intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Chia sẻ: Comam1902 Comam1902 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

101
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của khoa Nghệ thuật trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong tình hình hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật…<br /> <br /> HNUE JOURNAL OF SCIENCE<br /> Educational Sciences, 2018, Vol. 63, Iss. 2, pp. 188-195<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0018<br /> <br /> PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC<br /> CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH SƯ PHẠM MĨ THUẬT<br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI<br /> <br /> Nguyễn Thu Tuấn<br /> Khoa Nghệ thuật, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Tóm tắt: Trong xu thế hội nhập giáo dục quốc tế hiện nay, việc tiếp cận và phát triển năng<br /> lực học tập và năng lực nghiên cứu khoa học của sinh viên là rất cần thiết. Sinh viên chuyên<br /> ngành Sư phạm Mĩ thuật mai sau trở thành giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thuật trong các<br /> trường phổ thông. Do đó, bên cạnh hoạt động học tập, sinh viên cần tự rèn luyện và nâng cao<br /> các kĩ năng của nhà khoa học tương lai để phát hiện, tìm hiểu, nghiên cứu bản chất các vấn<br /> đề về nghệ thuật, về giáo dục nghệ thuật nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy của mình.<br /> Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài báo đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực<br /> nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật, góp phần nâng cao chất<br /> lượng dạy và học của khoa Nghệ thuật trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong tình hình hiện nay.<br /> Từ khóa: Năng lực nghiên cứu khoa học; chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật; sinh viên Mĩ<br /> thuật.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Đào tạo (ĐT) và nghiên cứu khoa học (NCKH) là hai nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của các<br /> trường đại học (ĐH). Tuy nhiên, khác với hoạt động ĐT, hoạt động NCKH thường chỉ được sinh<br /> viên (SV) biết đến khi các em bước vào môi trường giảng đường. Nếu như người thầy đồng thời<br /> vừa giảng dạy, vừa NCKH thì SV cũng cần phải học tập và kết hợp NCKH. Vì vậy, việc tiếp cận<br /> và phát triển năng lực (NL) học tập và NL NCKH của SV là rất cần thiết và cấp bách, phù hợp<br /> với yêu cầu đổi mới giáo dục (GD) ở nước ta hiện nay. Hoạt động này sẽ giúp SV dần tiếp cận,<br /> làm quen với phương pháp, kĩ năng nghiên cứu, rèn luyện tư duy logic, khoa học, kích thích sự<br /> hứng thú tìm tòi, sáng tạo ra những tri thức khoa học mới, khám phá bản chất và các quy luật vận<br /> động của tự nhiên, xã hội [1, 2]. Chính vì vậy, tập trung ĐT nguồn nhân lực chất lượng cao và<br /> chú trọng tới hoạt động NCKH đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội là một chủ trương đúng đắn<br /> nhằm góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt<br /> Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện GD và ĐT thì<br /> hoạt động NCKH càng trở nên hết sức quan trọng và cần thiết [3, 4].