Phát triển năng lực tự học cho sinh viên lào ngành công nghệ thông tin tại trường Đại học Hùng Vương trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
lượt xem 3
download
Bài viết Phát triển năng lực tự học cho sinh viên lào ngành công nghệ thông tin tại trường Đại học Hùng Vương trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trình bày thực trạng tự học và một số biện pháp phát triển năng lực tự học cho sinh viên Lào ngành công nghệ thông tin tại trường Đại học Hùng Vương.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phát triển năng lực tự học cho sinh viên lào ngành công nghệ thông tin tại trường Đại học Hùng Vương trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
- PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN LÀO NGÀNH CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Nguyễn Thị Hảo1 Nguyễn Kiên Trung2 Tóm tắt: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng công nghiệp 4.0) đang ảnh hưởng trực tiếp đến từng cá thể, gia đình, doanh nghiệp và đặc biệt chịu ảnh hưởng lớn nhất chính là môi trường giáo dục. Trong cuộc cách mạng này đòi hỏi con người càng phải năng động hơn, phải chủ động học hỏi không ngừng, đón đầu xu hướng, thậm chí sáng tạo ra xu hướng. Mỗi sinh viên cần phải phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu để bắt nhịp với xu thế. Trong bài viết này, nhóm tác giả trình bày thực trạng tự học và một số biện pháp phát triển năng lực tự học cho sinh viên Lào ngành công nghệ thông tin tại trường Đại học Hùng Vương. Từ khóa: Năng lực, Tự học, Năng lực tự học, Cách mạng công nghiệp 4.0. 1. Mở đầu Trong bối cảnh toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, thế giới ngày nay đang thay đổi rất nhanh chóng về mọi mặt, nhiều tri thức vừa ra đời chưa bao lâu đã nhanh chóng trở nên lạc hậu và con người không ngừng tìm tòi, phát hiện ra những tri thức mới để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Theo đó, lí luận dạy học hiện đại chỉ rõ người thầy từ nhiệm vụ truyền thụ tri thức chuyển sang làm nhiệm vụ định hướng, tổ chức, dạy cách học cho người học. Người học phải chủ động, tích cực chiếm lĩnh tri thức. Vai trò của tự học là rất quan trọng: Tự học là chìa khóa vàng càng cần được mài sáng thêm trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta thế kỉ XXI. Nhiệm vụ dạy học hiện nay là: Dạy cho thanh niên học nắm lấy kiến thức một cách tự lực. Như vậy, rõ ràng là tự học, là đòi hỏi tất yếu khách quan không thể thiếu được trong quá trình học tập [2]. Phải tạo cho người học có thói quen tự học thường xuyên, tự học suốt đời để đáp ứng những đòi hỏi của công việc trong tương lai. Hiện tại, trường Đại học Hùng Vương (ĐHHV) đào tạo các ngành bao gồm cả sinh viên (SV) Việt Nam và SV quốc tế. SV học tập tại trường được quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất để nghiên cứu, sáng tạo đặc biệt với các em SV Lào. “Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ” của Bộ Giáo dục & Đào tạo đã quy quy định rõ: “Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân”. Mặt khác, hiện tại ngành Công nghệ 1 ThS, Trường Đại học Hùng Vương (Phú Thọ) 2 ThS, Trường Đại học Hùng Vương (Phú Thọ) 31
