BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------------------
LÊ THỊ ANH ĐÀO PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------------- LÊ THỊ ANH ĐÀO PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
MÃ SỐ : 62.31.12.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Hướng dẫn 1: PGS.TS. NGUYỄN THỊ NHUNG
Hướng dẫn 2: TS. LÊ THỊ KIM XUÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của
mình, cụ thể:
Tôi tên là: Lê Thị Anh Đào
Sinh ngày 03 tháng 03 năm 1963 – Tại: Quảng Ngãi
Quê quán: Quảng Ngãi
Hiện công tác tại: Khoa Ngân hàng Quốc tế Trường Đại học Ngân hảng TP.
HCM – 36 Tôn Thất Đạm – Quận 1 – TP. HCM
Là Nghiên cứu sinh khóa 09 của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
Mã số học viên: 010109040001
Cam đoan đề tài: Phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội
nhập quốc tế và khu vực
Người hướng dẫn khoa học:
- Hướng dẫn 1: PGS.TS. NGUYỄN THỊ NHUNG
- Hướng dẫn 2: TS. LÊ THỊ KIM XUÂN
Luận án được thực hiện tại Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.
Đề tài này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có
tính độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố
toàn bộ nội dung này bất kỳ ở đâu (hoặc đã công bố phải nói rõ ràng các thông
tin của tài liệu đã công bố); các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận án được
chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
TP.HCM, ngày 21 tháng 07 năm 2011
Tác giả
Lê Thị Anh Đào
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
Asean–Australia- Newzealand Khu vực thương mại tự do ASEAN- ACERFTA Free Trade Area Úc-Newzealand
Khu vực thương mại tự do ASEAN- ACFTA Asean - China Free Trade Area Trung Quốc
AFTA Asean Free Trade Area Khu vực thương mại tự do Asean
Khu vực thương mại tự do ASEAN- AJFTA Asean Japan Free Trade Area Nhật Bản
AUD Australia Dollar Đô la Úc
Tỷ giá dựa trên một rổ tiền tệ, trượt BBC Basket Band Crawl có biên độ
Bank International Settlement Ngân hàng thanh toán quốc tế BIS
Bank State Philippine NHTW Philippine BSP
CCTT Chính sách tiền tệ
CCTM cán cân thương mại
CCTT cán cân thanh toán
Common Effective Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu CEPT Preferential Tariff lực chung
China Foreign Exchange CFETS Sàn giao dịch ngoại hối Trung Quốc Trading System
CHF Franc Thụy Sỹ
Kinh doanh chênh lệch lãi suất có CIA Covered Interest arbitrage bảo hiểm rủi ro tỷ giá
CNY China Yuan Nhân dân tệ
ĐTRNN Đầu tư ra nước ngoài
EUR EURO Đồng tiền chung Châu Âu
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FED Federal Reserve System Hệ thống dự trữ liên bang Hoa Kỳ
FII Foreign Indirect Investment Đầu tư gián tiếp nước ngoài
GBP Pound Sterling Bảng Anh
GDV Giao dịch vốn
HKD HongKong Dolla Đôla Hồng Kông
IDR Rupiah Đồng Rupi của Indonesia
INR Indian Rupee Đồng Rupee của Ấn Độ
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
JPY Japan Yen Yên Nhật
KRW Won Won của Hàn Quốc
NHNN Ngân hàng nhà nước Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
Moneytary Authority of MAS Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore Singapore
MYR Malaysia Ringit Đồng Ringit Malaysia
PBOC People’s Bank of China Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
PHP Philippine Peso Đồng Peso của Philippin
State Administration of SAFE Cục Quản lý ngoại hối Foreign Exchange
SGD Singarpore Dollar Đôla Singarpore
The Society for Worldwide Hệ thống viễn thông tài chính liên SWIFT Interbank Financecial ngân hàng toàn thế giới. Telecommunication)
TCTD Tổ chức tín dụng
THB Thailand Bath Bạt Thái
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
Thị trường ngoại hối TTNH
Thị trường ngoại tệ TTNT
Thị trường không chính thức TTKCT
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng TTNTLNH
Thị trường tài chính TTTC
Untited State dollar Đô la Mỹ USD
Vietcombank Ngân hàng ngoại thương Việt Nam VCB
Vietnam Dong Đồng Việt Nam VND
World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới WTO
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu theo các loại hình giao dịch
.......................................................................................................................... 47
Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu từ năm 1990-
1995 .................................................................................................................. 52
Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu từ năm 1996-
2006 .................................................................................................................. 53
Bảng 2.4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu từ 2007-2010 .. 54
Bảng 2.5 : Kim ngạch nhập khẩu từ năm 2000-2010 ...................................... 58
Bảng 2.6 Qui mô vốn điều lệ của một số NHTM của các quốc gia trong khu
vực .................................................................................................................... 63
Bảng 2.7: Tỷ lệ % Lợi nhuận họat động kinh doanh ngoại hối
so với lợi nhuận trước thuế .............................................................................. 70
Bảng 2.8: Tỷ giá (VND/USD) từ 1990 đến 1992 .......................................... 75
Bảng 2.9: Tỷ giá (VND/USD) từ 1994 đến 1998 .......................................... 78
Bảng 2.10: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ........................ 79
Bảng 2.11: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ khách hàng ............................. 81
Bảng 2.12: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ từ năm
1995-2005 ........................................................................................................ 82
Bảng 2.13: Tỷ trọng doanh số giao dịch trên hai thị trường từ năm 2006-2010
.......................................................................................................................... 83
Bảng 2.14: Tỷ lệ mua, bán giao dịch kỳ hạn và hoán đổi trong tổng giao dịch
thị trường ngoại hối Việt Nam ......................................................................... 88
Bảng 2.15: Lượng kiều hối chính thức chuyển về Việt Nam từ năm 1999-2010
.......................................................................................................................... 97
Bảng 2.16: Diễn biến Tỷ giá bình quân liên ngân hàng và Tỷ giá bình quân thị
trường tự do từ năm 1999 - 2006 ................................................................... 113
Bảng 2.17: Tỷ giá BQLNH và tỷ giá trên thị trường tự do từ năm 2007-2010
........................................................................................................................ 115
Bảng 2.18: Dự trữ ngoại hối Việt Nam giai đoạn 2001–2010 ....................... 118
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu ........................................ 47
Biểu đồ 2.2: Khách quốc tế đến Việt nam trong thời gian từ 1995-2010 ........ 56
Biểu đồ 2.3: Lượng kiều hối và Việt Nam từ năm 1999 – 2010 ...................... 98
Biểu đồ 2.4: Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức và thị trường
tự do giai đoạn 1999-2006 ............................................................................. 114
Biểu đồ 2.5: Tỷ giá VND/USD từ năm 2007 đến năm 2010 ......................... 115
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ PHÁT TRIỂN CHƯƠNG 1:
THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ....... 1
1.1. Tổng quan về thị trường ngoại hối .............................................................. 1
1.1.1. Khái niệm, chức năng của thị trường ngoại hối ....................................... 1
1.1.2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối ........................................................... 2
1.1.3. Phân loại thị trường ngoại hối .................................................................. 3
1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động ........................................................................ 3
1.1.3.2. Theo tính chất giao dịch ........................................................................ 5
1.1.3.3. Theo tính chất pháp lý của thị trường ................................................... 6
1.1.3.4.Theo tính chất tập trung của thị trường .................................................. 6
1.1.4. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối ............................................... 7
1.1.4.1. Phân loại theo hình thức tổ chức ........................................................... 7
1.1.4.2. Phân loại theo chức năng trên thị trường .............................................. 9
1.1.5. Những nghiệp vụ trên TTNH ................................................................. 12
1.1.5.1. Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay ........................................................... 12
1.1.5.2. Nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn(Forex Forward Transaction) .................. 12
1.1.5.3. Nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối (Forex Swap Transaction) .................. 14
1.1.5.4. Giao dịch tiền tệ tương lai ................................................................... 15
1.1.5.5. Hợp đồng quyền chọn tiền tệ .............................................................. 17
1.2. Những nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường ngoại hối của một
quốc gia ............................................................................................................ 19
1.2.1 Tác động của qui luật thị trường ............................................................. 19
1.2.2. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ............................................ 20
1.2.3. Chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia ............................................ 22
1.2.3.1. Chính sách tỷ giá ................................................................................. 23
1.2.3.2. Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản vãng
lai ...................................................................................................................... 27
1.2.3.3. Chính sách quản lý ngoại hối đối với tài khoản vốn ........................... 30
1.3. Những điều kiện để phát triển TTNH trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế ....................................................................................................................... 32
1.3.1. TTNTLNH đóng vai trò trung tâm ........................................................ 33
1.3.2. Doanh số giao dịch trên TTNH phải tương thích với hoạt động ngoại
thương và đầu tư quốc tế .................................................................................. 33
1.3.3. Đồng nội tệ có khả năng chuyển đổi ...................................................... 34
1.3.4. Nguồn nhân lực có kiến thức về TTNH ................................................. 35
1.3.5. Hệ thống tài chính có đầy đủ hạ tầng cơ sở với trang bị thiết bị kỹ thuật
hiện đại ............................................................................................................. 35
1.3.6. Hệ thống quản lý giám sát thị trường tài chánh hoạt động hiệu quả ..... 36
1.3.7. TTNH có sự liên thông với thị trường tài chính của khu vực và quốc tế
.......................................................................................................................... 37
1.3.8. Một cơ chế kiểm soát ngoại hối thông thoáng và một chính sách tỷ giá
linh hoạt. ........................................................................................................... 37
1.4. Những bài học kinh nghiệm ...................................................................... 38
Kết luận chương 1 ............................................................................................ 45
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM ...... 46
2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH TTNH TRÊN THẾ GIỚI .............................. 46
2.1.1. Nhận định chung về thị trường ngoại hối thế giới ................................. 46
2.1.2. Những nét đặc trưng của TTNH Châu Á trong giai đoạn hiện nay ....... 49
2.2. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế đến sự phát triển TTNH Việt
Nam .................................................................................................................. 52
2.2.1. Nguồn cung ngoại tệ gia tăng do hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài,
chuyển tiền kiều hối, xuất khẩu phát triển ...................................................... 52
2.2.2. Nguồn cung ngoại tệ từ những hoạt động khác gia tăng ....................... 55
2.2.3. Cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu gia tăng .................................... 57
2.2.5. Tăng cường sự hợp tác hổ trợ và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các tổ
chức kinh tế, tài chính của Việt Nam ............................................................... 59
2.2.6. Đối mặt với những bất ổn do quá trình mở cửa thị trường tài chính ..... 60
2.2.7. Sự canh tranh gay gắt hơn với những đối thủ hơn hẳn về tiềm lực và bề
dày kinh nghiệm ............................................................................................... 62
2.3. Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam ........................ 64
2.3.1. Những văn bản pháp lý qui định hoạt động kinh doanh ngoại hối ........ 64
2.3.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng trên
TTNH Việt Nam .............................................................................................. 70
2.3.2.1.Quá trình hình thành và hoạt động TTNT liên ngân hàng ................... 72
2.3.2.2. Thực trạng thị trường ngoại tệ khách hàng của Việt Nam .................. 81
2.3.2.3. Thực trạng sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh tại các NHTM
Việt Nam .......................................................................................................... 84
2.3.2.4. Thực trạng yết giá kinh doanh và mua bán ngoại tệ ........................... 90
2.3.3. Thị trường ngoại tệ không chính thức .................................................... 93
2.3.3.1 Những hình thức biểu hiện ................................................................... 93
2.3.3.2. Những nguồn cung cấp ngoại tệ trên thị trường không chính thức .... 97
2.4 Vai trò của NHNN đối với TTNH Việt Nam trong giai đoạn vừa qua .... 102
2.4.1 Thực hiện vai trò can thiệp TTNH và điều hành chính sách tỷ giá ...... 102
2.4.2. Những biện pháp góp phần hạn chế hoạt động của thị trường ngoại tệ
không chính thức. ........................................................................................... 106
2.5. Đánh giá quá trình phát triển TTNH của Việt Nam trong thời gian qua và
nguyên nhân của những tồn tại ...................................................................... 107
2.5.1. Những mặt đạt được ............................................................................. 107
2.5.2. Những hạn chế của Thị trường ngoại hối Việt Nam ............................ 109
2.5.2.1. Hoạt động TTNTLNH còn khiêm tốn ............................................... 109
2.5.2.2. Hàng hóa trên thị trường ngoại hối chưa đa dạng ............................. 109
2.5.2.3.Sự thiếu vắng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá và mục đích tham gia thị
trường ngoại hối cũng chưa đa dạng .............................................................. 110
2.5.2.4 Thị trường phái sinh còn sơ khai........................................................ 111
2.6. Nguyên nhân của những thực trạng trên ................................................. 111
2.6.1.Cơ chế điều hành tỷ giá chưa linh động với diễn biến của thị trường .. 111
2.6.2. Sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính
thức ................................................................................................................. 116
2.6.3. Tính chuyển đổi của VND chưa cao .................................................... 116
2.6.4. Dự trữ ngoại hối thấp ........................................................................... 118
2.6.5. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện .................................................... 119
Kết luận chương 2 .......................................................................................... 120
CHƯƠNG 3:NHỮNG BIỆN PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP .. 121
3.1. Cơ sở và định hướng phát triển TTNH ................................................... 121
3.1.1. Cơ sở phát triển thị trường ngoại hối ................................................... 121
3.1.1.1. Căn cứ vào thành quả đạt được trong quản lý kinh tế của Việt Nam
trong những năm gần đây ............................................................................... 121
3.1.1.2.Căn cứ vào sự tăng trưởng của hệ thống ngân hàng .......................... 123
3.1.1.3. Căn cứ mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ................... 124
3.1.2. Định hướng phát triển TTNH ............................................................... 126
3.1.2.1. Phát triển TTNH là bước đi tất yếu trong quá trình hoàn thiện và phát
triển thị trường tài chính của Việt Nam .......................................................... 126
3.1.2.2. Xây dựng hệ thống tài chính an toàn và hội nhập ............................. 127
3.2. Những biện pháp phát triển TTNH trong hội nhập kinh tế ..................... 128
3.2.1. Hoàn thiện TTNH theo hướng hiện đại và hội nhập ............................ 128
3.2.1.1. Minh bạch hóa thông tin trên thị trường ........................................... 128
3.2.1.2. Mở rộng các chủ thể kiến tạo thị trường ........................................... 129
3.2.1.3. Hoàn thiện các sản phẩm ngoại hối phái sinh ................................... 130
3.2.1.4. Khuyến khích thành lập các công ty môi giới, công ty tư vấn.......... 134
3.2.1.5. Xây dựng lộ trình thành lập sàn giao dịch ngoại tệ .......................... 135
3.2.1.6. Đa dạng hóa các ngoại tệ trong giao dịch ......................................... 136
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối .................................................... 137
3.2.2.1. Về điều hành tỷ giá ........................................................................... 137
3.2.2.2. Về tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa tài khoản vốn theo lộ
trình ................................................................................................................ 140
3.2.3. Phát huy vai trò của NHNN- phát triển TTNT liên ngân hàng ............ 143
3.2.3.1. Phát huy vai trò của NHNN .............................................................. 143
3.2.3.2. Phát triển TTNTLNH về khối lượng giao dịch và số lượng thành viên
........................................................................................................................ 145
3.2.3.3. Biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng ............... 146
3.2.4. Tăng cường kiểm soát, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần hoạt động của thị
trường ngoại tệ không chính thức .................................................................. 148
3.2.5. Hạn chế tình trạng đôla hóa và tạo khả năng chuyển đổi dần cho đồng
Việt Nam ........................................................................................................ 150
3.2.5.1. Hạn chế tình trạng đôla hóa một cách triệt để hơn ........................... 150
3.2.5.2. Nâng cao tính chuyển đổi của VND ................................................. 151
3.2.6. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong hoạt
động kinh doanh ngoại hối ............................................................................. 153
3.2.7. Hoàn chỉnh khung pháp lý ................................................................... 155
Kết luận chương 3 .......................................................................................... 157
KẾT LUẬN .................................................................................................... 158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC
GIẢ ................................................................................................................. 160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 161
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 168
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã mở cửa từ năm 1990 đến nay, trãi qua hơn 20 năm với
những mốc lịch sử đánh dấu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2005, IMF
công nhận Việt Nam chấp thuận điều VIII điều lệ IMF, đây là điều kiện tiên
quyết mà Việt Nam phải thực hiện để được gia nhập WTO. Tháng 12/2006 Việt
Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, điều này có nghĩa là Việt Nam
đã cam kết xây dựng chính sách và thực hiện phù hợp với các qui định của WTO.
Với áp lực này, Việt Nam phải gia tăng kỷ cương trong việc ban hành và thực thi
các biện pháp chính sách, không được tùy tiện thi hành những biện pháp hành
chánh, phi thị trường. Đồng thời, xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thị
trường để đón nhận những cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập mang đến.
Đánh giá quá trình mở cửa kể từ khi gia nhập WTO, đã cho thấy Việt
Nam có những thành tựu đáng ghi nhận về tốc độ tăng trưởng cao trong 2 năm
2007-2008, trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút nhà đầu tư nước ngoài,
kết quả là lượng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng mạnh mẽ, thu hút lượng kiều hối
gia tăng với những con số ấn tượng , đồng thời kim ngạch xuất nhập khẩu ngày
càng tăng cao, tác động đến thị trường tài chính nói chung và TTNH nói riêng
đều phát triển. TTNH đã trở thành kênh truyền dẫn lượng ngoại tệ vào và ra khỏi
quốc gia phục vụ cho nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Mức độ mở cửa theo lộ
trình ngày càng rộng hơn đòi hỏi Việt Nam phải có sự thay đổi trong chính sách
quản lý và điều hành nhằm ứng phó trước những sự biến động bất thường của
các dòng vốn, cũng như tận dụng các cơ hội do sự gia tăng dòng luân chuyển
ngoại tệ để phát triển TTNH làm cơ sở cho thị trường tài chính và thị trường tiền
tệ cùng phát triển.
Tuy nhiên, sau hơn 4 năm gia nhập WTO nền kinh tế của Việt Nam chưa
được đánh giá là tăng trưởng ổn định, đồng thời TTNH còn quá sơ khai, kém
phát triển. Nguồn vốn ngoại tệ luân chuyển kém linh hoạt, cung- cầu trên thị
trường tại nhiều thời điểm rơi vào tình trạng mất cân đối và căng thẳng giả tạo.
Hoạt động quản lý, điều tiết và can thiệp cuả NHNN trên TTNH bị động, lúng
túng và hiệu quả chưa cao. Năng lực quản trị rủi ro và kinh doanh ngoại tệ của
các NHTM còn chưa tương thích với nền kinh tế mở cửa. Các công cụ ngoại hối
phái sinh sử dụng không hiệu quả. Khả năng tiếp cận và sử dụng các công cụ
phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các chủ thể trong nền kinh tế còn rất
hạn chế. Bên cạnh đó, là sự tồn tại và cạnh tranh mạnh mẽ của thị trường ngoại
tệ chợ đen, đã gây khó khăn cho việc thu hút ngoại tệ và làm giảm khả năng cung
ngoại tệ của thị trường chính thức, làm giảm hiệu quả của nguồn vốn ngoại tệ.
Trước thực trạng đó, tác giả đã chọn đề tài” Phát triển thị trường ngoại hối
trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến
sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Thị trường ngoại hối
mà tác giả đã nghiên cứu gồm:
1/“The Development and Growth of Foreign Exchange Market in the
SEACEN countries”. Ng Beoy Kui. 1988. Đây là một nghiên cứu về sự tăng
trưởng và phát triển thị trường ngoại hối của các quốc gia khu vực Đông Nam Á,
bên cạnh đó cung cấp tổng quan về cấu trúc và những đặc điểm thị trường ngoại
hối trong khu vực. Điểm nhấn mạnh của nghiên cứu là đưa những điều kiện cơ
bản để thị truờng ngoại hối hoạt động và phân tích những hạn chế làm cản trở thị
trường ngoại hối phát triển một cách vững chắc.
Đây là một nghiên cứu rất gần với nội dung của đề tài luận án, tuy nhiên
nghiên cứu này được thực hiện vào năm 1988 Việt Nam chưa mở cửa kinh tế,
chưa gia nhập WTO cũng như thế giới chưa có khủng hoảng tài chính mà nguyên
nhân từ những giao dịch phái sinh trên thị trường tài chính(năm 2009). Vận dụng
những nghiên cứu này Luận án sẽ đối chiếu so sánh với thực trạng của TTNH
Việt Nam.
2/ “Vietnam’s’s Exchange rate Policy and implications for its Foreign
Exchange Market, 1986-2009”. Tran Phuc Nguyen, 2010. Nghiên cứu những
nguyên nhân cơ bản về tình trạng hoạt động hạn chế của TTNH Việt Nam, đặc
biệt nhấn mạnh vai trò của chính sách tỷ giá đến quá trình phát triển TTNH.
Công trình nghiên cứu này chưa phân tích đến ảnh hưởng của chính sách ngoại
hối và tác động của hội nhập kinh tế đến cung cầu ngoại tệ. Luận án sẽ mở rộng
nghiên cứu những tác động của chính sách quản lý ngoại hối và hội nhập kinh tế
đến sự phát triển của TTNH Việt Nam. Bởi vì, nguồn cung và cầu ngoại tệ là
điều kiện cơ sở để phát triển TTNH việc nghiên cứu nội dung này sẽ trả lời câu
hỏi TTNH Việt Nam có cơ sở để phát triển không? Ngoài ra, việc gia nhập WTO
đã đánh dấu một bước hội nhập sâu của TTTC nói chung và TTNH nói riêng của
Việt Nam điều này mang đến thuận lợi cũng như những bất ổn cho TTTC Việt
Nam, việc nhận diện những vấn đề trên để có những biện pháp tận dụng được
những tiện ích cũng như đối phó với những tác động tiêu cực của quá trình toàn
cầu hóa giúp cho TTNH phát triển và hội nhập tốt hơn.