<br /> - Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động NCKH, từ nhiều năm qua, trường Đại học Sư<br /> phạm Hà Nội (ĐHSPHN) thường xuyên coi trọng, tổ chức có nề nếp hoạt động NCKH của SV.<br /> Ngày nhận bài: 28/5/2017. Ngày chỉnh sửa: 09/08/2017. Ngày nhận đăng: 12/08/2017.<br /> Tác giả liên hệ: Nguyễn Thu Tuấn, e-mail: thutuan.dhsphn@gmail.com<br /> <br /> 188<br /> <br /> Nguyễn Thu Tuấn<br /> <br /> Nhà trường luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho SV trong công tác NCKH, do đó thành tích<br /> NCKH của SV ngày càng được nâng cao. Hằng năm, các Hội nghị SV NCKH cấp Khoa, cấp<br /> Trường được tổ chức đều đặn, tạo một môi trường học thuật sôi nổi, góp phần quan trọng nâng<br /> cao chất lượng ĐT của nhà trường, biến quá trình ĐT thành quá trình tự ĐT và hình thành tư duy<br /> nghiên cứu ở SV. Trong điều kiện đổi mới căn bản và toàn diện GD, trong đó có GD đại học<br /> (ĐH) hội nhập vào nền GD ĐH khu vực và thế giới thì hoạt động NCKH của SV đã thực sự trở<br /> thành một tâm điểm trong công tác ĐT của nhà trường. Nhiều công trình khoa học xuất sắc của<br /> SV đã đoạt giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt Nam, giải thưởng SV NCKH cấp Bộ [5]. Tham<br /> gia NCKH là cơ hội để SV tìm hiểu sâu kiến thức chuyên ngành, vận dụng kiến thức được học<br /> trên giảng đường vào các vấn đề của thực tiễn, tự rèn luyện và nâng cao các kĩ năng của nhà khoa<br /> học tương lai, được làm việc và học tập tác phong, kinh nghiệm làm khoa học thông qua cán bộ,<br /> giảng viên hướng dẫn… Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng ĐT của nhà trường, đáp ứng yêu<br /> cầu chất lượng nguồn nhân lực trong thời kì mới [6]. Chính từ hoạt động NCKH này, các SV của<br /> trường đã từng bước trưởng thành và có thêm động lực vững bước trên chặng đường NCKH tiếp<br /> theo, nhiều SV đã trở thành các nhà khoa học trẻ tài năng, đóng góp xuất sắc trên nhiều lĩnh vực<br /> khoa học, kĩ thuật, công nghệ, được xã hội ghi nhận và tôn vinh. Nhiều SV tốt nghiệp từ trường<br /> ĐHSPHN không chỉ trở thành giáo viên (GV) giỏi mà còn trở thành các nhà NCKH giàu tiềm<br /> năng. Qua đó góp phần khẳng định vị thế và uy tín của trường ĐHSP trọng điểm đầu ngành của<br /> cả nước.<br /> - SV chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật (SPMT) là những người được ĐT chuyên nghiệp để sau<br /> này trở thành GV Mĩ thuật ở trường phổ thông hoặc trở thành giảng viên Mĩ thuật ở một số<br /> trường/khoa sư phạm. Để góp phần nâng cao chất lượng GD phổ thông, đối với SV chuyên<br /> ngành SPMT, bên cạnh hoạt động học tập, họ cần phải NCKH để phát hiện, tìm hiểu, nghiên cứu<br /> bản chất các vấn đề về nghệ thuật, về GD nghệ thuật nhằm phục vụ tốt cho công tác giảng dạy<br /> sau này của mình. Vì vậy, SV Mĩ thuật phải được ĐT, bồi dưỡng để phát triển đầy đủ các phẩm<br /> chất, NL nghề nghiệp của người GV trường phổ thông – trong đó có NL NCKH. Trong Quy định<br /> Chuẩn nghề nghiệp GV THCS, THPT được ban hành theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT<br /> ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã xác định rõ các NL NCKH của GV phổ thông<br /> (được quy định cụ thể ở các tiêu chí số 6, số 7 và số 25) [7]. Với quy định này, đòi hỏi các cơ sở<br /> ĐT GV (trong đó có khoa Nghệ thuật của trường ĐHSPHN) cần phải quan tâm, bồi dưỡng để<br /> phát triển NL NCKH cho SV chuyên ngành SPMT. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích vượt<br /> trội của SV trường ĐHSPHN đạt được như trên, trong nhiều năm qua, do nhiều nguyên nhân chủ<br /> quan và khách quan, hoạt động NCKH của SV khoa Nghệ thuật còn bộc lộ quá nhiều hạn chế và<br /> bất cập, cần sớm khắc phục. Vì vậy, việc đánh giá thực trạng hoạt động NCKH của SV chuyên<br /> ngành SPMT trường ĐHSPHN để đề xuất các giải pháp nhằm phát triển NL NCKH cho SV, góp<br /> phần nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học của khoa Nghệ thuật trong bối cảnh mới hiện nay<br /> là rất cần thiết và cấp bách, cần được ưu tiên triển khai thực hiện.<br /> <br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên chuyên ngành Sư<br /> phạm Mĩ thuật khoa Nghệ thuật<br /> <br /> 189<br /> <br /> Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật…<br /> <br /> Điều tra khảo sát trên đối tượng giảng viên và SV chuyên ngành SPMT của khoa Nghệ thuật<br /> trường ĐHSPHN, chúng tôi nhận thấy thực trạng yếu kém về NL NCKH có ở hầu hết các SV của<br /> khoa. Thực trạng đó thể hiện ở những nội dung sau đây:<br /> - Nhiều năm qua, lãnh đạo khoa chưa sâu sát chỉ đạo chặt chẽ để xây dựng kế hoạch hoạt động<br /> khoa học và công nghệ trong đơn vị - trong đó có hoạt động NCKH của SV, vì thế việc triển khai<br /> thực hiện kế hoạch hoạt động NCKH của SV chưa kịp thời.<br /> - Một số giảng viên chưa nhận thức đúng về nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong việc<br /> hướng dẫn SV NCKH.<br /> - Không ít SV của khoa chưa thấu suốt đầy đủ được vị trí, tầm quan trọng của NCKH đối với<br /> sự phát triển của bản thân; thiếu tự giác, chưa tích cực, thậm chí còn đặt nhiệm vụ NCKH ở hàng<br /> thứ yếu (vì bị bắt buộc nên phải tham gia NCKH).<br /> - Nhiều SV năm cuối còn chưa có ý tưởng nghiên cứu, các em không biết mình có thể nghiên<br /> cứu cái gì và cái gì có thể được nghiên cứu. Có SV khi phải làm NCKH không biết bắt đầu từ<br /> đâu, chưa biết diễn giải vấn đề mà mình quan tâm, chưa biết xây dựng cấu trúc đề cương nghiên<br /> cứu của một tiểu luận, một bài báo khoa học, một khóa luận tốt nghiệp như thế nào. Đặc biệt là kĩ<br /> năng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kĩ năng trình bày diễn đạt của SV còn rất lúng túng.<br /> Vì vậy, chất lượng các khóa luận tốt nghiệp, các công trình nghiên cứu của SV trong khoa nhìn<br /> chung là yếu; một số đề tài lặp đi lặp lại nhiều lần qua các khóa học, tạo nên sự đơn điệu, nhàm<br /> chán. Tính ứng dụng của các đề tài còn thấp, nhất là trong lĩnh vực dạy và học của chuyên ngành<br /> SPMT.