- Phát triển năng lực tự học cho sinh viên Lào... thông tin (CNTT) được đào tạo theo cơ chế đặc thù, ít nhất 30% thời lượng học tập của SV được đào tạo tại doanh nghiệp [4] do đó, SV phải có năng lực tự học (NLTH) và mang tính bắt buộc mới có thể bắt kịp được tiến độ chương trình. Các phương pháp được nhóm tác giả sử dụng trong nghiên cứu này là: Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, phương pháp xử lý số liệu bằng phần mềm bảng tính Microsoft Excel; phương pháp phỏng vấn sâu. 2. Nội dung 2.1. Một số khái niệm 2.1.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) xuất phát từ khái niệm “Industrie 4.0” trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2013, được đề cập lần đầu tiên và cũng là chủ đề của diễn đàn kinh tế thế giới lần thứ 46 tổ chức ngày 20/01/2016 tại thành phố Davos, Thụy Sĩ. Cuộc CMCN 4.0 dựa trên 3 lĩnh vực chính là: Kỹ thuật số bao gồm dữ liệu lớn (Big Data), vạn vật kết nối internet (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI); Công nghệ sinh học bao gồm ứng dụng trong nông nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu; Lĩnh vực vật lý bao gồm Robot thế hệ mới, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…), công nghệ nano [1]. Đặc trưng cơ bản của CMCN 4.0 là sự hợp nhất giữa các lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật số, sinh học để giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, sự kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực, các hệ thống kết nối Internet. 2.1.2. Năng lực tự học của sinh viên Tự học là tự mình động não, suy nghĩ sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng các phẩm chất, động cơ, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó thành sở hữu của mình và “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng cách thu nhận, xử lí và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong con người mình” [3]. “Năng lực là khả năng thực hiện thành công và có trách nhiệm các nhiệm vụ, giải quyết vấn đề trong các tình huống xác định cũng như các tình huống thay đổi trên cơ sở huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính tâm lí khác như động cơ, ý chí, quan niệm, giá trị..., suy nghĩ thấu đáo và sự sẵn sàng hành động” [5]. NLTH là một khả năng, trong đó người học là chủ thể tự giác, tích cực, chủ động, độc lập (hoặc hợp tác) chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong học tập, trong cuộc sống nhằm đạt được mục đích nhất định. Biểu hiện NLTH của người học nói chung đó là sự hứng thú, mức độ tích cực, chủ động tham gia hoạt động tự học và khả năng thực hiện hiệu quả các hoạt động học tập đó. Do đó, việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực nói chung và NLTH nói riêng chính là “Mở rộng dạy học định hướng nội dung bằng cách tạo môi trường, bối cảnh cụ thể để người học được thực hiện các hoạt động vận dụng kiến thức, sử dụng kĩ năng và thể hiện thái độ của mình một cách hiệu quả” [6]. 32
- Nguyễn Thị Hảo, Nguyễn Kiên Trung 2.1.3. Ý nghĩa của việc phát triển năng lực tự học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Việc học tập trong thời đại công nghệ số và mạng Internet vượt qua sự giới hạn về không gian, thời gian: những kiến thức, thông tin cơ bản ở hầu khắp các lĩnh vực từ xưa đến nay hầu như có thể tìm trên Internet mà chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh hay máy tính bảng người học dễ dàng tìm được. Hơn thế nữa, người học có thể trao đổi trực tiếp với người giảng bài. Điều này đặc biệt thuận lợi cho việc xây dựng một xã hội học tập với nhu cầu học tập suốt đời của mọi người, đáp ứng những yêu cầu của con người trong thời đại 4.0. CMCN 4.0 đòi hỏi giáo dục - đào tạo phải tạo ra được những con người năng động, tự lập, các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, nhất là phải tạo điều kiện để phát