nghiệp cả nước, trong khi đó số hộ nông

nghiệp chiếm 25,35% và lao động nông nghiệp chiếm 19,5% trong tổng số hộ, khẩu và

lao động trong cả nước. Mặt khác hàng năm số hộ, số khẩu, số lao động ở khu vực này

ngày càng tăng.Thực trạng đó đã khiến cho ĐBSH trở thành nơi có bình quân ruộng

đất/đầu người giảm dần qua các năm và ở mức thấp nhất của cả nước .

Bảng: Bình quân ruộng đất, hộ, khẩu, lao động, nông nghiệp ở ĐBSH (1993-1998)

Năm Tổng diện tích đất Bình quân hộ Bình quân Bình quân lao

nông nghiệp (ha) nông nghiệp khẩu nông động nông

(m2) nghiệp (m2) nghiệp (m2)

1993 721.326 2.814 750 1.817

1994 711.744 2.775 679 1.486

1995 720.218 2.713 664 1.486

1996 719.610 2.722 689 1.486

1997 721.548 2.722 670 1.462

1998 720.747 2.715 665 1.438

(Hiện trạng sử dụng ruộng đất năm 1980-1998. Tổng cục quản lý ruộng đất).

Như vậy trong vòng 5 năm (từ năm 1993-1998) trung bình hàng năm đất nông nghiệp

giảm 24m2/hộ. Nếu vào năm 1993 mỗi hộ có 2.836m2 thì đến năm 1998 còn

2.716m2.Nhưng nếu tính từ năm 1990-1998 mỗi năm giảm 150m2/hộ.Đa số hộ nông dân

có diện tích canh tác thấp, dưới 0,5ha(chiếm 96%),nhưng đến năm 2001 đã giảm

(46,77%) mặc dù số hộ đã tăng nên. Quy mô ruộng đất nông nghiệp tính theo nhóm hộ

còn ở mức thấp hơn

Bảng : Cơ cấu ruộng đất phân theo quy mô đất nông nghiệp .(Năm 2001)

(%)

Tổng số ĐBSH Cả

nước

Hộ có dưới 0,2ha 46,77 25,15

Hộ có từ 0,2 đến dưới 0,5ha 49,03 39,19

3,6 16,42 Hộ có từ 0,5-1ha

0,24 13,06 Hộ có từ 1-3ha

0,02 1,75 Hộ có từ 3-5ha

0,01 0,4 Hộ có từ 5-10ha

0 0,05 Hộ có từ 10ha trở nên

(Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông nghiệp nông thôn, thuỷ sản. Nxb Thống kê-2002)

Trong vòng 10 năm qua đất nông nghiệp luôn dao động ở mức 56-61% so với tổng diện

tích đất tự nhiên trong khi đó cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp nông thôn đặc biệt là việc xây dựng các công trình công cộng và khu công nghiệp

ở các tỉnh thành phố như Hà Nội, Hải phòng, Hải Dương, Hưng Yên…diện tích đất

chuyên dùng và đất phi nông nghiệp không ngừng tăng nên. Đây là một nguyên nhân dẫn

đến tình trạng đất nông nghiệp bị giảm sút. Trước sự giam sút diện tích đất nông nghiệp

trên khẩu, lao động và hộ gia đình nó tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa sự gia tăng dân số

với diện tích đất gieo trồng .

Để tạo điều kiện phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá không thể duy trì

tình trạng phân tán ruộng đất của mỗi hộ và giữ mức ruộng đất một hộ như đã nêu ở trên

.Mà cần có biện pháp thúc đẩy tập chung ruộng đất của mỗi hộ nâng dần mức ruộng đất

bình quân của các hộ làm nông nghiệp nên, tạo điều kiện cho các hộ phát triển sản xuất

nông nghiệp theo hướng trang trại gia đình. Nhưng vẫn để ruộng đất lại phải gắn với quá

trình phân công lại lao động và phát triển các nghành phi nông nghiệp trong nông thôn

.Do bình quân ruộng đất thấp, nên tích tụ ruộng đất không gắn với phát triển các nghành

nghề phi nông nghiệp, thì tất yếu không tránh khỏi một bộ phận nông dân sẽ không có đất

để sản xuất và trở thành những người lao động làm thuê trong nông thôn. Điều này sẽ

làm tăng tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng trong nông thôn . Mức hạn điền đối với

cây hàng năm của hộ gia đình cần phải được xem xét lại vì mức hạn điền như vậy trong

nhiều trường hợp lại là trở ngại cho sự tích tụ ruộng đất vào các hộ có kinh nghiệm sản

xuất, có khả năng quản lý có điều kiện về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh nông

nghiệp và do đó hạn chế sự phát triển của sản xuất hàng hoá.

Ngay cả trong trường hợp có quyền mua bán đất đai tự do thì sự tích tụ tập chung đất đai

trên quy mô lớn sẽ diễn ra hết sức chậm chạp. Thực tế là người nông dân ĐBSH không

thể bán đất đai bởi vì trong nông nghiệp sức ép từ lao động thừa là quá lớn làm cho họ ít

có cơ hội tìm được việc làm mới thành thử họ không thể bán các phương tiện sống chủ

yếu .

Đối với những hộ sản xuất không đủ tiêu dùng, không đủ khả năng tái sản xuất giản đơn

hoặc những hộ sản xuất đủ tiêu dùng và có một khối lượng sản phẩm không đáng kể để

bán. Ngay cả trong khi có nhiều người mua đất hộ nông dân cũng không thể bán đất. Cốt

lõi vấn đề là ở chỗ : Đại bộ phận nông dân không thể bán cái phương tiện duy nhất có ý

nghĩa quyết định sự sinh tồn của họ.

3. Thực trạng về vốn sản xuất kinh doanh.

Khả năng tích tụ vốn của đại bộ phận các hộ nông dân là thấp. Các hộ vẫn trong tình

trạng thiếu vốn. Số vốn đầu tư chỉ ở mức thấp các hộ trung bình 200.000-300.000nđ.Các

hộ buôn bán, ngành nghề khoảng trên dưới 1triệu đồng. So với nhu cầu các hộ nghèo

thường thiếu vốn ở giai đoạn đầu, các hộ khác thiếu khoảng 300.000nđ. Các hộ kiêm

nghành nghề thiếu từ 500.000 đến 1 triệu đồng .

Mặt khác chu kỳ Sx nông nghiệp kéo dài nên việc chu chuyển vốn rất chậm, bởi vậy sự

căng thẳng về vồn càng diễn ra gay gắt ,tình trạng cho vay nặng lãi khá phổ biến ở nông

thôn. Do vốn ít nên nông dân sử dụng một khối lượng phân hoá học và thuốc trừ sâu hạn

chế mỗi ha dùng 40-60kg đạm lân và 0,5kg thuốc trừ sâu. Những hộ nghèo do không có

vốn đầu tư sx đã dẫn đến tình trạng bóc lột đất đai. Quy mô thu nhập nhỏ bé khả năng

tích luỹ thấp dẫn đến hạn chế khả năng tái đầu tư sản xuất mở rộng. Mức chi cho sản xuất

nông nghiệp và sản xuất nói chung còn thấp.

Tích luỹ của nông dân không phải dựa trên một nền nông nghiệp thặng dư. Sự tích luỹ

này do sự chắt bóp của nông dân, những nông phẩm được bán đi mua vật tư đầu tư vào

sản xuất đôi khi chính là khẩu phần chủ yếu xâm phạm vào sản phẩm tất yếu. Tích luỹ

chủ yếu từ nghành trồng trọt và chăn nuôi, tích luỹ dưới hình thái hiện vật–những vật

phẩm ít có khả năng sinh lời .ở những làng có nghề thủ công, dịch vụ vốn tiền mặt sẵn

hơn và nó được chu chuyển nhanh hơn ,những nơi này vốn tiền mặt chiếm tỷ trọng cao

khoảng 50% tổng số tiền mặt của hộ số hộ chuyên nghành nghề chiếm tỷ lệ không cao.

Nhóm hộ giàu cũng có tình trạng thiếu vốn .Nguồn vốn tự có bình quân của hộ chuyên

nghành nghề 55,4%,hộ kiêm nghành 63,94%.Vốn vay bình quân của một hộ chuyên

chiếm 44,46%, hộ kiêm là 36,06% ,trong đó tỷ trọng vốn vay ngân hàng của một hộ

chuyên 61,04%, hộ kiêm là 72,43% (Năm 2000). Như vậy vay ngân hàng chiếm tỷ lệ nhỏ

trong tổng vốn vay. Do đó khi vay ngoài họ dễ bị tính lãi xuất cao .

Tình trạng thiếu vốn ở hộ giàu là do nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh còn ở nhóm hộ

nghèo thiếu vốn do nhu cầu tái sản xuất giản đơn, đôi khi phần vốn vay mượn để chi

dùng cho nhu cầu cơ bản (Nhu cầu ăn, uống) là chủ yếu. Tình trạng thiếu vốn đã hạn chế

lớn đến việc mở rộng việc làm trong khu vực nông thôn, hạn chế khả năng mở rộng

nghành nghề, khả năng tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, khả năng nâng cao trình độ

thâm canh nông nghiệp. Trong khi vốn tự có của nông dân thiếu nghiêm trọng thì vốn

đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp có xu hướng giảm. Hệ thống tín dụng trong những

năm gần đây đã có sự tiến bộ đáng kể nhưng hệ thống tín dụng chưa được tổ chức tốt. Hệ

thống tín dụng hợp tác xã có vai trò mờ nhạt. Hệ thống tín dụng tư nhân cho vay với lãi

xuất cao. Bình quân một hộ giàu vay 934.000nđ/năm trong đó vốn ngân hàng là 5%,anh

em họ hàng 7%, tư nhân 20%, các nguồn khác 68%. Vay ngắn hạn bình quân một hộ vay

một năm 498.000nđ, trong đó vay ngân hàng 20%, hợp tác xã tín dụng 7%, HTX nông

nghiệp 24%, anh em họ hàng 10%,vay hộ tư nhân 15%,vay các nguồn khác 24%.Việc cải

thiện tình hình cho vay vốn đã tác động tốt đến sản xuất, giúp cho hộ giàu mở rộng quy

mô sản xuất tạo thêm việc làm trong khu vực. Những hộ nghèo vay vốn họ ít nhiều đã tạo

được cân bằng trong sản xuất. Mặc dù tình hình thiếu vốn là nghiêm trọng song số hộ cần

vay chiếm tỷ lệ không cao(38,1%), hộ nông nghiệp kiêm nghành nghề(36,3%) ở nhóm hộ

nông, ngư nghiệp tỷ lệ này cao hơn 50%. Phản ánh một thực tế năng lực tổ chức sản xuất

của các hộ tiểu nông cũng có giới hạn. Khả năng đầu tư vào sản xuất, hiệu quả mang lại

trong điều kiện tương quan giá cả đầu vào, đầu ra của sản xuất, các điều kiện vay mượn

chưa hẳn đã dễ dàng .

4. Cơ cấu sản xuất kinh doanh :

Cơ cấu kinh tế nông thôn theo 3 nhóm nghành chủ yếu thì ĐBSH đứng ở vị trí trung bình

của cả nước sau Đông Nam Bộ, ĐBSCL và hơn vùngTrung Du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ,

Tây Nguyên. Với tỷ lệ 68,71% nông nghiệp, 15,56% công nghiệp và, dịch vụ 15,73%

(năm1997) .Thì đến nay nông thôn vùng ĐBSH vẫn thuần nông là chính .

