intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại tiểu vùng duyên hải phía Đồng bằng Sông Cửu Long

Chia sẻ: Nguyễn Văn H | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

43
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại tiểu vùng duyên hải phía Đồng bằng Sông Cửu Long" tiến hành phân tích những thách thức trong phát triển nông nghiệp hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp.phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại.tiểu vùng Duyên hải phía Đông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại tiểu vùng duyên hải phía Đồng bằng Sông Cửu Long

CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br /> <br /> PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO MÔ HÌNH<br /> TĂNG TRƯỞNG XANH TẠI TIỂU VÙNG DUYÊN HẢI<br /> PHÍA ĐÔNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br /> Diệp Thanh Tùng<br /> <br /> Đại học Trà Vinh; Email: dttung@tvu.edu.vn<br /> <br /> Lê Thị Thu Diềm<br /> <br /> Đại học Trà Vinh; Email: ltdiem@tvu.edu.vn<br /> Thông tin chung<br /> Ngày nhận bài: 25/10/2018<br /> Ngày phản biện: 29/10/2018<br /> Ngày duyệt đăng: 9/11/2018<br /> Title<br /> DEVELOPMENT OF AGRICULTURE<br /> BY MODELING GREEN GROWTH<br /> IN EAST COASTAL SUB-REGION OF<br /> THE MEKONG RIVER DELTA<br /> Từ khóa<br /> Phía đông Đồng bằng sông Cửu Long;<br /> Tiểu vùng duyên hải phía đông Đồng<br /> bằng sông Cửu Long; Mô hình tăng<br /> trưởng xanh, Phát triển nông nghiệp,<br /> nông thôn; Nguồn lực.<br /> Keywords<br /> East of the Mekong River Delta; The<br /> East Coastal sub-region of the Mekong<br /> river delta; Green growth model;<br /> Agricultural and dural development;<br /> Power.<br /> <br /> T<br /> <br /> iểu vùng Duyên hải phía Đông đồng bằng sông Cửu<br /> Long gồm những tỉnh có thế mạnh về phát triển nông<br /> nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây ở vùng này việc<br /> sử dụng các nguồn lực chưa thực sự hiệu quả. Những thách<br /> thức trong quá trình phát triển nông nghiệp của bối cảnh<br /> toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, thách thức môi trường của<br /> tiểu vùng Duyên hải phía Đông, cho thấy cần thiết phải có<br /> phương án sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn trong tương<br /> lai, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp theo mô hình tăng<br /> trưởng xanh. Bài viết phân tích những thách thức trong phát<br /> triển nông nghiệp hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp<br /> phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại<br /> tiểu vùng Duyên hải phía Đông.<br /> Abstract<br /> The East Coastal sub-region of the Mekong delta consists<br /> of provinces with strong agricultural development. However,<br /> the use of resources in this area in recent years has not been<br /> effective. Challenges in the development of agriculture<br /> in the context of globalization, climate change and the<br /> environmental challenge of the East Coastal sub-region<br /> suggest a need for more efficient use of resources in the<br /> future, especially in the field of agriculture under the green<br /> growth model. This article analyzes the current challenges<br /> in agricultural development, thereby proposing a number of<br /> options for agricultural development under the green growth<br /> model in the East Coastal sub-region.