<br /> - Một số SV có khả năng học tốt các môn học thực hành (như: Hình họa, Trang trí, Bố cục…)<br /> nhưng khi bắt tay vào làm đề tài NCKH cũng rất lúng túng, bộc lộ nhiều hạn chế vì các em không<br /> nắm được những kiến thức, kĩ năng cơ bản trong NCKH, không nắm được cách tiếp cận vấn đề<br /> nghiên cứu, hướng nghiên cứu, cách xác định đề tài nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu v.v…<br /> - Một hạn chế không thể không nhắc tới, đó là tình trạng chung của SV hiện nay (trong đó SV<br /> chuyên ngành SPMT không nằm ngoại lệ) đến năm cuối của khóa học, khi làm khóa luận tốt<br /> nghiệp, SV ít chịu tham khảo các tài liệu khoa học hoặc tham khảo các khóa luận, luận văn của<br /> SV những khóa trước có cùng hướng nghiên cứu với đề tài của mình để giúp ích cho việc triển<br /> khai thực hiện nghiên cứu được thuận lợi và có hiệu quả [8]. Với sự hiểu biết về NCKH vốn đã<br /> hạn hẹp như vậy, cộng thêm nhận thức và ý thức kém trong việc tra cứu tài liệu tham khảo như<br /> thế, nhiều SV của khoa Nghệ thuật đã gặp không ít khó khăn khi làm khóa luận tốt nghiệp.<br /> <br /> 2.2. Giải pháp nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành<br /> Sư phạm Mĩ thuật, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào hiện nay<br /> Căn cứ vào tình hình thực tiễn hoạt động NCKH của SV khoa Nghệ thuật trường ĐHSPHN<br /> hiện nay, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau đây nhằm nâng cao NL NCKH cho SV chuyên<br /> ngành SPMT, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của khoa:<br /> 2.2.1. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Ban chủ nhiệm khoa<br /> - BCN khoa Nghệ thuật cần xây dựng, triển khai tốt kế hoạch hoạt động NCKH của SV. Xây<br /> dựng các đề án tăng cường NL NCKH cho đội ngũ giảng viên và SV của khoa. Ngoài ra, cũng<br /> cần thay đổi các phương pháp và hình thức thực hiện. Cụ thể là: cần chú trọng giới thiệu lợi ích<br /> và thành quả NCKH mang tính ứng dụng thực tiễn cao của SV khoa mình (có thể tổ chức công<br /> 190<br /> <br /> Nguyễn Thu Tuấn<br /> <br /> bố theo nhiều hình thức khác nhau như: quảng bá trên web của khoa, trên mạng xã hội, trên các<br /> diễn đàn; trao đổi dưới dạng trực tuyến; gắn kết NCKH với những điều SV thường quan tâm;<br /> thành lập câu lạc bộ những SV yêu thích NCKH để nhân điển hình trong toàn khoa…). Từ đó,<br /> khơi dậy trong SV của khoa một chân trời mới về khoa học, hứa hẹn nhiều đam mê thú vị trong<br /> hoạt động NCKH của SV.<br /> - Cần đổi mới cơ chế quản lí, đổi mới cơ chế đánh giá, chỉ đạo sát sao hoạt động NCKH của<br /> giảng viên và SV để đảm bảo cho hoạt động NCKH diễn ra đúng thực chất và mang lại hiệu quả<br /> thực sự cho công tác dạy và học của khoa, của trường. BCN khoa cần triển khai kịp thời những<br /> nội dung trong các công văn hướng dẫn hoạt động NCKH của nhà trường đến tất cả cán bộ, giảng<br /> viên, SV để 100% SV được tham gia các hoạt động NCKH theo quy định của trường.<br /> - Cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động học tập với NCKH: Trong quá trình dạy học<br /> (DH), các giảng viên cần tăng cường tổ chức cho SV làm các bài tập lớn, tiểu luận, đổi mới<br /> phương pháp dạy học ở ĐH theo hướng tăng cường hoạt động tự nghiên cứu của SV để giúp SV<br /> sớm làm quen với hoạt động NCKH.<br /> - Cần đề cao trách nhiệm của người giảng viên trong quá trình hướng dẫn SV NCKH. Rất cần<br /> thiết phải có chế tài thực hiện nghiêm túc thì công tác này mới thực sự đạt hiệu quả cao.