Tính chất thuần nông cũng thể hiện rõ nét ở cơ cấu các hộ kinh doanh, hộ kiêm doanh, hộ

phi nông nghiệp tuy có tăng lên qua các năm nhưng tỷ trọng còn nhỏ

Bảng : Cơ cấu hộ gia đình nông thôn ĐBSH

Loại hộ 1990 1995 1998 1999 2000

1.Tổng số hộ hiện 3.181.569 3.403.707 3.569.020 3.655.692 3.707.151

có trên địa bàn

2.Trong đó hộ 2.558.130 2.714.888 2.808.223 2.831.340 2.856.440

nông thôn

80,4 80,5 78 77,4 77 Tỷ trọng (%)

a- Hộ nông 2.366.182 2.741.888 2.552.685 2.578.192 2.167.552

nghiệp

-Tỷ trọng(%) 74,4 74,9 71,7 71,3 70,6

-Hộ thuần nông 1.647.667 1.752.971 1.776.794 1.783.402 1.786.794

Tỷ trọng (%) 51,8 51,5 49,4 48,7 48,2

-Hộ kiêm doanh 365.132 398.820 421.562 443.161 449.722

Tỷ trọng (%) 11,5 11,7 11,7 12 12,1

-Hộ kiêm doanh , 182.175 200.579 211.074 221.227 223.117

tiểu thủ công

nghiệp

Tỷ trọng (%) 5,7 5,8 5,8 6 6

b-Hộ phi nông 177.025 183.873 227.200 221.539 232.988

nghiệp

-Tỷ trọng 5,6 5,4 6,3 6 6,2

( Nguồn : Số liệu điều tra của đề tài KHXH 02-08)

Các hộ phi nông nghiệp, hộ kiêm nghành nghề tăng không ngừng qua các năm cả về số

tương đối và tuyệt đối , trong khi đó số hộ nông nghiệp giảm xuống. Điều này thể hiện xu

hướng chuyển từ sản xuất nông nghiệp là chính sang lĩnh vực phi nông nghiệp và kết hợp

với việc di chuyển lao động dẫn đến thay đổi cơ cấu sản xuất của đơn vị hộ. Nhưng cơ

cấu đó còn thể hiện nhiều hạn chế:

- Cơ cấu sx phần lớn của các nông hộ là đa nghành nghề nhưng lại không dựa trên cơ sở

chuyên môn hoá sản xuất. Với nguồn vốn ít ỏi vực các nông hộ thường phải phân tán vốn

đầu tư cho nhiều lĩnh vực sản xuất . ngoài phát triển cây lúa và con lợn hai nghành sản

xuất truyền thống còn có các nghành nghề thủ công, thương nghiệp và dịch vụ. Đây là

đặc trưng của hộ sản xuất hàng hoá nhỏvà ít nhiều còn mang tính thời vụ .

Trong nông nghiệp đã xuất hiện chuyên môn hoá đi đôi với phát triển tổng hợp. Như các

vùng chuyên môn hoá trồng rau, hoa, cây ăn quả, chăn nuôi bò sữa, nuôi trồng thuỷ hải

sản. Nhưng tỷ lệ số hộ chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp, chuyên kinh doanh công

thuương nghiệp là quá thấp.

-Cơ cấu sản xuất như vậy nhưng vẫn chủ yếu hướng vào phục vụ nhu cầu của bản thân

hộ. Mục đích của sản xuất không tìm kiếm lợi nhuận, thứ hai cơ cấu sản xuất bao gồm

nhiều nghành nhưng lại rất phân tán manh mún bởi quy mô nhỏ bé, hiện tại đã xuất hiện

nhóm hộ sản xuất chủ yếu phục vụ nhu cầu thị trường .

Do cơ cấu kinh tế nông thôn vùng ĐBSH còn ở trình độ thấp lại chuyển dịch chậm nên

hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp, tỷ lệ lãi trên giá bán một số sản phẩm của vùng thấp

hơn mức trung bình cả nước. Như lúa đông xuân tỷ lệ lãi trên giá bán (Năm 2000) của

vùng là 21,8%, cả nuớc 42,47%. Nền nông nghiệp vẫn là dựa trên nền tảng kinh tế hộ ,

nông nghiệp vẫn là hoạt động chính của dân cư nông thôn. Thu nhập từ nông, lâm ,thuỷ

sản là chủ yếu (67,6%) trong đó thu từ nông nghiệp 91,4%( Thu từ trồng trọt 58,6%, từ

chăn nuôi 40,4% ). Trong trồng trọt thu từ cây hàng năm chiếm tỷ lệ cao (88%).

5- Kết quả sản sản xuất hàng hoá.

Do quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình sx ra sản phẩm ra để bán nên chỉ tiêu quan

trọng nhất phản ánh trình độ sx hàng hoá là tỷ xuất sản phẩm hàng hoá trong tổng giá trị

sản phẩm của người sản xuất: Bao gồm các hộ sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, trang

trại , Hộ phi nông nghiệp, chuyên–kiêm doanh, tiểu thủ công nghiệp . Đối với các trang

trại ở ĐBSH giá trị sản lượng hàng hoá bình quân năm 2000 là 134,5 triệu đồng gấp hơn

ba lần tiêu chí so với tiêu chí để xác đinh trang trại. Điều này khẳng định sản xuất hàng

hoá ĐBSH đã phát triển .

Bảng : Kết quả sản xuất hàng hoá, dịch vụ của trang trại một số tỉnh vùng ĐBSH.

Tỉnh Tổng số Tổng thu Giá trị hàng hoá Thu nhập bình

trang trại (triệu dịch vụ bán ra bình quân một

đồng) quân một trang trại trang trại

(Tr.đ) (Tr.đ).

1829 260.393 134,5 46,9 ĐBSH

181 26.123 133,6 36,7 Hà Tây

33 5040 131,8 40,4 Bắc Ninh

59 12.290 184,4 39,2 Hưng Yên

101 19.016 160,2 43,7 Thái Bình

294 13.320 41,9 17,4 Ninh Bình

344 50.714 143,7 55,0 Nam Định

( Nguồn : Kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn, Thủy sản. Nxb Thống kê-

2002 )

Nhờ phát triển kinh tế trang trại mà nhiều địa phương đã hướng vào sản xuất hàng hoá

khai thác lợi thế tự nhiên nhiều sẵn có đồng thời đã thay đổi quan điểm sx nên phải

hướng theo thị trường trên cơ sở tiềm năng địa phương mình . Nhiều làng xã ở Hải

Dương , Hưng Yên do chuyển đổi cơ cấu cây trồng thành công nên có mức thu nhập từ

24-26 triệu đồng/ha:Như xã Vĩnh Hoà, Minh Thanh (Huyện Tứ Lộc –Hải Dương); 105-

107trđ/ha như ở Thạch Khôi –Tứ Lộc (Hải Dương ) .Các xã Thanh Cường( Hải Dương ),

Lam Sơn (Hưng Yên) do chuyển đổi sang trồng Vải Thiều, nhãn lồng cho thu hoạch 60-

80trđ/ha. Tại Thái Bình : thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng năm 1994

,tỉnh đã thay thế một số diện tích cây công nghiệp bằng các loại cây trồng : Đậu tương,

Cói, lạc vừng , dâu tằm..nên đã cho thu nhập 18,9 trđ/ha . Hà Tây đã thay thế cây màu,

cây lương thực như ngô, khoai bằng những loại cây công nghiệp ngắn ngày có giá tri

kinh tế cao như đậu tương lạc vừng mía. Bên cạnh đó một số xã ở Hà Tây có bình quân

đất nông nghiệp thấp đã chuyển sang các nghành nghề dịch vụ nâng thu nhập bình quân

của mỗi hộ một năm 20 triệu đồng .Tưongtự như vậy số xã ở Thái Bình do bình quân đất

canh tác đầu người thấp nên đã chú trọng phát triển nghề phụ như: Chế biến nông sản ,

thực phẩm, mộc dệt chiếu. ở khu vực ngoại thành Hà Nội đã phát triển theo hướng đẩy

mạnh sản xuất rau màu , phái triển đàn bò sữa , nuôi lợn lạc cùng với phát triển nghề phụ

: Gạch ngói , mộc... Nhờ có thị trường tiêu thụ rộng lớn lại nằm trong xu hướng đô thị

hoá mạnh mẽ nông dân ngoại thành Hà Nội có điều kiện chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh

tế theo hướng sản xuất hàng hoá. Sau 10 năm thực hiện cơ chế khoán mới trong nông

nghiệp, đến năm 1990 thu nhập của nông dân vùng ĐBSH đã tăng 21,72% so với những

năm 81-85 và4,59%năm 1988.

Đến nay thu nhập của người dân ở ĐBSH đã tăng gấp hai lần so với năm 1990 . Số hộ

giàu chiếm 15%, số hộ nghèo chỉ còn khoảng 17%. Trong những năm đổi mới do nhanh

chóng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu nghành nghề nên nhiều địa

phương đã có sự phát triển tương đối cao về cơ sở hạ tầng , nhà ở.

6. Những tồn tại và khó khăn của kinh tế hộ trong quá trình phát triển theo hướng

sản xuất hàng hoá .

6.1 Một số hạn chế của Hộ kiêm, chuyên nghành- nghề.

Hiện nay các hộ chuyên, kiêm nghành ở ĐBSH gặp phải một số khó khăn trong khâu

tiêu thụ sản phẩm do thị trường ở các làng nghề còn nhỏ bé, bấp bênh, khả năng cạnh

tranh sản phẩm của các làng nghề còn kém. Kênh tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của làng

nghề là gia công cho các doanh nghiệp thành thị hoặc bán thẳng cho chủ bao tiêu, tiêu thụ

trực tiếp trên thị trường. Theo kết quả điều tra làng nghề thì có 85%sản phẩm của hộ

chuyên nghành nghề hay 92,6% với hộ kiêm ở làng nghề tiêu thụ ở thị trường trong tỉnh

và 2-2.5% sản phẩm của hộ kiêm và hộ chuyên được xuất khẩu. Phần còn lại là tiêu thụ

ở thị trường ngoài tỉnh. Nguyên nhân thị trường nhỏ bé bấp bênh như vậy là do :

- Khả năng tiếp cận với thị trường còn hạn chế. Việc nghiên cứu mẫu mã sản phẩm

tại các làng nghềlà công việc phải được chú ý quan tâm thường xuyên, nhưng việc

cải tiến mẫu mã sản phẩm tại các làng nghề trong vùng rất ít hoặc chưa có. Việc

thay đổi chủng loại các mặt hàng là hoàn toàn do tự phát, không tiêu chuẩn hoá

chất lượng sản phẩm và đăng ký nhãn hiệu cho phù hợp với nhu cầu người tiêu

dùng thì khó có thể chiếm lĩnh thị trường .

- Mức độ cơ khí hoá, đổi mới công nghệ ở mức thấp, đa số thiết bị là cũ thải loại từ

công nghiệp thành thị . Mức độ cơ khí hoá đạt từ 37-40% . Mức trang thiết bị máy

móc bình quân cho một lao động là 6114000đ/hộ

- Trình độ tay nghề của người lao động thấp : Số chủ hộ chưa qua đào tạo

51,5-69,8%, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở các hộ nghành nghề từ 54-78%

(tháng 8/2000)

- Phát triển làng nghề ở đồng bằng sông hồng đang gây ô nhiễm môi trường (không

khí , nước …) do công nghệ lạc hậu và không có công nghệ sử lý chất thải ..

- Môi trường thể chế cho các làng nghề nói chung và các hộ chuyên, kiêm nói riêng

ở ĐBSH chưa thể hiện rõ sự khuyến khích làng nghề phát triển. Hiện nay số lượng

doanh nghiệp vừa và nhỏ ( doanh nghiệp tư nhân , Hợp tác xã..) có đăng ký hoạt

động nhưng chưa nhiều, mới đạt 6% còn 94% vẫn thuộc loại hình kinh tề hộ chưa

được pháp lý bảo hộ, nên chưa đủ tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm ở

nông thôn .