3/ “Phát triển và hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam” TS.
NGUYỄN VĂN TIẾN, năm 2000. Nội dung của đề tài tập trung phân tích thực
trạng TTNH Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến năm 2000. Đây là những yếu
tố lịch sử về kinh tế, hệ thống pháp lý, trình độ quản lý TTNH Việt Nam trong
giai đoạn trước khi gia nhập WTO, Luận án sẽ căn cứ vào những nghiên cứu này
làm nền tảng phân tích TTNH Việt Nam từ sau khi gia nhập WTO (năm 2007)
đến năm 2010 để cập nhật thực trạng TTNH nhằm có những giải pháp thích hợp
cho việc phát triển thị trường.
4/ “Determinants of ViệtNam Informal Market Exchange Rates. The asset
Market approach”. Nguyễn Đức Thanh năm 2002. Đề tài nghiên cứu về những
yếu tố quyết định đến tỷ giá trên thị trường ngoại hối không chính thức của Việt
Nam và những ảnh hưởng của chính sách kinh tế vĩ mô với mục tiêu là ổn định
thị trường đến việc lựa chọn một tỷ giá thích hợp. Nghiên cứu này tập trung phân
tích những nhân tố tạo nên cung cầu và hoạt động của một TTNH cùng tồn tại
song song với TTNH chính thức của nước ta và được gọi bằng nhiều tên, như là
thị trường tự do, thị trường không chính thức. Luận án tiếp cận nghiên cứu này
để phân tích thực trạng thị trường ngoại tệ không chính thức của Việt Nam kể từ
khi gia nhập WTO đã ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của TTNH chính
thức như thế nào.
5/ “The Institutional and Structural Problems of China’s Foreign
Exchange Market & Implication for the New Exchange Rate”. ZHANG Jikang
and LIANG Yuanyuan, 2004. Nghiên cứu về những vấn đề về thể chế và kết cấu
của TTNH của Trung Quốc và ảnh hưởng của chính sách tỷ giá mới. Nghiên cưú
này đã phân tích quá trình phát triển TTNH dựa vào các cột mốc cải cách chính
sách ngoại hối cuả Trung Quốc. Đây là những nghiên cứu có giá trị làm bài học
kinh nghiệm cho việc phát triển TTNH của Việt Nam bởi vì Việt Nam và Trung
Quốc có nhiều điểm tương đồng về thể chế, nền tảng kinh tế và quản lý vĩ mô.
Ngoài ra còn nhiều luận văn, nghiên cứu và những bài báo trên tập san
chuyên ngành có nội dung liên quan đến đề tài nhưng chỉ đề cập đến một vài khía
cạnh của mục tiêu Luận án, như “Giải pháp phát triển TTNH Việt Nam” Luận án
Tiến sỹ Kinh Tế Trần Nguyên Nam, năm 2009. Đề tài “ Về tiền đề “cần” và
“đủ” và bước đi để đưa đồng Việt Nam trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi
trong bối cảnh hội nhập kinh tế và thị trường tài chính quốc tế” của TS Lê Đình
Thu, năm 2009. Và khảo sát của tác giả Lưu Minh Ngọc thực hiện phỏng vấn qua
Yahoo để lấy ý kiến về hoạt động của TTNH Việt Nam năm 2008 : “ Interview
through Yahoo! Messenger regarding the operation of the current forex market of
Vietnam, 20May 2008”.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những lý thuyết và những nghiên cứu trước đây về chính sách
quản lý ngoại hối và đặc điểm hoạt động của TTNH. Luận án tập trung đánh giá
thực trạng về TTNH Việt Nam và phân tích những tác động của việc điều hành
chính sách quản lý ngoại hối đến TTNH. Từ đó xác định những giải pháp để phát
triển TTNH trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận án” Phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội
nhập quốc tế và khu vực” lấy thực trạng TTNH Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu là chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam và
những hoạt động của TTNH Việt Nam từ năm 1990 đến nay. Mặc dù theo pháp
lệnh ngoại hối năm 2006 khái niệm ngoại hối có bao gồm vàng, các chứng từ có
giá được ghi bằng ngoại tệ, bản tệ được thanh toán bên ngoài biên giới…, nhưng
những loại này chỉ chiếm một phần nhỏ so với ngoại tệ, vì thế luận án giới hạn
nghiên cứu hoạt động kinh doanh ngoại hối trong phạm vi hẹp là trình bày về
ngoại tệ.
Đối với vấn đề hội nhập, Luận án giới hạn phạm vi không gian của đề tài
nghiên cứu là hội nhập về kinh tế quốc tế và khu vực trong cùng nội dung, mặc
dù biết rằng hội nhập khu vực có những điểm khác biệt so với hội nhập quốc tế,
tuy nhiên xu hướng phát triển là từ khu vực để đến với quốc tế vì thế việc nghiên
cứu hội nhập quốc tế sẽ mang ý nghĩa lâu dài hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với mục tiêu đánh giá thực trạng về TTNH Việt Nam, luận án sẽ căn cứ
vào khung lý thuyết những nghiên cứu trước đây của các tác giả như: Ng Beoy
Kui, 1988, Nguyễn văn Tiến, 2000, Nguyễn Trần Phúc September 2009 để so
sánh, tổng hợp và phân tích, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê logic, lập
luận biện chứng đứng trên quan điểm lịch sử và phát triển để đưa ra những giải
pháp nhằm phát triển và hoàn thiện TTNH.
Số liệu thu thập từ nguồn tài liệu của NHNN, IMF, WorldBank, BIS, Báo
cáo thường niên của các NHTM, của Tổng cục Thống kê kết hợp nguồn thông tin
của báo chí tạp chí chuyên ngành và kế thừa những kết quả nghiên cứu thực
nghiệm có liên quan.
Luận án sẽ tập trung giải quyết 4 nội dung chính:
Thứ nhất, lý thuyết hoạt động và phát triển TTNH? Kinh nghiệm của các
nước trong việc điều hành và phát triển TTNH bài học nào cho Việt Nam.
Thứ hai, thực trạng TTNH Việt Nam có đáp ứng được yêu cầu để phát
triển hay không?
Thứ ba, tác động của hội nhập kinh tế đến cung cầu ngoại tệ và ảnh
hưởng của chính sách quản lý ngoại hối đến việc phát triển TTNH Việt Nam.
Thứ tư, giải pháp nào để phát triển TTNH được ổn định và vững chắc
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế?.
Nhằm giải quyết những vấn đề trên, bố cục Luận án được phân chia như
sau
6. Bố cục của Luận án
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và phụ lục, bố cục của Luận án
gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về thị trường ngoại hối và phát triển TTNH trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam.
Chương 3: Những biện pháp góp phần phát triển thị trường ngoại hối Việt
Nam trong tiến trình hội nhập.
7. Những điểm mới của Luận án
Kết quả nghiên cứu của tác giả trình bày trong Luận án thể hiện được một
số các điểm mới chủ yếu sau:
(1) Hệ thống hóa những nội dung cơ bản của chính sách quản lý ngoại hối
đã tác động đến thị trường ngoại hối.
(2)Hệ thống hóa những tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến
sự phát triển thị trường ngoại hối làm cơ sở cho những kiến nghị định hướng phát
triển thị trường ngoại hối Việt Nam.
(3) Phân tích những nguyên nhân tạo nên sự tồn tại và phát triển của thị
trường ngoại tệ không chính thức ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những biện
pháp góp phần thu hẹp thị trường này.
(4) Phân tích những tồn tại của thị trường ngoại hối Việt Nam từ sau khi gia
nhập WTO và đề xuất những biện pháp góp phần phát triển thị trường ngoại hối.
Theo khung lý thuyết của những nghiên cứu trước đây về TTNH như Ng
Boey Kui cho rằng điều kiện cơ bản để cho TTNH hoạt động đó là : (1) cho phép
những người tham gia thị trường có thể xác lập trạng thái ngoại hối mở để kinh
doanh trên tài khoản của mình và điều kiện này chỉ có thể thực hiện thuận lợi khi
tự do hóa kiểm soát ngoại hối (2) Tỷ giá phải biến động thực sự để những người
tham gia thị trường có thể thực hiện đa dạng các nghiệp vụ kinh doanh chênh
lệch tỷ giá và đầu cơ cũng như phát triển thị trường ngoại hối phái sinh.(3)Để
TTNH hoạt động cần có sự phát triển thị trường tiền tệ và vai trò của NHTW.(4)
Phát triển các giao dịch phái sinh ngoại hối. Đây là những điều kiện cần thiết để
xem xét một TTNH có khả năng để hoạt động và phát triển hay không?.
Với đề tài nghiên cứu “Vietnam’s Exchange rate Policy and implications
for its Foreign Exchange Market, 1986-2009” của Tran Phuc Nguyen đã cho
thấy vai trò của chính sách tỷ giá đến quá trình phát triển TTNH. Hay đề tài
nghiên cứu Khoa học của TS Nguyễn văn Tiến(2000) về” Phát triển và hoàn
thiện thị trường ngoại hối Việt Nam” đã đưa ra những khung lý thuyết cơ bản về
TTNH với những nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối theo tiêu chuẩn quốc tế.
Nghiên cứu của ZHANG Jikang and LIANG Yuanyuan(2004) những vấn đề về
thể chế và kết cấu của TTNH của Trung Quốc đã trình bày về ảnh hưởng của tự
do hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn đến TTNH.
Dựa vào những nghiên cứu trên và phát triển theo mục đích yêu cầu
nghiên cứu của đề tài, chương 1 của Luận án đưa ra khung lý thuyết nền tảng để
làm cơ sở đánh giá thực trạng TTNH trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, vì
thế nội dung của chương sẽ giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, những lý thuyết cơ bản về hoạt động của TTNH? Thành viên
tham gia thị trường họ là ai và đóng vai trò gì trên TTNH? Thứ hai, khung pháp
lý nền tảng được thể hiện qua chính sách quản lý ngoại hối dưới tác động của hội
nhập kinh tế ảnh hưởng như thế nào đối với việc để TTNH hoạt động ổn định và
có trật tự. Thứ ba, để phát triển TTNH cần phải có những điều kiện gì? Thứ tư,
bài học kinh nghiệm của các nước khác trong quá trình phát triển TTNH.
1
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG NGOẠI HỐI TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan về thị trường ngoại hối
1.1.1. Khái niệm, chức năng của thị trường ngoại hối
Hầu hết trên thế giới các quốc gia và vùng lãnh thổ đều có đồng tiền riêng
của quốc gia và khu vực, vì thế khi thực hiện các hoạt động thương mại, đầu tư
hay các giao dịch xã hội có liên quan đến tiền tệ giữa các quốc gia sẽ dẫn tới nhu
cầu chuyển đổi đồng tiền của nước này sang đồng tiền nước khác. Người có nhu
cầu về ngoại tệ sẽ bán bản tệ mua ngoại tệ và ngược lại người có khoản thu bằng
ngoại tệ sẽ bán ngoại tệ để mua bản tệ. Hoạt động mua bán các đồng tiền của các
nước sẽ được thực hiện trên thị trường được gọi là TTNH. Vậy, TTNH là nơi
mua bán các đồng tiền của các quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, thực hiện
việc chuyển hoá giá trị của các đồng tiền của các quốc gia thông qua cung cầu
tiền tệ.[48]
Chức năng của TTNH là kết quả phát triển tự nhiên của một trong các chức
năng cơ bản của NHTM, đó là: nhằm cung cấp dịch vụ cho các khách hàng thực
hiện các giao dịch thương mại quốc tế, sau đó là giúp luân chuyển các khoản đầu
tư, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính quốc tế khác.
Như vậy, thông qua các giao dịch trên, TTNH đã thực hiện các chức năng
sau:
(1) Thỏa mãn nhu cầu thanh khoản quốc tế phát sinh từ các hoạt động
thương mại và đầu tư quốc tế.
(2) Là nơi cung cấp các công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối như giao dịch kỳ
hạn, giao dịch hoán đổi, giao dịch quyền chọn, giao dịch tương lai. Khi TTNH
phát triển về chiều rộng lẫn chiều sâu. Các giao dịch và sản phẩm dịch vụ liên tục
ra đời và phát triển để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của các đối
tượng khách hàng.
2
(3) Là nơi để NHTW của các nước can thiệp hoạt động của mình nhằm điều
chỉnh tỷ giá hối đoái, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia bằng cách mua hay
bán số ngoại tệ cần thiết nhằm điều tiết cung cầu ngoại tệ. Mức độ mua vào hay
bán ra của NHTW trên TTNH không chỉ phụ thuộc vào mức độ chênh lệch giữa
cung và cầu ngoại tệ trên thị trường mà còn phụ thuộc vào những yếu tố như cơ
chế tỷ giá hiện hành, mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và mức tỷ giá
mục tiêu mà NHTW muốn theo đuổi.
1.1.2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối
TTNH là một thị trường khổng lồ và thanh khoản nhất trên thế giới [54],
theo khảo sát của BIS vào tháng 9/2010 doanh số giao dịch của TTNH toàn cầu
lên tới hơn 3900 tỷ USD một ngày [61] . Tỷ giá liên tục thay đổi khoảng 20 lần
trong 1 phút, giao dịch số lượng lớn với mức lời nhỏ được cho là dấu hiệu của
tính thanh khoản [54].
Là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo: do thị trường có tính chất toàn cầu
với khối lượng giao dịch cực lớn, các hàng hóa( tiền tệ) đồng chất (không có chất
lượng hơn, kém), thông tin lưu chuyển tự do và không có các rào cản đối với việc
tham gia thị trường [48]
Là một thị trường hoạt động hiệu quả: các thông tin liên quan đến tỷ giá
luôn được phản ánh nhanh chóng và chính xác lên tỷ giá và tỷ giá tuy được yết ở
các khu vực thị trường khác nhau nhưng hầu như là thống nhất với nhau, có độ
chênh lệch không đáng kể, hiếm khi tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh kiếm lời
từ nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá(arbitrage).
TTNH không nhất thiết phải tập trung tại một vị trí địa lý cụ thể mà là một
thị trường quốc tế, bao gồm một mạng lưới người mua và người bán rộng khắp
trên toàn thế giới, giao dịch với nhau thông qua các phương tiện truyền thông
hiện đại như điện thoại, telex, fax và các hệ thống kinh doanh điện tử.
Trung tâm của TTNH là thị trường liên ngân hàng (Interbank) với các thành
viên chủ yếu là các NHTM, ngân hàng đầu tư, các nhà môi giới ngoại hối và
3
NHTW. Doanh số giao dịch trên Interbank chiếm 85% doanh số giao dịch toàn
cầu [48].
TTNH mang tính toàn cầu, hoạt động liên tục 24/24 giờ một ngày, trừ các
ngày cuối tuần và các ngày lễ. Sở dĩ có đặc điểm này là vì các trung tâm ngoại
hối chính thường nằm ở các múi giờ khác nhau; bất cứ thời điểm nào cũng sẽ rơi
vào thời gian làm việc của ít nhất một trung tâm tài chính lớn; khoảng thời gian
8g-9g sáng và 1g-3g chiều số lượng giao dịch lớn nhất trong ngày vì đó là thời
gian cùng mở cửa của các trung tâm tài chính lớn của các châu lục, giờ làm việc
của các trung tâm này bao phủ hầu hết 24 giờ/ngày, bắt đầu với các trung tâm ở
Viễn Đông (Sydney, Tokyo và Hongkong), tiếp theo là Trung Đông (Bahrain),
tới Châu Âu (Frankfurt và London), kế là các trung tâm ở Mỹ và kết thúc ở San
Francisco; các trung tâm ngoại hối quan trọng nhất theo doanh số giao dịch có
thể kể đến lần lượt là: London, New York, Tokyo, Singapore và Frankfurt [54]
Là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm
lý…nhất là đối với chính sách tiền tệ của các nước phát triển.
USD là đồng tiền được giao dịch nhiều nhất chiếm tỷ lệ gần 42.5% trong
tổng số các đồng tiền tham gia(điều này có nghĩa là có tới gần 85% doanh số
giao dịch trên TTNH là có sự hiện diện của USD)[61a]
Đối tượng được mua bán trên TTNH thế giới chủ yếu là khoản tiền gửi
được ghi bằng các loại tiền trên thế giới.
TTNH được phân thành nhiều loại tùy thuộc vào các tiêu thức khác nhau
1.1.3. Phân loại thị trường ngoại hối
1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động
Thị trường hối đoái được chia thành hai thị trường có mối liên hệ chặt chẽ.
Bao gồm:
- Thị trường liên ngân hàng hoặc thị trường bán buôn (Interbank): Đây là
một mạng lưới các quan hệ ngân hàng đại lý, trong đó các NHTM mở tài khoản
tiền gửi thanh toán tại các ngân hàng khác. Tại Mỹ trên TTNH ngoài sự tham gia
4
của các NHTM trên TTLNH còn có cả các công ty Đầu tư và các định chế tài
chính khác cùng tham gia, chính xác hơn nên gọi là thị trường liên giao
dịch(Interdealer)[54]
Đối với thị trường tài chính nói chung, thị trường liên ngân hàng là một
trong những thị trường cơ sở và quan trọng nhất vì hầu hết các giao dịch mua và
bán tiền tệ được chu chuyển qua kênh thị trường liên ngân hàng toàn cầu. Do đó,
trọng tâm của thị trường hối đoái là thị trường liên ngân hàng.
Ở Mỹ và một số TTNH lớn khác, thị trường Interbank được thực hiện dưới
hai hình thức: TTLNH trực tiếp giữa các ngân hàng với ngân hàng và TTLNH
gián tiếp thông qua môi giới [48]
Trên TTLNH trực tiếp: Các dealer của các ngân hàng hỏi giá và báo giá lẫn
nhau thông qua các phương tiện truyền thông, điển hình là thông qua điện thoại,
telex và hệ thống giao dịch điện tử.Trong một giao dịch bao giờ cũng có hai
dealer của hai ngân hàng tham gia. Một dealer hỏi giá và một dealer báo giá,
dealer hỏi giá còn được gọi là dealer khởi tạo giao dịch (“initiator”), khi hỏi giá,
dealer hỏi giá thường không nói cho đối tác biết mình muốn mua hay bán, trong
khi đó dealer báo giá phải báo giá hai chiều mua và bán, vì thế, thị trường gọi
những nhà giao dịch trên TTLNH là nhà tạo giá (Market Maker).
Trên TTLNH gián tiếp: Các dealer gửi các lệnh có giới hạn(limit order)
lệnh mua hay lệnh bán với số lượng xác định đến nhà môi giới cuả mình. Các
nhà môi giới đối chiếu và làm khớp các lệnh mua và bán, cung cấp giá tốt nhất
cho khách hàng của mình giá mua cao nhất và giá bán thấp nhất “inside spread”
Các nhà môi giới được hưởng hoa hồng từ hai bên khi giao dịch thành công.
So sánh giao dịch trên thị trường liên ngân hàng trực tiếp và gián tiếp, ta
thấy có những điểm khác biệt sau:
Trong giao dịch trực tiếp, các dealer luôn biết đối tác của mình là ai, trong
khi trong giao dịch gián tiếp các dealer chỉ biết chi tiết của đối tác khi giao dịch
được thực hiện;
5
Trong giao dịch trực tiếp các dealer luôn sẳn sàng báo giá và phải chịu sự
ràng buộc đối với giá mình đưa ra. Với giao dịch qua môi giới, các dealer có thể
chủ động hơn trong việc quyết định giao dịch tùy thuộc vào nhu cầu và mục đích
của mình; các dealer không cần phải báo giá hai chiều; các dealer có thể hủy bỏ
lệnh giao dịch khi nó chưa thực hiện.
Trong giao dịch trực tiếp việc hỏi giá và báo giá diễn ra liên tục nhưng tỷ lệ
được giao dịch không nhiều. Hình thức giao dịch gián tiếp qua môi giới dễ dàng
khớp lệnh hơn, làm tăng tính thanh khoản cho thị trường.
- Thị trường khách hàng hoặc thị trường bán lẻ (Non- Interbank), trong đó
các ngân hàng giao dịch với khách hàng thương mại của mình, các khách hàng
không phải ngân hàng giao dịch với nhau. Hay còn gọi là giao dịch trên thị
trường bán lẻ, là những giao dịch giữa NHTM và khách hàng mua bán lẻ. Trong
giao dịch này, các khách hàng sẽ giao dịch theo tỷ giá mà NHTM yết công khai.
Tỷ giá giao dịch trên thị trường mua bán lẻ được gọi là tỷ giá bán lẻ. Các NHTM
thường tính toán tỷ giá mua bán lẻ trên cơ sở tỷ giá trên TTLNH, do vậy, chênh
lệch giá mua và bán trên thị trường mua bán lẻ lớn hơn so với trên thị trường bán
buôn.[48]
Giao dịch trên thị trường mua bán lẻ có qui mô tương đối nhỏ và không
đồng đều. Tỷ giá trên thị trường này thường không có biến động mạnh tỷ giá
được yết buổi sáng có thể sẽ được sử dụng cả ngày đối với tất cả các giao dịch.
Thủ tục thanh toán: Thông thường việc thanh toán giữa các ngân hàng
được thực hiện qua một hệ thống thanh toán điện tử như SWIFT (The Society for
Worldwide Interbank Financecial Telecommunication). Ở Mỹ các ngân hàng
giao dịch ngoại hối thanh toán bằng USD giữa các ngân hàng thông qua CHIPS-
Clearing House Interbank Payments System [54]
1.1.3.2. Theo tính chất giao dịch
Thị trường giao ngay là thị trường thực hiện giao dịch giao ngay có ngày
giá trị là hai ngày làm việc sau ngày ký hợp đồng và giao dịch giao ngay được
coi là giao dịch sơ cấp(Primary operation);
6
Thị trường phái sinh đây chính là nơi thực hiện các giao dịch phái sinh
(Derivative operations) bao gồm giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, tương lai, quyền
chọn. Các giao dịch của thị trường phái sinh là những giao dịch có ngày giá trị
khác hai ngày làm việc.