huy tối đa óc sáng tạo của mỗi cá nhân. Đối với SV ngành CNTT đặc biệt SV Lào trong cuộc CMCN 4.0 phát triển NLTH mang ý nghĩa lớn: - Thứ nhất, phát triển NLTH giúp SV Lào ngành CNTT năng động, sáng tạo bởi trong cuộc cách mạng này, SV càng phải chủ động học hỏi không ngừng, biết đón đầu xu hướng, thậm chí sáng tạo ra xu hướng thay vì thụ động chờ đợi như trước kia. Đây là điều mà SV Lào cần thay đổi và phải thay đổi. Thứ hai, phát triển NLTH giúp SV Lào ngành CNTT tận dụng được lợi thế là người đi sau nhưng có cơ hội “đi tắt, đón đầu”. NLTH giúp SV Lào sẽ rút ngắn được thời gian thực hiện khát vọng, ước mơ của mình. Sau khi tốt nghiệp các em quay trở về nước sẽ ứng dụng những công nghệ mới, nắm bắt xu hướng phát triển của công nghệ để xây dựng đất nước. Đồng thời bản thân SV Lào cũng thích nghi được những thách thức mà CMCN 4.0 mang đến, biến thách thức thành cơ hội cho mình. Thứ ba, phát triển NLTH giúp SV Lào có thể kết nối và hội nhập với thế giới. Với lợi thế của ngành CNTT chính bản thân SV Lào ngành CNTT phải làm được điều đó để đưa đất nước họ cạnh tranh, hòa nhập với các nước trong và ngoài khu vực. Khi đã làm chủ CNTT, giỏi ngoại ngữ và hiểu rõ bản thân muốn gì, làm được gì và nên làm gì trong xu thế không ngừng cạnh tranh - là lúc mà chính họ có cơ hội trở thành “công dân toàn cầu”. 2.2. Thực trạng tự học của sinh viên Lào ngành CNTT tại trường ĐHHV Số lượng SV Lào học tập tại trường ĐHHV ngày càng tăng. Hiện nay, toàn trường có 200 SV Lào theo học các ngành của trường, trong đó số SV Lào theo học ngành CNTT là 25 SV. Chúng tôi đã thực hiện phát phiếu khảo sát, phỏng vấn giảng viên và SV ngành CNTT về vấn đề tự học, tự nghiên cứu. 2.2.1. Kết quả khảo sát thực trạng tự học của SV Lào ngành CNTT trong cuộc CMCN 4.0 Qua phát phiếu khảo sát với câu hỏi “Các em dành bao nhiêu thời gian tự học mỗi ngày?”, kết quả nhận được từ 25 SV Lào như sau: Bảng 1. Thống kê kết quả phỏng vấn số giờ tự học của sinh viên Lào ngành CNTT 33
- Phát triển năng lực tự học cho sinh viên Lào... 0 – dưới 1 – dưới 2 – dưới 3 – dưới 4 giờ Năm thứ 1 giờ 2 giờ 3 giờ 4 giờ trở lên (số lượng) Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%) lượng (%) Năm 1 (8) 6 75% 1 13% 1 13% 0% 0% Năm 2 (10) 5 50% 3 30% 2 20% 0% 0% Năm 3 (5) 0% 1 20% 2 40% 1 20% 1 20% Năm 4 (2) 0% 0% 1 50% 1 50% Qua bảng thống kê trên cho thấy, số lượng SV học ở mức từ 2 đến 3 giờ cao nhất và tăng dần qua các năm học. SV năm thứ nhất dành thời gian tự học tương đối thấp, 75% SV chỉ dành thời gian học dưới 1 giờ, SV năm thứ 4 dành thời gian tự học ngoài lớp học nhiều hơn do yêu cầu trong thời gian này SV tham gia thực hiện đề tài thực tập. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn để tìm hiểu những thuận lợi của SV trong quá tình tự học và thu được kết quả: Cả giảng viên và SV Lào ngành CNTT đều cho rằng nhà trường đã đầu tư cơ sở vật chất cho chuyên ngành (phòng máy chuyên ngành, khu thực hành rèn kỹ năng về phần cứng….), đầu tư về nguồn nhân lực (tổ chức cho giảng viên học tập nâng cao trình độ, các khóa tập huấn, hội thảo, …), môi trường học tập đảm bảo cho người học có thể phát triển NLTH, học mọi lúc, mọi nơi. SV Lào ngành CNTT được quan tâm về học tập lẫn đời sống để đảm bảo điều kiện học tập. Với phương châm đào tạo của ngành là tạo ra nguồn nhân lực 4.0 đáp ứng nhu cầu xã hội. Bên cạnh những thuận lợi, SV Lào ngành CNTT cũng gặp không ít những khó khăn đặc biệt trong vấn đề tự học để đáp ứng thời đại 4.0. Thứ nhất, hầu hết SV Lào còn rất