6.2 Các hộ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp

Việc chuyển đổi sang sản xuất hàng hoá của kinh tế hộ gặp phải một số khó khăn là

thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp theo nhu cầu thị trường

diễn ra không dễ dàng nhất là trong quá trình hội nhập WTO,AFTA

+ Thứ nhất: Bản thân người nông dân sản xuất chủ yếu với mục đích tiêu dùng lên

quyết định sản xuất chi phối đến cơ cấu sản xuất hướng vào việc thoả mãn nhu cầu

gia đình .

+ Thứ hai: Trình độ phát triển của thị trường là nhân tố chi phối có tính quyết đình

đến sự hình thành cơ cấu sản xuất mới, thoát khỏi cơ cấu sản xuất truyền thống .

+ Thứ ba : Quy mô sản xuất của hộ nông dân nhỏ bé , sự am hiểu về kỹ thuật ,

quản lý , về thị trường còn hạn chế nên việc nâng quy mô sản xuất , phát triển

ngành nghề mới cũng hạn chế. Tập quán và thói quen của nông dân được củng cố

và duy trì tạo ra sức ì trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất .

+ Thứ tư : Tác động của hệ thống chính sách làm biến đổi đến cơ cấu sản xuất

truyền thống , hiệu quả gồm khả năng cung cấp vốn công nghệ cải tiến mở rộng

cải tạo đất đai , hệ thống cung cấp nước….

Phần III : Giải pháp phát triển kinh tế hộ

theo hướng sản xuất hàng hoá ở

Đồng bằng sông Hồng .

I. Những tác động gián tiếp để phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá:

1. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn

- Cần hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng Đồng bằng sông

Hồng, từ đó cụ thể hoá quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công

nghiệp hoá-hiện đại hoá. Nội dung cần tập chung vào quy hoạch hệ thống công trình

kết cấu hạ tầng chủ yếu như điện, đường, thuỷ lợi, trạm nghiên cứu thực nghiệm, trạm

y tế, chợ, bưu điện, cơ sở chế biến nông, lâm thuỷ sản, các thị trấn, thị tứ, khu công

nghiệp…

1.1--Xây dựng hệ thống giao thông nông thôn đáp ứng sản xuất nông nghiệp hàng

hoá.

- Giao thông nông thôn nói chung bao gồm các tuyến đường thuộc tỉnh, huyện, xã nối

liền tới các thị trường, các khu vực phi kinh tế nông nghiệp và các dịch vụ xã hội

khác, ở đâu có giao thông ở đó có phồn vinh kinh tế- xã hội. Giao thông nông thôn

giúp các hộ nông dân, các trang trại đưa nông sản đến ban cho các cơ sở chế biến, đến

các đô thị. Ngược lại giao thông nông thôn còn giúp thị trường nông thôn phát triển vì

nông thôn là thị trừơng rộng lớn để tiêu thụ các hàng hoá các ngành công nghiệp và

sản xuất khác. Giao thông nông thôn tốt sẽ đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hoá

nông sản, nhất là các nông sản tươi sống phục vụ cho tiêu dùng cũng như công nghiệp

chế biến, giúp giảm 20-30% chi phí, cước phí trong giá thành sản phẩm. Để phát triển

giao thông nông thôn phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp hàng hoá:

- Phải tiếp tục hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đường giao thông trong vùng,

nhất là đường giao thông nông thôn theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm

chính quyền địa phương quản lý. Cần có quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp

hàng hoá cho các vùng kinh tế trong nước, cho các vùng hàng hoá tập chung lớn như

lúa, cây công nghiệp, rau quả- chăn nuôi phải gắn với giao thông nông thôn, coi giao

thông là khâu kết nối giữa các vùng nguyên liệu và chế biến.

Đối với hệ thống đường bộ quốc gia cần nâng cấp những tuyến chính và nối kết

chúng thành hệ thống, đảm bảo lưu thông hàng hoá,vật tư nông sản trong phạm vi

toàn vùng và nối kế với Hà Nội, Hải Phòng và cả nước. Mặt khác, cần nâng cấp chất

lượng đường giao thông liên huyện, liên xã phù hợp với yêu cầu phất triển nông

nghiệp hàng hoá và khu kinh tế nông thôn. Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội các

địa phương ( tỉnh – huyện – xã ) đều phải chú trọng giao thông nông thôn, lấy mục

tiêu phát triển kinh tế phục vụ dân sinh để đầu tư xây dựng giao thông nông thôn. Giải

pháp hiện nay và những năm tới là bê tông hoá hoặc nhựa hoá theo tiêu chuẩn đường

quốc gia để đảm bảo tính bền vững của hệ thống đường giao thông, cần phải coi trọng

chất lượng, làm đến đâu chắc đến đó, nâng cấp đi cùng duy tu, bảo dưỡng và quản lý.

Chính quyền cấp xã và thôn có trách nhiệm quản lý đường giao thông nông thôn theo

phạm vi của mình, tránh tình trạng “ cha chung không ai khóc” dẫn đến đường vô

chủ, xuống cấp.

- Vốn cho xây dựng giao thông nông thôn nói chung và Đồng bằng sông

Hồng nói riêng phải dựa vào các nguồn nhà nước các doanh nghiệp vốn viện trợ hoặc

vay với lãi suất ưu đãi cả các tổ chức quốc tế và một phần vốn do dân đóng góp. Tuy

nhiên xuất phát từ điều kiện thực tế, thu nhập và tích luỹ của nông dân vùng Đồng

bằng sông Hồng còn rất thấp nên cần huy động sức dân đống góp chỉ nên đặt ra ở

mức vừa sức dân, chủ yếu là công lao động. Nhà nước cần có chính sách huy động

nguồn vốn đóng góp của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và dân cư

thành thị để phát triển giao thông nông thôn. Bước tiếp theo là đổi mới quản lý chỉ

đạo thiết kế, thi công sao cho tiết kiệm và hiệu quả, công khai trong đóng góp và chi

tiêu trong xây dựng và nâng cấp đường giao thông. Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống

điện nông thôn trong những năm tới, vấn đề chủ yếu là ổn định nguồn điện bằng các

biện pháp kỹ thuật và quản lý.

1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống lưới điện nông thôn.

- Cần hòan thiện hệ thống các trạm hạ thế đường dây tải điện đến tận hộ đảm bảo

cung cấp điện ổn định chất lượng cao đến hộ nông dân. Kinh phí xây dựng trạm biến

thế, hạ thế và hệ thống đường dây chủ yếu từ nhà nước và vốn tài trợ của các tổ chức

quốc tế, thực hiện cơ chế khoán cho tư nhân quản lý và bán điện đến hộ nông dân

thông qua hợp tác xã.

- Giá bán điện ở nông thôn Đồng bằng sông Hồng cần đảm bảo sự thống nhất tương

đối trong phạm vi các tỉnh xung quanh giá điện khu vực thành thị, phần chênh lệch

(nếu có) do ngân sách nhà nước bù lỗ nhằm quản sự bất hợp lý hiện nay trong giá bán

điện ở nông thôn Đồng bằng sông Hồng vì nông dân thu nhập chỉ bằng 1/3 dân thành

thị nhưng lại phải mua điện với giá cao hơn. Giá bán điện cho các hộ sản xuất tiểu thủ

công nghiệp ở các làng nghề cũng cần được xem xét và điều chỉnh theo hướng giảm

so với hiện nay để khuyến khích các cơ sở sử dụng điện thay thế các nguồn năng

lượng khác gây ô nhiễm môi trường như than, củi…

1.3. Cần tiếp tục nâng cấp các công trình thuỷ lợi trong vùng.

- Đặc điểm của chính sách thuỷ lợi là các biện pháp cung cấp nước tưới cho ngành

trồng trọt. Nước tưới là một yếu tố đầu vào thể hiện tính bổ trợ cho các đầu vào biến

đổi khác. Do đặc điểm nước tưới là hàng hoá công cộng, khi đã sản xuất ra thì không

thể ngăn cản người khác sử dụng, vì vậy rất khó hoặc không thể buộc họ trả tiền về

việc sử dụng đó. Đặc trưng trên của nước tưới khác hẳn cung cầu so với các loại đầu

vào khác dẫn đến chi phí xây dựng hệ thống kênh mương thường rất cao không thể

tính vào giá nước để thu của nông dân. Cũng không thể co biện pháp ngăn cản nông

dân lấy nước từ nguồn kênh mương sẵn có. Do vậy chúng ta phải thực hiện chính

sách cấp kinh phí cho xây dựng các công trình thuỷ lợi. Nhà nước cần ưu tiên vốn đầu

tư nâng cấp các trạm bơm điện hiện có trong vùng để chủ động tưới, tiêu ổn định và

đối phó có hiệu quả trước những diễn biến phức tạp về thời tiết (Nhất là mưa lớn và

hạn hán)

- Giải pháp kỹ thuật là nâng cấp, thực hiện kiên cố hoá kênh mương, kể cả kênh cấp

1,2,3 và kênh mương nội đồng. Để nâng cấp theo hướng này cần phải có vốn đầu tư

của nhà nước và nhân dân. Trong những năm tới vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà

nước cho thuỷ lợi cho vùng này nên ưu tiên thoả đáng cho chương trình kiên cố hoá

kênh mương.

- Một vấn đề khác là quản lý và hoàn thiện quan hệ giữa công ty thuỷ nông với chính

quyền các xã và ban quản lý các hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới. Để giải quyết vấn

đề này, nhà nước cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các công ty thuỷ nông, của

các uỷ ban nhân dân xã và các hợp tác xã nông nghiệp trong công tác quản lý, bảo

dưỡng các công trình thuỷ nông và thu thuỷ lợi phí. Tăng cường sự tham gia của nông

dân bằng cách xây dựng các nhóm thuỷ nông của nông dân hay hợp tác xã làm dịch

vụ thuỷ nông để đảm nhận phần lớn chức năng duy tu, bảo dưỡng kênh mương cấp

hai và toàn bộ với kênh mương cấp 3 nội đồng. Điều kiện cơ bản để thực hiện theo

hướng nay là loại bỏ mâu thuẫn về quyền lợi giữa những người nông dân trong phạm

vi công trình thuỷ lợi.

1.4 Cần kiện toàn và nâng cao năng lực của các trạm trại nghiên cứu khoa học và ứng

dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp.

- Trong những năm tới, các ngành ở trung ương và các địa phương trong vùng cần

dành ưu tiên kiện toàn và nâng cấp các cơ sở nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng

tiến bộ vào các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến, bảo

quản nông sản. Các cở sở cần ưu tiên đầu tư trạm, trại, giống cây lương thực, cây thực

phẩm, một số cây ăn quả (nhãn, vải, cam ), trạm nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật mới

trong ngành chăn nuôi bò thịt, bò sữa, lợn thịt theo hướng nạc hoá, gia cầm, ứng dụng

phương pháp tự động hoá trong ngành chăn nuôi.

- Nhanh chóng ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật với phương châm: chất lượng

cao, giá thành hạ để tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường trong và

ngoài nước. Nếu trước đây các cơ sở lai tạo giống chỉ chú trọng năng suất cao thì hiện

nay yêu cầu đòi hỏi chuyển sang giống có năng suất cao, nhất là giống lúa ngô, rau

quả, thịt lợn, thịt gia cầm là những sản phẩm nông nghiệp Đồng bằng sông Hồng có

nhiều tiềm năng và lợi thế. Việc nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch để nâng cao

chất lượng và giảm hao hụt cũng cần đầu tư thoả đáng. Để thực hiện giải pháp trên

cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau:

+ Tăng cường đầu tư vốn và cán bộ khoa học – kỹ thuật có năng lực của trung ương

và địa phương cho các trạm, trại với chế độ trách nhiệm và đãi ngộ hợp lý.

+ Tập chung cao độ cho các lĩnh vực lai tạo và nhân giống cây con, bảo vệ thực vật,

thuỷ lợi, khuyến nông, khuyến ngư, công nghệ sau thu hoạch, công nghiệp chế biến

nông sản, thuỷ sản.

+ Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ xã, hợp tác xã nông nghiệp để nâng cao trình

độ khoa học kỹ thuật và kiến thức quản lý sản xuất trong cơ chế thị trường

+ Bồi dưỡng và nâng cao dân trí nông dân trong vùng theo yêu cầu của sản xuất hàng

hoá vốn là thế mạnh và tiềm năng to lớn của ĐBSH.

2. Phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ.

- Công nghiệp chế biến nông sản là một nhóm ngành chế biến tiến hành chế biến

những nguyên liệu từ nông nghiệp. Trong nền kinh tế tiểu nông tự cấp, tự túc, việc

chế biến nông sản chủ yếu được tập chung trong phạm vi các hộ gia đình. Khi chuyển

sang nền kinh tế hàng hoá việc chế biến nông sản trở thành dịch vụ kỹ thuật được

thực hiện cả trong và ngoài hộ gia đình nông dân và trở thành ngành công nghiệp chế

biến nông sản ở nông thôn. Nguyên liệu và sản phẩm chế biến rất đa dạng, do đó công

nghiệp chế biến nông sản có nhiều ngành nghề chế biến lương thực, cụ thể là lúa gạo,

ngô, khoai, sắn…chế biến thực phẩm như cá, tôm, thịt, sữa, đường, rượu…

- Công nghiệp chế biến nông sản là một bộ phận hợp thành của công nghiệp chế

biến, thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng

của nguyên liệu từ nông nghiệp thông qua quá rình cơ nhiệt hoá, nhằm đáp ứng nhu

cầu của thị trường, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và đưa lại hiệu quả

kinh tế cao.

- Trong nền kinh tế tự nhiên, nông nghiệp chiếm vị trí thống trị, sản xuất phụ thuộc

vào tự nhiên, sản xuất chủ yếu là để tiêu dùng. Đặc trưng của kinh tế tự nhiên là lực

lượng sản xuất hết sức thấp kém, lạc hậu, công cụ lao động thủ công. Khi chuyển

sang nền nông nghiệp hàng hoá sản xuất ra sản phẩm để bán mà muốn bán được sản

phẩm và bán được giá cao thì phải thông qua công nghiệp chế biến. Sự phát triển các

ngành công nghiệp chế biến nông sản sẽ tạo thị trưòng tiêu thụ các sản phẩm nông

nghiệp, góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động, công nghiệp

chế biến nông sản vừa có vai trò trực tiếp và vừa có vai trò gián tiếp tới sự phát triển

nông nghiệp hàng hoá, tạo cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp là khâu đột phá

để công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện để nền nông

nghiệp hàng hoá phát triển mạnh mẽ hơn.

3. Nâng cao chất lượng dịch vụ trong nông nghiệp.

+ Dịch vụ sản xuất nông nghiệp vốn là những khâu của quá trình sản xuất được tách

riêng ra. Người trồng lúa tự túc, tự cấp bản thân họ vừa sản xuất, vừa tự phục vụ quá

trình sản xuất của mình. Nhưng để sản xuất hàng hoá hộ với tư cách là đơn vị chủ sản

xuất, kinh doanh, có nhưng hạn chế về vốn, vật tư kỹ thuật, khả năng ứng phó với

diễn biến phức tạp của thời tiết, sâu bệnh,nên nhu cầu dịch vụ tăng. Tuy vậy người

nông dân chỉ sử dụng dịch vụ khi nào họ không tự đảm nhận được hoặc dịch vụ đưa

lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Dịch vụ nông nghiệp gắn với khai thác và sử dụng tiềm

năng sinh vật do đó tính thời vụ rất khắt khe. Đối với cây lúa chẳng hạn, trong một

chu kì sinh trưởng nhu cầu về dinh dưỡng rất khác nhau, mỗi giống lúa cũng có nhu

cầu về các điều kiện nước tưới, tiêu, phân bón, thời vụ gieo cấy không hoàn toàn

giống nhau vì vậy dịch vụ tốt là yếu tố tăng năng suất cây trồng. Thời tiết khí hậu có

tác động mạnh mẽ tới hoạt động dịch vụ sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng sâu sắc

của thời tiết và khí hậu vì vậy nhu cầu sử dụng dịch vụ của người sản xuất nông

nghiệp cũng thay đổi tuỳ theo diễn biến của thời tiết và khí hậu trong nền kinh tế nông

nghiệp tự cấp, tự túc, người nông dân sản xuất ra sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu

của họ. Hầu hết nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng cá nhân được tính toán và thoả

mãn chỉ trong phạm vi kinh tế gia đình: chọn giống vụ sau ngay từ sản phẩm thu được

từ vụ này, phân bón là phân chuồng do chăn nuôi gia súc đem lại hoặc là do phân

xanhtự trồng hay tự kiếm, làm đất bằng sức kéo trâu bò tự nhiên. Người nông dân ít

nghĩ đến sử dụng điều kiện sản xuất ngoài gia đình mình, sản xuất và tái sản xuất gần

như khép kín trong phạm vi gia đình nên người nông dân không có điều kiện để tiếp

thu khoa học kỹ thuật , kỹ thuật chỉ dựa vào kinh nghiệm và sự thuận hoà của thời tiết

là chính. Hiệu quả và năng suất lao động thấp, nông sản hàng hoá rất ít, sức mua hạn

hẹp, tất cả các điều kiện trên cho biết hộ tự cấp tự túc hầu như không có nhu cầu dịch

vụ sản xuất nông nghiệp.

- Trong nền nông nghiệp hàng hoá, người nông dân sản xuất ra sản phẩm không chỉ

để tiêu dùng mà còn chủ yếu để trao đổi mua bán. Sản xuất hàng hoá hình thành và nó

chịu tác động của quy luật vốn có của mình, đòi hỏi chủ thể tham gia phải rất linh

hoạt tìm mọi cách để giảm hao phí lao động xã hội cá biệt so với lao động xã hội cần

thiết để làm giảm chi phí và có lãi. Muốn vậy họ phải cải tiến kỹ thuật , áp dụng khoa

học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động cải tiến mẫu mã,

chất lượng, nhanh chóng đưa ra thị trường những hàng hoá thích hợp với thị hiếu

người tiêu dùng. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, diễn ra

trong một không gian rộng lớn đối tượng của nó chịu tác động của thời tiết và khí

hậu…..cho nên để có nhiều sản phẩm nông nghiệp với chất lượng cao đáp ứng nhu

cầu thị trường phải có dịch vụ. Dịch vụ đầu vào, đầu ra, và dịch vụ quá trình sản xuất

sẽ làm cho quy mô xản xuất được mở rộng năng suất lao động được nâng cao…….

+ Dịch vụ nông nghiệp có vai trò quan trọng thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hoá

phát triển nó thể hiện ở chỗ góp phần mở rộng quy mô sản xuất .Khi dịch vụ đầu ra

cho sản xuất nông nghiệp hàng hoá được bảo đảm, tổ chức thực hiện tốt sẽ trở thành

chất kích thích nền nông nghiệp hàng hoá phát triển mạnh mẽ hơn. Công nghiệp chế

biến nông sản và dịch vụ nông nghiệp phát triển sẽ tác động vào sản xuất nông

nghiệp, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định và bền vững.

- Công nghiệp chế biến nông sản dựa vào dịch vụ thông tin về thị trường mà xác

định được cần sản xuất cái gì, bao nhiêu, chất lượng như thế nào và thời gian cung

cấp ra sao, từ việc xác định đó các cơ sở chế biến nông sản có kế hoạch cần nguyên

liệu từ nông nghiệp cung cấp cho nhà máy bao nhiêu, chất lượng, thời gian cung

cấp. Để thực hiện được điều này, các cơ sở làm dịch vụ nông nghiệp để cung ứng

vốn cho hộ nông dân mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi công cụ lao động cung cấp

giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao cung cấp thuốc trừ sâu, phân bón, thu

mua nguyên liệu cung cấp cho nhà máy chế biến.

- Để phát huy vai trò của công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ đối với nền

nông nghiệp hàng hoá cần có những điều kiện sau:

+ ứng dụng khoa học – công nghệ mới vào sản xuất chế biến nông sản và dịch vụ

nông nghiệp. Trong điều kiện phát triển nền nông nghiệp hàng hoá thì việc hiện đại

hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản

xuất sẽ tạo khả năng cho các đơn vị sản xuất ra những nông sản có chất lượng cao,

giá thành hạ, có sức cạnh tranh trên thị trường.

+ Đảm bảo sử dụng hiệu quả vốn cho phá triển công nghệ chế biến nông sản vào

dịch vụ nông nghiệp.

Vốn đầu tư xây dựng mới một số doanh nghiệp chế biến nông sản để sản xuất

những mặt hàng mà thị trường có nhu cầu lớn và xây dựng một số cơ sở làm dịch vụ

nông nghiệp cần thiết.

Vốn đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ, hiện đại hoá và đổi mới thiết bị

để có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị

trường quốc tế.

+ Phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng các vùng nguyên liệu ổn định. Để công

nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ nông nghiệp phát huy được vai trò của mình,

công nghiệp chế biến và dịch vụ nông nghiệp phải phát triển theo hướng đa dạng

hoá, hiện đại hoá. Cần có nhiều cơ sở nguyên liệu trong nước có khả năng cung cấp

với số lượng lớn, chủng loại phong phú, chất lượng cao, hình thành và phát triển

vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá, vùng sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp

chế biến nông sản theo hướnh tạo lập, củng cố và phát triển các vùng nguyên liệu

tập chung chuyên canh với quy mô lớn, chất lượng cao. Việc xây dựng các vùng

nguyên liệu phải đi đôi với việc xây dựng các cơ sở chế biến nông sản và cơ sở làm

dịch vụ nông nghiệp, đồng thời phải đảm bảo hài hoà giữa ba lĩnh vực này.

4. Mở rộng thị trường cho sản xuất kinh doanh ở ĐBSH. ĐBSH cần chú trọng cả

thị trường nội địa và thị trường quốc tế.

- Thị trường nội địa của ĐBSH bao gồm thị trường nội vùng và thị trường ngoại

vùng. Khi mở rộng thị trường ĐBSH trong quá trình sản xuất hàng hoá cần đặc biệt

chú ý tới thị trường các thành phố lớn và khu công nghiệp. Mặt khác, sự hình hành

chiến lược thị trường cụ thể phải tuỳ thuộc vào trong mặt hàng mà ĐBSH có thế

mạnh so với các vùng khác vươn ra thị truờng nước ngoài là hướng chiến lược có vị

trí quan trọng trước mắt và lâu dài. Một số thị trường nước ngoài chủ yếu và những

sản phẩm mà các thị trường này cần cung cấp: Hàn Quốc: với các sản phẩm gạo,

bắp, thịt, cá, hoa quả, ớt, các sản phẩm sữa, đậu phộng, vừng… Thị trường

Indonexia có nhu cầu đậu tương, gạo, ngô, đay, sợi, hàng mỹ nghệ, hàng ren.

Malayxia có nhu cầu về nhập khẩu các mặt hàng gạo, lạc, đậu, hải sản, đá xây

dựng…Thị trường Trung Quốc là một trong những thị trường thuận lợi nhất cho tất

cả các sản phẩm hàng hoá của ĐBSH vì đây là thị trường gần và tương đối dễ tính

đối với hàng hoá của Việt Nam. Thị trường này có nhu cầu lương thực thuỷ sản,

nguyên liệu, kim loại. Ngoài ra ĐBSH còn có một số thị trường ấn Độ và châu Âu

cũng có nhu cầu về nhập khẩu nông sản.