<br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Tiểu vùng Duyên Hải phía Đông (tiểu vùng<br /> DHPĐ) bao gồm 4 tỉnh: Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh<br /> Long và Trà Vinh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Cửu<br /> Long (ĐBSCL), có tốc độ phát triển kinh tế khá<br /> cao so với trung bình vùng trong những năm gần<br /> đây (năm 2017 tăng trưởng kinh tế của Trà Vinh<br /> là 12,09%, Tiền Giang là 7,4%, Bến Tre là 7,23%,<br /> Vĩnh Long là 5,62%)1. Đây là những tỉnh có thế<br /> mạnh về phát triển nông nghiệp2, được thiên nhiên<br /> ưu đãi với gần 70% diện tích đất phù sa, hệ thống<br /> Tổng hợp từ báo cáo năm 2017 của các tỉnh thuộc tiểu vùng <br /> Niên giám thống kê 2016, Khu vực kinh tế nông-lâm-thủy sản chiếm 34,2%<br /> GDP toàn tiểu vùng Duyên hải phía Đông. <br /> 1.<br /> 2.<br /> <br /> Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br /> <br /> sông ngòi nối liền các tỉnh, là cửa ngõ ra biển đông,<br /> với tổng dân số hơn 5 triệu người và có tổng diện<br /> tích gần 8.788,9km2, chiếm 21,5% tổng diện tích<br /> đất tự nhiên, 20% tổng diện tích đất nông nghiệp<br /> của toàn vùng ĐBSCL. Trong đó có tới trên 85%<br /> diện tích đất là dùng trong sản xuất nông nghiệp.<br /> Hơn nữa, Tiểu vùng DHPĐ dẫn đầu cả vùng ĐBSCL về sản lượng thu hoạch cây ăn quả, số lượng<br /> vật nuôi cũng khá phát triển và đóng vai trò quan<br /> trọng cho ngành chăn nuôi ĐBSCL.<br /> Tuy nhiên, vấn đề sử dụng các nguồn lực đang<br /> có dấu hiệu suy giảm và chưa thực sự hiệu quả.<br /> Các yếu tố đầu vào qui trình sản xuất nông nghiệp<br /> <br /> 29<br /> <br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br /> và thủy sản chưa mang tính bền vững. Bên cạnh<br /> đó, các tỉnh tiểu vùng DHPĐ còn đương đầu với<br /> khó khăn, thách thức do biến đổi khí hậu, sản xuất<br /> nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản bị đe dọa và<br /> đời sống nông dân nghèo trong khu vực sẽ bị ảnh<br /> hưởng nghiêm trọng. Có thể thấy rõ, do việc xây<br /> dựng các đập thủy điện của các nước thượng nguồn<br /> như Campuchia, Lào, Thái Lan và Trung Quốc<br /> nên nguồn nước ngọt đổ về từ thượng nguồn sông<br /> Mekong hạn chế, gây ra tình trạng hạn hán. Tình<br /> trạng đất nhiễm mặn ngày càng nghiêm trọng ở một<br /> số tỉnh, điển hình, tại tỉnh Trà Vinh hiện nay, nước<br /> mặn dâng cao trên sông Tiền và sông Hậu và xâm<br /> nhập sâu hơn 60km; toàn tỉnh bị nước mặn 6 - 8%<br /> bao vây3; nước trong nội đồng đang cạn kiệt, không<br /> đủ bơm tát trong khi ban ngày nắng gắt kéo dài đã<br /> khiến nhiều diện tích lúa bị chết khô, ngộ độc hữu<br /> cơ. Đến nay toàn tỉnh đã có gần 3.000ha lúa bị mất<br /> trắng, trong khi 38.000ha đông xuân không đủ nước<br /> bơm tát. Tại Bến Tre, nước ngọt là vấn đề khó khăn<br /> nhất, hiện nay, địa phương có trên 60.000 hộ dân<br /> phải dùng nước sinh hoạt nhiễm mặn. Nhiều nghiên<br /> cứu của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường chỉ ra tình<br /> trạng suy giảm về nguồn nước ngầm và sụt lún đất,<br /> thách thức về môi trường diễn ra phổ biến ở các tỉnh<br /> tiểu vùng DHPĐ.