1.1.3.3. Theo tính chất pháp lý của thị trường
Thị trường ngoại hối chính thức (Official Market FX): Là thị trường giao
dịch ngoại hối của các tổ chức tín dụng với các cá nhân, tổ chức kinh tế và các tổ
chức tín dụng được phép khác, thị trường này hoạt động theo các nguyên tắc, thể
chế do nhà nước qui định trong các văn bản pháp luật. Các chủ thể tham gia được
pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Thị trường ngoại tệ không chính thức(Unoffictial Market FX): trong nhiều
nghiên cứu thị trường này được biết đến với tên gọi là thị trường chợ đen( black
market), kinh tế ngầm (underground economic), Grosse(1994) định nghĩa TTNH
chợ đen là thị trường mua bán ngoại tệ bên ngoài hệ thống tài chính hợp pháp
của một quốc gia [56] , trong nghiên cứu của Janivier gọi là thị trường ngoại hối
song song mà sự tồn tại của thị trường này là tình trạng dư cầu ngoại tệ do phản
ứng của sự kiểm soát cung ngoại hối cuả chính phủ[4343], hay khi mà tỷ giá
chính thức và tỷ giá thị trường có sự chênh lệch đáng kể sẽ là cơ sở tồn tại thị
trường chợ đen [42].
1.1.3.4. Theo tính chất tập trung của thị trường
Hai đặc trưng chủ yếu phân biệt TTNH với những thị trường tài chính khác
là hầu hết thị trường là không tập trung và doanh số giao dịch rất lớn
Thị trường phi tập trung (The Over The Counter -OTC): các bên tham gia
thực hiện giao dịch với nhau bằng cách sử dụng điện thoại, telex, mạng máy tính
mà không cần phải tập trung tại một khu vực địa lý như sàn giao dịch [47]. Giao
dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi và một phần giao dịch quyền chọn được thực
hiện trên thị trường phi tập trung.
Thị trường tập trung (Centralized market) hay Sở giao dịch- The Exchange:
các giao dịch tương lai và một phần giao dịch quyền chọn được thực hiện tại Sở
7
giao dịch. Muốn được giao dịch phải là thành viên của sàn giao dịch và tuân thủ
những qui định về ký quỹ, mở tài khoản giao dịch, nếu không phải là thành viên
thì có thể giao dịch thông qua môi giới là thành viên của Sở giao dịch. Sở giao
dịch có trách nhiệm tổ chức, quản lý các hoạt động và đưa ra những qui định về
loại tiền được giao dịch, khối lượng giao dịch, về kỳ hạn và giới hạn mức biến
động của tỷ giá.
Trên thị trường tập trung, giao dịch được thực hiện với mức giá được công
bố công khai và tất cả những nhà kinh doanh trên thị trường đều có cơ hội đối
mặt với các mức giá như nhau. Ngược lại, trên thị trường phi tập trung, giá được
yết và các giao dịch được thực hiện riêng lẽ, có thể được thực hiện qua phương
tiện truyền thông [46].Ví dụ như Sở giao dịch chứng khoán Newyork(Newyork
Stock Exchange- NYSE), Sở giao dịch chứng khoán London(London Stock
Exchange-LSE) là những thị trường tập trung.
Để biết được cơ chế hoạt động của thị trường cũng như đánh giá mức độ
phát triển của một TTNH phải xem xét các thành viên tham gia, phân loại thành
viên tham gia tùy vào tiêu thức là hình thức tổ chức hay chức năng của thành
viên đối với thị trường.
1.1.4. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối
1.1.4.1. Phân loại theo hình thức tổ chức
Theo hình thức tổ chức chúng ta có thể phân các chủ thể thành năm nhóm
chính: các khách hàng mua bán lẻ, các ngân hàng thương mại, các định chế tài
chính khác, các nhà môi giới và các ngân hàng trung ương.
Nhóm khách hàng mua bán lẻ. Nhóm này bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa quốc gia, những nhà
đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm mục đích
phục vụ cho hoạt động của chính mình. Các cá nhân cũng có thể tham gia vào
thị trường ngoại hối, ví dụ những người đi du lịch, đi nước ngoài học tập, công
tác… có nhu cầu mua ngoại tệ và thường là bằng tiền mặt. Tuy nhiên, loại giao
8
dịch bằng tiền mặt như vậy chỉ chiếm một phần nhỏ, không quan trọng trong
tổng giá trị của các giao dịch ngoại hối được thực hiện. Nhóm khách hàng mua
bán lẻ tham gia trên thị trường với hai mục đích chính: chuyển đổi tiền tệ và
phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Các ngân hàng thương mại.
Các NHTM tham gia giao dịch trên cả hai thị trường, bán lẻ và bán buôn
nhằm hai mục đích:
Thị trường bán lẻ còn được gọi là thị trường khách hàng, ngân hàng cung
cấp dịch vụ cho khách hàng, mua bán ngoại tệ cho khách hàng theo tỷ giá niêm
yết, phần lớn các hoạt động trên thị trường mua bán lẻ của các NHTM thường
được xem là hoạt động cung cấp dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là mua hộ, bán
hộ, chuyển tiền hộ.
Trên thị trường bán buôn còn được gọi là TTLNH các NHTM giao dịch với
nhau; họ hoạt động chủ yếu như là các nhà đầu cơ chấp nhận rủi ro ngoại hối
kiếm lời thông qua sự biến động của tỷ giá. Với hoạt động đầu cơ, các ngân hàng
thương mại làm thay đổi cơ cấu tiền tệ các tài sản có và các tài sản nợ của mình
tạo trạng thái mở ngoại tệ nên đối mặt với rủi ro về tỷ giá, vì thế đòi hỏi các giao
dịch viên phải thận trọng, chính xác và nhạy bén. Ngoài ra, các NHTM còn thực
hiện nghiệp vụ arbitrage - kinh doanh chênh lệch tỷ giá để kiếm lời hoặc phòng
ngừa rủi ro tỷ giá cho chính các hoạt động của mình.
Các định chế tài chính khác.
Nhóm này bao gồm các ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính, các quỹ
đầu tư, các quỹ hưu trí và các quỹ tương hỗ. Họ thường tham gia giao dịch ngoại
hối với quy mô giao dịch lớn, phục vụ ngoại hối cho đa dạng khách hàng và cạnh
tranh với các NHTM, góp phần hình thành thị trường bán buôn [54].
Các NHTM, các định chế tài chính khác và các công ty lớn giao dịch với
nhau bằng hai cách. Cách thứ nhất là giao dịch trực tiếp với nhau thông quan
điện thoại hoặc thông qua hệ thống kinh doanh điện tử. Cách thứ hai là giao dịch
thông qua các nhà môi giới.
9
Các nhà môi giới ngoại hối.
Đây là nhóm chủ thể tham gia phổ biến thông tin thị trường và thực hiện
việc làm khớp các giao dịch giữa người mua và người bán. Khác với các nhà
kinh doanh, các nhà môi giới không tạo ra các trạng thái ngoại hối cho mình mà
kiếm lợi nhuận thông qua việc thu phí hoa hồng môi giới. Các nhà môi giới hoạt
động khắp toàn cầu, cung cấp dịch vụ 24/24 cho thị trường.
Các ngân hàng trung ương.
NHTW thực hiện việc mua bán ngoại tệ thông qua giao dịch trực tiếp với
các NHTM hoặc thông qua các nhà môi giới
Ngoài ra NHTW tham gia mua bán ngoại tệ trên TTNH để thực hiện các
hoạt động thanh toán của chính phủ.
1.1.4.2. Phân loại theo chức năng trên thị trường
Theo chức năng hoạt động trên TTNH, các chủ thể tham gia thị trường có
thể phân thành các nhóm sau: nhà tạo giá sơ cấp, nhà tạo giá thứ cấp, nhà chấp
nhận giá, nhà môi giới, nhà đầu cơ và người can thiệp trên thị trường [48].
Nhóm các nhà tạo giá sơ cấp: Bao gồm các NHTM lớn, các nhà kinh
doanh đầu tư lớn và một số công ty lớn, thực hiện tạo giá trên thị trường bán
buôn – thị trường liên ngân hàng. Họ là những nhà kinh doanh chuyên nghiệp
trên thị trường, họ sẵn sàng tạo giá lẫn cho nhau trên cơ sở yết giá hai chiều. Khi
được yêu cầu, họ sẽ yết đồng thời cả giá mua vào và bán ra và sẵn sàng mua và
bán theo tỷ giá đã yết. Các nhà tạo giá sơ cấp còn được gọi là những nhà bán
buôn.
Các nhà tạo giá thứ cấp thường là các NHTM, tạo giá trên thị trường bán
lẻ – thị trường khách hàng, tạo giá một chiều trên cơ sở yết giá hai chiều cho các
khách hàng của mình. Nghĩa là họ đưa ra tỷ giá mua vào và bán ra cho khách
hàng nhưng khách hàng không phải là người tạo giá ngược lại cho các NHTM.
Việc tạo giá trên thị trường bán lẻ được thực hiện trên cơ sở tỷ giá được hình
thành trên thị trường bán buôn.
10
Các nhà chấp nhận giá là những khách hàng mua bán lẻ. Họ đơn thuần
chấp nhận giá đưa ra của các thành viên tạo giá trên thị trường bán lẻ và tiến
hành giao dịch. Đôi khi các NHTM lớn cũng là những người chấp nhận giá khi
mua và bán những đồng tiền mà họ không giao dịch tích cực.
Nhóm các nhà cung cấp dịch vụ bao gồm các tổ chức cung cấp thông tin
cập nhật thường xuyên về thị trường và cung cấp các hệ thống giao dịch điện tử
như Reuters, Telerate và Knight-Ridder là các nhà cung cấp dịch vụ nổi tiếng.
Nhóm các nhà môi giới đóng vai trò trung gian giữa người mua và người
bán trên thị trường. Các nhà môi giới giúp người mua và người bán tiếp cận các
cơ hội kinh doanh tốt, tiết kiệm thời gian, chi phí và làm cho thị trường hoạt
động sôi động. Tại một thời điểm, một nhà môi giới có thể nhận được nhiều lệnh
mua và bán từ các chủ thể khác nhau trên thị trường. Nhà môi giới sẽ lựa chọn tỷ
giá mua cao nhất và tỷ giá bán thấp nhất để tạo thành giá chào tốt nhất cung cấp
cho người hỏi giá. Người môi giới không kinh doanh cho chính mình không tạo
trạng thái ngoại tệ mở vì thế họ cũng không đối mặt với rủi ro tỷ giá biến động
[55].
Nghiệp vụ môi giới có thể được thực hiện bằng các hình thức: (1)Môi giới
bằng giọng nói(Voice-Broker), là những người có kỷ năng trong việc thực hiện
giao dịch cho khách hàng và mức độ tin tưởng của khách hàng quyết định sự
thành công của nhà môi giới giọng nói. Để thực hiện chức năng này, những nhà
môi giới phải tiếp cận với một số lượng lớn các nhà giao dịch và biết rõ tỷ giá mà
tại đó những người tham gia thị trường được chuẩn bị để mua và bán, cùng một
lúc họ phải liên lạc bằng điện thoại với nhiều nhà giao dịch để thỏa thuận về điều
kiện thị trường, số lượng giao dịch và tỷ giá thực hiện. (2) Khớp lệnh tự động
(Automated Oder-Matching) hay hệ thống môi giới điện tử (Electronic Broking
Systems) với hệ thống này các nhà giao dịch có thể thấy trên màn hình của họ tỷ
giá mua và bán được yết của những đối tác tiềm năng để sẳn sàng giao dịch, khi
được khớp lệnh giao dịch tự động thực hiện. (3) Nhà môi giới trên sàn giao dịch
11
tương lai và quyền chọn, lệnh từ khách hàng sẽ được chuyển đến cho nhà môi
giới tại sàn (Floor broker). Nhà môi giới tại sàn cố gắng thực hiện lệnh trên sàn
hối đoái bằng cách đấu giá mở (by open outcry) [54].
Nhóm các nhà đầu cơ hoạt động tương đối mạnh trên TTNH, họ mua vào
hay bán ra một đồng tiền nhất định trên cơ sở phán đoán của mình về xu hướng
biến động tỷ giá, chấp nhận duy trì trạng thái ngoại hối mở, họ có thể thu được
lợi nhuận hoặc phải chịu thua lỗ khi tỷ giá biến động. Các nhà đầu cơ thường bị
buộc tội gây ra những biến động trên các thị trường, gây tác động không tích cực
đến nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, yếu tố đầu cơ là cần thiết nhằm tăng tính
thanh khoản cho thị trường và làm cho thị trường sôi động. Hoạt động đầu cơ
trên TTNH không được chính phủ của các nước Đông Nam Á chấp thuận vì họ
cho rằng đầu cơ sẽ tạo nên rắc rối gây nên tình trạng mất ổn định [50].
Người thực hiện chức năng can thiệp
Sự tham gia của những NHTW trên TTNH của nước họ có sự khác nhau về
mức độ, cách thức và mục đích tham gia, hoạt động của NHTW đóng vai trò rất
quan trọng bởi vì tác động của những giao dịch do NHTW thực hiện có vai trò
định hướng sự biến động của tỷ giá, các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối
luôn chăm chú theo dõi các hoạt động của NHTW để dự đoán các chính sách
kinh tế vĩ mô trong tương lai, dự báo sự biến động của tỷ giá và đưa ra các quyết
định phù hợp trên thị trường.
Việc lựa chọn cơ chế tỷ giá sẽ xác định khung cơ bản mà trong đó NHTW
thực hiện hành động can thiệp của nó, phạm vi và phương pháp thực hiện phụ
thuộc trước hết vào cơ chế tỷ giá hối đoái của mỗi nước [54]. Đó là việc NHTW
sẽ thả nổi tỷ giá cho thị trường tự quyết định hay NHTW sẽ tác động vào tỷ giá
thông qua các hoạt động can thiệp của mình bằng cách mua vào hay bán ra ngoại
tệ trên TTNH.
Trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW thường xuyên can thiệp với mục đích
duy trì tỷ giá trong một biên độ tỷ giá nhất định. Trong chế độ tỷ giá thả nổi có
12
điều tiết, NHTW can thiệp nhằm tác động lên tỷ giá theo hướng mà NHTW cho
là có lợi cho nền kinh tế.
Các NHTW cũng có thể tác động lên tỷ giá thông qua việc áp dụng các
chính sách làm thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ như mua các chứng khoán
phát hành lần đầu của chính phủ, hoạt động trên thị trường mở hoặc thay đổi tỷ lệ
dự trữ bắt buộc.
1.1.5. Những nghiệp vụ trên TTNH
1.1.5.1. Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay
Đây nghiệp vụ cơ bản nhất và chiếm doanh số lớn nhất trên TTNH, giao
dịch ngoại hối giao ngay (forex spot transaction) là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ
dựa trên cơ sở thỏa thuận tỷ giá ngày hôm nay và việc giao hàng – thanh toán
được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc.
Giao dịch giao ngay được sử dụng với mục đích chuyển đổi từ đồng tiền
này sang đồng tiền khác để đáp ứng nhu cầu trong hoạt động ngoại thương và
đầu tư quốc tế, ngày nay các NHTM và các định chế tài chính khác còn sử dụng
với mục đích đầu cơ, kinh doanh chênh lệch tỷ giá [41].
Sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá BrettonWoods làm cho tỷ giá biến động
nhiều hơn, không còn ổn định như trước. Vì thế, những nhà kinh doanh xuất
nhập khẩu, các nhà đầu tư quốc tế, NHTM có nhu cầu bảo hiểm rủi ro ngoại hối
sẽ tìm đến các sản phẩm ngoại hối phái sinh để được đáp ứng yêu cầu đó.
1.1.5.2. Nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn(Forex Forward transaction)
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là giao dịch mua bán ngoại hối trong đó tỷ giá
được hai bên thỏa thuận ngày hôm nay và việc giao hàng- thanh toán được thực
hiện tại mức tỷ giá đó vào một ngày xác định trong tương lai khác với ngày giá
trị giao ngay (spot date) [41].
Trong giao dịch kỳ hạn, tỷ giá được xác định ngày hôm nay và làm cơ sở
cho việc trao đổi luồng tiền trong tương lai, vì thế tỷ giá kỳ hạn sẽ được xác định
13
dựa trên các yếu tố: tỷ giá giao ngay, lãi suất của hai đồng tiền và kỳ hạn giao
dịch.
Giao dịch ngoại hối kỳ hạn có những đặc điểm sau:
Hợp đồng có hiệu lực tại thời điểm ký kết sẽ ràng buộc trách nhiệm hai bên
mua và bán phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ qui định vào ngày đáo hạn, với tỷ giá
đã xác định cho dù tỷ giá giao ngay thời điểm đáo hạn hợp đồng có biến động
tăng cao hơn hay giảm thấp.Số lượng, loại tiền, thời điểm thực hiện hợp đồng
không được thay đổi.
Thông thường, hợp đồng ngoại hối kỳ hạn có các kỳ hạn tương thích với kỳ
hạn trên thị trường tiền tệ như 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng tới một năm.
Tuy nhiên, hai bên giao dịch có thể thỏa thuận một kỳ hạn lẻ nào đó phù hợp với
cả hai. Ngoài ra, trong thực tế cũng có thể có kỳ hạn dài hơn một năm và thậm
chí tới hai mươi năm [54].
Với những đặc điểm trên giao dịch ngoại hối kỳ hạn có những ứng dụng
sau:
Thứ nhất, sử dụng giao dịch ngoại hối kỳ hạn để phòng ngừa rủi ro tỷ giá vì
với đặc điểm của giao dịch ngoại hối kỳ hạn là luồng tiền chuyển giao trong
tương lai sẽ được xác định trên cơ sở tỷ giá kỳ hạn và sẽ không thay đổi khi đến
thời điểm thanh toán. Những nhà đầu tư, kinh doanh xuất nhập khẩu, những
người có nhu cầu giao dịch ngoại tệ trong tương lai và có nguy cơ bị thiệt hại do
sự biến động của tỷ giá gây ra, họ muốn cố định khoản phải thu và phải chi trong
tương lai, hay nói cách khác bảo hiểm rủi ro tỷ giá, sử dụng giao dịch kỳ hạn
đảm bảo hạn chế 100% rủi ro tỷ giá.
Thứ hai, sử dụng giao dịch ngoại hối kỳ hạn để đầu cơ, nhà kinh doanh tiền
tệ kỳ vọng một đồng tiền nào đó sẽ tăng giá mạnh trong tương lai, anh ta có thể
đầu cơ bằng cách ký hợp đồng mua kỳ hạn đồng tiền đó ngày hôm nay và khi
đến ngày đáo hạn nếu tỷ giá thực sự tăng anh ta sẽ bán lại trên thị trường giao
ngay và có lợi nhuận. Và ngược lại trong trường hợp dự đoán đồng tiền giảm giá
sẽ ký hợp đồng bán kỳ hạn và sẽ mua lại khi nó giảm giá.
14
Thứ ba, sử dụng giao dịch ngoại hối kỳ hạn để kinh doanh chênh lệch lãi
suất: Cơ hội kinh doanh chênh lệch lãi suất có bảo hiểm rủi ro tỷ giá (cover
interest arbitrage – CIA) sẽ phát sinh nếu trên thị trường ngoại hối có các mức tỷ
giá kỳ hạn không phù hợp với điều kiện ngang giá lãi suất.
1.1.5.3. Nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối (Forex Swap Transaction)
Giao dịch hoán đổi ngoại hối là giao dịch trong đó một bên đồng ý bán
(mua) cho bên kia một đồng tiền nhất định tại một thời điểm và đồng thời cam
kết mua (bán) lại chính đồng tiền đó vào một thời điểm khác trong tương lai với
các mức tỷ giá được thỏa thuận từ trước[54].
Giao dịch hoán đổi ngoại hối là một giao dịch kép, có các đặc điểm sau:
-Hợp đồng mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định với các mức tỷ giá
nhất định được hai bên thỏa thuận và ký kết đồng thời ngày hôm nay trong một
hợp đồng;
-Số lượng mua vào và bán ra là bằng nhau trong cả hai vế (vế mua và vế
bán) của hợp đồng hoán đổi;
-Ngày giá trị của hợp đồng mua vào và ngày giá trị của hợp đồng bán ra là
khác nhau.
Qua đặc điểm trên, giao dịch hoán đổi ngoại hối không tạo ra trạng thái
ngoại hối nhưng tạo ra trạng thái luồng tiền giống như trong trường hợp vay và
cho vay ngoại tệ. Vì thế, phạm vi ứng dụng của giao dịch hoán đổi ngoại hối
được áp dụng trong những trường hợp sau:
Giao dịch hoán đổi ngoại hối có ý nghĩa thiết thực để phòng ngừa rủi ro tỷ
giá đối với các chủ thể tham gia các hoạt động đầu tư hay đi vay bằng ngoại
tệ.Thực tế, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thường sử dụng giao dịch ngoại
hối kỳ hạn một chiều để phòng ngừa rủi do tỷ giá. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi
ngoại hối đặc biệt hữu dụng đối với các nhà xuất nhập khẩu trong một số những
tình huống nhất định vừa phòng ngừa rủi ro tỷ giá vừa xử lý các luồng tiền phát
sinh không theo kế hoạch.
15
Giao dịch hoán đổi ngoại hối cũng thường được NHTW các nước sử dụng
để thực thi chính sách tiền tệ và can thiệp vào TTNH mà không muốn áp lực tăng
khối lượng tiền trong lưu thông.
Trong một số trường hợp, giao dịch hoán đổi ngoại hối được sử dụng để các
chủ thể đạt được mục đích đi vay và cho vay trên thị trường khi mà thị trường
tiền tệ hoạt động không sôi động.