Để thâm nhập vào các thị trường trên thì ĐBSH có hai con đường là tự tạo sản

phẩm hay nhập của các vùng khác trong cả nước, cả hai con đường này đều phải trải

qua giai đoạn chế biến sản phẩm rồi mới xuất khẩu. Phát triển công nghiệp chế biến

là một trong những giải pháp chủ động nhất để mở rộng thị trường cho ĐBSH. Phát

triển công nghiệp chế biến nông sản mới có thể làm dịu bớt sự tác động của tính

mùa vụ đối với sản xuất nông sản và do đó mới làm cho việc cung ứng nông sản

phẩm ăn khớp với nhịp điệu tiêu dùng vốn rất ít co dãn. Để kết hợp tốt giữa quy

hoạch phát triển nuôi trồng với công nghiệp chế biến của cả vùng, trên cơ sở yêu

cầu phát triển công nghiệp chế biến, uỷ ban nhân dân các tỉnh cần phối hợp với

nhau để quy hoạch vùng nguyên liệu chỉ đạo công tác giống để đảm bảo cho sản

phẩm đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường. Nếu quy hoạch phát triển tốt công nghiệp

chế biến sẽ góp phần ổn định sản xuất và thị trường nông sản chưa qua chế biến do

đó góp phần nâng cao thu nhập cho dân cư ĐBSH.

- Cần hình thành một tổ chức chính thức hoặc phi chính thức về xúc tiến thương

mại chung cho vùng. Do các địa phương ĐBSH có nhiều đặc điểm giống nhau, nếu

trong tỉnh phát triển một cách rời rạc, thiếu liên kết thì có thể các quyết định sản

xuất kinh doanh sẽ triệt tiêu lợi ích của nhau. Nhiệm vụ của tổ chức này là nắm chắc

thông tin về quy mô và cơ cấu. Nhu cầu thị trường và tìm kiếm thị trường cho các

sản phẩm tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp toàn vùng

- Thay đổi căn bản căn cứ quyết định cơ cấu hàng hoá tham gia thị trường từ khả

năng của vùng là chính sang yêu cầu thị trường là chính, tổ chức xúc tiến thương

mại có nhiệm vụ nắm rõ nhu cầu thị trường cả về số lượng và đặc tính. Ví dụ cũng

là thị trường gạo nhưng thị trường nào cần gạo gì, khối lượng bao nhiêu? Những

tiêu chuẩn về hàng hoá đó là gì? …Để từ đó mới đối chiếu khả năng về thổ nhưỡng,

khí hậu kỹ thuật canh tác, giống… hiện tại ở ĐBSH có thể sản xuất được sản phẩm

như vậy không? Đây là quy định sản xuất trên cơ sở đề cao vai trò của thị trường.

Để có một quyết định đúng đắn để chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá thì những

giải pháp liên quan đến kỹ thuật canh tác cũng là yếu tố có ý nghĩa. Nâng cao vai trò

của các trung tâm nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật canh tác thông qua hệ thống

khuyến nông.

- Hình thành hệ thống kênh phân phối có điều khiển mang tính chất toàn vùng.

Thực tế trong những năm qua có hiện tượng ùn tắc trong việc tiêu thụ các sản phẩm

của khu vực ĐBSH, đặc biệt là hiện tượng ùn tắc nông sản phẩm là do các kênh

phân phối mang tính chất tự phát. Mỗi kênh như vậy dễ bị phá vỡ trước những chao

đảo của thị trường, cần sớm hình thành các kênh phân phối có điều khiển. Muốn

như vậy phải có các hình thức liên kết hợp tác giữa các tổ chức sản xuất và tiêu thụ

thuộc các thành phần kinh tế. Đối với mô hình này cần có sự ưu tiên qua chính sách

vốn và tín dụng đầu tư thoả đáng cho việc hình thành hay xây dựng các chợ đầu

mối, các chợ trung tâm để khuyến khích ngoại tiêu với sản phẩm hành hoá của

vùng.

- Nâng cao quy mô sản xuất:

+ Đối với nông dân, đất đai như một thứ tài sản, một nguồn vốn được tích tụ lại,

việc chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp đòi hỏi phải có lượng vốn nhất

định mà bản thân đất đai như một trong những nguồn vốn đó, nó cần được chu

chuyển không nên coi đất đai như một nguồn phúc lợi công cộng để ban phát cho

mọi người như lâu nay để giải quyết vấn đề xã hội, chính trị hơn là vấn đề kinh tế,

nó tạo ra những đơn vị sản xuất có quy mô ngày càng nhỏ đi và có tính bình quân

hoá.

+ Thời gian sử dụng đất đai không nên quy định vì chính điều này phụ thuộc vào

chủ thể kinh doanh ruộng đất. Tạo sự “ chi chuyển” đất đai để hướng vào việc tăng

quy mô diện tích, quy mô canh tác của hộ và do đó tăng quy mô kinh tế cho hộ.

Việc giải quyết quan hệ ruộng đất theo cơ chế thị trường tuỳ thuộc vào khả năng

giải quyết việc làm cho dân cư nông thôn đặc biệt là việc làm phi nông nghiệp ( ở

những vùng đông dân) và còn tuỳ thuộc vào khả năng giải quyết những vấn đề xã

hội, trong đó có việc nâng cao khả năng thu nhập của một bộ phận dân cư vốn có

mức thu nhập thấp.

+ Việc nâng cao quy mô canh tác là con đường đơn giản nhất để nâng cao quy mô

sản xuất. Trên thực tế thì ở tất cả các nhóm hộ nghèo, nhóm hộ giàu, không chỉ

nhóm hộ thuần nông nghiệp mà ngay cả hộ hoạt động nông nghiệp kiêm ngành nghề

hoặc dịch vụ đất có nhu cầu nâng cao quy mô canh tác. Thực tế cũng cho thấy nhu

cầu chuyển nhượng ruộng đất của hộ nông dân cũng rất lớn đặc biệt là ở nhóm kiêm

ngành nghề hoặc kiêm dịch vụ.

Do vậy nhà nước cần tập chung hoàn thiện chính sách ruộng đất. Tích cực

chuyển đổi và tập chng hoá ruộng đất nhằm khắc phục tình trạng manh mún về

ruộng đất, tạo điều kiện áp dụng cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá và hiện đại hoá quy trình

gieo trồng chăm bón và thu hoạch lúa, màu, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông

nghiệp.

II- Những tác động trực tiếp kinh tế nộng hộ ĐBSH.

1. Xu hướng phát triển

1.1 Xu hướng thứ nhất :

Một bộ phân nông hộ sẽ trở thành các chủ thể sản xuất kinh doanh độc lập đó là

những hộ sản xuất hàng hoá lớn hình thành nên các trang trại chuyên trồng trọt ,

chăn nuôi hay sản xuất kinh doanh tổng hợp , đối với những hộ chuyên hộ kiêm

nghành sẽ mở rộng sản xuất cả về chiều rộng (quy mô, vốn ,lao động ..) và chiều

sâu ( đổi mới , thay thế , tiếp nhận kỹ thuật mới vào canh tác ).Cũng trong xu

hướng này một bộ phận của hộ tự cấp tự túc , sản xuất hàng hoá nhỏ chuyển sang

hộ sản xuất hàng hoá lớn .

1.2. Xu hướng thứ hai :

Một bộ phận nông hộ khác ngày càng gia tăng sự tích luỹ thiếu hụt do vậy sẽ trở

thành lao động làm thuê .Đây là xu hướng của nền kinh tế tự cấp tự túc chuyển

thành nền kinh tế hàng hoá chính vì vậy đây là xu hướng phát triển

Hai xu hướng này có hai mặt đối lập và thống nhất với nhau . Sự đối lập thể hiện :

Một bên là lao động làm thuê, một bên là chủ thể sản xuất . Sự thống nhất thể hiện

ở : Lao động làm thuê là tiền đề, là hình thức xã hội của sản xuất hàng hoá trên

quy mô lớn trái lại sự phát triển của sản xuất hàng hoá sẽ nảy sinh lao động làm

thuê .

Đứng trên giác độ kinh tế hàng hoá có ba loại nông hộ :

-Nông hộ loại A : Gồm tất cả những hộ sản xuất không đủ tiêu dùng , không có

khả năng tái sản xuất giản đơn .

-Nông hộ loại B : Tất cả những hộ sản xuất chỉ đủ tiêu dùng hoặc có một khối

lượng sản phẩm không đáng kể để bán.

-Nông hộ loại C : Bao gồm tất cả các hộ sản xuất chủ yếu để bán , là những hộ

sản xuất hàng hoá số hộ này chiếm khoảng 10% trong tổng số hộ ở nông thôn.

2. Giải pháp phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá .

2.1. Xu hướng phát triển nông hộ loại A:

Đó là quá trình tích luỹ sự thiếu hụt . Mối quan hệ duy nhất của nông hộ loại A tới

sản xuất hàng hoá chính là cung cấp lao động và đất đai . Tích luỹ sự thiếu hụt tương

đối là sự thiếu hụt ngày càng tăng về tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng sinh hoặt so với

mức tối thiểu cho sản xuất và sinh hoặt ở trong từng khu vực , chính vì vậy sự gia

tăng thu nhập không phản ánh xu thế chuyển sang sản xuất hàng hoá bởi vì tốc độ

tăng thu nhập tính theo đầu người của nông hộ loại A chậm hơn so với tốc độ tăng của

điều kiện sống tối thiểu –phản ánh xu hướng tích luỹ thiếu hụt một cách tương đối.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do độc canh cây lúa và chăn nuôi lợn, hai yếu tố

cấu thành cơ cấu kinh tế nông hộ loại A .Trước hết trồng lúa không mang lại hiệu quả

cao, giá thành lương thực không sát hợp với thực tế nếu tính cả chi phí của nhà nước

cho vấn đề sản xuất lương thực thì giá bán lúa lẽ ra phải gấp đôi giá thi trường . Mặt

khác hộ loại A là những hộ thiếu lương thực thường khi thu hoạch họ bán thóc và

mua lợn giống ,và phải bán lợn vào lúc giáp hạt vì họ không còn khả năng giải quyết

lương thực, thức ăn cho người và vật nuôi, thời điểm bán lợn giá thấp nhất phải mua

lương thực với giá cao nhất . Chăn nuôi trong điều kiện như vậy hầu hết các nông hộ

loại A bị lỗ và nó không tạo điều kiện cho trồng trọt phát triển mà còn kìm hãm sự

phát triển của nghành trồng trọt, ngay trong trồng lúa hiệu quả không cao mà nó còn

chặn lại quá trình tập trung đất đai. Có một nghịch lý nhỏ là một số hộ loại này vẫn có

sự tích luỹ nhỏ bé nhưng không phải từ thặng dư sản xuất mà là xâm phạm vào khẩu

phần lương thực tất yếu do vậy các nông hộ loại A vẫn không ngừng cung cấp cho xã

hội các thành viên phần lớn là suy dinh dưỡng , và không được học hành - Điều này

gây khó khăn trong việc chuyển thành lao động làm thuê đòi hỏi có sức khoẻ và trình

độ chuyên môn .

Như vậy đối với nông hộ loại A cần phá vỡ cơ cấu sản xuất không mang lại hiệu

quả đó bằng cách tạo điều kiện nông hộ loại A trở thành lao động làm thuê - giảm

sức ép từ lao động thừa (Cách này đối lập và tiến bộ hơn xu hướng quay về nền

kinh tế sinh tồn –chiếm hữu những gì có sẵn trong tự nhiên của nông hộ loại A).

Muốn xu hướng này diễn ra nhanh hơn thì phụ thuộc vào :

+ Sự hình thành các ông chủ có nhu cầu thuê lao động .

+ Sự “di chuyển” đất đai từ người này sang người khác .

+ Sự di chuyển dễ dành nhân khẩu từ địa phương này sang địa phương khác .