mơ hồ về cuộc CMCN 4.0, sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng này lên chính nguồn nhân lực ngành CNTT (80% SV khi được hỏi đều cho rằng nó không ảnh hưởng gì và vẫn học một cách thụ động). Thứ hai, bản thân SV chưa có phương pháp, cách thức tự học cho phù hợp (một số SV khi được hỏi đã cho rằng bản thân họ chưa biết bắt đầu như thế nào). Thứ ba, trong lớp và đặc biệt trong nhóm SV Lào ngành CNTT chưa có phong trào tự học, học nhóm (85% SV khi được hỏi đều cho rằng họ dành chủ yếu giờ ở nhà cho việc cá nhân, bạn bè, ít khi tham gia nghiên cứu tài liệu nâng cao liên quan đến môn học, chương trình học). Ngoài ra, nhóm tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu một số giảng viên ngành CNTT về thực trạng tự học của SV Lào ngành CNTT. Tất cả các giảng viên được hỏi đều cho rằng SV Lào có ý thức tương đối tốt, có tinh thần cầu tiến tuy nhiên tinh thần tự học, tự nghiên cứu để đáp ứng thời đại mới còn hạn chế. Giảng viên T.T.T cho biết “Tôi là cố vấn học tập của SV năm thứ nhất và năm thứ tư tôi thấy khả năng tự học của hầu hết các SV Lào ngành CNTT còn yếu; một số SV chưa thực sự có hứng thú với việc phát triển kỹ năng tự học, còn dành ít thời gian tham gia tự học; các học phần cần có hướng mở để phát triển tư duy cho SV kích 34
- Nguyễn Thị Hảo, Nguyễn Kiên Trung thích họ phải tự học, tự nghiên cứu”. Giảng viên N.K.T cho rằng “Tôi thấy một số SV Lào ngành CNTT còn khá thụ động, chưa tích cực trong việc tự học, tự nghiên cứu; một số SV còn mơ hồ chưa nắm được cơ hội, thách thức của họ trong cuộc CMCN 4.0”. 2.2.2. Kết quả khảo sát nhận thức về sự cần thiết phát triển NLTH cho SV Lào ngành CNTT trong thời đại 4.0 a. Khảo sát bằng phiếu Để tìm hiểu nhận thức của giảng viên và SV về sự cần thiết phát triển NLTH cho SV, bài viết sử dụng phiếu khảo sát ý kiến của giảng viên và SV qua câu hỏi “Thầy cô (bạn) hãy cho biết sự cần thiết phát triển NLTH cho sinh viên trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0?”. Kết quả thu được như sau: Bảng 2. Kết quả tổng hợp phiếu khảo sát sự cần thiết phát triển NLTH cho sinh viên Giảng viên Sinh viên STT Nội dung Số lượng Tỉ lệ (%) Số lượng Tỉ lệ (%) 1 Rất cần thiết 30 100 15 25 2 Cần thiết 0 0 20 33.3 3 Bình thường 0 0 22 36.7 4 Ít cần thiết 0 0 3 5 5 Không cần thiết 0 0 0 0 Tổng 30 100 60 100 Kết quả khảo sát cho thấy có sự khác nhau trong nhận thức của giảng viên và SV về sự cần thiết phát triển NLTH, 100% giảng viên và 25% SV được hỏi khẳng định phát triển NLTH là rất cần thiết đối với SV trường ĐHHV. Có 25 SV chiếm 41.7% tổng số SV được hỏi nhận thức mức độ cần thiết phát triển NLTH ở mức độ bình thường. Kết quả này được SV lí giải là do NLTH sẵn có trong mỗi người, không cần phải phát triển nó. Điều này cho thấy SV nhận thức chưa rõ về sự cần thiết phát triển NLTH, chưa thấy ý nghĩa của quá trình phát triển đối với hoạt động tự học nói riêng và hoạt động học tập nói chung nhằm hoàn thiện năng lực nghề nghiệp của cá nhân. b. Khảo sát phỏng vấn sâu Bài viết sử dụng phương pháp phỏng vấn và quan sát hoạt động của giảng viên và SV thông qua quá trình dạy học, giáo dục, học tập. Kết quả được giảng viên P.V.T cho rằng “Phát triển NLTH cho SV rất cần thiết vì nó không chỉ giúp SV thực hiện thành công hoạt động học tập, nghiên cứu mà nó còn giúp SV nâng cao kết quả học tập và rèn luyện. Đặc biệt trong cuộc CMCN 4.0 nếu mỗi người không tự học, tự nghiên cứu sẽ bị đẩy lùi phía sau”. SV Mek cho biết “Em nghĩ không chỉ SV Lào chúng em mà tất cả các bạn SV nếu không tự học, tự nghiên cứu chắc chắn sẽ bị tụt hậu và thậm chí sẽ không có việc làm tốt khi ra trường”. SV Ket cho ý kiến “Em tập trung vào nội dung thầy cô giảng dạy trên lớp và ý kiến của các bạn Việt Nam và em nghĩ việc phát triển NLTH cần thiết ở mức độ bình thường”. SV Phaivanh giải thích “Em thấy việc phát triển NLTH để phục vụ cho quá trình làm đề tài nghiên cứu và sẵn có trong mỗi người nên em nghĩ nó ít cần thiết”. 35