1.1.5.4. Giao dịch tiền tệ tương lai
Hợp đồng tiền tệ tương lai lần đầu được giao dịch trên thị trường Chicago
vào năm 1972, sau đó được phát triển tại các sở giao dịch chứng khoán của Mỹ
như Sở giao dịch Hàng hóa Trung Mỹ (MidAmerica Commodity Exchange -
MAC) và Sở giao dịch Chứng khoán Philadelphia, rồi ở một số quốc gia có thị
trường tài chính phát triển như Singapore (Singapore International Money
Exchange – SIMEX), Anh (London International Financial Futures Exchange –
LIFFE), New Zealand (New Zealand Futures Exchange) và Nhật (Tokyo
International Financial Futures Exchange). Các hợp đồng tiền tệ tương lai được
giao dịch sớm nhất là Bảng Anh, Đô-la Canada, Mác Đức, Yên Nhật và Franc
Thụy Sĩ. [48]
Các hợp đồng tiền tệ tương lai là các giao dịch trong đó hai bên giao dịch
thỏa thuận với nhau về việc mua bán một lượng tiền xác định theo mức tỷ giá
được thỏa thuận ngay tại thời điểm giao dịch, việc giao hàng và thanh toán được
thực hiện vào một thời điểm xác định trong tương lai. Tuy nhiên, khác với hợp
đồng kỳ hạn, các hợp đồng tương lai được tiêu chuẩn hóa về số lượng và thời hạn
giao hàng, được mua bán ở sở giao dịch, tuân thủ quy trình thanh toán lãi/lỗ mỗi
ngày. Với các đặc điểm này, các hợp đồng tiền tệ tương lai khắc phục được một
số nhược điểm nhất định của hợp đồng kỳ hạn như vấn đề tìm kiếm đối tác, rủi ro
tín dụng và khả năng tháo gỡ trách nhiệm hợp đồng thấp[54].
Giao dịch hợp đồng tiền tệ tương lai chỉ được thực hiện tại sở giao dịch, và
công ty thanh toán bù trừ đảm bảo thực hiện hợp đồng một khi giao dịch được
hai bên thống nhất, lúc đó công ty thanh toán bù trừ sẽ trở thành đối tác của
16
người bán và người mua. Khi các bên muốn tháo gỡ cam kết hợp đồng hay đóng
hợp đồng sẽ dễ dàng thực hiện thông qua công ty thanh toán bù trừ. Như vậy,
hợp đồng tương lai có tính thanh khoản cao hơn hợp đồng kỳ hạn. Bên cạnh đó,
với kỹ thuật tính toán lãi lỗ hàng ngày thông qua việc định giá lại các hợp đồng
tiền tệ theo tỷ giá thanh toán là tỷ giá đóng cửa, nếu tiền lãi cao hơn tiền ký quỹ
theo yêu cầu, thì các bên có thể rút ra hoặc nếu xuống thấp qua mức ký quỹ duy
trì sẽ phải nộp thêm vào. Như vậy, lãi hay lỗ sẽ được xác định hàng ngày, chứ
không phải đợi đến ngày đáo hạn như giao dịch kỳ hạn [43].
Qua những đặc điểm trên, hợp đồng tiền tệ tương lai có những ứng dụng
sau:
Thứ nhất, như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tiền tệ tương lai có thể được sử
dụng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Để bảo hiểm rủi ro tỷ giá tăng(giảm), người
bảo hiểm sẽ tiến hành mua(bán) hợp đồng tiền tệ tương lai. Nếu ngày thanh toán
không trùng với ngày đáo hạn của hợp đồng tương lai, người bảo hiểm sẽ tất toán
hợp đồng tương lai bằng cách thực hiện giao dịch đối ứng với vị thế của hợp
đồng tương lai. Khoản lời thu được trên thị trường tương lai sẽ bù cho khoản lỗ
khi người bảo hiểm tiến hành mua bán ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Nếu
ngày thanh toán trùng với ngày đáo hạn của hợp đồng tương lai, người bảo hiểm
sẽ thực hiện việc giao hàng như giao dịch kỳ hạn.
Tuy nhiên, khi sử dụng hợp đồng tiền tệ tương lai để phòng ngừa rủi ro tỷ
giá cần phải ý thức được rằng hiệu quả bảo hiểm có thể không đạt 100%. Có 3 lý
do chính (1) là do có sự khác nhau về thời điểm thanh toán khoản phải thu (phải
trả) và thời điểm đáo hạn hợp đồng tiền tệ tương lai; (2) là không thể mua bán
phần lẻ các hợp đồng tương lai; (3) là tồn tại rủi ro cơ bản, là rủi ro phát sinh do
mức biến động của tỷ giá giao ngay và mức biến động tỷ giá trên thị trường
tương lai không hoàn toàn như nhau mặc dù chúng biến động cùng chiều. Ngoài
ra, vấn đề chi phí giao dịch và hoa hồng trả cho nhà môi giới cũng cần phải quan
tâm khi thực hiện giao dịch tiền tệ tương lai [9].
17
Thứ hai, sử dụng hợp đồng tiền tệ tương lai để đầu cơ. Hoạt động đầu cơ
trên thị trường tiền tệ tương lai là một hoạt động mang tính mạo hiểm cao và hấp
dẫn nhiều nhà đầu cơ tham gia. Do hai đặc điểm: (1) là tính đòn bẩy, chỉ cần một
số tiền nhỏ ban đầu ứng với mức ký quỹ là nhà kinh doanh có thể mở được một
hợp đồng tương lai. Nếu dự báo đúng về sự biến động của tỷ giá thì nhà kinh
doanh sẽ thu được lợi nhuận và tỷ lệ lợi nhuận khá cao, đương nhiên, nếu dự báo
sai về sự biến động của tỷ giá thì nhà kinh doanh sẽ bị thua lỗ và mức thua lỗ
không nhỏ. (2) là tính thanh khoản cao, nhà kinh doanh có thể tháo gỡ nghĩa vụ
thực hiện hợp đồng dễ dàng khi họ phán đoán xu thế của tỷ giá biến động không
như dự đoán, họ tiến hành tất toán hợp đồng để chốt lời hay cắt lỗ, không đợi đến
ngày đáo hạn, mà điều này không thể thực hiện được nếu họ sử dụng giao dịch
kỳ hạn.
1.1.5.5. Hợp đồng quyền chọn tiền tệ
Hợp đồng trong đó người mua quyền chọn trả cho người bán một khoản
tiền gọi là phí quyền chọn để có quyền chứ không phải nghĩa vụ thực hiện hợp
đồng[53]:
-Mua hoặc bán một số lượng nhất định của một loại tiền.
-Vào một ngày xác định trong tương lai hoặc vào bất cứ thời điểm nào kể từ
sau khi ký hợp đồng cho đến một ngày xác định trong tương lai.
-Tại một mức tỷ giá nhất định được xác định và thỏa thuận ngay tại thời
điểm ký kết hợp đồng.
Như vậy, hợp đồng có được thực hiện hay sẽ tự hết hiệu lực khi đến thời
điểm đáo hạn tùy thuộc vào quyết định của người mua, người mua ở vị thế chủ
động, còn người bán quyền chọn ở vị thế bị động, khi nhận được phí quyền chọn,
người bán có nghĩa vụ đáp ứng khi người mua quyết định thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng quyền chọn tiền tệ có các loại sau [45]
(1)Hợp đồng quyền chọn mua (Call Option): là hợp đồng trong đó người mua
quyền chọn, sau khi trả cho người bán quyền chọn một khoản phí nhất định, có
quyền mua từ người bán quyền chọn đồng tiền cơ sở với một số lượng nhất định
18
tại mức tỷ giá cố định đã được thỏa thuận từ trước trong một khoảng thời gian
nhất định hay tại một thời điểm xác định trong tương lai.
(2)Hợp đồng quyền chọn bán (Put Option): là hợp đồng trong đó người mua
quyền chọn, sau khi trả cho người bán quyền chọn một khoản phí nhất định, có
quyền bán cho người bán quyền chọn đồng tiền cơ sở với một số lượng nhất định
tại mức tỷ giá cố định đã được thỏa thuận từ trước trong một khoảng thời gian
nhất định hay tại một thời điểm xác định trong tương lai.
Nếu căn cứ vào thời điểm thực hiện hợp đồng, quyền chọn được chia làm
hai loại:
-Quyền chọn kiểu Châu Âu (European Option): Là quyền chọn chỉ cho
phép người nắm giữ quyền chọn thực hiện quyền chọn vào ngày đáo hạn.
-Quyền chọn kiểu Mỹ (American Option): là quyền chọn cho phép người nắm
giữ quyền chọn đưa ra yêu cầu thực hiện quyền chọn vào bất cứ thời điểm nào
trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, kể từ khi ký hợp đồng cho đến khi đáo hạn
hợp đồng, kể cả vào ngày đáo hạn.
Việc thanh toán sẽ thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi việc thực
hiện quyền chọn được người nắm giữ quyền chọn xác nhận.
Với những đặc điểm trên, hợp đồng quyền chọn có thể được sử dụng như sau:
Thứ nhất, sử dụng hợp đồng quyền chọn tiền tệ để bảo hiểm rủi ro tỷ giá,
nhà kinh doanh quyền chọn vừa bảo vệ trước sự thay đổi giá cả của tài sản tài
chính trong tương lai trong khi vẫn cho phép họ có thể khai thác chiều hướng
biến động thuận lợi của giá cả để thu lợi nhuận. Các hợp đồng quyền chọn đặc
biệt hữu hiệu đối với các công ty tham gia các hoạt động đấu thầu quốc tế. Trong
các hoạt động đấu thầu quốc tế, các đơn vị tham dự thầu thường có các khoản thu
bằng ngoại tệ nếu như việc đấu thầu cung cấp dịch vụ và hàng hóa thành công.
Trong khoảng thời gian từ khi tham gia đấu thầu cho đến khi nhận được kết quả
đấu thầu, sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể làm giảm hiệu quả kinh doanh,
hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể sử dụng để bảo hiểm cho các hoạt động đấu
thầu như thế.
19
Thứ hai, hợp đồng quyền chọn cũng là công cụ để thực hiện đầu cơ.Tùy vào
dự đoán sự biến động của tỷ giá, nhà đầu cơ có thể sử dụng hợp đồng quyền chọn
đơn lẻ hay kết hợp từ hai quyền chọn mua hay bán tiền tệ, để kiếm lời thông qua
sự biến động của tỷ giá. Nếu là người mua quyền chọn, họ sẽ mất phí quyền chọn
khi dự đoán sai. Nếu là người bán quyền chọn thì thiệt hai của họ sẽ là không xác
định được tùy vào mức độ biến động của tỷ giá và qui mô giao dịch.
1.2. Những nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường ngoại hối của một quốc gia
TTNH hoạt động và phát triển dưới tác động của những nhân tố khách quan và
chủ quan, đó là
1.2.1 Tác động của qui luật thị trường
Trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, thương
mại của các chủ thể trong nền kinh tế đều phải vận hành theo qui luật khách quan
của thị trường, đó là qui luật giá trị, qui luật cung-cầu, qui luật cạnh tranh. Những
qui luật này chi phối việc lập kế hoạch, chiến lược sản xuất và kinh doanh của
các doanh nghiệp, các cá nhân, tổ chức tài chính có giao dịch liên quan đến ngoại
tệ, tác động đến nhu cầu về ngoại tệ của những chủ thể đó sẽ thay đổi dẫn đến sự
biến động của tỷ giá là giá cả của hàng hóa trên TTNH. Nếu một cơ chế tỷ giá
cứng ngắc sẽ làm triệt tiêu động lực bảo hiểm rủi ro tỷ giá và ngăn cản những
người tham gia thị trường phát triển kỷ năng quản lý rủi ro ngoại hối và làm
chậm sự phát triển của thị trường phái sinh [60]. Ngược lại, tỷ giá biến động dẫn
đến làm thay đổi lợi nhuận của các chủ thể có giao dịch liên quan đến ngoại tệ và
làm tăng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Cũng như tạo cơ hội cho nhà đầu cơ
tham gia mua bán tiền tệ để tìm kiếm lợi nhuận thông qua sự kỳ vọng về biến
động của tỷ giá.
Một TTNH được điều hành và hoạt động bằng những biện pháp hành chính,
áp đặt tỷ giá theo ý muốn chủ quan của nhà điều hành tách rời với giá thị trường
sẽ vi phạm qui luật giá trị và qui luật cung cầu. Khi đó tỷ giá chính thức chỉ
20
mang tính danh nghĩa, giao dịch trên hệ thống ngân hàng sẽ bị thu hẹp lại, tạo cơ
hội cho thị trường không chính thức hoạt động.[44]
TTNH sẽ triệt tiêu sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường bằng
những chính sách ưu tiên cho chủ thể kinh tế nhà nước hơn các chủ thể kinh tế
khác, khi đó sẽ dẫn tới những hành vi tiêu cực trong kinh doanh hạn chế sự phát
triển của thị trường. [44].
Tôn trọng qui luật khách quan của thị trường sẽ tạo điều kiện cho thị trường
vận hành đúng với chức năng vốn có của nó; Vấn đề đặt ra cho những nhà quản
lý là hãy lập và điều hành chính sách phù hợp với cơ chế thị trường để thông qua
qui luật thị trường đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra.
1.2.2. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
Xu hướng phát triển kinh tế của các quốc gia hiện nay là hướng tới hội nhập
kinh tế, là mở cửa nền kinh tế và tùy thuộc vào mỗi quốc gia mà có mức độ mở
cửa khác nhau. Điều này nói lên rằng các quốc gia không thể tự thỏa mãn nhu
cầu của chính mình, mà phải tiến hành chuyên môn hóa sản xuất xuất khẩu
những hàng hóa và dịch vụ có lợi thế so sánh và nhập khẩu những hàng hóa và
dịch vụ không có lợi thế so sánh. Như vậy, khi quá trình toàn cầu hoá càng phát
triển, mức độ mở cửa của các nền kinh tế càng lớn thì chu chuyển hàng hóa và
dịch vụ giữa các quốc gia sẽ càng tăng, hoạt động thương mại quốc tế sẽ ngày
càng phát triển. Và một khi còn tồn tại các đồng tiền khác nhau giữa các quốc
gia, giữa các khu vực thì dẫn đến nhu cầu trao đổi tiền tệ càng nhiều để đáp ứng
với đà phát triển của thương mại và dịch vụ quốc tế từ đó tác động đến hoạt động
của TTNH.
Bên cạnh chu chuyển hàng hóa và dịch vụ phát triển, toàn cầu hóa còn đưa
đến việc mở cửa trong lĩnh vực chu chuyển vốn quốc tế. Một quốc gia mở cửa
TTTC sẽ mang lại những lợi ích nhất định, tăng nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ
tầng và phát triển sản xuất. Những nhà đầu tư, những người đi vay sẽ có cơ hội
tiếp cận với các dòng vốn có chi phí và lãi suất cạnh tranh thông qua TTTC, bên
cạnh đó trên TTTC quốc tế còn cho phép những nhà đầu tư tài chính tìm kiếm
21
khả năng sinh lời cao và giảm được rủi ro thông qua đa dạng hóa danh mục đầu
tư quốc tế. Như vậy, khi mở cửa TTTC sẽ tạo điều kiện để quá trình luân chuyển
vốn giữa các quốc gia phát triển nhu cầu chuyển đổi tiền tệ sẽ càng tăng giúp cho
hoạt động trên TTNH phát triển.
Đây là một tác động vừa mang yếu tố khách quan vừa có yếu tố chủ quan:
khách quan là bởi vì nền kinh tế thế giới hiện nay đứng trước nhu cầu về lương
thực, thực phẩm, nguyên liệu càng gia tăng mà nguồn tài nguyên càng cạn kiệt thì
sự liên kết hợp tác để tận dụng những thế mạnh của những quốc gia, khu vực
khác là sự vận động theo qui luật phát triển tự nhiên của nền kinh tế thị trường,
còn chủ quan là tùy thuộc vào chính sách mức độ hội nhập cuả từng quốc gia.
Khi một nền kinh tế mở cửa với thế giới, nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng trưởng mạnh
cùng với luồng vốn đầu tư nước ngoài để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, đặc
biệt là trong trường hợp Việt Nam khi khoảng 90% tổng giá trị nhập khẩu là hàng
tư liệu sản xuất và xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào cung cầu và giá cả trên
thị trường thế giới [4].
Những biến động của giá nguyên vật liệu cũng như cầu giảm sút do khủng hoảng
kinh tế là những nhân tố ảnh hưởng đến nhập siêu của Việt Nam và ảnh hưởng đến
nguồn cung cầu ngoại tệ.
Theo nghiên cứu của Ng Boey Kui 1998, quá trình toàn cầu hóa đã tác động
đến việc mở rộng kiểm soát ngoại hối của các nước Đông Nam Á như với
Indonesia việc mua, bán ngoại hối không còn bị hạn chế, những ngân hàng hoạt
động ngoại hối không bị bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng
Indonesia(Goverment Dcree No.1 1982). Với Philippine thì trước năm 1983,
những nhà xuất khẩu bị bắt buộc kết hối 100% nhưng sau đó đã được dỡ bỏ và hệ
thống kinh doanh ngoại hối đã được mở rộng đáng kể, những NHTM được phép
giữ lại nguồn thu ngoại tệ và giao dịch với nhau trên thị trường liên ngân hàng.
Với Malaysia, Srilanka và Thailand không hạn chế việc các NHTM nắm giữ
ngoại tệ nhưng vẫn còn yêu cầu những nhà xuất khẩu chỉ được giữ lại ngoại tệ
trong một khoảng thời gian nhất định.
22
Quá trình tự do hóa kiểm soát ngoại hối vừa thúc đẩy sự phát triển của
TTLNH vừa tạo điều kiện cho thị trường ngoại tệ phái sinh hoạt động bởi vì
trong thế giới mà chính sách tỷ giá thả nổi được toàn cầu hóa, thì rủi ro tỷ giá sẽ
gia tăng một cách mạnh mẽ và những nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà đầu tư
cũng như các ngân hàng sẽ gia tăng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá [50].
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động thuận lợi tạo cơ hội cho TTNH phát
triển thì quá trình mở cửa sẽ làm cho nền kinh tế của một quốc gia đối mặt với
những biến động từ bên ngoài. Trong một thế giới mà ở đó các thị trường liên kết
với nhau sẽ làm cho mức tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá và tỷ lệ lạm phát …
của các quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng lẫn nhau và nếu đó là những sự kiện như
khủng hoảng kinh tế, tài chính của khu vực sẽ làm suy giảm hoạt động sản xuất
kinh doanh của các quốc gia, giảm kim ngạch xuất nhập khẩu, tác động đến
doanh số giao dịch trên TTNH sẽ sụt giảm.
Bên cạnh đó, còn có tác động của các yếu tố: sự phát triển công nghệ thông
tin, qui mô ngày càng lớn của các giao dịch tài chính và những rào cản về tài
chính thương mại bị bãi bỏ theo yêu cầu của hội nhập, đã dẫn đến sự tăng tốc độ
chu chuyển các luồng vốn và trao đổi thương mại, hình thành nên một mạng lưới
tài chính toàn cầu với sự gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các trung tâm tài
chính. Những tin tức thị trường mau chóng lan truyền giữa các châu lục và tạo ra
phản ứng dây chuyền trong việc ra quyết định của các nhà đầu tư, đầu cơ trên
toàn cầu cũng như dễ dàng gây ra hiệu ứng “domino” trên toàn cầu khi một thị
trường tài chính của khu vực nào bị khủng hoảng.
1.2.3. Chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia
TTNH của mỗi quốc gia là nơi mà các chính sách kinh tế, tiền tệ được thực
hiện, những chính sách này sẽ tác động đến hoạt động và phát triển của TTNH
mà trực tiếp là chính sách quản lý ngoại hối. Quản lý ngoại hối hay còn được gọi
là kiểm soát ngoại hối, là một hệ thống những qui định pháp lý mà trong đó có
những hạn chế trong trao đổi, vay, mượn, những khoản thu và chi trong cán cân
thanh toán của một quốc gia. Đối với những mục tiêu đầu tư quốc tế quản lý
23
ngoại hối nhằm kiểm soát, quản lý các luồng vốn di chuyển vào và ra khỏi quốc
gia [57].
Vì thế, chính sách quản lý ngoại hối bao gồm: chính sách tỷ giá, chính sách
kết hối, chính sách lưu thông, kinh doanh và thanh toán ngoại hối vv.. Xây dựng
và thực hiện chính sách quản lý ngoại hối là nhằm đạt mục tiêu ổn định TTNH,
tạo sự cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế, ổn định giá trị tiền tệ, bảo tồn
nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài tạo điều kiện ổn định và phát
triển kinh tế.
1.2.3.1. Chính sách tỷ giá
Chính sách tỷ giá là những chủ trương biện pháp của chính phủ thông qua
cơ chế điều hành nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến
động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Trong một nền kinh tế mở, động cơ hoạch định chính sách là những mục
tiêu cân đối bên trong và cân đối bên ngoài. Tuy nhiên những mục tiêu này có
quan hệ mật thiết với nhau, những thay đổi cân đối bên trong sẽ tác động đến
những thay đổi bên ngoài và ngược lại. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập hiện nay
những yếu tố của cân đối bên trong còn chứa đựng những yếu tố bên ngoài và
ngược lại.
Tỷ giá là một biến số kinh tế quan trọng, tác động đến nền kinh tế với mức
ảnh hưởng khác nhau ở các mặt hoạt động khác nhau, với TTNH chính sách tỷ
giá sẽ có những tác động trực tiếp và gián tiếp như sau:
(1)Một tỷ giá hối đoái phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường sẽ
có tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và phát triển sản xuất,
lưu thông hàng hoá gia tăng lượng ngoại tệ trên TTNH.
(2) Tỷ giá được xác định đúng là giá cả của thị trường sẽ tạo cơ sở cho các
giao dịch trên TTNH phát triển.
(3)Một chế độ tỷ giá phù hợp sẽ tạo điều kiện nâng cao uy tín đồng bản tệ,
tạo niềm tin cho các nhà đầu tư quốc tế thu hút luồng vốn đầu tư chảy vào gia
tăng lượng ngoại tệ tạo cơ hội cho dòng chảy ngoại tệ được thông suốt.
24
Lựa chọn một chính sách tỷ giá hợp lý phải tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế,
thể chế chính trị, phương hướng phát triển kinh tế và nhất là mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ.
Xuất phát từ mục tiêu đặt ra và những tác động của chính sách, chính sách
tỷ giá gồm 2 nội dung chính như sau:(i) Xác định một chế độ tỷ giá phù hợp (ii)
Xác định hệ thống các công cụ tác động đến tỷ giá.
Chế độ tỷ giá (exchange rate regime hay còn gọi là cơ chế tỷ giá (exchange
rate mechanism) phản ảnh cách thức xác định tỷ giá mà chính phủ lựa chọn và
cách thức can thiệp vào tỷ giá của NHTW, vì thế chế độ tỷ giá được phân chia
thành các chế độ tỷ giá đặc trưng là:
Chế độ tỷ giá cố định: là chế độ theo đó NHTW công bố và cam kết để duy
trì tỷ giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định
trước. Vai trò của NHTW buộc phải mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị
trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá cố định và chỉ biến động trong một biên độ
hẹp.
Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là chế độ tỷ giá được xác định hoàn toàn tự
do theo qui luật cung cầu trên TTNH mà không có bất kỳ sự can thiệp nào của
NHTW.Vai trò của NHTW chỉ tham gia trên TTNH với tư cách là một thành viên
bình thường, nghĩa là NHTW có thể mua hay bán một đồng tiền nhất định để
phục vụ cho mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp
lên tỷ giá hay để cố định lên tỷ giá. Trên thực tế tuy tuyên bố áp dụng chế độ tỷ
giá thả nổi nhưng chính phủ không hoàn toàn thờ ơ trước sự biến động thất
thường của tỷ giá, nên cũng có can thiệp để giảm sự biến động của tỷ giá, tuy
nhiên can thiệp của chính phủ là tùy ý không đặt ra bất cứ mục tiêu bắt buộc nào
phải đạt được.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: là chế độ tỷ giá, theo đó NHTW tiến hành
can thiệp tích cực trên TTNH nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất
định. NHTW không cam kết duy trì một mức tỷ giá cố định nào, nhưng cam kết
can thiệp để tỷ giá chỉ biến động trong một giới hạn. Chế độ tỷ giá thả nổi có
25
điều tiết là sự kết hợp giữa chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn và chế độ tỷ giá hối
đoái cố định.
Trong thực tế hầu như ít có một quốc gia nào áp dụng chế độ tỷ giá cố định
hoặc thả nổi thuần tuý mà thay vào đó là một chính sách tỷ giá kết hợp giữa thả
nổi và cố định với những đặc trưng đa dạng phù hợp với đặc điểm của từng quốc
gia.
Chế độ tỷ giá là công cụ của chính sách kinh tế cuả chính phủ vì vậy chế
độ tỷ giá phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chính phủ, mỗi quốc gia sẽ có nguyên
tắc xác định tỷ giá và cơ chế điều hành tỷ giá khác nhau và chính từ đó hình
thành các chính sách tỷ giá khác nhau. Nội dung chính của chính sách tỷ giá
chính là chế độ tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp. Tuỳ thuộc vào từng thời
kỳ xác định chiến lược phát triển kinh tế, dự trữ ngoại hối, đặc thù về hoàn cảnh
lịch sử của mỗi quốc gia mà có sự lựa chọn những chính sách tỷ giá khác nhau.
Các quốc gia hiện nay có thể lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái nằm trong dãy
từ mô hình chế độ tỷ giá cố định đến chế độ tỷ giá linh hoạt thuần tuý, giữa các
mô hình đó đó là những mô hình chế độ tỷ giá không thuần tuý là cố định hay
linh hoạt.
Theo phân loại của IMF, trên thế giới gồm có các chế độ tỷ giá:
Chế độ tỷ giá không có đồng tiền pháp định riêng (Exchange Rate Regimes
with no separate legal tender), đồng tiền sử dụng trong lưu thông có thể là (1)
quốc gia này sử dụng đồng tiền của quốc gia khác trong lưu thông như là một
đồng tiền pháp định duy nhất (2)quốc gia này là thành viên của liên minh tiền tệ,
trong đó các nước thành viên thống nhất sử dụng một đồng tiền pháp định chung.
Chế độ chuẩn tiền tệ (Currency board Regimes): Đây là chế độ tỷ giá có có
sự cam kết chính thức của chính phủ về chuyển đổi bản tệ sang ngoại tệ là đồng
tiền bản vị tại một mức tỷ giá cố định.
Chế độ tỷ giá neo đậu (cố định) thông thường (Conventional fixed peg
Regimes) đây là chế độ tỷ giá khi chính phủ neo đồng tiền của mình (một cách
chính thức hay ngầm định) với một đồng tiền chính hay một rổ các đồng tiền tại
26
một mức tỷ giá cố định, đồng thời cho phép tỷ giá được dao động trong một biên
độ hẹp tối đa là 1% xung quanh tỷ giá trung tâm.
Chế độ tỷ giá neo đậu (cố định) với biên độ dao động rộng (Exchange rates
Peg within horizontal bands): giống như chế độ tỷ giá trên nhưng cho phép tỷ giá
được dao động trong một biên độ rộng hơn 1% xung quanh tỷ giá trung tâm.
Chế độ tỷ giá cố định trượt (Crawling pegs): Đây là chế độ tỷ giá cố định,
nhưng định kỳ tỷ giá sẽ được điều chỉnh như sau:( 1)Hoặc theo một tỷ lệ nhất
định đã được thông báo trước, (2)Hoặc để phản ánh những thay trong một chỉ
tiêu nhất định đã được lựa chọn(lạm phát, cán cân thương mại...)
Chế độ tỷ giá trượt có biên độ (Exchange rates within crawling bands):
Đây là chế độ tỷ giá cố định với các nội dung:(1) tỷ giá dao động trong một biên
độ nhất định xoay quanh tỷ giá trung tâm.(2)Tỷ giá trung tâm được điều chỉnh
định kỳ có thể theo một tỷ lệ đã được thông báo trước, hoặc để phản ánh những
thay đổi trong một số chỉ tiêu nhất định đã được lựa chọn.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết không thông báo trước (Managed floating
with no preannounced path for Exchange rate): Là chế độ tỷ giá vừa giống chế
độ tỷ giá thả nổi tự do ở điểm các tỷ giá được phép dao động hàng ngày và không
có các biên độ chính thức. Nhưng nó lại giống chế độ tỷ giá cố định ở điểm các
chính phủ có thể can thiệp vào tỷ giá để tránh đồng bản tệ biến động bất lợi.
Chính phủ tác động ảnh hưởng lên xu hướng vận động của tỷ giá thông qua hành
động can thiệp tích cực trên TTNH, nhưng không có bất cứ một sự thông báo
trước hay một sự cam kết nào về hướng và mức độ can thiệp lên tỷ giá là như thế
nào. Hiện nay, trên thế giới có 42 quốc gia áp dụng chế độ tỷ giá này trong đó có
Việt nam.
Chế độ tỷ giá thả nổi độc lập (Independently Floating): Đây là chế độ tỷ
giá, trong đó tỷ giá được xác định theo thị trường mà không có bất cứ sự can
thiệp nào của NHTW. Vì thế không đòi hỏi quốc gia phải có dự trữ ngoại hối
mạnh để can thiệp vào TTNH. Bất cứ hoạt động can thiệp ngoại hối nào cũng chỉ
27
nhằm giảm sự biến động quá mức của tỷ giá, chứ không theo đuổi một hướng
vận động hay một giới hạn cụ thể nào về tỷ giá.
Trên cơ sở xác định chế độ tỷ giá, chính phủ sẽ xác định việc điều hành
chính sách tỷ giá bằng những công cụ mà có mức độ tác động khác nhau, đó là:
Lãi suất tái chiết khấu, Nghiệp vụ thị trường mở, Can thiệp vào TTNLLNH,
ngoài 3 công cụ mang tính kinh tế trên, các quốc gia còn sử dụng các biện pháp
mang tính hành chính như kết hối, qui định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ
v.v..
Trong nghiên cứu về TTNH của các nước Đông Nam Á của Ng Boey Kui,
1998 cho rằng nguyên nhân lớn nhất gây cản trở sự phát triển TTNH là sự biến
động của tỷ giá trong một biên độ quá hẹp và tỷ giá cuả đồng nội tệ bị neo với
một vài đồng tiền chính có khả năng chuyển đổi được, vì thế đã không tạo cơ hội
cho nghiệp vụ đầu cơ và bảo hiểm rủi ro tỷ giá phát triển.
Một chính sách tỷ giá nghiêm ngặt sẽ cản trở sự phát triển TTNH và một
TTNH hoạt động hiệu quả, thanh khoản cao chỉ có thể có được với một chính
sách tỷ giá hối đoái được điều hành linh hoạt [59].
Những thay đổi của cơ chế tỷ giá đã tạo nên một khuôn khổ thể chế cần
thiết cho sự hình thành và phát triển của TTNH có tổ chức[52].
Trong nghiên cứu về hệ thống luật pháp quản lý ngoại hối của Trung Quốc,
Yang Bai (2009) đã tập trung phân tích hạn chế của những qui định đối với các
giao dịch trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn chưa phù hợp với quá trình mở
cửa và hội nhập kinh tế làm ảnh hưởng đến sự phát triển của TTNH.
Vì vậy, nghiên cứu những qui định về quản lý ngoại hối của những giao
dịch liên quan đến ngoại tệ trên cán cân thanh toán là nội dung quan trọng để
đánh giá khả năng phát triển TTNH của một quốc gia.
1.2.3.2. Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản vãng
lai
Theo Nghị định 160/2006 giao dịch vãng lai là những giao dịch của người
cư trú và không cư trú không vì mục đích chuyển vốn, như vậy, những giao dịch
28
đó bao gồm các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ, các khoản thu nhập từ đầu tư trực tiếp gián tiếp, các khoản
tiền lãi và trả lãi nước ngoài, các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu
dùng. Quản lý ngoại hối đối với giao dịch trên tài khoản vãng lai gồm những nội
dung cụ thể sau:
Theo dõi nguồn thu xuất khẩu
Mỗi quốc gia với trình độ phát triển kinh tế nhất định và với lợi ích của
nước đó sẽ có những chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài
khoản vãng lai khác nhau, qua đó sẽ có qui định về việc kiểm tra quản lý các
nguồn thu xuất khẩu, khi lượng ngoại tệ trong nước quá ít thì các nước thường có
chính sách tập trung ngoại tệ vào một đầu mối do nhà nước quản lý để tăng mức
dự trữ ngoại hối cho quốc gia và cân đối cung cầu ngoại tệ của đất nước, như có
quốc gia thực hiện chính sách buộc phải bán lại tất cả những khoản ngoại tệ từ
thu xuất khẩu cho ngân hàng hay thực hiện chính sách kết hối có tỷ lệ qui định.
Những qui định về kiểm soát ngoại hối như vậy sẽ gây bất lợi cho việc phát triển
TTNH mà những nước trong khu vực Đông Nam Á đã từng thực hiện trước đây
[50].
Giám sát việc thanh toán nhập khẩu
Là những biện pháp nhằm quản lý cầu ngoại tệ, để đảm bảo khả năng thanh
toán tiền hàng nhập khẩu, thường có những biện pháp như hạn chế nhập khẩu
những hàng hóa xa xỉ, ưu tiên cho hàng hóa là máy móc thiết bị phục vụ cho sản
xuất, áp dụng những qui định về các chứng từ bắt buộc phải xuất trình khi thanh
toán và qui trách nhiệm kiểm tra chứng từ, xuất trình chứng từ chứng minh
nguồn gốc hợp pháp, hợp lệ của khoản tiền thanh toán, nhằm quản lý chặc chẽ
việc sử dụng ngoại tệ và đáp ứng những yêu cầu của các qui định trong công ước
chống rửa tiền mà hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có tham gia.
Chính sách kiều hối
Kiều hối là ngoại tệ do người không cư trú chuyển về cho người cư trú
trong nước. Đây là nguồn cung ứng ngoại tệ cho quốc gia mà không có những rủi
29
ro hay phải trả lãi như những nguồn vốn vay của nước ngoài. Vì thế các quốc gia
thường tạo mọi điều kiện dễ dàng cho hoạt động kiều hối, từ việc sử dụng mức
phí hấp dẫn đến rút ngắn thời gian nhận tiền, cho phép nhận ngoại tệ mặt hay mở
tài khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ vv…Tuy nhiên mỗi quốc gia sẽ có những biện
pháp để quản lý nguồn ngoại tệ này, nhằm hạn chế tình trạng đola hóa và nâng
cao hiệu quả nguồn ngoại tệ này.
Chính sách mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài
Ban hành những qui định về việc được mua, chuyển ngoại tệ, hay những
qui định cụ thể về số lượng ngoại tệ mặt được phép mang theo khi xuất ngoại hay
khi nhập cảnh. Trong nước có hạn chế hay thả nổi việc thanh toán, cất giữ, định
giá bằng ngoại tệ của người cư trú.
Mở tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài
Ngoại tệ của người cư trú nằm trong tài khoản ở nước ngoài có thể được
xem là khoản đầu tư ra nước ngoài, vì thế đối tượng này cũng phải được quản lý
bằng những qui định về việc mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, về mục đích và
cách sử dụng tài khoản của người cư trú là cá nhân hay các tổ chức.
Tóm lại, quản lý ngoại hối trên tài khoản vãng lai có thể được áp dụng theo
những chính sách thắt chặt hay tự do.
Áp dụng những chính sách quản lý ngoại hối thắt chặt như nhà nước độc
quyền trong hoạt động ngoại thương, hoạt động thanh toán quốc tế chỉ do nhà
nước thực hiện, tất cả những giao dịch chuyển ngoại tệ vào phải bán lại cho nhà
nước, nếu muốn chuyển tiền ra phải được sự cho phép của nhà nước mà đại diện
là NHNN. Hay nới lỏng hơn là những chính sách mà nhà nước không độc quyền
về hoạt động ngoại thương nhưng giám sát chặt chẽ nguồn ngoại tệ thu được
buộc phải bán cho nhà nước, hay nhà nhập khẩu chỉ được mua ngoại tệ thông qua
ngân hàng theo tỷ giá của nhà nước ấn định trong từng thời kỳ, mà tỷ giá này
thường theo ý muốn chủ quan của nhà nước chứ không phải do cung cầu trên thị
trường xác định.
30
Ngược lại, chính sách quản lý ngoại hối tự do đối với những giao dịch trên
tài khoản vãng lai, là nhà nước chỉ giám sát để đảm bảo những hoạt động thanh
toán hay những giao dịch liên quan đến ngoại tệ có hợp pháp hay không, không
cần phải xin giấy phép cho những khoản chuyển tiền một chiều ra nước ngoài,
hay được ngân hàng cung ứng ngoại tệ theo nhu cầu hợp pháp, hợp lý theo tỷ giá
thị trường.
1.2.3.3. Chính sách quản lý ngoại hối đối với tài khoản vốn
Quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư
Là những qui định đối với các giao dịch trên tài khoản vốn nhằm mục đích
thu hút, quản lý hiệu quả các luồng vốn đầu tư nước ngoài và các luồng vốn đầu
tư ra nước ngoài. Giao dịch vốn(GDV) là những giao dịch chuyển vốn giữa
người cư trú và người không cư trú trong các lĩnh vực liên quan đến đầu tư trực
tiếp, đầu tư gián tiếp, vay trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài.
Việc quản lý các giao dịch trên tài khỏan vốn có thể thực hiện theo những
biện pháp:
Một là, là quản lý chặt chẽ những luồng vốn vào và ra khỏi đất nước, chỉ có
các tổ chức nhà nước mới được thực hiện chu chuyển vốn theo đúng qui định của
nhà nước, như vậy chỉ có những khoản đầu tư tài trợ, theo đúng nghĩa viện trợ
không hoàn lại, là được nhận vốn đầu tư cũng như chuyển vốn đầu tư ra nước
ngoài và thường việc chuyển vốn này giữa các quốc gia nhằm mục đích phi lợi
nhuận.
Hai là, tự do hóa GDV là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối
với những giao dịch này. Đối với người dân, tự do hóa GDV cho phép họ thực
hiện các hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia hoạt
động đầu tư nhằm đạt lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở
hữu những công ty khác, các luồng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có tỷ suất
sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất sinh lợi cao.
Tự do hóa GDV sẽ mang lại những lợi ích sau:
31
- Hình thành sự bình đẳng trong hoạt động đầu tư tài chính, các luồng vốn luân
chuyển linh hoạt và hiệu quả, tạo điều kiện tiếp cận các luồng vốn quốc tế, tăng
vốn đầu tư trong nước, phát triển thị trường tài chính;
-Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn vốn, giúp các doanh nghiệp tiếp cận
nguồn vốn trong và ngoài nước với chi phí thấp, nâng cao tính tự chủ của nhà
đầu tư;
-Việc mở cửa thị trường tín dụng làm tăng tính linh hoạt của các doanh
nghiệp trước những biến động về hàng hóa và lợi nhuận.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, tự do hóa GDV cũng tạo ra sự đa dạng
hóa các rủi ro phát sinh. Nếu chính sách vĩ mô không đủ mạnh và quản lý tài
chính yếu kém, việc gia tăng luồng vốn vào quá mức sẽ gây ra những rủi ro đáng
kể đối với nền kinh tế.
Những rủi ro do quá trình tự do hóa GDV mang lại:
-Tự do hóa GDV tác động mạnh đến hệ thống ngân hàng, cả chính sách tiền
tệ của NHTW và hoạt động kinh doanh của các TCTD, các tập đoàn và ngân
hàng lớn ngày càng có ảnh hưởng mạnh đến chính sách của các quốc gia. Quá
trình tự do hóa GDV ảnh hưởng đến các NHTM – thành viên trực tiếp tham gia
các GDV quốc tế và thông qua hoạt động của những khu vực khác trong nền kinh
tế, gây khó khăn về quản lý tài sản, nhất là trong việc điều chỉnh tỉ giá, lãi suất,
phòng ngừa rủi ro nhằm cân bằng lợi ích giữa việc nắm giữ ngoại tệ và nội tệ
cũng như cơ cấu tiền gửi và cho vay.
-Trong quá trình tự do hóa GDV, các luồng vốn vào ngày càng tăng mạnh.
Khi luồng vốn vào quá mức có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế quá nóng, nếu
tiền cung ứng tăng quá mức so với tăng trưởng GDP thực tế sẽ làm tăng tổng
phương tiện thanh toán (M2), gây áp lực lạm phát và biến động về tỉ giá hối đoái,
làm tăng thâm hụt cán cân vãng lai, nhất là khi sản xuất trong nước phụ thuộc
vào nguyên liệu nhập khẩu, tiềm ẩn rủi ro cán cân thanh toán và tính thanh khoản
của hệ thống ngân hàng.
32
Trong xu thế toàn cầu hóa, chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia
tăng mạnh cả về qui mô và tốc độ, mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp
đối phó thích hợp nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững.
Quản lý ngoại hối đối với hoạt động vay trả nợ nước ngoài
Vay nợ nước ngoài là khoản vay của các NHTM, các tổ chức tín dụng nước
ngoài dành cho các chủ thể được phép. Khoản vay này thường được tính bằng
ngoại tệ mạnh, sau một thời gian các chủ thể phải hoàn trả khoản vốn vay và lãi
vay cho các tổ chức nói trên.
Các khoản vay nợ nước ngoài của một quốc gia có hai loại: vay thương mại
và các khoản vay ưu đãi.
Thường trong cơ cấu nợ vay nước ngoài của các quốc gia đang phát triển
các khoản vay ưu đãi chiếm phần lớn vì các khoản vay này có lãi suất thấp, thời
hạn dài và thường có một phần là viện trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, để có được
khoản vay này, các nước thường phải chịu ràng buộc về mặt kinh tế, chính trị
nhất định.
Việc vay nợ nước ngoài tạo nên nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi khi hợp đồng vay
vốn đến hạn. Đây là nghĩa vụ bắt buộc, dễ dẫn đến khả năng không hoàn trả được
nợ, vỡ nợ, gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, đặc biệt là ảnh hưởng đến hệ
thống tài chính, tiền tệ. Vì vậy, các nước thường giám sát và quản lý chặc chẽ
khoản vay này.
1.3. Những điều kiện để phát triển TTNH trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho sự tự do hóa chu chuyển các
luồng vốn giữa các quốc gia, mở cửa hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế, tạo
điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển thị trường. Tuy nhiên, để thị trường
phát triển bền vững, hạn chế những tổn thất trước những đợt khủng hoảng kinh tế
tài chính của khu vực và thế giới, cần phải có những điều kiện sau:
33
1.3.1. TTNTLNH đóng vai trò trung tâm
Trong TTNH toàn cầu, TTLNH (bao gồm cả giao dịch thực hiện bởi tổ
chức tài chính phi ngân hàng) phải chiếm tỷ lệ cao tổng khối lượng giao dịch trên
thị trường [48] để qua đó sẽ xác định chính xác giá trị đối ngoại của đồng bản tệ,
đảm bảo cân bằng bên ngoài để hình thành một tỷ giá phù hợp với thị trường.
Trên cơ sở vai trò trung tâm, TTNTLNH mới có thể thực hiện được vai trò định
hướng dẫn dắt thị trường cũng thông qua giao dịch trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng của quốc gia, NHNN mới có thể tác động đến tỷ giá thông qua hành
vi mua bán ngoại tệ trên thị trường.
Nếu giao dịch trên TTNTLNH của quốc gia chiếm tỷ trọng quá thấp so với
tổng doanh số giao dịch ngoại tệ của nền kinh tế, thì hành động mua bán ngoại tệ
của NHNN sẽ khó phát huy hiệu quả để đạt đến tỷ giá mong muốn nhằm thực thi
mục tiêu của chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ.