Trong ba yếu tố ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành lao động làm thuê thì yếu

tố thứ nhất có vai trò quan trọng nhất –Chủ thể có nhu cầu lao động làm thuê là

các làng nghề và các cụm , khu công nghiệp nhỏ ở nông thôn . Ví dụ :Trên phạm

vi toàn tỉnh Thái Bình các làng nghề trồng dâu, nuôi tằm đã thu hút trên 35.000 lao

độngvà đạt trên 900 tỷ đồng giá trị sản xuất hàng hoá, Nghề chế biến nông sản

thực phẩm thu hút gần 25.000lao động, giá trị sản xuất năm 1999 đạt xấp xỉ 300 tỷ

đồng.

Rõ ràng khi một người nào đó được thuê có nghĩa là là anh ta được bố trí vào vị trí

nhất định trong guồng máy phân công lao động mới (Guồng máy phân công theo

kiểu sản xuất hàng hoá ) ở đó lao động của anh ta trở thành lao động xã hội –lao

động sản xuất hàng hoá. Chính vì vậy họ có thu nhập cao hơn . ở Thuỷ Nguyên

(Hải Phòng ) ,thu nhập của người lao động làm nghề luôn cao hơn thu nhập bình

quân một lao động địa phương trong tháng .Thu nhập bình quân một LĐ trong các

doanh nghiệp làm nghề cao gấp 5,7 lần so với các hộ thuần nông . Còn tại làng

nghề đan tre Chính Mỹ thì thu nhập bình quân cho LĐ làm nghề cũng xấp xỉ

300nnghìn đồng/ tháng, gấp 2lần so với LĐ thuần nông.

Đối với yếu tố thứ hai đây chính là hình thức khắc phục được những tiêu cực trong

quản lý đất đai và có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng ruộng đất .Không thể

phủ nhận việc mua bán đất đai “ngầm” ở Miền Nam đã có tác dụng đối với sự mở

rộng tập chung đất đai trên quy mô lớn . Chính vì vậy xu hướng hình thành lao

động làm thuê ở Miền Nam rõ nết hơn và số lựơng cũng lớn hơn nhiều so với

Miền Bắc. Ngay cả ở nhóm hộ kiêm nghành ở ĐBSH cũng muốn giữ lại ruộng đất

do tâm lý “Nhỡ khi thất bát” . Sở dĩ họ chưa có điều kiện tách khỏi hẳn sản xuất

nông nghiệp để chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp. Một trong những nguyên

nhân chính là hộ thiếu vốn sản xuất , thu nhập từ hoạt động nghành nghề và dịch

vụ chưa đảm bảo độ để họ có thể bứt ra khỏi sản xuất nông nghiệp . Nếu như việc

lưu chuyển ruộng đất có thể đưa lại cho họ một lượng vốn nhất định thì có thể

chuyển được số hộ này sang các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp, đó chính là

lối thoát để tạo ra sự phân công lao động trong khu vực nông thôn . Việc cấp giấy

sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân đã góp phần khơi dậy tiềm năng thế

mạnh và chí hướng làm giàu , tạo tâm lý yên tâm đầu tư sản xuất , chính điều này

tạo thuận lợi cho hộ nông dân chuyển quyền sử dụng ruộng đất trên những mảnh

ruộng ở những cánh đồng khác nhau để gieo trồng những loại cây theo sở thích

của họ .

Xu hướng phát triển của đại bộ phận nông hộ loại A là trở thành lao động làm thuê

và đi kèm với đó là việc di chuyển đất đai từ người không biết canh tác sang

những người có trình độ và kỹ thuật canh tác và quá trình này phụ thuộc rất lớn

vào các chính sách của nhà nước ,như chính sách đất đai, vốn, tín dụng và quan

trọng hơn đó là sự hình thành các chủ thể có nhu cầu thuê lao động .

2.2 Giải pháp phát triển nông hộ loại A:

+ Từng bước quan tâm thoả đáng đến việc phát triển công nghiệp và dịch vụ trên

toàn vùng , đây là nhân tố có tính quyết định đối với việc thu hút , giải quyết việc

làm cho người lao động và là giải pháp có tính lâu dài .

+ Về công nghiệp –Phát triển công nghiệp thu hút lao động nông nghiệp , nông

thôn là nội dung của CNH, HĐHvà là xu thế phát triển tất yếu của nứơc ta trong

những năm tới .Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay của vùng ĐBSH phát triển

công nghiệp sẽ thu hút lao động nông thôn hạn chế , bởi vì thành thị cũng là nơi

dư thừa sức lao động , hơn nữa chất lượng nguồn lao động nông thôn thấp sự phù

hợp với LĐ công nghiệp sẽ kém hơn . Vì vậy phải nâng cao dân trí nông thôn .

Đặc biệt ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến : Chế biến hoa quả , chế

biến thịt , chế biến lương thực …tuỳ theo điều kiện tong vùng để xác định các loại

sản phẩm chế biến cụ thể.Cần xem xét bố trí lại các hệ thống xí nghiệp chế biến ,

tốt nhất là đưa về vùng nguyên liệu thực hiện phương châm lấy công nghiệp tác

động vào nông nghiệp .Tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản . Đồng thời

cũng cần đầu tư phát triển một số nghành công nghiệp không đòi hỏi đầu tư lớn

nhưng laị thu hút được nhiều lao động như công nghiệp may mặc, công nghiệp sản

xuất vật liệu xây dựng .

+Về tiểu thủ công nghiệp đây là giải pháp tạo việc làm ngay ở những vùng có

nghành nghề truyền thống như ở làng Đồng Kỵ (Từ Sơn, Bắc Ninh )- chuyên sản

xuất kinh doanh đồ gỗ, làng nghề chế biến lương thực - thực phẩm Minh Khai,

Làng dệt ở La Phù (Hoài Đức , Hà Tây) …Khuyến khích người dân khôi phục và

phát triển các nghành nghề thủ công truyền thống trong vùng như dệt, đan lát, thủ

công mỹ nghệ …

+Tiếp tục đổi mới chính sách ruộng đất tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai

hợp lý và hiệu quả .Thừa nhận hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ giao

ruộng đất cho hộ sử dụng ổn định lâu dài với năm quyền năng; chuyển nhượng ,

thừa kế, thế chấp cho thuê và chuyển đổi, tạo điều kiện cho người lao động gắn

với tư liệu sản xuất và sử dụng nó càng hiệu quả hơn.

+ Đổi mới chính sách tín dụng nông thôn tạo điều kiện cho người dân có đủ vốn

phát triển sản xuất kinh doanh .

- Tăng lượng vốn cho vay từng hộ, tăng thời hạn cho vay đối với cây ngắn ngày là

một năm, đối với cây dài ngày thời hạn là 5 năm.

- Việc thu nợ phải tiến hành sau thu hoạch một thời gian , không nên đòi nợ vào lúc

thu hoạch rộ

- Tiếp tục cải tiến phương thức cho vay, đảm bảo cho người nông dân vay vốn một

cách nhanh chóng và thuận tiện. Cần thiết phải mở rộng phạm vi cho vay không

nên bó hẹp ở phạm vi cây lúa như hiện nay, kết hợp với các địa phương các tổ

chức khuyến nông giúp đỡ hộ nông dân vay vốn sử dụng đúng mục đích và hiệu

quả .

- Đầu tư phát triển hệ thống các trường , các trung tâm dạy nghề tại địa phương .

Trước mắt, khi chúng ta chưa có đủ điều kiện (cơ sở vật chất , đội ngũ giáo viên ) thì

nhà nước nên cố gắng đầu tư để mỗi tỉnh có thể xây dựng được một cơ sở đào tạo

nghề có quy mô tương đối lớn tại thị xã, và một vài cơ sở có quy mô vừa tại những

huyện trọng điểm .

Chỉ có phát triển giáo dục và dạy nghề chúng ta mới hi vọng đào tạo ĐBSH một

nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH.

Nông hộ loại B

2.3. Xu hướng nông hộ loại B:

- Là những hộ sản xuất ra để tiêu dùng trực tiếp đó là sản xuất hàng hoá giản đơn-

đây là hình thức sản xuất hàng hoá ở trình độ thập Việc tạo ra sản phẩm được gọi

là hàng hoá trong sản xuất hàng hoá giản đơn chỉ là ngẫu nghiên, không phải mục

đích của người sản xuất .Phần sản phẩm dư thừa được trở thành hàng hoá chỉ là

ngấu nhiên .Kinh tế tự cấp tự túc rốt cuộc sẽ phải chuyển sang sản xuất hàng hoá.

Nghĩa là xu hướng phát triển của nông hộ loại B là sẽ chuyển sang sản xuất hàng

hoá.Nhưng thực tế hiện nay nông hộ loại B có xu hướng duy trì lâu dài kinh tế tự

cấp ,tự túc ,sở dĩ như vậy là xu hướng này bị qui định bởi một loạt các yếu tố.

Trước hết là mục đích sản xuất của nó : sản xuất ra tất cả những gì nhằm tự cấp

lương thực và thực phẩm mà không xét tới hiệu quả kinh tế với mục đích như vậy

sản xuất lương thực giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế nông hộ loại B .

Xét ở khía cạnh khác ta thấy rằng khả năng sản xuất hàng hoá của nông hộ loại B

là hoạt động trong nhiều lĩnh vực và do vậy có thể sử dụng được lợi thế so sánh

.Nhưng những hoạt động này luôn bị qui định bởi việc tập trung cho giải quyết

lương thực theo phương thức tự cấp tự túc và điều này cố nhiên lại chịu ảnh hưởng

của chính sách giải quyết lương thực của nhà nước.

Do đó để xu hướng nông hộ loại B phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá

nhanh hơn chính là việc khai thác lợi thế so sánh của từng vùng ,từng khu vực

.Thực tế trong những năm qua năng suất lúa ở ĐBSH liên tục tăng (năm1998 đạt

năng suất lúa trung bình 51,3 tạ/ha ) cao nhất so với cả nước. Bình quân lương

thực đạt 383,6 kg/người/năm. Rõ ràng đây là điều kiện thuận lợi để thay đổi cơ

cấu kinh tế theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi,đa dạng hoá ngành

nghề. Khi mà việc giải quyết lương thực không còn ý nghĩa quá lớn đối với nông

hộ loại B. Mặt khác do sức ép gia tăng về dân số đã khiến bình quân đất nông

nghiệp trên đầu người ở vùng ĐBSH ngày càng giảm sút. Chính ruộng đất ít đã

buộc người dân phải suy nghĩ tìm hướng làm ăn mới nhằm tăng hiệu quả kinh tế

trên một hecta canh tác-để khắc phục sự gia tăng dân số. Chính nhờ hai yếu tố đố

mà các loại cây, con có hiệu quả kinh tế đã loại cây lúa trên mảnh đất canh tác

mặc dù lúa có năng suất cao song kém hiêụ quả. Một ví dụ điển hình ở xã Mễ Sở

(huyện ChâuGiang-Hưng Yên). Nhờ chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng lúa sang

các loại cây ăn quả, cây hoa màu cây dược liệu, cây cảnh ( quất cảnh , quýt cảnh)

mà đã tạo ra sự tăng trưởng nhanh chóng về thu nhập : Năm 1995 lương thực bình

quân đầu người là 700kg , Năm 1996 là 900kg, năm 1997 là 1196kg) và đồng thời

cũng tăng hệ số sử dụng đất nên : Năm 1994 là 2,2 lần, năm1997 là 2,8lần và nếu

so với cả nước gấp 1,51 lần. Nhưng để nâng cao hiệu suất cây trồng hơn nữa họ

không đi sâu vào các loại cây ăn quả như táo quất, quýt mà phát triển một cách

hợp lý các cây trồng khác để lấy ngắn nuôi dài bằng cách trồng xen các loại cây

hương, dược liệu và diện tích này chiếm tới 30%, qua tiếp cận thị trường, họ đã

nhanh chóng thay đổi phương thức canh tác bằng cách nuôi cây ngắn ngày từ nửa

năm đến một năm sau đó bán quất cảnh với những loại cây nhỏ giá rẻ hơn nhưng

hiệu quả kinh tế lại cao hơn. Rõ ràng từ việc sản xuất tự cấp tự túc họ sản xuất

hàng hoá nhỏ chuyển sang hàng hoá lớn nông hộ loại B ngoaì việc khai thác tiềm

năng sẵn có còn gặp những khó khăn từ thị trường đầu ra cho sản phẩm của mình

. ở Phụng Thượng (Hà Tây) thay đổi cơ cấu vật nuôi bằng việc nuôi các con vật có

giá trị kinh tế cao: ếch , ba ba, kỳ đà, rắn. Nuôi một con rắn lãi 1,5-3 triệu đồng

bằng cấy 0.5-1 mẫu ruộng do vậy nhiều gia đình đã nuôi con đặc sản này. Để nghề

nuôi rắn phát triển cần phải đầu tư hơn nữa, nhưng lượng vốn cũng chỉ đáp ứng

nhu cầu vay của 30% của nhân dân . Tuy là một nghề đem lại hiệu quả kinh tế cao

song nghề nuôi rắn chứa nhiều rủi ro và nguy hiểm đến tính mạng con người và

phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường tiêu thụ (thị trường bên kia biên giới ). Ngoài ra

còn phải kể đến rủi ro vì dịch bệnh và do kinh nghiệm người nuôi rắn còn ít .Khi

thay đổi cơ cấu kinh tế ở nhóm hộ này gặp phải khó khăn về vốn , kỹ thuật sản

xuất với những cây con có giá trị kinh tế cao.