- Phát triển năng lực tự học cho sinh viên Lào... Cả giảng viên và SV đều thừa nhận, NLTH ảnh hưởng nhiều đến thành tích học tập của SV. Trong 25 SV Lào theo học ngành CNTT, có 02 SV xếp học lực khá, 11 SV xếp loại trung bình, 12 SV xếp loại yếu. 2.3. Biện pháp phát triển năng lực tự học cho sinh viên Lào ngành Công nghệ thông tin tại trường đại học Hùng Vương trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Các biện pháp phát triển NLTH cho SV Lào ngành CNTT tại ĐHHV trong CMCN 4.0 có thể tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi đề cập một số giải pháp sau: Thứ nhất, Nhà trường, các phòng, ban liên quan, ngành CNTT cần tăng cường kết nối và tổ chức các hội thảo khoa học dành cho SV gắn với cuộc CMCN 4.0, tổ chức các hội thi ý tưởng sáng tạo của SV gắn liền với cuộc CMCN 4.0, mời các chuyên gia trò chuyện về cuộc CMCN 4.0, về hướng nghiệp thời CMCN 4.0, tinh thần khởi nghiệp,... Thông qua các hoạt động tuyên truyền cụ thể, sôi động và thiết thực, các em SV Lào được tiếp cận một cách toàn diện về ý nghĩa của cuộc CMCN 4.0 theo hướng tích cực, từ đó kích thích các em SV Lào ngành CNTT nâng cao nhận thức, thái độ và hành vi tự học. Thực tế từ khi có kết quả khảo sát thực trạng tự học của SV Lào ngành CNTT trong cuộc CMCN 4.0 trường ĐHHV, trường ĐHHV đã rất nỗ lực tổ chức rất nhiều hoạt động và nhận được những phản hồi hết sức tích cực từ phía các em SV, trong đó có các SV Lào: - Trường ĐHHV đã phối hợp với trường Đại học Đông Hoa (Đài Loan) tổ chức Hội nghị chuyên đề “Một số hướng nghiên cứu về khoa học máy tính hiện nay”. - Trường ĐHHV tổ chức hội thảo: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và bài toán đào tạo nguồn nhân lưc cho các doanh nghiệp. - Ngành CNTT tổ chức báo cáo chuyên đề: “Xu thế phát triển của đồ hoạ máy tính trong đào tạo và NCKH” với sự tham gia của các giảng viên, nhà khoa học từ trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. - Tổ chức hội thảo Hội thảo khoa học Quốc tế lần thứ 7: “Các hệ thống cảm ngữ cảnh và ứng dụng” (International Conference on Context-Aware Systems and Applications) - Tổ chức tham quan, học hỏi các doanh nghiệp mạnh về CNTT trong và ngoài tỉnh: FPT Software, Viettel, Samsung…Trong cuộc tham quan này SV Lào hiểu hơn về những yêu cầu của doanh nghiệp trong cuộc CMCN 4.0. Thứ hai, Ngành CNTT cần xây dựng chương trình đào tạo bám sát thực tiễn với các ứng dụng của CMCN 4.0. Tùy vào đặc thù của mỗi học phần để bổ sung một số nội dung liên quan đến cuộc CMCN 4.0. Tổ chức các chuyên đề Seminar với các thông tin cập nhật hàng ngày. Thực tế cho đến nay, hầu hết các học phần của ngành CNTT đều được bổ sung, cập nhập mới, mục tiêu, chuẩn đầu ra của ngành cũng được cập nhập với bản mới nhất là tháng 8/2019. Các chuyên đề Seminar bộ môn được tổ chức 2 tuần/1 lần với sự tham gia của tất cả các giảng viên của ngành CNTT và có mời thêm giảng viên của các ngành liên quan khác. Từ đó các giảng viên trong quá trình giảng dạy cung cấp cho SV hiểu được mục tiêu, 36