1.3.2. Doanh số giao dịch trên TTNH phải tương thích với hoạt động ngoại
thương và đầu tư quốc tế
Tốc độ tăng trưởng doanh thu kinh doanh ngoại hối phản ánh quá trình mở
cửa thông qua hoạt động ngoại thương [52]. Như vậy, quá trình hội nhập càng
sâu rộng tạo cơ hội cho các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế phát triển
dẫn tới sự gia tăng lượng cung và cầu ngoại tệ, là điều kiện cần thiết cho sự phát
triển TTNH. Ngược lại sự phát triển của TTNH sẽ có vai trò thúc đẩy hoạt động
thương mại, đầu tư quốc tế. Vì thế doanh số giao dịch trên TTNH phải phản ánh
lượng ngoại tệ vào và ra khỏi quốc gia thông qua những hoạt động trên; có như
vậy, mới phản ánh rõ tác động hai chiều của TTNH với những giao dịch có liên
quan đến ngoại tệ. Theo (Ng Beoy Kui, 1988) sự phát triển TTNH của các nước
Đông Nam Á có sự đóng góp đáng kể của việc gia tăng hoạt động ngoại thương
và luồng vốn vào khu vực này.
Nếu doanh số giao dịch trên TTNH không tương thích với doanh số của
những hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, chuyển tiền, sẽ cho thấy lượng ngoại tệ
34
đã bị phân tán chuyển ra ngoài hệ thống ngân hàng, trở thành nguồn cung ngoại
tệ cho thị trường ngoại tệ chợ đen hay được cất trữ trong tay người dân. Như vậy,
sẽ không phát huy hiệu quả của nguồn ngoại tệ, đồng thời cũng thể hiện hoạt
động yếu kém của TTNH đối với nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế.
1.3.3. Đồng nội tệ có khả năng chuyển đổi
Đồng tiền chuyển đổi được là đồng tiền được chấp nhận trong nước và trên
thế giới, khi xem xét mức độ chuyển đổi của đồng tiền người ta căn cứ vào các
giao dịch trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Với phạm vi trong nước đó là
những giao dịch hợp pháp hay là những giao dịch được cấp phép, được sử dụng
ngoại tệ để thực hiện việc thanh toán và điều cuối cùng quan trọng đó là có ngoại
tệ đáp ứng cho giao dịch. Với thế giới đó là đồng tiền được chấp nhận trong
thanh toán quốc tế, được cất trữ (trên thế giới chỉ tồn tại một số đồng tiền mạnh
mới có khả năng này).
Theo IMF, một đồng tiền được xem là có khả năng chuyển đổi khi chính
phủ cam kết thực hiện việc không hạn chế chuyển đổi tiền tệ trong các giao dịch
vãng lai, giao dịch vốn đầu tư và các chu chuyển khác, nghĩa là 3 yếu tố trên phải
được đáp ứng đầy đủ trong các giao dịch.
Như vậy, để đồng tiền có khả năng chuyển đổi cần phải có các điều kiện[15]:
- Có nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
- Mức dự trữ ngoại tệ đủ mạnh.
- Hệ thống tài chính, ngân hàng hoạt động hoạt động lành mạnh, nghiệp vụ hiện
đại.
- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái và lãi suất phải tuân theo qui luật thị trường.
- Cơ chế quản lý ngoại hối phải năng động và sử dụng các biện pháp quản lý
kinh tế, hạn chế các biện pháp hành chánh.
- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái phải tuân theo qui luật thị trường.
TTNH của một quốc gia nơi thực hiện chuyển hóa giá trị của đồng bản tệ
sang ngoại tệ và ngược lại, chỉ có thể phát triển một khi đồng bản tệ có khả năng
35
chuyển đổi cao. Đồng bản tệ càng được tự do chuyển đổi thì doanh số giao dịch
trên TTNH sẽ gia tăng làm tăng tính thanh khoản cho thị trường và đáp ứng nhu
cầu của các chủ thể tham gia thị trường tạo điều kiện cho thị trường phát triển.
1.3.4. Nguồn nhân lực có kiến thức về TTNH
TTNH chỉ có thể phát triển được nếu số lượng người tham gia ngày càng
tăng, mà các doanh nghiệp, người dân, những nhà kinh doanh tiền tệ, đầu cơ …
chỉ có thể tham gia TTNH khi họ biết rõ về hàng hóa, các công cụ giao dịch, các
kỹ thuật và nguyên tắc kinh doanh trên TTNH.
Bên cạnh đó, những nhân lực của các tổ chức tài chính phải có kiến thức về thị
trường, biết phân tích, tổng hợp những yếu tố tác động đến tỷ giá để có thể tự
kinh doanh cũng như tư vấn cho các khách hàng.Yếu tố quan trọng trong việc tạo
nên môi trường phù hợp với sự phát triển TTTC đó là giáo dục công chúng phải
hiểu rõ qui tắc cơ bản của thị trường là khi tham gia anh có thể có lợi nhuận
nhưng cũng có thể gặp nhiều cạm bẩy trong hệ thống tài chính [47].
Như vậy, TTNH chỉ có thể phát triển dựa trên một xã hội có trình độ dân trí cao
và có kiến thức thị trường.
1.3.5. Hệ thống tài chính có đầy đủ hạ tầng cơ sở với trang bị thiết bị kỹ
thuật hiện đại
Một nét đặc trưng quan trọng của TTNH là hệ thống giao dịch điện tử như
Reuters 2000-2 và hệ thống môi giới điện tử (EBS), những hệ thống này có thể
thực hiện những chức năng của thanh toán bù trừ và là động lực quan trọng nhằm
thực hiện các giao dịch xem như là tập trung ảo (virtual centralization) của
TTNH toàn cầu [47].
Sàn giao dịch ngoại hối là một phân khúc của TTNH, là nơi thực hiện các
giao dịch quyền chọn và tương lai, trong những giao dịch phái sinh này có sự
tham gia của công ty thanh toán bù trừ (trực thuộc sở giao dịch) có vai trò là đối
tác của của người mua hay người bán trong hợp đồng tiền tệ, tương lai, hay hợp
đồng quyền chọn. Vì thế, để một TTNH hoạt động với đầy đủ các nghiệp vụ kinh
36
doanh cần phải có sàn giao dịch tập trung, bên cạnh đó còn phát huy những ưu
điểm của giao dịch tập trung là thông tin thị trường minh bạch công khai những
người kinh doanh đều có cơ hội tiếp cận tỷ giá như nhau.
Ngoài ra, với đặc điểm là thị trường hoạt động toàn cầu 24 giờ/ ngày và
cung cầu tiền tệ lại thường xuyên biến động bởi nhiều yếu tố về kinh tế, chính trị,
xã hội, thiên tai, tâm lý con người… làm cho tỷ giá liên tục biến động nhất là
những đồng tiền mạnh như USD, EUR, GBP, CHF, JPY. Vì thế, để kinh doanh
có hiệu quả TTNH cần phải được trang bị những thiết bị thông tin hiện đại để thu
được lợi thế thời gian về tiếp cận thông tin và thực hiện hoạt động mua bán ngoại
tệ nhanh chóng hiệu quả.
1.3.6. Hệ thống quản lý giám sát thị trường tài chánh hoạt động hiệu quả
Theo Ralph, Connel và Sunsil Sharma [53] một vấn đề quan trọng trong
việc xây dựng cơ sở hạ tầng để hình thành khuôn khổ phát triển TTTC là phải có
hệ thống pháp luật đảm bảo 3 tính năng cần thiết đó là: Thứ nhất, phải đảm bảo
quyền tự do dân sự và quyền sở hữu. Thứ hai, một hệ thống tư pháp hoạt động
hiệu quả hạn chế những hành vi gian lận. Thứ ba, người dân an tâm lập kế hoạch
với những hiểu biết đầy đủ về luật pháp và không lo ngại sự thay đổi của nó.
Những qui định và nguồn luật lỗi thời là nguyên nhân làm cản trở hoạt động của
TTTC vì những công cụ phái sinh trên TTTC phát triển thường có những sản
phẩm mới được sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng trong kinh doanh của
những người tham gia thị trường.
Để tạo điều kiện cho TTNH hoạt động có hiệu quả mà vẫn đảm bảo an toàn
cho hệ thống tài chính, cần phải có hệ thống luật pháp chặc chẽ và có các văn bản
pháp lý qui định hướng dẫn cụ thể các giao dịch ngoại hối, nhằm đảm bảo quyền
lợi của các chủ thể tham gia thị trường, tạo điều kiên cho thị trường vận hành
theo khuôn khổ pháp luật. Dựa vào cơ sở đó để giám sát hoạt động của thị trường
phát hiện kịp thời những hoạt động phá hoại làm lũng đoạn gây rối thị trường.
37
1.3.7. TTNH có sự liên thông với thị trường tài chính của khu vực và quốc tế
TTNH chỉ có thể phát triển được trong điều kiện TTNH của quốc gia phải
kết nối với TTNH trên thế giới có như vậy những yếu tố tác động mới phản ánh
qua sự biến động kịp thời của tỷ giá, tính liên thông của thị trường thể hiện qua
các đặc điểm sau:
Thứ nhất, giá cả của các đồng tiền trên TTNH trong nước không xa rời với
giá cả trên TTNH trên thế giới. Khi những yếu tố tác động làm thay đổi giá trị
của các đồng tiền của những quốc gia có nền kinh tế lớn, ví dụ nếu USD bị giảm
giá do khủng hoảng kinh tế tại Mỹ, đồng thời thị trường kỳ vọng về sự phục hồi
kinh tế của khu vực Châu Âu dẫn đến EUR tăng giá so với USD, điều này phải
được thể hiện qua tỷ giá VND/USD sẽ giảm và tỷ giá VND/ EUR tăng.
Thứ hai, những giao dịch phái sinh trên TTNH quốc gia phải phù hợp
những qui định trong giao dịch phái sinh của TTNH thế giới, có như vậy các nhà
kinh doanh tiền tệ ở nước ngoài mới có thể tham gia vào thị trường trong nước
hay ngược lại các chủ thể kinh doanh tiền tệ trong nước có thể tham gia với các
TTNH trong khu vực hay toàn cầu.
1.3.8. Một cơ chế kiểm soát ngoại hối thông thoáng và một chính sách tỷ giá
linh hoạt.
Theo Ng Boey Kui [50], điều kiện tiên quyết để cho một TTNH hoạt động hiệu
quả đó là những người tham gia trên thị trường được quyền tự do kinh doanh trên
tài khoản ngoại tệ của mình mà không có giới hạn nào và chỉ có cơ chế kiểm soát
ngoại hối tự do mới tạo điều kiện để thỏa mãn điều này. Mở rộng những người
tham gia giao dịch trên thị trường ngoài NHTM còn có các công ty tài chính và
công ty phi tài chính để thu hút lượng ngoại tệ và gia tăng doanh số giao dịch.
Quản lý ngoại hối theo các biện pháp hành chánh sẽ làm cản trở hoạt động giao
dịch ngoại hối, như bắt buộc các công ty có nguồn thu ngoại tệ phải bán ngoại tệ
tại một mức tỷ giá phi thị trường hoặc không được giữ lại trên tài khoản quá một
thời gian qui định hoặc hạn mức cho phép.
38
Chính sách tỷ giá linh hoạt phản ánh minh bạch cung cầu ngoại tệ trên thị trường
sẽ giúp cho hoạt động trên thị trường thông suốt, những người tham gia sẽ không
phải tìm cách né tránh nhưng qui định về quản lý ngoại hối.
Một TTNH được đánh giá là hoạt động hiệu quả khi nào mà các yếu tố tác động
đến hàng hóa được công khai, những thành viên tham gia thị trường dễ dàng tiếp
cận các yếu tố này, qua đó dễ dàng lập kế hoạch kinh doanh, đầu tư, bảo hiểm
trên cơ sở phán đoán sự biến động của tỷ giá. Thị trường sẽ tránh được những
biến động do làn sóng tin đồn gây yếu tố tâm lý làm méo mó cung cầu ngoại tệ
trên thị trường.
1.4. Những bài học kinh nghiệm
Việt Nam xây dựng và phát triển TTNH trong bối cảnh trên thế giới đã có
những TTNH của các khu vực và thế giới vì thế Việt Nam có thể kế thừa kinh
nghiệm của các quốc gia trong khu vực mà có những yếu tố kinh tế nền tảng
tương đồng với Việt Nam. Tuy nhiên kinh nghiệm vận hành và phát triển thị
trường sẽ tùy thuộc vào những điều kiện cơ sở của mỗi quốc gia vấn đề quan
trọng là học hỏi kinh nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá cũng như quản lý
ngoại hối để vừa tạo cơ sở phát triển TTNH vừa đảm bảo an toàn hệ thống tài
chính trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.
Chọn lựa những quốc gia có cơ chế tỷ giá và độ mở cửa tương đồng với
Việt Nam, như Singapore, Philippine, Trung Quốc, HongKong để học hỏi kinh
nghiệm về phát triển TTNH. Đối với những quốc gia này, vấn đề quan trọng là
vừa quản lý được hoạt động kinh doanh ngoại hối để đảm bảo an toàn cho hệ
thống tài chính vừa có thể tạo điều kiện khơi thông các dòng luân chuyển tiền tệ
nhằm phát triển TTNH.
Kinh nghiệm Trung Quốc: Ngân hàng nhân dân Trung Quốc(PBOC) cam kết
duy trì một tỷ giá ổn định trên thị trường thị trường ngoại hối thông qua việc can
thiệp vào Hệ thống giao dịch ngoại hối(CFETS). Chính sách tỷ giá được điều
hành phù hợp với những chuyển đổi của nền kinh tế. Ngay từ đầu những năm 80,
39
Trung Quốc đã cho phép thực hiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá giảm dần để phản
ảnh đúng sức mua của đồng CNY. Chính sách tỷ giá này đã giúp Trung Quốc cải
thiện được cán cân thương mại(CCTM), giảm thâm hụt thương mại và cán cân
thanh toán(CCTT), đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế [60].
Sau đó Trung Quốc đã thực hiện việc cải cách về chính sách tỷ giá vào ngày
21/7/2005, nới lỏng tỷ giá chấp nhận cho CNY tăng giá nhằm giảm áp lực lạm
phát.
Về quản lý ngoại hối, Trung Quốc thực hiện biện pháp hạn chế tối đa các giao
dịch trong nước sử dụng bằng ngoại tệ, nghiêm cấm người cư trú thanh toán mua
bán, chuyển nhượng cho nhau bằng ngoại tệ. Cấm sử dụng ngoại tệ để niêm yết
và thanh toán giữa người cư trú với nhau. Đồng thời quan tâm đến điều hành
chính sách lãi suất và tỷ giá hợp lý, duy trì lãi suất CNY luôn lớn hơn lãi suất
ngoại tệ và tỷ giá giữa CNY/USD được duy trì ổn định nên các doanh nghiệp có
xu hướng chuyển đổi ngoại tệ sang nội tệ, góp phần giảm tình trạng đôla hóa.
Xây dựng cơ chế ngoại hối thích hợp nhằm ngăn chặn việc tích trữ ngoại tệ,
quản lý nhu cầu mua ngoại tệ, thu hút các nguồn vốn ngoại tệ vào tay nhà nước.
Trung Quốc duy trì chính sách kết hối 13 năm mới chấm dứt, khi mà quỹ dự trữ
ngoại hối của Trung Quốc đã lên tới hơn 1.500tỷ USD vào năm 2007 [58] chính
sách này được xóa bỏ khi nền kinh tế nhiều năm tăng trưởng mạnh, tỷ lệ lạm phát
thấp, CCTT, CCTM dư thừa lớn, dự trữ ngoại hối cao. Trung Quốc còn thực thi
chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối trong cho vay ngoại tệ đối với các doanh
nghiệp trong nước, đến cuối năm 2002 các doanh nghiệp trong nước mới được
phép vay ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại. Đến năm 2008, Trung Quốc mới
tự do hóa giao dịch vãng lai và nới lỏng quản lý với giao dịch vốn.
Nhờ thực hiện từng bước từng bước quá trình tự do hóa quản lý ngoại hối,
Trung Quốc đã thành công trong việc điều hành cơ chế tỷ giá, đảm bảo đáp ứng
được đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển vững chắc. Tập trung
nguồn thu ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các ngân hàng
nâng cao khả năng cạnh tranh với thị trường ngoại tệ chợ đen. Từ năm 1994 đến
40
nay đã gần 17 năm, sau khi điều chỉnh tỷ giá, Trung Quốc vẫn giữ được thị
trường ngoại tệ ổn định.
Về tổ chức thị trường, vào tháng 4/1994 Trung Quốc đã thành lập sàn giao
dịch ngoại tệ CFETS đánh dấu sự ra mắt của TTNTLNH thống nhất, phương
pháp quản lý ngoại hối của chính phủ cũng đã điều chỉnh dựa trên các biện pháp
kinh tế và hợp pháp ngược với cách điều hành theo mệnh lệnh hành chính trước
đây. Đến năm 2002, cho phép các công ty có đủ điều kiện giao dịch quốc tế và có
nguồn thu ngoại tệ từ tài khoản giao dịch hiện hành được phép mở tài khoản
ngoại tệ và duy trì trong giới hạn 20% so với doanh thu ngoại tệ của năm trước.
Năm 2005, cho phép các công ty phi tài chính và công ty tài chính phi ngân hàng
được tham gia vào TTLNH với cách thức giao dịch đấu giá và hệ thống tạo giá,
ngoài ra các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi giữa CNY với các ngoại tệ cũng được
phép thực hiện.
TTNH của Trung Quốc gồm 2 phần: TTLNH hoặc thị trường bán buôn và
thị trường bán lẻ. Trong đó có thành phần tham gia chính gồm: a) CFETS mà
chức năng là sàn giao dịch trên TTLNH chịu trách nhiệm thanh toán bù trừ và
cung cấp các cơ quan có thẩm quyền giám sát thông tin thị trường.b) PBOC và
SAFE như là người có thẩm quyền điều hành: PBOC ủy quyền cho SAFE điều
chỉnh giao dịch giao ngay và kỳ hạn trên TTLNH và điều tiết thị trường bán lẻ. c)
SAFE được chỉ định cấp phép cho những ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân
hàng và những công ty phi tài chính đủ điều kiện được phép tham gia TTNH; d)
những công ty hay cá nhân được phép mua và bán ngoại tệ trên thị trường bán lẻ.
Hệ thống tạo giá trên TTLNH (market maker) sử dụng sàn giao dịch có tổ chức
bằng hệ thống khớp lệnh sàn giao dịch điện tử, trong khi giao dịch giữa ngân
hàng và khách hàng của họ được thực hiện trên thị trường phi tập
trung(OTC)[60].
Kinh nghiệm của Singapore, theo xếp loại của IMF, chính sách tỷ giá của
Singapore là thả nổi có điều tiết, tuy nhiên theo Singapore chế độ tỷ giá của họ
có những đặc điểm rất riêng, là chế độ tỷ giá dựa trên một rổ tiền tệ, có biên độ
41
dao động rộng và điều chỉnh theo định kỳ. Tỷ trọng của các ngoại tệ trong rổ căn
cứ vào mức độ tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế của các đối tác của
Singapore, loại tiền tệ và tỷ trọng được điều chỉnh tùy thuộc vào sự thay đổi
trong hoạt động thương mại của Singapor, tuy nhiên Cơ quan quản lý tiền tệ của
Singapore(MAS) không công bố cụ thể thành phần của rổ tiền tệ cũng như tỷ
trọng của các loại tiền.Với mục tiêu theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết
MAS sẽ can thiệp nếu như tỷ giá SGD vượt quá biên độ dao động và hướng dao
động có thể tăng lên hoặc giảm xuống tùy thuộc vào sự biến động của các chỉ số
kinh tế cơ bản, Singapor được xem là quốc gia thành công nhất khi theo đuổi
chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết với các đặc điểm riêng với tên gọi là
BBC(Basket Band Crawl). Nó được xem là hình mẫu cho các chế độ tỷ giá của
Trung Quốc cũng như các quốc gia thuộc Asean.
NHTW Singapore thiết lập ủy ban theo dõi và giám sự phát triển của
TTNH gọi là Ủy ban ngoại hối (Forex Exchange Committee) bao gồm MAS và
các NHTM [1]
Một trong những chiến lược kiểm soát khu vực kinh tế đối ngoại là kiểm
soát chặc chẽ các giao dịch ngoại hối giữa người cư trú và người không cư trú
thông qua số liệu thanh toán quốc tế của các NHTM. Việc nộp muộn báo cáo
hoặc báo cáo sai sẽ chịu phạt nặng tính từ ngày đến hạn nộp báo cáo hoặc sửa sai
báo cáo. Khi biết có nhiều giao dịch không qua hệ thống NHTM, NHTW mở
rộng phạm vi kiểm soát ngoại hối bằng cách yêu cầu các công ty ngoại hối trực
thuộc các NHTM báo cáo trực tiếp tất cả các giao dịch ngoại hối cho NHTW,
ngoài ra NHTW còn điều tra các giao dịch qua biên giới hàng tháng để nắm bắt
được tất cả các giao dịch mà hệ thống NHTM không thống kê được.
Kinh nghiệm Thái Lan, Từ năm 1985 Thái Lan đã có những bước đi mạnh
mẽ trong quá trình tự do hóa giao dịch vốn nhằm thu hút dòng vốn nước ngoài,
dỡ bỏ những điều kiện đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp, tự do hóa dòng vốn gián
tiếp và vay nợ nước ngoài chỉ đăng ký với NHNN, hạn chế dòng vốn đầu tư ra
nước ngoài. Tuy nhiên việc phát triển quá nhanh TTCK với luồng vốn vào ồ ạt
42
đã gây bất ổn cho thị trường, sau khủng hoảng đã điều chỉnh quản lý chặc chẽ
dòng vốn vào đồng thời thay đổi cơ chế tỷ giá trước khủng hoảng tài chính năm
1997, Thái Lan duy trì việc thông báo tỷ giá hối đoái chính thức, tỷ giá hối đoái
chính thức cũng được neo với rổ tiền tệ, trong đó USD chiếm đến 90%. Tuy
nhiên tỷ giá hối đoái chính thức được hủy bỏ hoàn toàn vào ngày 2/7/1997, sau
đó chính sách tỷ giá được thả nổi nhưng chưa hoàn toàn, NHTW sẽ can thiệp khi
thị trường có biến động lớn.