<br /> Xuất phát từ những thách thức trong quá trình<br /> phát triển nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu quá,<br /> biến đổi khí hậu, thách thức môi trường của tiểu<br /> vùng DHPĐ, cho thấy cần thiết phải có phương án<br /> sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo hiệu quả,<br /> năng suất và chất lượng hơn trong tương lai.<br /> 2. Cơ sở lý thuyết về tăng trưởng xanh và mô<br /> hình tăng trưởng xanh trong nông nghiệp<br /> Tăng trưởng xanh là một vấn đề thu hút sự quan<br /> tâm đặc biệt của nhiều quốc gia và tổ chức trên thế<br /> giới bởi đây được xem là mô hình tăng trưởng của<br /> tương lai. Khái niệm “tăng trưởng xanh” có nguồn<br /> gốc từ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Tăng<br /> trưởng xanh được định nghĩa là kết hợp hài hòa tăng<br /> trưởng kinh tế với sự bền vững môi trường, đồng<br /> thời nâng cao hiệu quả sinh thái của tăng trưởng<br /> kinh tế và tăng cường sự phối hợp giữa yếu tố kinh<br /> tế và môi trường (UNDESA, 2012). Năm 2009,<br /> nước thành viên OECD đã thông qua tuyên bố nhận<br /> định rằng xanh hóa (green) và tăng trưởng (growth)<br /> có thể đi cùng với nhau, theo đó chiến lược tăng<br /> trưởng xanh mà có thể tích hợp các khía cạnh kinh<br /> tế, môi trường, công nghệ, tài chính và phát triển<br /> vào một khuôn khổ toàn diện. Tại Việt Nam, Hội<br /> nghị cấp cao ASEAN năm 2010 đã thông qua chính<br /> sách phục hồi và phát triển bền vững, trong đó<br /> nhấn mạnh đến chiến lược dài hạn nhằm đảm bảo<br /> sự bền vững về môi trường và sử dụng tài nguyên<br /> thiên nhiên nhằm đa dạng hóa và bảo đảm khả năng<br /> Theo trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Trà Vinh.<br /> Trích: https://vov.vn/tin-24h/tra- vinh-ben-tre-no -luc-tiep -nuoc -khac -phuc<br /> -han-man-4 89516.vov<br /> 3.<br /> <br /> 30<br /> <br /> CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> phục hồi kinh tế. Theo quan điểm của World Bank<br /> (2012), tăng trưởng xanh là mô hình tăng trưởng<br /> hiệu quả, sạch và có tính đàn hồi (resilient) - hiệu<br /> quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, sạch<br /> trong giảm thiểu tác động gây ô nhiễm môi trường,<br /> và có tính đàn hồi, chống chịu được trước các thiên<br /> tai, thảm họa thiên nhiên (natural hazards) do tôn<br /> trọng giới hạn tuyệt đối của môi trường sinh thái.<br /> Nhìn chung, các định nghĩa đều nhấn mạnh đến<br /> phát triển kinh tế nhưng vẫn đảm bảo môi trường,<br /> hiệu quả sử dụng tài nguyên, đối phó với biến đổi<br /> khí hậu, cộng hưởng các công nghệ và dịch vụ, sản<br /> phẩm xanh từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản<br /> xuất và chất lượng xã hội.<br /> Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên<br /> Hiệp Quốc (FAO, 2012), khái niệm tăng trưởng<br /> xanh trong nông nghiệp được xem xét trong khuôn<br /> khổ của Xanh hóa nền kinh tế với Nông nghiệp<br /> (Greening the Economy with Agriculture - GE).<br /> Theo đó, xanh hóa nền kinh tế với Nông nghiệp<br /> (GEA) bao gồm các nội dung: (i) đảm bảo an ninh<br /> lương thực và dinh dưỡng thông qua sự cân bằng<br /> thích hợp giữa sản lượng sản xuất và thương mại,<br /> (ii) đảm bảo sinh kế ở khu vực nông thôn, (iii) sử<br /> dụng kiến thức truyền thống và khoa học để duy trì<br /> bền vững các hệ sinh thái.