<br /> - Cần chú trọng công tác thông tin về sản phẩm NCKH của SV nhằm tạo cho SV có cơ hội<br /> được tiếp cận, nghiên cứu các sản phẩm thực tế; giúp SV định hướng và lựa chọn đề tài nghiên<br /> cứu phù hợp với khả năng của bản thân và phù hợp với đặc thù ĐT chuyên ngành SPMT.<br /> - Cần có chế độ khen thưởng kịp thời, thiết thực cho những SV tích cực tham gia NCKH và có<br /> thành tích cao trong NCKH - đây là cơ sở để khích lệ, kích thích tính tích cực, say mê NCKH của<br /> SV, làm cho các em thêm phấn khởi và yên tâm tham gia các hoạt động NCKH, từ đó có tác<br /> dụng thúc đẩy và nâng cao chất lượng hoạt động NCKH và phát triển NL NCKH của SV trong<br /> toàn khoa.<br /> 2.2.2. Nâng cao nhận thức của sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật về vị trí, vai trò<br /> và tác dụng của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với quá trình học tập tại trường<br /> Hoạt động NCKH đã và đang mang lại những lợi ích không thể phủ nhận cho SV. Hoạt động<br /> này đã trở thành một hình thức hỗ trợ học tập có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng ĐT, rèn<br /> luyện chuyên môn, qua đó góp phần hoàn thiện các NL cần có của một nhà sư phạm, một nhà<br /> khoa học trong tương lai, đáp ứng ngày càng tốt hơn những đòi hỏi của xã hội hiện đại.<br /> Đối với SV chuyên ngành SPMT, muốn làm NCKH tốt phải có được những kiến thức và kĩ<br /> năng cơ bản về NCKH (như: phương pháp sư tầm, tập hợp tư liệu, khả năng tổng hợp, phân tích,<br /> diễn giải vấn đề, biết so sánh, giám định các loại tài liệu…) để trên cơ sở đó hiểu được bản chất<br /> và hiểu đúng các nội dung nghiên cứu. Ngoài ra, SV SPMT còn phải có những kĩ năng khác như<br /> vẽ hình minh họa, vẽ sơ đồ, biểu đồ, đồ thị… Chính những kĩ năng đó đã giúp họ trưởng thành từ<br /> NCKH, và sau này khi ra trường, họ có thể hướng dẫn một cách thuần thục cho HS ở trường phổ<br /> thông [9].<br /> Để khuyến khích, tạo động lực cho SV SPMT tham gia NCKH, trước hết phải nâng cao nhận<br /> thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của hoạt động này cho SV. Phải làm cho mỗi SV hiểu rõ NCKH là<br /> một hoạt động quan trọng của quá trình học tập, giúp SV hoàn thành tốt chương trình ĐT trong<br /> nhà trường. Mặt khác, nó còn giúp SV hiểu rõ khả năng của mình khi tham gia NCKH, từ đó SV<br /> có thái độ tích cực, tự giác tham gia NCKH.<br /> 191<br /> <br /> Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên chuyên ngành Sư phạm Mĩ thuật…<br /> <br /> Để giải pháp này có tính khả thi, BCN khoa Nghệ thuật cần thực hiện tốt công tác tuyên<br /> truyền, GD để làm chuyển biến mạnh mẽ tư tưởng, nhận thức của SV về hoạt động NCKH, làm<br /> sao để mọi SV trong toàn khoa nhận thức được rằng học tập và NCKH đều rất quan trọng và có<br /> mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau. Tham gia NCKH không chỉ là “phong trào” mà còn là<br /> hoạt động tự ĐT hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng học tập của mỗi SV. Cùng với đó, Đoàn<br /> thanh niên và Hội SV cần phải có những hoạt động thúc đẩy tuyên truyền, đưa các thông tin về<br /> NCKH đến gần hơn nữa với SV, làm cho mỗi SV đều tự ý thức được tầm quan trọng của NCKH<br /> và NCKH không phải là một hoạt động xa vời, mà rất thiết thực với chính bản thân SV [10].<br /> 2.2.3. Trang bị cho sinh viên lí thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực<br /> giáo dục<br /> Việc trang bị cho SV chuyên ngành SPMT lí thuyết về phương pháp NCKH thuộc lĩnh vực<br /> GD nghệ thuật sẽ giúp họ nắm được các cơ chế sáng tạo nói chung và trong lĩnh vực GD nghệ<br /> thuật nói riêng, cũng như các quan điểm tiếp cận đối tượng nghiên cứu thuộc lĩnh vực này và<br /> nắm được logic tiến hành nghiên cứu một công trình khoa học thuộc lĩnh vực GD nghệ thuật, từ<br /> đó giúp SV SPMT tránh được sự mò mẫm và sai lầm có thể mắc phải trong quá trình nghiên cứu.<br /> 2.2.4. Trang bị cho sinh viên các kĩ năng nghiên cứu khoa học<br /> Các kĩ năng trong NCKH là phương pháp thu thập, xử lý thông tin; phương pháp khảo sát,<br /> điều tra, phỏng vấn, điền dã; cách xây dựng giả thuyết khoa học; cách đọc tài liệu tham khảo để<br /> tìm và phát hiện vấn đề; cách trình bày đề cương của một tiểu luận, khóa luận, bài viết khoa học,<br /> chuyên khảo khoa học; cách viết tiểu kết, kết luận; cách trình bày phụ lục; cách hành văn theo<br /> văn phong khoa học v.v… Tất các các yếu tố đó tổng hợp lại thành kĩ năng NCKH của một người<br /> nghiên cứu, giúp họ trong quá trình thực hiện đề tài.<br /> Đối với các SV nói chung và SV chuyên ngành SPMT nói riêng, các em thường rất lúng túng<br /> khi NCKH vì chưa có kiến thức nền vững chắc và những thao tác chuẩn xác trong NCKH. Vì<br /> vậy, người thầy cần trang bị cho SV những kiến thức và kĩ năng cơ bản về NCKH để SV hiểu<br /> được bản chất của NCKH và những vấn đề xung quanh NCKH. Theo các chuyên gia về lĩnh vực<br /> NCKH, nếu một người làm NCKH nắm chắc các kiến thức, các kĩ năng cơ bản trong nghiên cứu<br /> thì người đó chắc chắn sẽ thành công. Điều đó cho thấy kiến thức và kĩ năng nghiên cứu là chìa<br /> khóa để đạt tới hiệu quả cao trong NCKH. Tuy nhiên, kiến thức và kĩ năng NCKH của mỗi người<br /> phải được tích lũy, rèn luyện thường xuyên qua nhiều năm tháng.<br /> Chuyên ngành SPMT rất cần những công trình NCKH đi sâu vào các vấn đề về nghệ thuật, về<br /> GD nghệ thuật. Không ai khác, chính SV SPMT là lực lượng nòng cốt trong những nghiên cứu<br /> này, bởi họ sẽ là những GV Mĩ thuật trong tương lai, góp phần tạo nguồn năng khiếu nghệ thuật<br /> từ môi trường GD phổ thông. Chúng tôi cho rằng, nếu SV chuyên ngành SPMT có năng lực<br /> NCKH tốt thì chắc chắn sau này khi đứng trên bục giảng, họ sẽ rất tự tin và làm chủ được những<br /> kiến thức mà họ đã được học, từ đó có phương pháp và hình thức tổ chức DH đúng đắn để truyền<br /> đạt chuẩn xác những kiến thức về Mĩ thuật cho các thế hệ HS phổ thông.<br /> 2.2.5. Tổ chức cho sinh viên thực hiện những bài tập nhỏ, bài tập lớn, tiểu luận ở các môn<br /> học lí thuyết chuyên ngành<br /> Muốn SV SPMT có kiến thức về NCKH, có kĩ năng chuẩn xác trong nghiên cứu thì ngay từ<br /> những năm học đầu, giảng viên nên lồng ghép NCKH vào các môn học lí thuyết chuyên ngành để<br /> SV có điều kiện tiếp cận và làm quen sớm hơn với NCKH. Theo đó, SV có thể lồng ghép NCKH<br /> thông qua các môn học như: Lịch sử Mĩ thuật Việt Nam, Lịch sử Mĩ thuật thế giới, Mỹ học, Mĩ<br /> 192<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2