Kinh nghiệm của Philippine
NHTW Philippine (BSP) duy trì một chính sách tỷ giá thả nổi, tỷ giá được
xác định trên cơ sở cung –cầu trên TTNH. Tuy nhiên BSP sẳn sàng can thiệp khi
tỷ giá biến động bất thường. Tỷ giá được xác định theo thị trường là phù hợp với
chính sách cải cách theo định hướng thị trường của chính phủ và chiến lược cạnh
tranh hướng ngoại với giá cả ổn định và hiệu quả [ 75 ].
BSP được giao quyền hợp pháp và toàn diện trong việc qui định và giám sát
TTNH, theo đó BSP được phép chỉ định những nhà giao dịch và đại lý ngoại hối
được ủy quyền để giao dịch trên TTNH. Các NHTM được phép tự do kinh
doanh trên tài khoản ngoại tệ của mình mà không bị bắt buộc phải bán ngoại tệ
cho NHTW như trước năm 1985 và NHTW can thiệp vào TTNH thông qua một
NHTM của nhà nước. [50]
Ở Philippine giao dịch peso-dolla được thực hiện giữa các ngân hàng là
thành viên của Hiệp hội các NH của Philippine (Bankers Association of the
Philippines-BAP) và giữa những NH này với NHTW thông qua hệ thống giao
dịch Philippine ( Philippine Dealing System-PDS), nếu những NH không phải là
thành viên của BAP sẽ giao dịch pesos-dollar thông qua màn hình Reuters
Dealing, để giao dịch với đồng tiền thứ ba hầu hết những ngân hàng đều sử dụng
Reuters Dealing và dịch vụ tài chính của Bloomberg [ 75 ].
NHTW Philippine đã thành lập Trung tâm giao dịch ngoại hối từ năm 1967,
đây là một dạng thị trường giao dịch tại một địa điểm cụ thể đã tạo điều kiện
thuận lợi đáng kể cho việc phát triển TTNH mới nổi. [50]
43
Về quản lý ngoại hối Philippine và Indonesia cho phép người cư trú và
không cư trú được mở tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ và với khu vực kinh tế đối
ngoại việc kiểm soát các giao dịch ngoại hối bằng việc yêu cầu các tổ chức và cá
nhân có giao dịch ngoại hối báo cáo kết hợp đăng ký tại NHTW Philipine. Hệ
thống quản lý này rất khác biệt so với các nước khác và nước này rất thành công
trong việc kiểm soát ngoại hối thông qua việc sử dụng hệ thống đăng ký giao
dịch.[8]
Kinh nghiệm của HongKong
TTNH HongKong là một trong những TTNH lớn nhất trên thế giới và được
những nhà nghiên cứu đánh giá rằng HongKong có hầu hết những đặc điểm cần
thiết của một TTNH thành công đó là: nền chính trị ổn định, không kiểm soát
ngoại hối và vốn, môi trường kinh doanh thân thiện và tự do, cơ sở hạ tầng hiện
đại, những chuyên gia tài chính được đào tạo tốt và là một thị trường có vai trò
như một trung tâm tài chính thế giới [58].
Kinh nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế:
Indonesia cơ chế xác định tỷ giá trên cơ sở “rổ” tiền tệ, tỷ giá hối đoái
chính thức có biên độ dao động, sau khi có khủng hoảng tài chính ở Thái Lan thì
bỏ biên độ nhưng cho phép tỷ giá dịch chuyển thông qua việc can thiệp vào thị
trường ngoại hối. [50]
Malaysia trước cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, về nguyên tắc, tỷ giá hối
đoái được xác định bởi thị trường, nhưng NHTW Malaysia vẫn can thiệp nhằm
ổn định tỷ giá. Sau khủng hoảng, NHTW Malaysia nâng tỷ giá MYR lên 10% và
gắn kết với USD, kết hợp nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ ngoại tệ khi can
thiệp vào thị trường ngoại hối chứ không hoàn toàn sử dụng chính sách tiền tệ để
ổn định tỷ giá đồng thời áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn toàn diện. [50]
Tóm lại với những kinh nghiệm của các quốc gia về phát triển TTNH, Việt
Nam có thể xem xét đó là: Thứ nhất, về chính sách tỷ giá để phát triển TTNH và
giảm những cú sốc do khủng hoảng kinh tế trong điều kiện hội nhập, là thực hiện
44
chính sách tỷ giá thả nổi không hoàn toàn, nhưng linh hoạt hơn và neo với rổ tiền
tệ chứ không neo chặt với một ngoại tệ (thường là USD). Nâng cao vai trò của
NHNN trong quá trình điều hành chính sách tỷ giá, theo xu hướng ổn định tỷ giá,
can thiệp mạnh khi cần thiết nhằm giảm bớt những tác động của khủng hoảng
kinh tế và khu vực. Thứ hai, quản lý ngoại hối nhằm mục đích đảm bảo thị
trường có thể hoạt động hiệu quả, không có những qui định hành chính gây cản
trở nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện để kiểm soát và quản lý hoạt động của thị
trường tránh bị những hoạt động của giới đầu cơ làm lũng đoạn thị trường và tác
động đến an toàn hệ thống tài chính. Muốn vậy cần giám sát luồng ngoại tệ ra,
vào khỏi quốc gia chặc chẽ nhưng vẫn đảm bảo thực hiện qui định tự do hóa giao
dịch vãng lai và mở cửa có giới hạn giao dịch vốn. Nhằm mục đích khơi thông
dòng ngoại tệ tạo điều kiện cho TTNH phát triển nhưng vẫn đảm bảo an toàn hệ
thống tài chính quốc gia. Thứ ba,quan tâm đến việc thiết lập một khung thể chế
cho hoạt động của TTNH, phải có cơ quan chuyên trách về hoạt động ngoại hối
để tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động của TTNH, mở rộng đối tượng tham
gia thị trường và trang bị cơ sở hạ tầng, hệ thống thanh toán, trao đổi thông tin
hiện đại, phát triển cả thị trường giao dịch tập trung và không tập trung.
45
Kết luận chương 1
Chương 1 đã đưa ra những lý thuyết nghiên cứu trước đây về TTNH với
đầy đủ các khái niệm, đặc điểm, phân loại thị trường, các thành viên tham gia và
kỹ thuật giao dịch trên 2 thị trường liên ngân hàng trực tiếp, gián tiếp, những
giao dịch trên thị trường ngoại hối.
Bên cạnh đó, trong chương 1 luận án cũng đã trình bày những yếu tố tác
động đến TTNH và những điều kiện cần thiết để phát triển TTNH trong bối cảnh
hội nhập, để làm cơ sở lý luận cho quá trình đánh giá và phân tích thực trạng của
TTNH.
Cuối chương 1, luận án đã giới thiệu những kinh nghiệm về điều hành
chính sách tỷ giá và chính sách quản lý ngoại hối và cách thức tổ chức và quản lý
TTNH của các nước trong khu vực để làm cơ sở thực tiển cho những nhận định
và các đề xuất nhằm phát triển TTNH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế.
46
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM
2.1. Khái quát tình hình TTNH trên thế giới
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng phát triển sự biến động của TTNH trên
thế giới sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến TTNH Việt Nam, việc khảo sát thực trạng
hoạt động và những xu hướng phát triển của các TTNH trên thế giới để xây dựng
chiến lược phát triển TTNH ở Việt Nam.
TTNH là một thị trường lớn nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Với tổng số
lượng giao dịch trên toàn thế giới lên đến gần 4 ngàn tỉ đô la Mỹ (4,000 tỷ
USD)[60] mỗi ngày được sử dụng để thanh toán những hoạt động mậu dịch giữa
các quốc gia, luân chuyển nguồn vốn qua các biên giới, thanh toán và hoán đổi
đồng tiền giữa các chính phủ, các tổ chức tài chính và phi tài chính và các thành
phần kinh tế khác trên toàn thế giới. Số lượng giao dịch này ngày càng tăng do sự
phát triển mậu dịch và tiến trình toàn cầu hóa. Cùng với số lượng tăng cao là
những biến động trên TTNH và các biện pháp của các chính phủ hay các khu vực
kinh tế càng ngày càng trở nên quyết liệt hơn để bảo vệ cho đồng tiền và nền
kinh tế của mình.
2.1.1. Nhận định chung về thị trường ngoại hối thế giới
Ngân hàng Thanh tóan quốc tế (BIS) cứ 3 năm 1 lần tiến hành khảo sát
doanh số TTNH hoạt động trên toàn cầu, theo khu vực địa lý, loại tiền tệ, và theo
loại hình giao dịch, để phân tích đánh giá đưa ra nhận định chung về tình hình
TTNH trên thế giới. Trong lần khảo sát gần đây nhất là vào năm 2010, kết quả
khảo sát như sau:
Về doanh số giao dịch, liên tục tăng mức tăng hơn hai lần từ 1527 tỷ
USD năm 1998 lên 3981 tỷ USD năm 2010. Sau khủng hoảng tài chính khu vực
Đông Nam Á doanh số sụt giảm 200 tỷ USD vào năm 2001, tuy nhiên sau đó
doanh số liên tục tăng ấn tượng nhất là số lượng tăng của năm 2007 so với năm
47
2004 là hơn 1200tỷ USD đạt tỷ lệ 65.2%, sau đó tốc độ tăng giảm xuống còn
20% tính từ tháng 4/2007 đến tháng 4/2010 với doanh số hàng ngày vào năm
2010 là 3981 tỷ USD.
Biểu đồ 2.1: Doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu
Nguồn: Trienial Central Bank Survey BIS, April 2010 [61]
Bảng 2.1: Doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu
theo các loại hình giao dịch
Đơn vị tính: Tỷ USD
Năm 1998 2001 2004 2007 2010 Các công cụ
Tổng doanh số 1,527 1,239 1,934 3,324 3,981
Giao dịch Spot 568 386 631 1,005 1,490
Giao dịch Outright forwards 128 130 209 362 475
Giao dịch hoán đổi ngoại hối 734 656 954 1,714 1,765
Giao dịch hoán đổi tiền tệ 10 7 21 31 43
Quyền chọn và các loại khác 87 60 119 212 207
Lưu ý: doanh số được tính theo 1,705 1,505 2,040 3,370 3,981 tỷ giá của tháng 4/2010
Nguồn:Trienial Central Bank Survey BIS, April 2010 [61]
48
Về loại hình giao dịch, qua số liệu doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu
theo các loại hình giao dịch cho thấy: giao dịch giao ngay là giao dịch chiếm tỷ lệ
lớn nhất gần 50% tổng doanh số giao dịch đã từ 1000 tỷ USD năm 2007 tăng gần
1500 tỷ USD năm 2010. Các giao dịch phái sinh như giao dịch kỳ hạn tăng
31.2%, giao dịch hoán đổi ngoại tệ, hoán đổi tiền tệ, không tăng nhiều lắm so
với năm 2007. Riêng giao dịch quyền chọn và các loại khác lại sụt giảm một ít,
do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế năm 2009.
Phân bổ doanh số giao dịch theo khu vực địa lý (Phụ lục số 2), có những
điểm nổi bật như sau: vào năm 2010 Anh chiếm 37%, Mỹ 18%, Nhật 6%,
Singapore 5%, Switzerland 5%, Hong Kong 5% và Úc là 4%. Nếu tính theo số
tuyệt đối: Tại Anh doanh số là 371 tỷ USD, Mỹ là 159 tỷ USD, Nhật là 62tỷ
USD và Hong Kong là 57tỷ USD. Riêng các nước Châu Á (trừ Nhật) trước năm
2007 các nước này chỉ có doanh số rất thấp nhưng đến năm 2010 đã có sự gia
tăng số lượng như Trung Quốc 19.8 tỷ USD, Malaysia tăng lên 7.3 tỷ USD,
Thái Lan 7.4tỷ USD tuy tỷ lệ của mỗi quốc gia này không tới 1% doanh số
giao dịch ngoại hối toàn cầu nhưng đã cho thấy sự phát triển hoạt động trên
thị trường ngoại hối của các nước này. Tiềm năng này chỉ ra rằng trong
khuynh hướng dài hạn sẽ có thể có những tác động đến sự phân bổ doanh số
giao dịch ngoại hối theo địa lý, tạo ra sự chênh lệch quan trọng của các loại
tiền tệ này ở những trung tâm tài chính khác nhau[59].
Căn cứ doanh số giao dịch theo loại tiền tệ. Chiếm tỷ lệ lớn nhất vẫn
là USD hơn 80%, đứng thứ 2 là EUR gần 40%, kế tiếp là JPY gần 20% , GBP
chiếm gần 13%, chiếm tỷ lệ dưới 10% là AUD, CAD, CHF và chiếm dưới 5 %
là các đồng tiền còn lại. Vào năm 2010, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế của
năm 2009 nên có sự sụt giảm doanh số, mạnh nhất là GBP giảm 2% , USD giảm
0.7%, CHF 0.4%, HKD 0.3%, trong khi đó EURO tăng mạnh 2.1% và JPY tăng
1.8% trong doanh số giao dịch toàn cầu. Đặc biệt tổng số các đồng tiền : CNY,
MYR, THB, IDR gia tăng từ 0.5% lên 1% đã đánh dấu sự hiện diện của các nền
49
kinh tế mới nổi Châu Á trên TTNH thế giới.
Về đặc điểm của thị trường ngoại hối có hai vấn đề thật sự nổi bật,
(1) là sự gia tăng một cách mạnh mẽ về doanh số giao dịch giữa các ngân hàng
và các định chế tài chính khác, phù hợp với sự gia tăng của các họat động bảo
hiểm rủi ro tỷ giá và đa dạng hóa các danh mục đầu tư cuả các tổ chức đầu tư dài
hạn và quỹ lương hưu. (2) là sự gia tăng doanh số giao dịch có liên quan đến thị
trường tiền tệ của các nước đang phát triển. Singapore và Hongkong là những
trung tâm tài chính hải ngoại quan trọng của các đồng tiền của những thị
trường mới nổi ở Châu Á. Ngược lại những trung tâm tài chính khác, như
Australia, Japan và Thụy Sỹ thì giao dịch với các đồng tiền của những thị
trường mới nổi có doanh số thấp hơn [59].
Trước nhận định trên về trung tâm tài chính của các nước Châu Á, Việt
Nam cần tìm hiểu xu hướng phát triển thị trường ngoại hối của khu vực Châu
Á để xây dựng chiến lược hội nhập từng bước từ khu vực tiến tới thị trường
ngoại hối toàn cầu.
2.1.2. Những nét đặc trưng của TTNH Châu Á trong giai đoạn hiện nay
Hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ Châu Á có sự gia tăng mạnh
mẽ trong những năm gần đây. Doanh số của 10 đồng tiền Châu Á (không tính
Yen Nhật) tăng từ 100tỷ USD mỗi ngày trong tháng 4 năm 2004 lên 249 tỷ USD
mỗi ngày năm 2007. Tuy nhiên sự gia tăng của các đồng tiền có tỷ lệ khác nhau,
trong đó doanh số của nhân dân tệ (CNY) tăng gấp 7 lần từ 2tỷ USD năm 2004
lên 15 tỷ năm 2007, trong khi đồng Won (KRW) của Korea chỉ tăng 41% từ 22 tỷ
lên 39 tỷ. Như vậy, đôla HongKong (HKD) vẫn duy trì là đồng tiền giao dịch
năng động nhất trên TTNH Châu Á, đứng thứ hai và thứ ba là đôla
Singapore(SGD) và Won của Korea(KRW). Các đồng tiền Rupee của Ấn Độ
(INR), Ringgit của Malaysia (MYR) peso của Philippine (PHP) được giao dịch
thấp nhất mỗi loại chỉ khoảng 4 tỷ.[59]
50
Sự gia tăng mạnh mẽ của doanh số giao dịch ngoại hối được cho là do sự
gia tăng giao dịch những tài sản tài chính, được thực hiện bởi những nhà đầu tư
hướng đến mục tiêu dài hạn họ tiếp tục đa dạng hóa danh mục đầu tư của họ vào
cổ phiếu và trái phiếu ngoại tệ. Bên cạnh đó là những nhà đầu tư sử dụng nguyên
tắc đòn bẩy (Leverage invester) họ hướng đến mục tiêu đầu tư ngắn hạn với lợi
nhuận tiềm năng dựa vào kinh doanh chênh lệch lãi suất (carry trade) thực hiện
thông qua hoạt động đầu tư ủy thác, đa số các ngân hàng đầu tư cũng gia tăng
doanh số kinh doanh ngoại hối đặc biệt là trên thị trường giao ngay. Một cách
chắc chắn rằng những nhân tố trên đã làm gia tăng doanh số trên thị trường ngoại
hối Châu Á, mặc dù sự tác động đó không mạnh mẽ bằng các đồng tiền
mạnh.[59]
Dòng tiền vào thị trường cổ phiếu Châu Á góp phần làm gia tăng đáng kể
doanh số giao dịch trên thị trường ngoại hối Châu Á mà đặc biệt là doanh số đôla
Hong Kong (HKD) tăng do sự tăng tạm thời một số lượng lớn cổ phiếu qua
những giao dịch trên Thị trường chứng khoán Hong kong.
Giao dịch hàng hóa và dịch vụ cũng góp phần đáng kể vào doanh số các
đồng tiền Châu Á nhiều hơn so với vào doanh số các đồng tiền quốc tế. Bởi vì,
doanh số ngoại tệ trên TTNH theo sát luồng tiền thương mại hơn là luồng tiền
trong giao dịch vốn, tổng doanh số xuất nhập khẩu của 10 nước Châu Á tăng từ
4.3 tỷ USD năm 2004 lên 7tỷ USD năm 2007. Những nước có giao dịch ngoại
thương lớn mạnh đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ đã đóng góp đáng kể vào sự
gia tăng doanh số 2 đồng tiền CNY và INR trên TTNH thế giới.
Một nhân tố bổ sung cho sự gia tăng doanh số ngoại tệ trên thị trường Châu
Á là do tỷ giá linh hoạt hơn tạo cơ hội kinh doanh chênh lệch giá và nhu cầu bảo
hiểm tỷ giá tăng cao. Chính phủ Trung Quốc và Malaysia đã thông qua chế độ tỷ
giá linh hoạt vào tháng 7/2005, Ấn Độ và Philippine vào năm 2007, họ đã chấp
nhận để tỷ giá biến động trong ngày lớn hơn những năm trước đây. Thực vậy sau
đó, INR đã tăng giá so với USD với tốc độ kỷ lục.
51
Mặc dù tăng trưởng mạnh nhưng doanh số tổng hợp của các đồng tiền Châu
Á vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ của doanh số ngoại hối toàn cầu. Trong tháng
4/2007, tỷ lệ doanh số của các đồng tiền Châu Á trong doanh số toàn cầu là 7.5%
chỉ lớn hơn so với tỷ lệ AUD một chút là 6.6%, nhưng thấp hơn tỷ lệ của JPY
17.2%. Theo giá trị tuyệt đối, doanh số tổng cộng các đồng tiền Châu Á là 249tỷ
USD, doanh số AUD là 220tỷ USD và JPY là 573tỷ USD. Sang đến tháng
4/2010, tỷ lệ doanh số này có sự sụt giảm nhỏ do khủng hoảng kinh tế năm 2009
nhưng vẫn cao hơn so với năm 1998.
Tóm lại, qua nghiên cứu tình hình TTNH trên thế giới có thể rút ra những
vấn đề sau:
Hoạt động thị trường ngoại tệ phát triển nhưng tốc độ không cao như 3
năm trước (2007) nguyên nhân chủ yếu là ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
thế giới năm 2008-2009.
Sự xuất hiện của một số đồng tiền cuả các quốc gia đang phát triển trong
doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu.
Sự phát triển doanh số giao dịch của các đồng tiền các nước Châu Á gắn
với quá trình gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu và chính sách tỷ giá linh hoạt
hơn tạo điều kiện cho những giao dịch kinh doanh chênh lệch tỷ giá và nhu cầu
bảo hiểm rủi ro tỷ giá phát triển.
Những giao dịch kinh doanh ngoại hối theo thuật toán (algorithmic), hoạt
động đầu tư ủy thác kinh doanh chênh lệch lãi suất (carry trade), đầu tư bằng đòn
bẩy(Leverage invester) càng gia tăng trên thị trường sẽ tạo nên những luồng vốn
di chuyển giữa các quốc gia mạnh mẽ hơn và đặt ra vấn đề kiểm soát những
luồng vốn này nhằm đảm bảo an toàn cho thị trường tài chính.
Xu hướng phát triển của TTNH toàn cầu nói chung và TTNH của khu vực
các nước Châu Á nói riêng sẽ có những tác động đến hoạt động kinh doanh ngoại
hối của TTNH Việt Nam.
52
2.2. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế đến sự phát triển TTNH Việt
Nam
Hội nhập kinh tế tạo điều kiện giúp các nước tham gia có thể phát huy
những tiềm năng của nền kinh tế đồng thời tận dụng được những ưu thế của các
quốc gia khác, căn cứ vào tiêu chí của quá trình hội nhập là đảm bảo sự công
bằng trong giao dịch thương mại- tài chính nhằm hướng tới mục đích hợp tác và
cùng phát triển.
Kể từ khi hội nhập kinh tế quốc tế, TTNH Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng
do sự thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô hướng đến nền kinh tế thị trường,
qua đó tác động đến cung cầu ngoại tệ, cụ thể là ảnh hưởng do: tự do hóa thương
mại, mở cửa thị trường dịch vụ, giảm dần các hạn chế trong thị trường tài chính,
là những hoạt động có liên quan đến các giao dịch bằng ngoại tệ và trực tiếp gia
tăng nguồn cung và cầu ngoại tệ.