<br /> Việc nghiên cứu mô hình tăng trưởng xanh trong<br /> nông nghiệp trong bối cảnh hiện nay là thật sự cần<br /> thiết, góp phần điều chỉnh trong sử dụng nhân lực,<br /> nguồn lực tài chính trong ngắn hạn, đồng thời có<br /> tác động tích cực trong củng cố về môi trường bền<br /> vững, tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội trong<br /> dài hạn.<br /> 3. Thực trạng và những thách thức trong<br /> phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng<br /> xanh<br /> Tiểu vùng DHPĐ là nơi có sản lượng lúa và thủy<br /> sản lớn nhất vùng ĐBSCL. Trong thực tế, các tỉnh<br /> trong tiểu vùng DHPĐ cũng đã chủ động xây dựng,<br /> thực hiện các quy hoạch phát triển nông nghiệp,<br /> nuôi trồng thủy sản, vùng sản xuất lúa, chiến lược<br /> phát triển nông thôn, chương trình nông thôn mới...<br /> Đến nay Tiểu vùng DHPĐ đã đạt được những kết<br /> quả đáng tự hào như: thuộc nhóm các địa phương<br /> dẫn đầu ĐBSCL về sản lượng cây ăn trái, sản lượng<br /> thủy sản nuôi trồng và giá trị xuất khẩu hàng nông<br /> thủy sản. Về trồng trọt, vùng DHPĐ đóng góp 3.487<br /> ngàn tấn (khoảng 14% sản lượng ĐBSCL), cây ăn<br /> quả có diện tích 157 ngàn ha (chiếm 51% tổng diện<br /> tích trồng ĐBSCL), dừa có sản lượng 1.014 ngàn<br /> trái (chiếm 94% tổng sản lượng ĐBSCL). Lĩnh<br /> vực chăn nuôi của tiểu vùng DHPĐ cũng khá phát<br /> triển, chiếm 50% sản lượng heo, 45% sản lượng gia<br /> cầm, 64% sản lượng bò trong ngành chăn nuôi của<br /> ĐBSCL. Về thủy sản, sản lượng khai thác đạt 347<br /> ngàn tấn (chiếm 27% sản lượng ĐBSCL) và sản<br /> lượng nuôi trồng đạt 613 ngàn tấn (15% sản lượng<br /> <br /> Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br /> <br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br /> <br /> CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> ĐBSCL)4. Tuy nhiên, đi kèm với những thành tựu trên là những thách thức về môi trường, cùng những áp<br /> lực từ tình trạng biến đổi khí hậu đang diễn ra, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển nông nghiệp<br /> và chất lượng cuộc sống của người dân tiểu vùng DHPĐ.<br /> Biến đổi khí hậu<br /> Biến đổi khí hậu là quá trình nhiệt độ tăng lên, thay đổi mực nước biển, sự suy giảm tổng lượng mưa,<br /> dẫn đến gia tăng quá trình xâm nhập mặn, từ đó các vấn đề cấp thoát nước, xử lý môi trường gặp khó khăn<br /> (Bảng 1)<br /> Bảng 1: Nhiệt độ trung bình khá cao các tháng trong năm tại ĐBSCL<br /> <br /> Nguồn: Bộ Khoa học và Công Nghệ (2016)<br /> Nhiệt độ cao nhất trung bình trong mùa khô sẽ gia tăng từ 33-350C lên 35-370C (hình 1)<br /> Hình 1: Sự thay đổi nhiệt độ lớn nhất trung bình thập niên 2030 so với thập niên 1980<br /> <br /> Nguồn: Lê Anh Tuấn (2009)<br /> Các ước lượng cho thấy nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng 1-30C, kết hợp với nồng độ cao hơn của<br /> khí carbon dioxide và thay đổi lượng mưa có thể làm giảm sản lượng nông nghiệp ở những nước nằm ở<br /> vĩ độ thấp. Nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng vượt quá 30C, có thể làm giảm năng suất ở mọi khu vực<br /> trên