- Nguyễn Thị Hảo, Nguyễn Kiên Trung Hình 1. Các bạn sinh viên ngành CNTT Hình 2. Sinh viên ngành CNTT tham Đại học Hùng Vương chụp ảnh lưu niệm quan, học hỏi tại Tập đoàn FPT cùng các nhà khoa học tại Hội thảo Software khoa học Quốc tế lần thứ 7: International Conference on Context-Aware Systems and Applications yêu cầu cần có đối với nhân lực ngành CNTT trong cuộc CMCN 4.0, vị trí việc làm mà SV có thể làm sau khi ra trường nói chung và tại Lào nói riêng. Đồng thời, giảng viên bộ môn thường xuyên nắm bắt tình hình, tìm hiểu và chia sẻ với SV Lào trong các buổi học. Từ đó, xây dựng và thúc đẩy tinh thần tự học, tự rèn luyện của mỗi SV. Thứ ba, giảng viên cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá hướng đến phát triển NLTH của SV Lào. Với thực trạng tự học của các SV Lào như đã phân tích ở trên. Một trong những biện pháp hữu hiệu để phát triển NLTH cho SV Lào là dạy học theo hướng nghiên cứu. Tổ chức các chiến lược dạy học theo hướng nghiên cứu đòi hỏi sự tích cực, chủ động nhiều hơn từ cả giảng viên và SV nhằm hình thành thói quen học bằng nghiên cứu, học bằng nhiều hình thức và phương pháp học khác nhau, ở nhiều môi trường và từ nhiều học liệu học khác nhau. Giảng viên, SV phải thực hiện dạy học theo hướng nghiên cứu, thông qua các bước cụ thể sau: Bước 1: Hướng dẫn SV lập kế hoạch tự học, tự nghiên cứu trong từng học phần. Bước 2: Gợi ý tài liệu tham khảo, hướng dẫn SV tự đọc và tìm kiếm tài liệu. Bước 3: Giao cho SV làm các bài tập nhỏ hay còn gọi là dự án học tập gắn với nội dung bài học, học phần. Bước 4: Yêu cầu SV báo cáo kết quả tự học, tự nghiên cứu trước tập thể. Bước 5: Tổ chức đa dạng các chiến lược dạy học khác nhau như dạy học trải nghiệm tích hợp, dạy học khám phá, dạy học nêu vấn đề, dạy học dự án, dạy học nhóm, dạy học đảo ngược. Bước 6: Đánh giá và điều chỉnh các chiến lược dạy học cho phù hợp với từng đối 37
- Phát triển năng lực tự học cho sinh viên Lào... tượng, từng học phần; kết hợp các hình thức đánh giá khác nhau và có những tiêu chí đánh giá cụ thể để từng bước phát triển NLTH, tự nghiên cứu cho SV. Thực tế với ngành CNTT của trường ĐHHV, bắt đầu từ năm 2018 hàng loạt đổi mới đã được áp dụng: - Áp dụng mô hình lớp học đảo ngược (trong đó có dạy học trực tuyến) trong các học phần: Mạng máy tính, Lập trình hướng đối tượng, Quản lý hệ thống máy tính, Tin học đại cương, Lập trình ASP.Net, Lập trình Web… Mô hình lớp học đảo ngược được áp dụng ở ngành CNTT của trường ĐHHV như sau: Bảng 3. Mô tả các hoạt động của giảng viên và sinh viên trong mô hình lớp học đảo ngược Bước Hoạt động của giảng viên Hoạt động của SV Trước giờ học - Tạo 1 bài giảng điện tử cho SV tự Tự học, tự nghiên cứu với bài trên lớp học ở nhà. giảng điện tử của giảng viên và - Các tình huống tương tác chuẩn bị phần thực hành trên lớp Trong giờ học - Trao đổi, thảo luận, kiểm tra đánh Thực hành ứng dụng các khái giá SV tại lớp. niệm chính cùng với phản hồi từ - Hướng dẫn SV thực hành, lamg giảng viên và các SV khác. bài tập, hiểu kiến thức. Ngoài lớp học, - Hướng dẫn và giải đáp các thắc Kiểm tra lại kiến thức đã học sau giờ học mắc của SV qua mạng. trong giờ học và tự tìm hiểu mở - Hoàn thiện lại bài giảng điện tử rộng thêm cho phù hợp năng lực của SV - Đa dạng cách kiểm tra đánh giá: Từ năm học 2019-2020 ngành CNTT đã bổ sung hình thức kiểm tra đánh giá mới là “Bài tập lớn (Dự án)”. Thứ tư, tổ chức dạy học trực tuyến để phát triển NLTH nhóm online cho SV Lào ngành CNTT. Tạo phong trào học cho SV Lào ngành CNTT tránh tình trạng chây ì, không tự giác; bổ sung kiến thức còn thiếu trong mỗi SV để học tập tốt hơn. Trên lớp giảng viên chủ động ghép SV Việt Nam, SV Lào ngồi xen kẽ và hỗ trợ nhau trong thực hành, nội dung học ở nhà. Như vậy, SV Lào có thể hiểu được, nắm bắt được kiến thức trên lớp ngay. Ngoài giờ trên lớp, giảng viên nên tổ chức lớp học nhóm riêng tùy theo từng đối tượng, thống nhất trong SV. Các nhóm này có thể học online hoặc offline và cần được duy trì thường xuyên. SV Lào nói chung, SV Lào ngành CNTT nói riêng được nhà trường bố trí cho ở kí túc xá, đây cũng là điều kiện thuận lợi để SV học (các nhóm có thể học tại thư viện, kí túc xá). Học online qua các ứng dụng, Website như http://elearning.hvu.edu.vn/ (Website dạy học trực tuyến của trường Đại học Hùng Vương), facebook, zalo, wechat, phần mềm Microsoft teams... Một số hình ảnh học tập nhóm, học trực tuyến: 38
- Nguyễn Thị Hảo, Nguyễn Kiên Trung Hình 3. Một số hình ảnh trao đổi các nhóm học online Microsoft teams là phần mềm mà chúng tôi đang sử dụng học nhóm trực tuyến cho SV Lào ngành CNTT. Đây là phần mềm có tính bảo mật cao, chuyên nghiệp, giảng viên và SV dễ dàng tương tác có thể trao đổi trực tiếp hoặc gửi tài liệu, bài tập cũng như kiểm tra đánh giá quá trình tự học, kết quả tự học của SV. SV Lào ngành CNTT không chỉ tương tác với giảng viên mà có thể tương tác với chính các bạn cùng ngành học ở các khóa khác nhau và học ở mọi nơi, mọi lúc, trên điện thoại hay trên máy tính. 3. Kết luận Việc đánh giá thực trạng NLTH của SV trường ĐHHV và đưa ra biện pháp phát triển NLTH sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của CMCN 4.0, qua đó để khẳng định uy tín của Nhà trường. NLTH, tự nghiên cứu của SV ở trường ĐHHV còn ở mức trung bình. Theo quan điểm của chúng tôi, nếu vận dụng đồng bộ các biện pháp trên sẽ giúp SV có đam mê, lòng nhiệt huyết và duy trì “lửa” cho đào tạo, nghiên cứu khoa học giữa cuộc sống. Đặc biệt đối với SV Lào ngành CNTT tự học cần có sự hỗ trợ của giảng viên, SV trong cùng lớp hoặc cùng ngành do nhiều yếu tố khác nhau. Bằng cấp sẽ được đánh giá bởi trình độ sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề đa ngành ở cấp độ phức tạp theo năng lực của từng SV không còn đánh giá bởi khả năng tiếp 39
- Phát triển năng lực tự học cho sinh viên Lào... thu một số lượng kiến thức nhất định như số tín chỉ hay môn học của một chuyên ngành nào đó. Trong tương lai khi áp dụng đầy đủ và đồng bộ các biện pháp trên cho các SV chúng tôi tin chắc rằng kết quả thu được sẽ còn tốt hơn; tạo môi trường học tập chủ động, tích cực và các thế hệ nối tiếp nhau học tập tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Baker K. (2016), “The digital revolution: the impact of the fourth industrial revolution on employment and education”, Edge Foundation, London. [2] Cao Danh Chính (2009), “Đánh giá và xác nhận năng lực của người học trong đào tạo tiếp cận năng lực thực hiện”, Tài liệu Hội nghị khoa học nghiên cứu sinh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. [3] Bernd Meier, Nguyễn Văn Cường (2016), “Lí luận dạy học hiện đại, cơ sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học”, NXB Đại học Sư phạm. [4] Công văn số: 5444/BGDĐT-GDĐH về việc áp dụng cơ chế đặc thù đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực CNTT trình độ đại học, Bộ Giáo dục và đào tạo, ngày 16 tháng 11 năm 2017. [5] Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên, 2002), “Học và dạy cách học”, NXB Đại học Sư phạm. [6] Lê Đình Trung (chủ biên), Phan Thị Thanh Hội (2016), “Dạy học theo định hướng hình thành và phát triển năng lực người học ở trường phổ thông”, NXB Đại học Sư phạm. Title: DEVELOPING SELF-STUDY ABILITY OF LAO STUDENTS MAJORING IN INFORMATION TECHNOLOGY IN THE INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 AT HUNG VUONG UNIVERSITY NGUYEN THI HAO, NGUYEN KIEN TRUNG Hung Vuong University (Phu Tho) Abstract: The 4th industrial revolution (industrial revolution 4.0) is affecting directly each individual, family, business, and specially educational environment. In this revolution, people need to be more active, to actively learn constantly, to stay ahead of the trend, even to create trends. Every student needs to promote self-study to be in tune with the trend. In this article, we mention some solutions for developing self-study ability of Lao students majoring in information technology in the industrial revolution 4.0 at Hung Vuong university. Keywords: Ability, Self-study, self-study ability, Industrial revolution 4.0. 40
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số biện pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh ở trường phổ thông
4 p | 174 | 18
-
Phát triển năng lực tự học cho sinh viên ngành Mầm non trong dạy học học phần “giáo dục học đại cương”
8 p | 65 | 11
-
Thiết kế tài liệu tự học có hướng dẫn theo môđun nhằm phát triển năng lực tự học của sinh viên trong học phần chương trình, phương pháp dạy học Hóa học
8 p | 99 | 10
-
Năng lực tự học và các yếu tố ảnh hưởng tới phát triển năng lực tự học cho sinh viên sư phạm
10 p | 132 | 8
-
Hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá năng lực tự học và quy trình tổ chức phát triển năng lực tự học cho sinh viên trong các trường đại học sư phạm
7 p | 90 | 7
-
Phát triển năng lực tự học môn Ngữ văn cho học sinh cấp Trung học cơ sở
6 p | 121 | 6
-
Thực nghiệm sư phạm phát triển năng lực tự học cho sinh viên sư phạm qua phương pháp dạy học tích cực
6 p | 41 | 6
-
Một số định hướng phát triển năng lực tự học trong dạy học các môn lý luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng giai đoạn hiện nay
8 p | 63 | 5
-
Phát triển năng lực tự học cho sinh viên trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên trong học tập môn Triết học Mác – Lênin
8 p | 84 | 5
-
Một số giải pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh thông qua dạy học “Chủ đề F. giải quyết vấn đề với sự trợ giúp của máy tính” (Tin học 10)
6 p | 10 | 4
-
Xây dựng bài tập thực tiễn trong dạy học sinh thái học nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh hệ giáo dục thường xuyên, tỉnh Trà Vinh
5 p | 89 | 4
-
Phát triển năng lực tự học của sinh viên thông qua các hoạt động trải nghiệm trong môi trường số
10 p | 8 | 4
-
Một số giải pháp nâng cao khả năng sử dụng công nghệ thông tin để phát triển năng lực tự học cho sinh viên
3 p | 7 | 3
-
Khảo sát thực trạng vận dụng dạy học kết hợp môn Hóa học nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh trung học phổ thông ở ngoại thành Hà Nội
3 p | 11 | 3
-
Quản lý phát triển năng lực tự học cho học sinh trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở
3 p | 6 | 3
-
Phát triển năng lực tự học cho sinh viên Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh
5 p | 44 | 3
-
Phương pháp, kỹ thuật, công cụ phát triển năng lực tự học cho học sinh trung học cơ sở
8 p | 24 | 2
-
Phát triển năng lực tự học cho sinh viên nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
8 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn