CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
<br />
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO MÔ HÌNH<br />
TĂNG TRƯỞNG XANH TẠI TIỂU VÙNG DUYÊN HẢI<br />
PHÍA ĐÔNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br />
Diệp Thanh Tùng<br />
<br />
Đại học Trà Vinh; Email: dttung@tvu.edu.vn<br />
<br />
Lê Thị Thu Diềm<br />
<br />
Đại học Trà Vinh; Email: ltdiem@tvu.edu.vn<br />
Thông tin chung<br />
Ngày nhận bài: 25/10/2018<br />
Ngày phản biện: 29/10/2018<br />
Ngày duyệt đăng: 9/11/2018<br />
Title<br />
DEVELOPMENT OF AGRICULTURE<br />
BY MODELING GREEN GROWTH<br />
IN EAST COASTAL SUB-REGION OF<br />
THE MEKONG RIVER DELTA<br />
Từ khóa<br />
Phía đông Đồng bằng sông Cửu Long;<br />
Tiểu vùng duyên hải phía đông Đồng<br />
bằng sông Cửu Long; Mô hình tăng<br />
trưởng xanh, Phát triển nông nghiệp,<br />
nông thôn; Nguồn lực.<br />
Keywords<br />
East of the Mekong River Delta; The<br />
East Coastal sub-region of the Mekong<br />
river delta; Green growth model;<br />
Agricultural and dural development;<br />
Power.<br />
<br />
T<br />
<br />
iểu vùng Duyên hải phía Đông đồng bằng sông Cửu<br />
Long gồm những tỉnh có thế mạnh về phát triển nông<br />
nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây ở vùng này việc<br />
sử dụng các nguồn lực chưa thực sự hiệu quả. Những thách<br />
thức trong quá trình phát triển nông nghiệp của bối cảnh<br />
toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, thách thức môi trường của<br />
tiểu vùng Duyên hải phía Đông, cho thấy cần thiết phải có<br />
phương án sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn trong tương<br />
lai, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp theo mô hình tăng<br />
trưởng xanh. Bài viết phân tích những thách thức trong phát<br />
triển nông nghiệp hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp<br />
phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại<br />
tiểu vùng Duyên hải phía Đông.<br />
Abstract<br />
The East Coastal sub-region of the Mekong delta consists<br />
of provinces with strong agricultural development. However,<br />
the use of resources in this area in recent years has not been<br />
effective. Challenges in the development of agriculture<br />
in the context of globalization, climate change and the<br />
environmental challenge of the East Coastal sub-region<br />
suggest a need for more efficient use of resources in the<br />
future, especially in the field of agriculture under the green<br />
growth model. This article analyzes the current challenges<br />
in agricultural development, thereby proposing a number of<br />
options for agricultural development under the green growth<br />
model in the East Coastal sub-region.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Tiểu vùng Duyên Hải phía Đông (tiểu vùng<br />
DHPĐ) bao gồm 4 tỉnh: Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh<br />
Long và Trà Vinh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Cửu<br />
Long (ĐBSCL), có tốc độ phát triển kinh tế khá<br />
cao so với trung bình vùng trong những năm gần<br />
đây (năm 2017 tăng trưởng kinh tế của Trà Vinh<br />
là 12,09%, Tiền Giang là 7,4%, Bến Tre là 7,23%,<br />
Vĩnh Long là 5,62%)1. Đây là những tỉnh có thế<br />
mạnh về phát triển nông nghiệp2, được thiên nhiên<br />
ưu đãi với gần 70% diện tích đất phù sa, hệ thống<br />
Tổng hợp từ báo cáo năm 2017 của các tỉnh thuộc tiểu vùng <br />
Niên giám thống kê 2016, Khu vực kinh tế nông-lâm-thủy sản chiếm 34,2%<br />
GDP toàn tiểu vùng Duyên hải phía Đông. <br />
1.<br />