thế giới (Parry và cộng sự, 2007). Ngoài tác động tiêu cực làm giảm sản lượng nông nghiệp, biến đổi<br /> khí hậu làm gia tăng tần suất các sự kiện khí hậu cực đoan như stress nhiệt, hạn hán, lũ lụt, cũng như tăng<br /> nguy cơ cháy và bùng phát dịch hại và mầm bệnh; do đó, làm tăng sự bất ổn của sản xuất nông nghiệp trên<br /> toàn cầu (OECD, 2012). Việc suy giảm trữ lượng nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong<br /> điều kiện nắng nóng kéo dài, nhu cầu nước của cây trồng cao, cùng với tác động của nước biển dâng lên,<br /> ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng và chất lượng cây ăn quả, lúa, và nuôi trồng thủy sản.<br /> 4.<br /> <br /> Dự thảo tầm nhìn chiến lược Đề án “Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Duyên hải phía Đông”<br /> <br /> Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br /> <br /> 31<br /> <br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br /> Tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống<br /> người dân và phát triển kinh tế xã hội sẽ được thể<br /> hiện qua sơ đồ 1<br /> Sơ đồ 1: Chuỗi dây chuyền tác động của<br /> hiện tượng biến đổi khí hậu lên hệ sinh thái, sản<br /> xuất và đời sống<br /> <br /> Nguồn: Lê Anh Tuấn (2009)<br /> Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không<br /> bền vững với môi trường<br /> Trong sản xuất nông nghiệp, một trong những<br /> vấn đề nổi cộm là việc sử dụng thuốc bảo vệ thực<br /> vật không bền vững với môi trường. Hàng năm có<br /> hàng chục ngàn tấn thuốc bảo vệ thực vật được sử<br /> dụng ở vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, tỷ lệ hấp thụ qua<br /> cây trồng chỉ khoảng 20%, bốc hơi 15-20%, còn lại<br /> thấm vào đất và hòa vào nước, gây ra ô nhiễm môi<br /> trường trầm trọng (Bộ Tài nguyên và Môi trường,<br /> 2012). Đối với người nông dân trực tiếp phun xịt,<br /> việc tiếp xúc cường độ cao với thuốc bảo vệ thực<br /> vật mà thiếu các biện pháp bảo hộ lao động cần thiết<br /> gây nguy cơ nhiễm độc, ảnh hưởng lâu dài đến sức<br /> khỏe, có thể dẫn đến các bệnh như ung thư, rối loạn<br /> nội tiết tố, bệnh ngoài da, bệnh phổi,...Một bộ phận<br /> nông dân thường có xu hướng sử dụng các thuốc<br /> bảo vệ thực vật không rõ nguồn gốc với giá rẻ và<br /> công dụng mạnh mà ít quan tâm đến tính an toàn<br /> cho nông sản, bản thân, và môi trường.<br /> Ô nhiễm nguồn nước<br /> Nước thải từ sản xuất công nghiệp phần lớn<br /> chưa được xử lý, làm cho sông rạch gần các đô<br /> thị vùng ĐBSCL như An Giang, Vĩnh Long, Cần<br /> Thơ, Long An, Hậu Giang, Cà Mau,... đều có hàm<br /> lượng các chất thải BOD, SS, N- NH3, amoniac,<br /> coliforms,... cao hơn tiêu chuẩn cho phép, làm ô<br /> nhiễm nghiêm trọng các sông, kênh rạch ĐBSCL<br /> (2013). Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường còn gia<br /> tăng do hoạt động nông nghiệp. Mỗi năm, nông dân<br /> ĐBSCL sử dụng đến hàng ngàn tấn thuốc bảo vệ<br /> <br /> 32<br /> <br /> CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> thực vật, lượng phân bón dư thừa trong sản xuất lúa<br /> tại ĐBSCL đã phát thải gần 140.000 tấn/năm và ô<br /> nhiễm môi trường trong ngành thủy sản cũng đang<br /> ở mức báo động với khoảng 5.000ha mặt nước nuôi<br /> cá tra, ước tính mỗi năm có gần 1 triệu tấn chất thải<br /> có nguồn gốc từ thức ăn nuôi cá trong các ao thải<br /> ra môi trường, đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi<br /> trường, sức khỏe của chính bà con.