2.4 Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ loại B :

- Nhà nước cần phải xem xét lại chính sách lương thực như việc hoàn thiện hệ

thống thuỷ nông để giải quyết lương thực đã loại cây trông ở những thửa ruộng

cao có giá trị hơn cây lúa hay như ở ruộng trũng nuôi cá có lợi hơn, ở những vùng

nước lợ (Thái Bình ,Nam Định ) đã loại con tôm có giá trị kinh tế cao để thay bằng

cây lúa kém hiệu quả hơn .

- Coi trọng đào tạo theo hình thức truyền nghề , kinh nghiệm sản xuất kinh doanh

bằng lan toả

- Mở những lớp bồi dưỡng ngắn hạn do những trung tâm khuyến ngư để phổ biến

kiến thức tới những ngươì chủ sản xuất

- Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và các

tổ chức tín dụng nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các hộ vay: Như giảm các thủ tục

và lệ phí cho hồ sơ tín dụng. Đối với các chủ hộ nông dân –hình thức lập hồ sơ để

cho vay nhiều mùa vụ, trả nợ nhiều lần đơn giản hoá các thủ tục giấy tờ nhưng

phải đảm bảo tính pháp lý.

- Cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của nông hộ theo từng loại cây

trồng vật nuôi riêng, vay trung hạn nên có thời gian ân hạn hơp lý.

+ Phương thức cho vay :

- Mở rộng hoạt động tín dụng qua các tổ chức quần chúng như hội nông dân ,hội

phụ nữ, hội cựu chiến binh …Các tổ chức quần chúng đứng ra tín chấp cho các hộ

vay vốn, tuy nhiên cũng cần phải xem xét tới nhu cầu và khả năng thanh toán của

từng hộ tránh bảo lãnh tràn lan gây lãng phí, sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn .

- Cán bộ nhân viên tín dụng phải có trình độ chuyên môn cao, hiểu biêt rộng vì đối

tượng vay là các hộ nông dân mới sản xuất hàng hoá chỉ quen với nền sản xuất

nhỏ trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật thấp kém do vậy cán bộ nhân viên tín dụng

phải phấn đấu trở thành người bạn của chủ trang trại .

- Trên cơ sở quy hoạch phân vùng mà thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật

nuôi thích hợp cần phải sắp xếp các tổ chức hoạt động dịch vụ thành một mạng

lưới có trung tâm đầu mối, có sự phân công của lực lương tham gia (Nhà nước

,Hợp tác xã, Hộ gia đình )

- Hệ thống các hợp tác xã dịch vụ hoặc tổ dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp được tổ

chức tốt có tác dụng cung cấp vật tư nông nghiệp cần thiết cho các hộ nông dân và

tiêu thụ sản phẩm cho họ, hạn chế các hoạt dộng tự phát .

2.5 Xu hướng phát triển nông hộ loại C

- Thứ nhất : trên cơ sở phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Sự tác động này thúc đẩy

lẫn nhau phát triển vượt quá mức nhu cầu cần thiết, do vậy chuyển sang sản xuất

hàng hoá, nhưng sự phát triển tiếp theo của xu hướng này bị hạn chế do diện tích

canh tác có hạn, không có khả năng sản xuất trên quy mô lớn. Hộ này có xu hướng

chuyển sang sản xuất ngoài trồng lương thực nhưng bị hạn chế từ thị trường , và

đặc biệt gặp phải những đối thủ chuyên sản xuất kinh doanh về lĩnh vực này vì thế

các nông hộ loại này có xu hướng duy trì sản xuất hàng hoá nhỏ (Nông hộ loại B)

và nếu có chuyển hướng thì thực chất chỉ là mở rộng quy mô vốn có .

- Thứ hai : Từ bỏ sản xuất cây lương thực hay từ bỏ sản xuất lương thực là chủ yếu

để chuyển sang hẳn lĩnh vực sản xuất kinh doanh có lợi thế so sánh hơn. Đó là sự

ra đời của các hộ kiêm doanh , phi nông nghiệp. So với những hộ phát triển theo

xu hướng một thì những hộ phát triển theo xu hướng 2 có những điểm khác biệt cơ

bản điểm xuất phát trong cơ cấu kinh tế của họ bao giờ cũng là lĩnh vực có lợi thế

so sánh hơn, là lĩnh vực có hiệu quả kinh tế hơn .

- Thứ ba : Do sự hình thành các trung tâm công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế

biến nông sản, sự hình thành các đô thị hay do vị trí có các điều kiện phát triển

khác các nông hộ đã chuyển sang sản xuất hàng hoá .

Qua việc xem xét ba xu hướng phát triển chung của hộ ta thấy xu hướng thứ nhất bị

chi phối bởi lao động thừa và đất đai hạn hẹp, xu hướng thứ hai và ba do thị trường

quyết định.

2.6 Giải pháp sẩn xuất hàng hoá ở nông hộ loại C .

2.6.1 Giải pháp về lao động.

Đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH sẽ tạo điều kiện rút bớt lao động ra khỏi lĩnh vực

nông nghiệp, thì chính lực lượng lao động phải đáp ứng yêu cầu của hoạt động phi

nông nghiệp. Như vậy phải xây dựng chiến lược con người của thời kỳ CNH, HĐH .

Mục tiêu của chiến lược đó là giải phóng mạnh mẽ các hình thức lao động giản đơn

tạo thêm việc làm phi nông nghiệp ít đòi hỏi lao động kỹ thuật cao ngay tại địa bàn

nông thôn, điều tiết di chuyển lao động ồ ạt từ nông thôn ra thành thị. Phương châm

“li nông bất li hương’’ mới thực hiện được.

Các giải pháp cơ bản là:

+Một là : Tổ chức liên thông giữa các trung tâm đào tạo của từng tỉnh trong, từng

vùng . Muốn thế cần có kế hoạch đào tạo nghề trong từng tỉnh trên cơ sở đón trước

được nhu cầu sử dụng lao động trong tỉnhvà trong toàn vùng .

+ Hai là : Huy động các nguồn kinh phí cho đào tạo , phương châm cơ bản là kinh phí

cho đào tạo nghề sẽ do cơ sở sử dụng lao động và người dân trực tiếp được đào tạo

nghề đóng góp . Nhà nước cần hỗ trợ cho sự nghiệp đào tạo nghề tại các địa phương

như tạo điều kiện về cơ sở vật chất (đất đai, nhà xưởng chưa sử dụng ) cho việc dạy

nghề và thực tập nghề tại địa phương .

+ Ba là : phát triển các trung tâm dịch vụ đào tạo và hỗ trợ phát triển nông thôn .

Trong thời gian tới cần phát triển mạnh mẽ và rộng khắp một loại hình dưới dạng

trung tâm dịch vụ, đào taọ và hỗ trợ phát triển nông thôn trên nhiều lĩnh vực như tín

dụng , thương mại chuyển giao công nghệ trên phạm vi tỉnh , liên tỉnh và vùng cần có

các trung tâm đủ mạnh để hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội nông thôn .

+ Bốn là : tạo thêm việc làm mới bằng cách phát triển các làng nghề. ĐBSH là khu

vực có nhiều làng nghề truyền thống trong cả nước. Trong những năm qua, nhiều làng

nghề đã xuất hiện, thu hút một lực lượng lớn lao động đáng kể ở nông thôn, tạo ra một

khối lượng sản phẩm không nhỏ góp phần phát triển kinh tế – xã hội của vùng. Đây

chính là giải pháp cấp bách vầ cơ bản tạo việc làm tại chỗ ổ nông thôn .

+ Năm là : coi trọng đào tạo theo hình thức truyền nghề tại chỗ với đào tạo tại trường

lớp để gắn đào tạo với sử dụng và gắn việc chú trọng , nâng cao tay nghề với trang bị

kiến thức lý luận, nhận thức cho người lao động để thực hiện biện pháp này cần :

. Có chính sách ưu đãi cụ thể với những thợ bậc cao có đào tạo truyền nghề cho

người khác, lấy số lượng và chất lượng của số lao động truyền nghề làm tiêu chuẩn để

xét .

. Đối với các cơ sở sản xuất cần áp dụng hình thức giảm thuế hoặc ưu đãi cho

vay vốn nếu có tiến hành đào tạo lao động .

2.6.2 Giải pháp về vốn :

+Tiếp tục xác lập đúng vai trò kinh tế hộ trõng kinh doanh nông nghiệp , nhất là

trong bối cảnh phát triển kinh tế tran trại hiện nay . Cần tập chung đầu tư vốn tạo điều

kiện thuận lợi hơn nữa để cho các doanh nghiệp tư nhân này thực hiện sản xuất hàng

hoá .

+Xác định rõ vai trò , chức năng nhiệm vụ tín dụng chính sách và tín dụng thị trường

đối với tổ chức phục vụ phát triển khu vực kinh tế – xã hội nông thôn . Hệ thống ngân

hầng chính sách xã hội cần đáp ứng yêu cầu cho các chủ trang trại vay vốn ngắn hạn ,

trung và dài hạn , với thủ tục vay vốn gọn nhệ , phù hợp với trình độ và điều kiện của

chủ trang trại . Cho phép trang trại được dùng tài sản hình thành từ vốn vay, giá trị

quyền sử dụng đất để thế chấp khi vay vốn vượt hạn mức quy định .

+ H ình thành sử dụng quỹ đầu tư để hỗ trợ trang trại :

. Hỗ trợ một phần thiệt hại của hàng nông thuỷ sản do thiên tai, dịch bệnh hay đột

biến giá cả gây thiệt hại cho trang trại .

. Hỗ trợ một phần vốn đầu tư phát triển trang trại ở những vùng khó khăn và những

vùng quy hoạch phát triển trang trại tập chung .

. Hỗ trợ một phần lãi xuất tiền vay cho các chủ trang trại .

. Hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý và khoa học

cho các chủ trang trại .

+ Khuyến khích các trang trại tham gia thành viên quỹ tín dụng nhân dân. Ngoài

thành viên là các quỹ tín dụng cơ sở nên có các cơ chế để các trang trại được tham gia

như một pháp nhân kinh tế vào quỹ tín dụng khu vực .

+ Hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là NHNN & PTNT cần có chính sách

thông thoáng hơn đối với trang trại. Nhu cầu về vốn của trang trại ngày càng tăng

trong khi đó các chủ trang trại vẫn khó tiếp cận được với nguồn vốn, nguyên nhân cơ

bản vẫn là cơ chế cho vay :

. Cơ chế cho vay đối với kinh tế trang trại cần được nới lỏng hơn , đặc biệt là điều

kiện vay vốn của trang trại làm ăn có hiệu quả .Việc tăng mức cho vay không cần tài

sản thế chấp .

. Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức tín dụng trong việc cho vay của các ngân

hàng như : Cho phép các ngân hàng được chủ động lựa chọn tài sản được hình thành

từ vốn vay của trang trại làm tài sản thế chấp, trên cơ sở xem xét hiệu quả kinh tế và

khả năng trả nợ của trang trại mà ngân hàng được quyền quyết định có bảo đảm hay

không bảo đảm bằng tài sản để cho vay. Mở rộng việc cho các doanh nghiệp bảo lãnh

tiền vay đối với các trang trại có quan hệ liên kết kinh tế chặt chẽ với doanh nghiệp .

2.6.3 Giải pháp về đất đai :

+ Triển khai nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai .

+ Cần xác định thời hạn cho thuê đất một cách linh hoạt và phù hợp hơn nữa. Chính

sách quy định thuê đất không quá ba năm sẽ dẫn đến người thuê đất sẽ canh tác theo

kiểu bóc lột đất đai . Đậc biệt nó sẽ cản trở người sử dụng đất chuyển sang kinh doanh

những cây lâu năm có giá trị kinh tế cao hoặc đầu tư cải tạo đất thì không đủ thời gian

hoàn vốn .

+ Khi đã giao đất cho hộ nông dân và các tổ chức kinh tế sử dụng , vấn đề sử dụng có

hiệu quả là yêu cầu tối cao của họ, tránh những trường hợp vì lợi ích của từng đơn vị

mà việc sủ dụng đất vượt ra ngoài lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp (vùng ven đô

chuyển sang kinh doanh nhà ở… ).

+ Khẳng định việc giao quyền thừa kế chuyển nhượng ruộng đất cho nông đân là cần

thiết . Nhưng thừa kế , chuyển nhượng phải đảm bảo “ đúng mục đích đúng đối tượng

và tự nguyện’’ có sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền .

2.7 Giải pháp về khuyến nông .

Phương hướng hoạt động khuyến nông trong của từng tỉnh trong thời gian tới :

+Thúc đẩy sản xuất hàng hoá , nâng cao chất lượng các loại nông sản , thực phẩm để

phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu . Trung tâm khuyến nông cần đưa ra các giải pháp cụ

thể sau .

+ Tăng cường năng lực của hệ thống khuyến nông . Xây dựng và hướng dẫn thực hiện

có hiệu quả các trương trình, dự án khuyến nông của Trung Ương và tỉnh , chú trọng

dự án trọng điểm, có lợi thế tích cực phổ biến và chuyển giao tiến bộ nông lâm nghư

nghiệp cho nông dân, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho khuyến nông viên cơ sở ,

tăng cường cung cấp thông tin về thị trường giá cả, dự báo …đến người nông dân tích

cực liên doanh liên kết tạo ra mô hình liên kết bốn nhà nhằm gắn kết giữa: sản xuất –

chế biến- tiêu thụ sản phẩm .

+ Củng cố tổ chức khuyến nông từ tỉnh tới cơ sở : tập chung nâng cao trình độ cho

khuyến nông các cấp , đặc biệt là khuyến nông huyện cơ sở.Tập chung nâng cao trình

độ cho cán bộ khuyến nông các cấp , đặc biệt là khuyến nông viên cơ sở. Thường

xuyên củng cố bộ máy tổ chức nâng cao năng lực hoạt động khuyến nông .

+ Đổi mới cơ cấu trương trình khuyến nông :

. Xây dựng chương trình khuyến nông trọng điểm và tổng hợp nhưng sẽ chú trọng

tới các chương trình khuyến nông sau .

. Chương trình khuyến nông về cây lương thực, cây thực phẩm, hoặc cây cảnh ,

giống cây trồng vật nuôi và công nghệ giống vào sản xuất , cây nông nghiệp , cây ăn

quả, cây đặc sản trương trình về dịch chuyển cơ cấu cây sản xuất nông nghiệp, phát

triển chăn nuôi và xử lý chất thải .. .

+ Đổi mới cách triển khai chương trình dự án khuyến nông nhằm phù hợp với cây

trồng vật nuôi . Đối với chương trình dự án khuyến nông cây lương thực thì cần ổn

định từ ba đến năm năm và chú trọng đến cây lúa để bảo đảm an ninh lương thực và

các loại cây màu vụ đông phục vụ chăn nuôi . Chương trình khuyến nông rau, quả sẽ

xây dựng mô hình trồng rau an toàn , phát triển các loại rau cao cấp có giá trị kinh tế

cao; xây dựng quy hoạch đặc biệt ở vùng lân cận quanh các đô thị. Tổ chức các vườn

ươm giống tốt trong dân . Đối với chương trình khuyến nông , khuyến lâm thì xây

dựng mô hình sản xuất giống cây lâm nghiệp các loại cung cấp cho việc trồng rừng ,

xây dựng mô hình nông lâm kết hợp, khoanh vùng và làm giầu rừng tự nhiên , rừng

phòng hộ , rừng ngập mặn .Ngoài ra trong chương trình chăn nuôi sẽ chuyển giao kỹ

thuật chăn nuôi lợn ngoại với quy mô hộ và trang trại ; phát triển đàn bò ( tập chung

cải tạo đàn bò theo hướng zebu và hướng sữa hướng thịt ),và phát triển gia cầm chủ

yếu là gà, vịt, ngan .

Kết luận .

Phát triển sản xuất hàng hoá là tất yếu đối với xu hướng phát triển kinh tế hộ nông

dân . quá trình đó diễn ra nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào từng nhóm hộ :Hộ nông

nghiệp sản xuất hàng hoá, Hộ kiêm nghành ...

các hoạt động sản xuất của hộ nông dân cũng ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng .

Néu để cho quá trình đó diễn ra một cách tự phát thì nó không thể nhanh được mà nó

còn dẫn đến qúa trình phân hoá giàu nghèo ở nông thôn . sẽ ảnh hưởng rất lớn đến

chủ trương ,chính sách của đảng là CNH-HĐH nông nghiệp , nông thôn . Bởi vì

lựclượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn nói chung và ĐBSH nói riêng có

điểm xuất phát thấp lại mới thoát ra từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung, các quan hệ

sản xuất hàng hoá theo cơ ché thi trường mới đươc hình thành trong nông nghiệp .

Nhưng nếu chúng ta đưa ra được những giải pháp đồng bộ cụ thể thì sẽ giải quyết tốt

các quan hệ kinh tế trong nông nghiệp , nông thôn đẻ xây dựng nông thon ấm , no

hạnh phúc.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Giáo trình Kinh tế nông nghiệp . Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội 2004.

2. Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam. Nhầ xuất bản khoa học xã hội Hà Nội-1995

3. Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy Công nghiệp hoá , Hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn vùng Đồng Bằng Sông Hồng, Nxb Chính tri quốc gia , Hà Nội –2002.

4. Một số vấn đề đổi mới quan hệ quan hệ sở hữu đất đai . Nxb Chính trị quốc gia

Hà Nội- 1997

5. PGS.TS Nguyễn Xuân Nguyên : Khuynh hướng phân hoá hộ nông dân trong phát

triển sản xuất hàng hoá.Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội –1995

6. PGS.TS Nguyễn Văn Khánh : Biến đổi cơ cấu ruộng đất ở Đồng Bằng Sông Hồng

(Qua khảo sát một số làng xã). Nxb chính trị quốc gia Hà Nội - 2002

7. Tạp chí Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn : Số 2,3,4,6,7/2004

Mục lục

Lời nói đầu ............................................................................................................ 2

Phần I : Cơ cơ sở lý luận chung ........................................................................... 2

I- Sự cần thiết phải phát triển kinh tế hộ nông dân ......................................... 3

1. Xuất phát từ mục tiêu CNH (Công nghiệp hoá). HĐH (Hiện đại hoá) nông nghiệp

nông thôn ......................................................................................................... 3

2. Vai trò của kinh tế hộ. .................................................................................. 3

3. Từ thực tế những năm đổi mới . ................................................................... 4

II- Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản

xuất hàng hoá .................................................................................................... 4

1. Nhân tố tự nhiên : ........................................................................................ 4

2. Nhân tố kinh tế – xã hội ............................................................................... 5

III. Xu hướng phát triển kinh tế hộ . ................................................................ 5

Phần II: Thực trạng phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá ........ 7

I- Đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội của vùng ĐBSH. ..................................... 7

1. Đăc điểm tự nhiên vùng: .............................................................................. 7

1.1 Đặc điểm về xã hội . ............................................................................... 8

1.1.1 Dân số và lao động : ................................................................. 8

1.1.2 Cơ sở hạ tầng của vùng . .......................................................... 8

II- Vài nét về quy mô sản xuất kinh doanh . .................................................... 9

1. Đặc điểm lao động ..................................................................................... 9

2. Quy mô đất canh tác.................................................................................. 11

3. Thực trạng về vốn sản xuất kinh doanh. ..................................................... 14

4. Cơ cấu sản xuất kinh doanh : ................................................................... 15

5- Kết quả sản sản xuất hàng hoá. .................................................................. 17

6. Những tồn tại và khó khăn của kinh tế hộ trong quá trình phát triển theo hướng

sản xuất hàng hoá .......................................................................................... 19

6.1 Một số hạn chế của Hộ kiêm, chuyên nghành- nghề. ............................ 19

6.2 Các hộ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp ................................... 20

Phần III : Giải pháp phát triển kinh tế hộ ......................................................... 21

theo hướng sản xuất hàng hoá ở ......................................................................... 21

Đồng bằng sông Hồng . ....................................................................................... 21

I. Những tác động gián tiếp để phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng

hoá: ................................................................................................................... 21

1. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn ............................................................. 21

1.1--Xây dựng hệ thống giao thông nông thôn đáp ứng sản xuất nông nghiệp hàng

hoá. ............................................................................................................ 21

1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống lưới điện nông thôn. ....................... 22

1.3. Cần tiếp tục nâng cấp các công trình thuỷ lợi trong vùng. .................... 23

1.4 Cần kiện toàn và nâng cao năng lực của các trạm trại nghiên cứu khoa học và

ứng dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp. ................................................. 24

2. Phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ................................................. 25

3. Nâng cao chất lượng dịch vụ trong nông nghiệp........................................ 25

4. Mở rộng thị trường cho sản xuất kinh doanh ở ĐBSH. ĐBSH cần chú trọng cả thị

trường nội địa và thị trường quốc tế. .............................................................. 28

II- Những tác động trực tiếp kinh tế nộng hộ ĐBSH. ................................... 31

1. Xu hướng phát triển ................................................................................... 31

1.1 Xu hướng thứ nhất : ............................................................................. 31

1.2. Xu hướng thứ hai :............................................................................... 31

2. Giải pháp phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá . .................. 32

2.1. Xu hướng phát triển nông hộ loại A:.................................................... 32

2.2 Giải pháp phát triển nông hộ loại A: ..................................................... 34

2.3. Xu hướng nông hộ loại B: ................................................................... 35

2.4 Giải pháp phát triển kinh tế nông hộ loại B : ........................................ 37

2.5 Xu hướng phát triển nông hộ loại C .................................................... 38

2.6 Giải pháp sẩn xuất hàng hoá ở nông hộ loại C . .................................... 39

2.6.1 Giải pháp về lao động. ............................................................ 39

2.6.2 Giải pháp về vốn : .................................................................. 40

2.6.3 Giải pháp về đất đai : ............................................................. 41

2.7 Giải pháp về khuyến nông . ................................................................. 42

Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................. 44