2.<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
sông ngòi nối liền các tỉnh, là cửa ngõ ra biển đông,<br />
với tổng dân số hơn 5 triệu người và có tổng diện<br />
tích gần 8.788,9km2, chiếm 21,5% tổng diện tích<br />
đất tự nhiên, 20% tổng diện tích đất nông nghiệp<br />
của toàn vùng ĐBSCL. Trong đó có tới trên 85%<br />
diện tích đất là dùng trong sản xuất nông nghiệp.<br />
Hơn nữa, Tiểu vùng DHPĐ dẫn đầu cả vùng ĐBSCL về sản lượng thu hoạch cây ăn quả, số lượng<br />
vật nuôi cũng khá phát triển và đóng vai trò quan<br />
trọng cho ngành chăn nuôi ĐBSCL.<br />
Tuy nhiên, vấn đề sử dụng các nguồn lực đang<br />
có dấu hiệu suy giảm và chưa thực sự hiệu quả.<br />
Các yếu tố đầu vào qui trình sản xuất nông nghiệp<br />
<br />
29<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
và thủy sản chưa mang tính bền vững. Bên cạnh<br />
đó, các tỉnh tiểu vùng DHPĐ còn đương đầu với<br />
khó khăn, thách thức do biến đổi khí hậu, sản xuất<br />
nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản bị đe dọa và<br />
đời sống nông dân nghèo trong khu vực sẽ bị ảnh<br />
hưởng nghiêm trọng. Có thể thấy rõ, do việc xây<br />
dựng các đập thủy điện của các nước thượng nguồn<br />
như Campuchia, Lào, Thái Lan và Trung Quốc<br />
nên nguồn nước ngọt đổ về từ thượng nguồn sông<br />
Mekong hạn chế, gây ra tình trạng hạn hán. Tình<br />
trạng đất nhiễm mặn ngày càng nghiêm trọng ở một<br />
số tỉnh, điển hình, tại tỉnh Trà Vinh hiện nay, nước<br />
mặn dâng cao trên sông Tiền và sông Hậu và xâm<br />
nhập sâu hơn 60km; toàn tỉnh bị nước mặn 6 - 8%<br />
bao vây3; nước trong nội đồng đang cạn kiệt, không<br />
đủ bơm tát trong khi ban ngày nắng gắt kéo dài đã<br />
khiến nhiều diện tích lúa bị chết khô, ngộ độc hữu<br />
cơ. Đến nay toàn tỉnh đã có gần 3.000ha lúa bị mất<br />
trắng, trong khi 38.000ha đông xuân không đủ nước<br />
bơm tát. Tại Bến Tre, nước ngọt là vấn đề khó khăn<br />
nhất, hiện nay, địa phương có trên 60.000 hộ dân<br />
phải dùng nước sinh hoạt nhiễm mặn. Nhiều nghiên<br />
cứu của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường chỉ ra tình<br />
trạng suy giảm về nguồn nước ngầm và sụt lún đất,<br />
thách thức về môi trường diễn ra phổ biến ở các tỉnh<br />
tiểu vùng DHPĐ.<br />
Xuất phát từ những thách thức trong quá trình<br />
phát triển nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu quá,<br />
biến đổi khí hậu, thách thức môi trường của tiểu<br />
vùng DHPĐ, cho thấy cần thiết phải có phương án<br />
sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo hiệu quả,<br />
năng suất và chất lượng hơn trong tương lai.<br />
2. Cơ sở lý thuyết về tăng trưởng xanh và mô<br />
hình tăng trưởng xanh trong nông nghiệp<br />
Tăng trưởng xanh là một vấn đề thu hút sự quan<br />
tâm đặc biệt của nhiều quốc gia và tổ chức trên thế<br />
giới bởi đây được xem là mô hình tăng trưởng của<br />
tương lai. Khái niệm “tăng trưởng xanh” có nguồn<br />
gốc từ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Tăng<br />
trưởng xanh được định nghĩa là kết hợp hài hòa tăng<br />
trưởng kinh tế với sự bền vững môi trường, đồng<br />
thời nâng cao hiệu quả sinh thái của tăng trưởng<br />
kinh tế và tăng cường sự phối hợp giữa yếu tố kinh<br />
tế và môi trường (UNDESA, 2012). Năm 2009,<br />
nước thành viên OECD đã thông qua tuyên bố nhận<br />
định rằng xanh hóa (green) và tăng trưởng (growth)<br />
có thể đi cùng với nhau, theo đó chiến lược tăng<br />
trưởng xanh mà có thể tích hợp các khía cạnh kinh<br />
tế, môi trường, công nghệ, tài chính và phát triển<br />
vào một khuôn khổ toàn diện. Tại Việt Nam, Hội<br />
nghị cấp cao ASEAN năm 2010 đã thông qua chính<br />
sách phục hồi và phát triển bền vững, trong đó<br />
nhấn mạnh đến chiến lược dài hạn nhằm đảm bảo<br />
sự bền vững về môi trường và sử dụng tài nguyên<br />
thiên nhiên nhằm đa dạng hóa và bảo đảm khả năng<br />
Theo trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Trà Vinh.<br />
Trích: https://vov.vn/tin-24h/tra- vinh-ben-tre-no -luc-tiep -nuoc -khac -phuc<br />
-han-man-4 89516.vov<br />
3.<br />
<br />
30<br />
<br />
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
phục hồi kinh tế. Theo quan điểm của World Bank<br />
(2012), tăng trưởng xanh là mô hình tăng trưởng<br />
hiệu quả, sạch và có tính đàn hồi (resilient) - hiệu<br />
quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, sạch<br />
trong giảm thiểu tác động gây ô nhiễm môi trường,<br />
và có tính đàn hồi, chống chịu được trước các thiên<br />
tai, thảm họa thiên nhiên (natural hazards) do tôn<br />
trọng giới hạn tuyệt đối của môi trường sinh thái.<br />
Nhìn chung, các định nghĩa đều nhấn mạnh đến<br />
phát triển kinh tế nhưng vẫn đảm bảo môi trường,<br />
hiệu quả sử dụng tài nguyên, đối phó với biến đổi<br />
khí hậu, cộng hưởng các công nghệ và dịch vụ, sản<br />
phẩm xanh từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản<br />
xuất và chất lượng xã hội.<br />
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên<br />
Hiệp Quốc (FAO, 2012), khái niệm tăng trưởng<br />
xanh trong nông nghiệp được xem xét trong khuôn<br />
khổ của Xanh hóa nền kinh tế với Nông nghiệp<br />
(Greening the Economy with Agriculture - GE).<br />
Theo đó, xanh hóa nền kinh tế với Nông nghiệp<br />
(GEA) bao gồm các nội dung: (i) đảm bảo an ninh<br />
lương thực và dinh dưỡng thông qua sự cân bằng<br />
thích hợp giữa sản lượng sản xuất và thương mại,<br />
(ii) đảm bảo sinh kế ở khu vực nông thôn, (iii) sử<br />
dụng kiến thức truyền thống và khoa học để duy trì<br />
bền vững các hệ sinh thái.<br />
Việc nghiên cứu mô hình tăng trưởng xanh trong<br />
nông nghiệp trong bối cảnh hiện nay là thật sự cần<br />
thiết, góp phần điều chỉnh trong sử dụng nhân lực,<br />
nguồn lực tài chính trong ngắn hạn, đồng thời có<br />
tác động tích cực trong củng cố về môi trường bền<br />
vững, tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội trong<br />
dài hạn.<br />
3. Thực trạng và những thách thức trong<br />
phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng<br />
xanh<br />
Tiểu vùng DHPĐ là nơi có sản lượng lúa và thủy<br />
sản lớn nhất vùng ĐBSCL. Trong thực tế, các tỉnh<br />
trong tiểu vùng DHPĐ cũng đã chủ động xây dựng,<br />
thực hiện các quy hoạch phát triển nông nghiệp,<br />
nuôi trồng thủy sản, vùng sản xuất lúa, chiến lược<br />
phát triển nông thôn, chương trình nông thôn mới...<br />
Đến nay Tiểu vùng DHPĐ đã đạt được những kết<br />
quả đáng tự hào như: thuộc nhóm các địa phương<br />
dẫn đầu ĐBSCL về sản lượng cây ăn trái, sản lượng<br />
thủy sản nuôi trồng và giá trị xuất khẩu hàng nông<br />
thủy sản. Về trồng trọt, vùng DHPĐ đóng góp 3.487<br />
ngàn tấn (khoảng 14% sản lượng ĐBSCL), cây ăn<br />
quả có diện tích 157 ngàn ha (chiếm 51% tổng diện<br />
tích trồng ĐBSCL), dừa có sản lượng 1.014 ngàn<br />
trái (chiếm 94% tổng sản lượng ĐBSCL). Lĩnh<br />
vực chăn nuôi của tiểu vùng DHPĐ cũng khá phát<br />
triển, chiếm 50% sản lượng heo, 45% sản lượng gia<br />
cầm, 64% sản lượng bò trong ngành chăn nuôi của<br />
ĐBSCL. Về thủy sản, sản lượng khai thác đạt 347<br />
ngàn tấn (chiếm 27% sản lượng ĐBSCL) và sản<br />
lượng nuôi trồng đạt 613 ngàn tấn (15% sản lượng<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
<br />
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
ĐBSCL)4. Tuy nhiên, đi kèm với những thành tựu trên là những thách thức về môi trường, cùng những áp<br />
lực từ tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn ra, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển nông nghiệp<br />
và chất lượng cuộc sống của người dân tiểu vùng DHPĐ.<br />
Biến đổi khí hậu<br />
Biến đổi khí hậu là quá trình nhiệt độ tăng lên, thay đổi mực nước biển, sự suy giảm tổng lượng mưa,<br />
dẫn đến gia tăng quá trình xâm nhập mặn, từ đó các vấn đề cấp thoát nước, xử lý môi trường gặp khó khăn<br />
(Bảng 1)<br />
Bảng 1: Nhiệt độ trung bình khá cao các tháng trong năm tại ĐBSCL<br />
<br />
Nguồn: Bộ Khoa học và Công Nghệ (2016)<br />
Nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ gia tăng từ 33-350C lên 35-370C (hình 1)<br />
Hình 1: Sự thay đổi nhiệt độ lớn nhất trung bình thập niên 2030 so với thập niên 1980<br />
<br />
Nguồn: Lê Anh Tuấn (2009)<br />
Các ước lượng cho thấy nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng 1-30C, kết hợp với nồng độ cao hơn của<br />
khí carbon dioxide và thay đổi lượng mưa có thể làm giảm sản lượng nông nghiệp ở những nước nằm ở<br />
vĩ độ thấp. Nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng vượt quá 30C, có thể làm giảm năng suất ở mọi khu vực<br />
trên thế giới (Parry và cộng sự, 2007). Ngoài tác động tiêu cực làm giảm sản lượng nông nghiệp, biến đổi<br />
khí hậu làm gia tăng tần suất các sự kiện khí hậu cực đoan như stress nhiệt, hạn hán, lũ lụt, cũng như tăng<br />
nguy cơ cháy và bùng phát dịch hại và mầm bệnh; do đó, làm tăng sự bất ổn của sản xuất nông nghiệp trên<br />
toàn cầu (OECD, 2012). Việc suy giảm trữ lượng nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong<br />
điều kiện nắng nóng kéo dài, nhu cầu nước của cây trồng cao, cùng với tác động của nước biển dâng lên,<br />
ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng và chất lượng cây ăn quả, lúa, và nuôi trồng thủy sản.<br />
4.<br />
<br />
Dự thảo tầm nhìn chiến lược Đề án “Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Duyên hải phía Đông”<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
31<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
Tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống<br />
người dân và phát triển kinh tế xã hội sẽ được thể<br />
hiện qua sơ đồ 1<br />
Sơ đồ 1: Chuỗi dây chuyền tác động của<br />
hiện tượng biến đổi khí hậu lên hệ sinh thái, sản<br />
xuất và đời sống<br />
<br />
Nguồn: Lê Anh Tuấn (2009)<br />
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không<br />
bền vững với môi trường<br />
Trong sản xuất nông nghiệp, một trong những<br />
vấn đề nổi cộm là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực<br />
vật không bền vững với môi trường. Hàng năm có<br />
hàng chục ngàn tấn thuốc bảo vệ thực vật được sử<br />
dụng ở vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, tỷ lệ hấp thụ qua<br />
cây trồng chỉ khoảng 20%, bốc hơi 15-20%, còn lại<br />
thấm vào đất và hòa vào nước, gây ra ô nhiễm môi<br />
trường trầm trọng (Bộ Tài nguyên và Môi trường,<br />
2012). Đối với người nông dân trực tiếp phun xịt,<br />
việc tiếp xúc cường độ cao với thuốc bảo vệ thực<br />
vật mà thiếu các biện pháp bảo hộ lao động cần thiết<br />
gây nguy cơ nhiễm độc, ảnh hưởng lâu dài đến sức<br />
khỏe, có thể dẫn đến các bệnh như ung thư, rối loạn<br />
nội tiết tố, bệnh ngoài da, bệnh phổi,...Một bộ phận<br />
nông dân thường có xu hướng sử dụng các thuốc<br />
bảo vệ thực vật không rõ nguồn gốc với giá rẻ và<br />
công dụng mạnh mà ít quan tâm đến tính an toàn<br />
cho nông sản, bản thân, và môi trường.<br />
Ô nhiễm nguồn nước<br />
Nước thải từ sản xuất công nghiệp phần lớn<br />
chưa được xử lý, làm cho sông rạch gần các đô<br />
thị vùng ĐBSCL như An Giang, Vĩnh Long, Cần<br />
Thơ, Long An, Hậu Giang, Cà Mau,... đều có hàm<br />
lượng các chất thải BOD, SS, N- NH3, amoniac,<br />
coliforms,... cao hơn tiêu chuẩn cho phép, làm ô<br />
nhiễm nghiêm trọng các sông, kênh rạch ĐBSCL<br />
(2013). Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường còn gia<br />
tăng do hoạt động nông nghiệp. Mỗi năm, nông dân<br />
ĐBSCL sử dụng đến hàng ngàn tấn thuốc bảo vệ<br />
<br />
32<br />
<br />
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
thực vật, lượng phân bón dư thừa trong sản xuất lúa<br />
tại ĐBSCL đã phát thải gần 140.000 tấn/năm và ô<br />
nhiễm môi trường trong ngành thủy sản cũng đang<br />
ở mức báo động với khoảng 5.000ha mặt nước nuôi<br />
cá tra, ước tính mỗi năm có gần 1 triệu tấn chất thải<br />
có nguồn gốc từ thức ăn nuôi cá trong các ao thải<br />
ra môi trường, đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi<br />
trường, sức khỏe của chính bà con.<br />
Thêm vào đó, nguồn nước dưới đất có vai trò<br />
đặc biệt trò quan trọng cho cấp nước sinh hoạt đô<br />
thị, nông thôn, công nghiệp ở ĐBSCL (80% dân<br />
số nông thôn sử dụng nguồn nước dưới đất, nhiều<br />
đô thị phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước dưới<br />
đất, như các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,<br />
Trà Vinh...). Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn<br />
nước sạch của người dân ĐBSCL còn hạn chế và<br />
gặp nhiều khó khăn với tỷ lệ hộ gia đình sử dụng<br />
nước mưa làm nguồn nước ăn uống chính chiếm<br />
đến 14,6% (cao hơn so với mặt bằng chung của cả<br />
nước 12,8%). Ngoài ra, có 17,9% hộ gia đình chọn<br />
nguồn nước sinh hoạt khác, chủ yếu trong bối cảnh<br />
ĐBSCL là nước từ sông, kênh rạch không đảm bảo<br />
vệ sinh (Tổng Cục Thống kê, 2010).<br />
Suy giảm chất lượng nguồn nước ngầm<br />
Hiện trạng sử dụng nước ngầm tại Trà Vinh cho<br />
các hoạt động nông nghiệp (canh tác hoa màu) chăn<br />
nuôi heo, thuỷ sản (nuôi tôm), công nghiệp- tiểu thủ<br />
công nghiệp (chế biến thuỷ sản, nước lọc, nước đá);<br />
dịch vụ (nhà hàng, khách sạn) và sinh hoạt (bệnh<br />
viện, trường học, cơ quan,...) cho thấy nguồn nước<br />
ngầm được người dân khai thác liên tục trên khu<br />
vực đất trồng cát trong thời gian khoảng 6 tháng<br />
mùa khô cho thâm canh màu đang ở mức báo động.<br />
Số lượng nước ngầm khai thác cho sinh hoạt và<br />
dịch vụ liên tục tăng hàng năm. Kết quả nghiên cứu<br />
của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sánh (2010) cho<br />
thấy lượng nước sử dụng trong năm 2004 là khoảng<br />
80.000 m3 /tháng và lượng nước tiêu thu liên tục<br />
tăng trung bình/tháng là 180.000 m3 /tháng và hơn<br />
200.000 m3 /tháng tương ứng với năm 2006 và năm<br />
2008. Tốc độ gia tăng khai thác và sử dụng nước<br />
ngầm tăng gấp 10 lần trong khoảng 2 năm 20042006. Tổng khối lượng nước sinh hoạt của cả năm<br />
2004 là 1 triệu m3 /năm, trong khi đó lượng nước<br />
sinh hoạt năm 2008 là hơn 2.5 triệu m3 /năm. Chất<br />
lượng nước ngầm đối với các chỉ tiêu hóa lý đều đạt<br />
tiêu chuẩn (TCVN 5944-1995). Tuy nhiên, trong<br />
nước ngầm tại hầu hết các điểm trên địa bàn tỉnh<br />
đều nhiễm vi sinh vật Coliform khá cao. Công tác<br />
quản lý và sử dụng nguồn nước ngầm đối với chính<br />
quyền địa phương chưa chặt chẽ do nhiều vướng<br />
mắc trong tổ chức thực hiện và quản lý. Hiện tại<br />
và tương lai các thách thức cho người dân đó là sự<br />
sụt giảm mực nước ngầm do khai thác gần như quá<br />
mức. Người dân cần thiết được tiếp cận với các biện<br />
pháp kỹ thuật nhằm giảm chi phí bơm tưới và tiết<br />
kiệm nước nhằm bảo về tài nguyên nước ngầm bền<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br />
vững (Nguyễn Văn Sánh, 2010).<br />
Thách thức về đất nhiễm mặn<br />
Vùng DHPĐ là vùng có tài nguyên đất đai đa<br />
dạng với tỷ trọng đất phù sa chiếm 26,4% tổng diện<br />
tích đất tự nhiên toàn vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, diện<br />
tích đất nhiễm mặn của tiểu vùng cũng khá lớn, tập<br />
trung tại Bến Tre (24,1%), Tiền Giang (14,6%)<br />
và Trà Vinh (25,7%). Bên cạnh đó, đất phèn cũng<br />
khá lớn, chiếm khoảng 17,8% diện tích toàn vùng<br />
(trong đó Vĩnh Long (29,7%), Tiền Giang (19,4%)<br />
và Trà Vinh (18%). Trong đó, toàn ĐBSCL có đến<br />
92 ngàn ha diện tích rừng ngập mặn (Cà Mau chiếm<br />
70,2%, còn lại phân bố rải rác dọc theo ven biển các<br />
tỉnh Long An, Bến Tre, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc<br />
Trăng, Bạc Liêu và Tiền Giang (Tổng Cục Thống<br />
kê, 2017). Việc tăng diện tích đất nhiễm mặn sẽ dẫn<br />
đến giảm hiệu suất sử dụng đất cũng như làm gia<br />
tăng tăng giá thành chi phí cho cải tạo đất. Bên cạnh<br />
đó, xâm nhập mặn cũng làm biến đổi hệ sinh thái<br />
ven biển<br />
Thực tiễn trên cho thấy thách thức về môi<br />
trường và sự suy giảm về chất lượng các nguồn lực<br />
tự nhiên đã kéo theo là môi trường sống của người<br />
dân ngày càng suy thoái trầm trọng. Thật vậy, sự ô<br />
nhiễm này thách thức chất lượng tăng trưởng, chất<br />
lượng cuộc sống người dân và tính bền vững của<br />
môi trường. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển bền vững<br />
nông nghiệp thì rất cần có các giải pháp để nhân<br />
rộng mô hình tăng trưởng xanh trong nông nghiệp.<br />
Qua phân tích thực trạng về phát triển nông<br />
nghiệp như trên cho thấy tiểu vùng DHPĐ đang<br />
theo đuổi mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào<br />
các yếu tố đầu vào là đất đai, nguồn nước sông<br />
Mekong, nguồn lực tự nhiên. Bên cạnh điều kiện<br />
sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên, giá cả<br />
các nguyên liệu đầu vào biến động theo xu hướng<br />
ngày càng tăng, qui trình sản xuất nông nghiệp và<br />
thủy sản chưa mang tính bền vững, khả năng gây<br />
hại môi trường còn cao đã bộc lộ quá nhiều bất cập<br />
trong khi những sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy<br />
sản thế mạnh của tiểu vùng DHPĐ đang phải chịu<br />
sức ép lớn từ cạnh tranh ở cả thị trường nội địa và<br />
thị trường quốc tế. Điều này tạo áp lực đòi hỏi tiểu<br />
vùng DHPĐ phải chuyển đổi sang mô hình tăng<br />
trưởng mới, hiệu quả và bền vững hơn cho tỉnh, một<br />
mô hình tăng trưởng theo chiều sâu theo điều kiện<br />
đặc thù của tỉnh.<br />
Trong bối cảnh tái cơ cấu kinh tế và đổi mới<br />
môi hình tăng trưởng, tiểu vùng DHPĐ cũng phê<br />
duyệt các đề án tái cơ cấu ngành, tái cơ cấu nền<br />
kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng<br />
theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng<br />
lực cạnh tranh... Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Bến<br />
Tre đã ban hành Chương trình hành động số 604/<br />
CTr-UBND thực hiện đề án tái cơ cấu kinh tế gắn<br />
với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng<br />
nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh<br />
<br />
Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br />
<br />
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
tranh tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016-2020, tỉnh Vĩnh<br />
Long ban hành kế hoạch thực hiện Đề án cơ cấu<br />
lại ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long theo hướng<br />
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai<br />
đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030, UBND<br />
tỉnh Tiền Giang đã có Kế hoạch hành động 83/KHUBND tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng<br />
xác định sản phẩm chủ lực, có lợi thế để tập trung<br />
đầu tư về khoa học - công nghệ, cơ sở hạ tầng, hạ<br />
tầng kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất, hình thành chuỗi<br />
giá trị các ngành hàng để tạo bước đột phá về sức<br />
cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền<br />
vững, góp phần xây dựng nông thôn mới. Tỉnh Trà<br />
Vinh cũng ban hành kế hoạch thực hiện đề án tái cơ<br />
cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị<br />
gia tăng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, các đề<br />
án trên chỉ mới dừng lại ở việc thúc đẩy dịch chuyển<br />
tỷ trọng đóng góp về lượng giữa các ngành mà chưa<br />
đề cập đến mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, gắn<br />
với những thách thức về biến đổi khí hậu. Do đó,<br />
việc đề xuất các giải pháp để thúc đẩy phát triển<br />
nông nghiệp theo mô hình là thật sự cần thiết và qua<br />
đó đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững của<br />
tiểu vùng DHPĐ trong điều kiện thích ứng với biến<br />
đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan, đó<br />
là mô hình tăng trưởng xanh.<br />
4. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp<br />
theo mô hình tăng trưởng xanh<br />
Những thách thức trên đặt ra yêu cầu phải<br />
hướng đến một nền sản xuất nông nghiệp xanh hơn,<br />
bền vững hơn và hướng đến tất cả mọi người. Theo<br />
“Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ<br />
2011-2020 và tầm nhìn đến 2050” được Thủ tướng<br />
Chính phủ phê duyệt năm 2012, tập trung vào 3<br />
nhiệm vụ chiến lược: (i) giảm cường độ phát thải<br />
khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch,<br />
năng lượng tái tạo; (ii) xanh hóa sản xuất; (iii) xanh<br />
hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Trên<br />
cơ sở chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và<br />
những thách thức trong phát triển nông nghiệp của<br />
tiểu vùng DHPĐ, chúng tôi xin đề xuất một số giải<br />
pháp góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo<br />
mô hình tăng trưởng xanh, cụ thể như sau:<br />
4.1. Nhóm giải pháp thể chế, chính sách, quản<br />
lý nhà nước<br />
Về thể chế, chính sách, quản lý nhà nước đối với<br />
phát triển bền vững nông nghiệp theo mô hình tăng<br />
trưởng xanh, một số giải pháp đề xuất như sau:<br />
- Tăng cường hợp tác toàn diện, liên tỉnh trong<br />
tiểu vùng DHPĐ, vùng ĐBSCL và toàn khu vực<br />
phía nam trên nhiều mặt, trên cơ sở tài nguyên<br />
nước, đảm bảo cân bằng nước phù hợp với các xu<br />
thế diễn biến nguồn nước trong tương lai và phải<br />
bảo đảm tính tổng thể, thống nhất. Giải pháp cấp<br />
nước quy mô vùng bằng cách kết hợp giữa các nhà<br />
máy cấp nước ở các tỉnh, đảm bảo hài hòa, phù hợp<br />
với điều kiện nguồn nước của khu vực.<br />
<br />
33<br />
<br />