<br /> Thêm vào đó, nguồn nước dưới đất có vai trò<br /> đặc biệt trò quan trọng cho cấp nước sinh hoạt đô<br /> thị, nông thôn, công nghiệp ở ĐBSCL (80% dân<br /> số nông thôn sử dụng nguồn nước dưới đất, nhiều<br /> đô thị phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước dưới<br /> đất, như các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,<br /> Trà Vinh...). Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn<br /> nước sạch của người dân ĐBSCL còn hạn chế và<br /> gặp nhiều khó khăn với tỷ lệ hộ gia đình sử dụng<br /> nước mưa làm nguồn nước ăn uống chính chiếm<br /> đến 14,6% (cao hơn so với mặt bằng chung của cả<br /> nước 12,8%). Ngoài ra, có 17,9% hộ gia đình chọn<br /> nguồn nước sinh hoạt khác, chủ yếu trong bối cảnh<br /> ĐBSCL là nước từ sông, kênh rạch không đảm bảo<br /> vệ sinh (Tổng Cục Thống kê, 2010).<br /> Suy giảm chất lượng nguồn nước ngầm<br /> Hiện trạng sử dụng nước ngầm tại Trà Vinh cho<br /> các hoạt động nông nghiệp (canh tác hoa màu) chăn<br /> nuôi heo, thuỷ sản (nuôi tôm), công nghiệp- tiểu thủ<br /> công nghiệp (chế biến thuỷ sản, nước lọc, nước đá);<br /> dịch vụ (nhà hàng, khách sạn) và sinh hoạt (bệnh<br /> viện, trường học, cơ quan,...) cho thấy nguồn nước<br /> ngầm được người dân khai thác liên tục trên khu<br /> vực đất trồng cát trong thời gian khoảng 6 tháng<br /> mùa khô cho thâm canh màu đang ở mức báo động.<br /> Số lượng nước ngầm khai thác cho sinh hoạt và<br /> dịch vụ liên tục tăng hàng năm. Kết quả nghiên cứu<br /> của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sánh (2010) cho<br /> thấy lượng nước sử dụng trong năm 2004 là khoảng<br /> 80.000 m3 /tháng và lượng nước tiêu thu liên tục<br /> tăng trung bình/tháng là 180.000 m3 /tháng và hơn<br /> 200.000 m3 /tháng tương ứng với năm 2006 và năm<br /> 2008. Tốc độ gia tăng khai thác và sử dụng nước<br /> ngầm tăng gấp 10 lần trong khoảng 2 năm 20042006. Tổng khối lượng nước sinh hoạt của cả năm<br /> 2004 là 1 triệu m3 /năm, trong khi đó lượng nước<br /> sinh hoạt năm 2008 là hơn 2.5 triệu m3 /năm. Chất<br /> lượng nước ngầm đối với các chỉ tiêu hóa lý đều đạt<br /> tiêu chuẩn (TCVN 5944-1995). Tuy nhiên, trong<br /> nước ngầm tại hầu hết các điểm trên địa bàn tỉnh<br /> đều nhiễm vi sinh vật Coliform khá cao. Công tác<br /> quản lý và sử dụng nguồn nước ngầm đối với chính<br /> quyền địa phương chưa chặt chẽ do nhiều vướng<br /> mắc trong tổ chức thực hiện và quản lý. Hiện tại<br /> và tương lai các thách thức cho người dân đó là sự<br /> sụt giảm mực nước ngầm do khai thác gần như quá<br /> mức. Người dân cần thiết được tiếp cận với các biện<br /> pháp kỹ thuật nhằm giảm chi phí bơm tưới và tiết<br /> kiệm nước nhằm bảo về tài nguyên nước ngầm bền<br /> <br /> Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br /> <br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc <br /> vững (Nguyễn Văn Sánh, 2010).<br /> Thách thức về đất nhiễm mặn<br /> Vùng DHPĐ là vùng có tài nguyên đất đai đa<br /> dạng với tỷ trọng đất phù sa chiếm 26,4% tổng diện<br /> tích đất tự nhiên toàn vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, diện<br /> tích đất nhiễm mặn của tiểu vùng cũng khá lớn, tập<br /> trung tại Bến Tre (24,1%), Tiền Giang (14,6%)<br /> và Trà Vinh (25,7%). Bên cạnh đó, đất phèn cũng<br /> khá lớn, chiếm khoảng 17,8% diện tích toàn vùng<br /> (trong đó Vĩnh Long (29,7%), Tiền Giang (19,4%)<br /> và Trà Vinh (18%). Trong đó, toàn ĐBSCL có đến<br /> 92 ngàn ha diện tích rừng ngập mặn (Cà Mau chiếm<br /> 70,2%, còn lại phân bố rải rác dọc theo ven biển các<br /> tỉnh Long An, Bến Tre, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc<br /> Trăng, Bạc Liêu và Tiền Giang (Tổng Cục Thống<br /> kê, 2017). Việc tăng diện tích đất nhiễm mặn sẽ dẫn<br /> đến giảm hiệu suất sử dụng đất cũng như làm gia<br /> tăng tăng giá thành chi phí cho cải tạo đất. Bên cạnh<br /> đó, xâm nhập mặn cũng làm biến đổi hệ sinh thái<br /> ven biển<br /> Thực tiễn trên cho thấy thách thức về môi<br /> trường và sự suy giảm về chất lượng các nguồn lực<br /> tự nhiên đã kéo theo là môi trường sống của người<br /> dân ngày càng suy thoái trầm trọng. Thật vậy, sự ô<br /> nhiễm này thách thức chất lượng tăng trưởng, chất<br /> lượng cuộc sống người dân và tính bền vững của<br /> môi trường. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển bền vững<br /> nông nghiệp thì rất cần có các giải pháp để nhân<br /> rộng mô hình tăng trưởng xanh trong nông nghiệp.<br /> Qua phân tích thực trạng về phát triển nông<br /> nghiệp như trên cho thấy tiểu vùng DHPĐ đang<br /> theo đuổi mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào<br /> các yếu tố đầu vào là đất đai, nguồn nước sông<br /> Mekong, nguồn lực tự nhiên. Bên cạnh điều kiện<br /> sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên, giá cả<br /> các nguyên liệu đầu vào biến động theo xu hướng<br /> ngày càng tăng, qui trình sản xuất nông nghiệp và<br /> thủy sản chưa mang tính bền vững, khả năng gây<br /> hại môi trường còn cao đã bộc lộ quá nhiều bất cập<br /> trong khi những sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy<br /> sản thế mạnh của tiểu vùng DHPĐ đang phải chịu<br /> sức ép lớn từ cạnh tranh ở cả thị trường nội địa và<br /> thị trường quốc tế. Điều này tạo áp lực đòi hỏi tiểu<br /> vùng DHPĐ phải chuyển đổi sang mô hình tăng<br /> trưởng mới, hiệu quả và bền vững hơn cho tỉnh, một<br /> mô hình tăng trưởng theo chiều sâu theo điều kiện<br /> đặc thù của tỉnh.<br /> Trong bối cảnh tái cơ cấu kinh tế và đổi mới<br /> môi hình tăng trưởng, tiểu vùng DHPĐ cũng phê<br /> duyệt các đề án tái cơ cấu ngành, tái cơ cấu nền<br /> kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng<br /> theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng<br /> lực cạnh tranh... Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Bến<br /> Tre đã ban hành Chương trình hành động số 604/<br /> CTr-UBND thực hiện đề án tái cơ cấu kinh tế gắn<br /> với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng<br /> nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh<br /> <br /> Số 24 - Tháng 12 năm 2018<br /> <br /> CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> tranh tỉnh Bến Tre giai đoạn 2016-2020, tỉnh Vĩnh<br /> Long ban hành kế hoạch thực hiện Đề án cơ cấu<br /> lại ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long theo hướng<br /> nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững giai<br /> đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030, UBND<br /> tỉnh Tiền Giang đã có Kế hoạch hành động 83/KHUBND tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng<br /> xác định sản phẩm chủ lực, có lợi thế để tập trung<br /> đầu tư về khoa học - công nghệ, cơ sở hạ tầng, hạ<br /> tầng kỹ thuật, tổ chức lại sản xuất, hình thành chuỗi<br /> giá trị các ngành hàng để tạo bước đột phá về sức<br /> cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền<br /> vững, góp phần xây dựng nông thôn mới. Tỉnh Trà<br /> Vinh cũng ban hành kế hoạch thực hiện đề án tái cơ<br /> cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị<br /> gia tăng và phát triển bền vững. Tuy nhiên, các đề<br /> án trên chỉ mới dừng lại ở việc thúc đẩy dịch chuyển<br /> tỷ trọng đóng góp về lượng giữa các ngành mà chưa<br /> đề cập đến mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, gắn<br /> với những thách thức về biến đổi khí hậu. Do đó,<br /> việc đề xuất các giải pháp để thúc đẩy phát triển<br /> nông nghiệp theo mô hình là thật sự cần thiết và qua<br /> đó đảm bảo phát triển nông nghiệp bền vững của<br /> tiểu vùng DHPĐ trong điều kiện thích ứng với biến<br /> đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan, đó<br /> là mô hình tăng trưởng xanh.<br /> 4. Một số giải pháp phát triển nông nghiệp<br /> theo mô hình tăng trưởng xanh<br /> Những thách thức trên đặt ra yêu cầu phải<br /> hướng đến một nền sản xuất nông nghiệp xanh hơn,<br /> bền vững hơn và hướng đến tất cả mọi người. Theo<br /> “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ<br /> 2011-2020 và tầm nhìn đến 2050” được Thủ tướng<br /> Chính phủ phê duyệt năm 2012, tập trung vào 3<br /> nhiệm vụ chiến lược: (i) giảm cường độ phát thải<br /> khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch,<br /> năng lượng tái tạo; (ii) xanh hóa sản xuất; (iii) xanh<br /> hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Trên<br /> cơ sở chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và<br /> những thách thức trong phát triển nông nghiệp của<br /> tiểu vùng DHPĐ, chúng tôi xin đề xuất một số giải<br /> pháp góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo<br /> mô hình tăng trưởng xanh, cụ thể như sau:<br /> 4.1. Nhóm giải pháp thể chế, chính sách, quản<br /> lý nhà nước<br /> Về thể chế, chính sách, quản lý nhà nước đối với<br /> phát triển bền vững nông nghiệp theo mô hình tăng<br /> trưởng xanh, một số giải pháp đề xuất như sau:<br /> - Tăng cường hợp tác toàn diện, liên tỉnh trong<br /> tiểu vùng DHPĐ, vùng ĐBSCL và toàn khu vực<br /> phía nam trên nhiều mặt, trên cơ sở tài nguyên<br /> nước, đảm bảo cân bằng nước phù hợp với các xu<br /> thế diễn biến nguồn nước trong tương lai và phải<br /> bảo đảm tính tổng thể, thống nhất. Giải pháp cấp<br /> nước quy mô vùng bằng cách kết hợp giữa các nhà<br /> máy cấp nước ở các tỉnh, đảm bảo hài hòa, phù hợp<br /> với điều kiện nguồn nước của khu vực.<br /> <br /> 33<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2