2.2.1. Nguồn cung ngoại tệ gia tăng do hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài,
chuyển tiền kiều hối, xuất khẩu phát triển.
Khảo sát doanh số hoạt động FDI, kiều hối, xuất khẩu theo các mốc thời
gian hội nhập, đã cho thấy quá trình gia tăng lượng ngoại tệ của những hoạt động
này.
Giai đoạn bắt đầu mở cửa từ năm 1990 đến năm 1995 gia nhập Asean:
Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1990 1991 1992 1993 1994 1995
Chỉ tiêu
FDI 120 165 333 1048 2236 832
141 Kiều hối 50 41 136.5 249.5 285
Xuất khẩu 2400 2087 2580 2985 4054.3 5448.9
Nguồn: NHNN[21]
53
Từ năm 1990 đến 1995, giai đoạn đầu của thời kỳ mở cửa, lượng ngoại tệ
do hoạt động FDI và chuyển tiền kiều hối, xuất khẩu tăng theo từng năm, FDI
tăng gần 20 lần và kiều hối tăng gần 10 lần và xuất khẩu tăng hơn 2 lần. Tuy
nhiên trong giai đoạn đầu chính sách quản lý ngoại hối chưa thật sự có tác động
tích cực đến lượng ngoại tệ so với giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO
Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2006 trước khi gia nhập WTO:
Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI), kiều hối và xuất khẩu
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
1996 1997 1998 1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1298
1300
1400
1450
1650
1889
2315
Chỉ tiêu FDI 2395 2220 1671 1412
469
400
950
1200
1757
1820
2154
2600
3200
3800
5200
Kiều
hối
7255 9185 9360 11541 14482.7 15027 16705 20149.3 26504.2 32447 39826
Xuất
khẩu
Nguồn: NHNN[21]
Đây là giai đoạn chuẩn bị những điều kiện tiền đề phải thực hiện những yêu
cầu của WTO để được tổ chức này xem xét kết nạp. Sau khi trở thành thành viên
của ASEAN, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam phát triển mạnh, đồng thời
cũng là giai đoạn Việt Nam ký Hiệp định Thương mại Việt_Mỹ năm 2000 thị
trường xuất khẩu mở rộng làm gia tăng kim ngạch xuất khẩu lên hơn 39tỷ USD
vào năm 2006. So với năm 1996, vào năm 2006 nguồn vốn FDI tăng gấp đôi và
kiều hối tăng hơn 10 lần. Như vậy, chỉ trong vòng 10 năm mà lượng ngoại tệ do
3 hoạt động chính nêu trên đã gia tăng đáng kể và cung cấp lượng ngoại tệ lớn
cho TTNH nước ta.
54
Giai đoạn từ khi gia nhập WTO đến nay
Bảng 2.4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm Chỉ tiêu FDI
2007 2008 2009 2010
6550 9279 6900 7100
Kiều hối 6300 7200 6800 8540
Nguồn: FDI, kiều hối và xuất khẩu số liệu của NHNN[21]
Xuất khẩu 48561 62685 57096 71629
Giai đoạn từ khi gia nhập WTO đến nay, lượng ngoại tệ tăng giảm theo tác động
của kinh tế thế giới. Đi vào chi tiết số liệu trong các bảng 2.2; 2.3 và 2.4 có thể
thấy rõ tác động quá trình hội nhập đến lượng ngoại tệ:
Về Xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã tăng từ 2,4 tỷ USD
trong năm 1990 lên trên 5,4 tỷ USD năm 1995, lên trên 39,8 tỷ USD trong năm
2006 và ấn tượng nhất là năm 2007 năm đầu tiên gia nhập WTO, mức độ hội
nhập trong hoạt động thương mại của Việt Nam mở rộng hơn, tạo điều kiện thâm
nhập thị trường nước ngoài dễ dàng hơn vì được hưởng ưu đãi về thuế và việc bãi
bỏ hạn ngạch, làm kim ngạch xuất khẩu đã tăng gấp đôi so với năm 2005. Kể từ
đó doanh số liên tục gia tăng chỉ có năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới nên kim ngạch xuất khẩu có sụt giảm, tuy nhiên vẫn đạt
56,6 tỷ USD và năm 2010 đã tăng trở lại hơn 71 tỷ USD.
Về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam (FDI) góp phần rất lớn cho sự tăng trưởng kinh tế, vừa bổ
sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực… còn đóng góp tích cực vào nguồn thu ngân sách. Trong thời
gian qua, vốn FDI tăng rất nhanh vào năm 2007 và năm 2008, theo số liệu trên
CCTT của NHNN cho thấy 2007 lượng ngoại tệ chuyển vào đầu tư trực tiếp tăng
gần gấp3 lần và năm 2008 tăng hơn 4lần so với năm 2006. Tuy nhiên, sang năm
55
2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Mỹ, lượng ngoại tệ chuyển vào
có sụt giảm nhưng vẫn đạt mức 6.9 tỷ USD và năm 2010 tăng lên 7,1tỷUSD.
Những số liệu tăng trưởng của hoạt động ngoại thương và đầu tư, đã cho
thấy quá trình hội nhập đã có những tác động đến nền kinh tế nói chung và đến
thị trường ngoại hối nói riêng. Đây là những nhân tố thuận lợi góp phần đáng kể
tạo điều kiện để TTNH phát triển.
Về kiều hối, với mức tăng năm sau cao hơn năm trước và tăng mạnh vào
những năm gần đây, sự gia tăng lượng ngoại tệ do những người Việt Nam sinh
sống và làm việc tại nước ngoài cùng với đà tăng trưởng số lượng người xuất
khẩu lao động qua các năm. Trong giai đoạn đầu mở cửa từ 1990-1995 tăng gần
10 lần, giai đoạn 2 từ năm 1996-2006 tăng hơn 11 lần và từ năm 2007 kiều hối
vẫn gia tăng trung bình mỗi năm hơn 6 tỷ và vào năm 2010 lên mức 8tỷ USD
mặc dù đây là giai đoạn nền kinh tế thế giới vẫn còn chịu tác động của khủng
hoảng tài chính.
2.2.2. Nguồn cung ngoại tệ từ những hoạt động khác gia tăng
Ngoài hoạt động đầu tư trực tiếp, kiều hối và xuất khẩu, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội làm gia tăng lượng ngoại tệ, thông qua những tác
động sau:
Thứ nhất, là sự gia tăng lượng khách du lịch quốc tế
Kể từ khi mở cửa, hoạt động du lịch của Việt Nam phát triển mở rộng thị
trường, tăng cừơng quảng bá hình ảnh của Việt Nam phát huy những thế mạnh
về bản sắc dân tộc, xây dựng nhiều tour du lịch hấp dẫn, vì thế lượng khách đến
Việt Nam ngày càng tăng nhanh, nếu như năm 1998 mới đạt 1,52 triệu lượt
người, đến năm 2004 đã gần gấp 2 lần và năm 2008 tăng đến hơn 4 triệu lượt
người và đến năm 2010 vượt qua con số 5 triệu lượt. Nguồn ngoại tệ thu được từ
hoạt động xuất khẩu du lịch còn phải kể đến khoản ngoại tệ khách du lịch quốc tế
mang đến chi tiêu tại Việt Nam.
56
Biểu đồ 2.2: Khách quốc tế đến Việt nam trong thời gian từ 1995-2010
Đơn vị tính: nghìn lượt người
Biểu đồ 2.3 Lượng ngoại tệ thu được từ khách quốc tế
Đơn vị tính: triệu USD
Nguồn:Tổng cục Thống kê [79]
Thứ hai, là nguồn ngoại tệ từ vốn ODA, từ nguồn viện trợ không hoàn lại
của các tổ chức tài chính, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước
ngoài, gia tăng theo mức độ hội nhập. Nguồn:Tổng cục Thống kê [79]
Thứ ba, Tác động của hội nhập đến luồng vốn chảy vào nước ta thể hiện rõ
nét qua số liệu dòng vốn đầu tư gián tiếp tăng mạnh năm 2007 là 6243 triệu góp
phần đáng kể vào nguồn cung ngoại tệ cho TTNH, tuy nhiên đây là luồng vốn
không ổn định nên khi thị trường thế giới có biến động thì sẽ sự đảo chiều tháo
chạy nhanh chóng thể hiện qua số liệu âm của năm 2008: -578 triệu USD và
2009 : -71 triệu USD, và qua năm 2010 khi kinh tế thế giới có sự hồi phục thì
luồng vốn này cũng tăng trở lại tuy không được mạnh mẽ bằng năm 2007 nhưng
cũng đạt được : 2370 triệu USD [73].
Thứ tư, là số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống,
làm ăn, học tập... ngày càng tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền
thuê nhà và chi trả các dịch vụ khác. Việc gia nhập WTO đòi hỏi phải giảm dần
các hạn chế về sự hiện diện của các thể nhân và pháp nhân, vì thế số lượng các
57
ngân hàng, tổ chức kinh tế nước ngoài mở văn phòng, chi nhánh, công ty, nhà
máy tại Việt Nam càng tăng và kéo theo đó là số lượng các chuyên gia, người lao
động nước ngoài sang làm việc càng đông.
Thứ năm, là tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các
dự án liên doanh, dự án 100 % vốn nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước
ngoài ở Việt Nam, được trả bằng ngoại tệ.
Tổng hợp số lượng ngoại tệ này chưa có được những con số thống kê đầy
đủ, ngoại trừ những luồng chu chuyển tiền thông qua hệ thống ngân hàng, tuy
nhiên đã được các tổ chức kinh tế đánh giá không nhỏ và tạo nên nguồn cung
ngoại tệ quan trọng cho thị trường.
Ngoài những nguồn cung ngoại tệ chính nêu trên, TTNH Việt Nam còn có
đặc thù riêng trong những năm gần đây là nguồn “cung ảo” ngoại tệ do tác động
của tăng trưởng tín dụng ngoại tệ mà nguyên nhân xuất phát từ sự chênh lệch lãi
suất USD và VND, các doanh nghiệp vay USD bán ra để chuyển sang VND thay
vì vay VND lãi suất cao hơn.
2.2.3. Cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu gia tăng
Khi Việt Nam gia nhập WTO đã cam kết cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các
rào cản phi thuế quan ( như giấy phép, hạn ngạch, kiểm soát ngoại hối, các loại
phí…), đồng thời Việt Nam còn tham gia các hiệp ước tự do thương mại, song
phương và đa phương trong khuôn khổ ASEAN, với mức độ tự do hóa và mở
cửa còn cao hơn cam kết gia nhập WTO như cắt giảm thuế quan đối với các sản
phẩm công nghiệp xuống mức 0% theo lộ trình đến năm 2013. Bên cạnh đó đặc
điểm hoạt động sản xuất của nước ta sử dụng phần lớn nguyên liệu nhập khẩu,
nhu cầu nhập máy móc thiết bị rất cao, đồng thời tăng trưởng kinh tế đã dẫn đến
thị hiếu tiêu dùng thay đổi, từ hàng hóa cho đến dịch vụ hầu như đều có khuynh
hướng chuộng hàng ngoại vì thế kim ngạch nhập khẩu của nước ta luôn ở mức
cao và thường xuyên ở tình trạng nhập siêu.
Nếu như năm 2000, kim ngạch nhập khẩu của nước ta là hơn 15.6 tỷ USD
thì đến năm 2004 đã tăng gấp đôi gần 32 tỷ và 2 năm sau vào năm 2007 năm đầu
58
tiên gia nhập WTO kim ngạch này đã lên đến mức gần 63 tỷ USD và năm 2008
tăng hơn 80 tỷ USD, sang năm 2009 do khủng hoảng kinh tế giảm còn 68.9tỷ và
năm 2010 tăng trở lại đạt mức 81 tỷ USD.
Bảng 2.5: Kim ngạch nhập khẩu
Năm
2000
2001
2002
2003
2004 2005
2006
2007
2008
2009
2010
Nhập khẩu 15637 16218 19746 25256 31969 36761 44891 62765 80414 68949 81801
Đơn vị tính: triệu USD
Nguồn: Tổng cục Thống kê[79]
Ngoài ra, đặc điểm thị trường Việt Nam với tâm lý người dân rất chuộng
cất trữ vàng như là hình thức bảo toàn vốn, trong những giai đoạn thị trường
vàng biến động NHNN phải cho phép nhập khẩu vàng để bình ổn thị trường. Vì
thế nhu cầu về ngoại tệ để nhập vàng cũng đã tạo nên những đợt biến động mạnh
về nguồn cầu ngoại tệ.
2.2.4. Nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá sẽ gia tăng
Nền kinh tế Việt Nam trước khi mở cửa, chưa phải thực thi những cam kết
của những hiệp ước song phương đa phương, hoạt động ngoại thương chỉ thực
hiện trong khối Xã Hội Chủ Nghĩa vì thế những biến động của tình hình kinh tế
thế giới ít có tác động đến nền kinh tế và rủi to tỷ giá cũng hầu như không có, vì
các nước trong khối thực hiện thanh toán bù trừ và hoạt động ngoại thương thực
chất là viện trợ dưới hình thức hàng hóa.
Kể từ khi mở cửa, phải tuân thủ lộ trình mở cửa theo cam kết gia nhập
WTO đảm bảo xây dựng một nền kinh tế thị trường với đầy đủ các yếu tố cạnh
tranh vì thế những yếu tố tác động đến tỷ giá là giá cả của những hàng hóa chủ
lực như xăng dầu, vàng vvv.. Là những biến động của tình hình chính trị xã hội
của những quốc gia có giao dịch thương mại với Việt Nam sẽ góp phần gia tăng
rủi ro cho những giao dịch có liên quan đến ngoại tệ, thêm vào đó môi trường
59
kinh tế thế giới ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp và sức lan toả nhanh
chóng và mạnh mẽ hơn khi quá trình hội nhập càng sâu rộng.
Đối với thị trường tài chính và dịch vụ tài chính, việc gia nhập WTO đòi
hỏi phải dỡ bỏ dần các rào cản tài chính trong nước, giảm các hạn chế giao dịch
qua biên giới, thực hiện đối xử quốc gia đối với các thể nhân và pháp nhân nước
ngoài. Những thay đổi này làm gia tăng luồng chu chuyển thương mại hai chiều,
kéo theo sự chu chuyển luồng vốn, đặc biệt là các luồng vốn đầu tư gián tiếp và
sẽ dẫn đến sự gia tăng khả năng biến động bất thường của cán cân thanh toán, lãi
suất, tỷ giá và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác.
Ngoài ra, chính sách tỷ giá sẽ phải điều hành theo hướng linh hoạt hơn,
nghĩa là không neo giữ tỷ giá tại mức cố định quá lâu mà có sự thay đổi bám sát
giá thị trường hơn và như vậy những hoạt động thanh toán hay các giao dịch liên
quan đến ngoại tệ sẽ dễ gặp rủi ro hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá sẽ gia tăng và
làm tăng khối lượng giao dịch trên TTNH giúp thị trường sẽ hoạt động sôi nổi
hơn.
2.2.5. Tăng cường sự hợp tác hổ trợ và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho
các tổ chức kinh tế, tài chính của Việt Nam
Quá trình toàn cầu hóa giúp cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần
nhau và có những ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, trong quá trình hợp tác và phát
triển nếu một thành viên nào trong tổ chức kinh tế quốc tế gặp khó khăn hay đối
mặt với khủng hoảng kinh tế sẽ được sự giúp đỡ hỗ trợ được chia sẻ những kinh
nghiệm đối phó của các nước của tổ chức kinh tế thế giới WTO, IMF, bởi vì
trong cùng tổ chức kinh tế nếu một quốc gia nào có khủng hoảng thì không chỉ
một nước mà cả với những nước là đối tác thương mại cũng bị thiệt hại theo.
60
Đồng thời quá trình hội nhập thông qua sự tham gia vào các tổ chức kinh tế
khu vực(ASEAN) và toàn cầu (IMF) Việt Nam có thể nhận được sự hỗ trợ về đào
tạo chuyên viên tài chính, cách tổ chức TTTC, hệ thống thông tin điện tử trang
bị cho hoạt động kinh doanh ngoại hối, hợp tác chống rửa tiền và các biện pháp
bảo vệ an ninh cho hệ thống tài chính.
Sự mở cửa thị trường sẽ tiếp nhận những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực
tài chính lớn mạnh có trình độ quản lý cao và đội ngũ chuyên viên giỏi giúp cho
các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ tiếp cận với trình độ
kinh doanh chuyên nghiệp và tiếp thu những thành tựu trong hoạt động tài chính
ngân hàng để thu hẹp dần khoảng cách về trình độ của nền tài chính Việt Nam
với nền tài chính hiện đại. Đây chính là cơ sở tạo điều kiện hoạt động kinh doanh
ngoại hối cũng như cho TTNH Việt Nam phát triển.
Thị trường tài chính ngày càng mở cửa theo lộ trình thỏa thuận khi gia nhập
WTO, các ngân hàng nước ngoài ngày càng có cơ hội xâm nhập nhiều hơn vào
thị trường Việt Nam và với tiềm lực về vốn, năng lực quản lý, kinh nghiệm trong
hoạt động kinh doanh tiền tệ hơn hẳn, đã gây áp lực áp lực cạnh tranh ngày càng
tăng đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải có chiến lược nâng cao trình độ quản lý,
quản trị rủi ro, phát triển nghiệp vụ ngân hàng và xây dựng cải tiến hệ thống xử
lý thông tin và dự báo hiện đại hơn.
2.2.6. Đối mặt với những bất ổn do quá trình mở cửa thị trường tài chính
Mở cửa thị trường vừa đón nhận những thuận lợi cho quá trình phát triển
nền kinh tế và hiện đại hóa hệ thống tài chính, đồng thời cũng phải tiếp nhận cả
những bất ổn của nền kinh tế thế giới mà với năng lực quản lý còn yếu kém, trình
độ quản trị rủi ro và khả năng ngăn chặn phát hiện những mối nguy cơ của hệ
thống tài chính Việt Nam còn hạn chế. Ngay cả đối với những nước có trình độ
quản lý hiện đại có cả hệ thống quản trị rủi ro và phát hiện những rủi ro tiềm ẩn
61
rất phát triển cũng vẫn bị sự tấn công của giới đầu cơ tiền tệ làm sụp đổ ngân
hàng mà nền kinh tế thế giới đã từng chứng kiến như Ngân hàng Barings tại
Singapore (là công ty con của công ty chứng khoán Barings có trụ sở chính tại
London ) vào năm 1995 nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng của ngân hàng được
cho là sự lạm dụng quá mức giao dịch phái sinh tài chính và không quản lý nổi
trạng thái mở của những giao dịch này.
Khủng hoảng tài chính thị trường Châu Á năm 1997 đã làm cho hệ thống
tài chính của Thái Lan, Malaysia, Indonesia bị thiệt hại nặng nề là những bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình mở cửa TTTC.
Gần nhất là khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã làm tăng trưởng kinh
tế toàn cầu sụt giảm đáng kể, các nền kinh tế phát triển đều rơi vào suy thoái. Mà
nguyên nhân chính đi từ những hoạt động đầu tư quá mức vào thị trường bất
động sản và có sự tiếp tay của những giao dịch phái sinh tài chính đã làm cho giá
bất động sản nhảy vọt và những khoản vay dưới mức chuẩn của các ngân hàng
Mỹ đã kéo dây chuyền cho sự sụp đổ của một số ngân hàng lớn của Mỹ. Tình
hình kinh tế của Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể, 6 tháng đầu năm, nhập siêu
tăng mạnh do biến động giá, trong khi đó xuất khẩu lại sụt giảm do suy thoái
kinh tế toàn cầu, đe dọa sự thâm hụt nghiêm trọng cán cân thanh toán và gây áp
lực lên tỷ giá.
Trong bối cảnh kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới,
mức độ tự do hóa các giao dịch vốn tương đối cao, biến động của các luồng vốn
đầu tư, đặc biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ
và tỷ giá. Minh chứng cho thấy sự ảnh hưởng này, là tình hình TTTC Việt Nam
trong năm 2008, sau 1 năm gia nhập WTO và thực hiện tự do hóa giao dịch tài
khoản vãng lai và mở cửa một phần với các giao dịch vốn, luồng vốn đầu tư gián
tiếp đã liên tục biến động, khiến cho cung cầu ngoại tệ mất cân đối. Luồng vốn
62
này gia tăng đáng kể trong ba tháng đầu năm, gây áp lực tăng giá VND, sau đó
có dấu hiệu đảo chiều làm tăng cầu ngoại tệ khi tình hình kinh tế thế giới tiếp tục
khó khăn, kinh tế trong nước đối mặt với lạm phát, nhập siêu tăng cao. Sau khi
luồng vốn vào có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại do kinh tế vĩ mô Việt Nam diễn biến
khả quan vào các tháng cuối năm, thì tình trạng khủng hoảng thị trường tài chính
quốc tế lại khiến cho các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn về nước để bảo đảm
thanh khoản của các tổ chức ở chính quốc.
Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới (BIS, năm 2007), khủng hoảng tài
chính là mối hiểm nguy của các quốc gia có thu nhập trung bình, vì khi các điều
kiện của thị trường vốn thay đổi, các bên cho vay có thể ngừng giải ngân, các dự
án dài hạn có thể không được hoàn thành, các dự án mới đăng ký không được
triển khai, nội tệ có thể mất giá và sự bất ổn định sẽ lan nhanh trong nền kinh tế.
Những biến động khó lường của kinh tế và thị trường tài chính thế giới cũng như
trong nước sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cân bằng cung cầu ngoại tệ trong nước, tác
động đến TTNH một cách nhanh chóng một khi quá trình mở cửa càng lớn.
2.2.7. Sự canh tranh gay gắt hơn với những đối thủ hơn hẳn về tiềm lực và
bề dày kinh nghiệm
Trong những năm qua mặc dù hệ thống ngân hàng của Việt Nam đã có
nhiều đổi mới thế nhưng các NHTM của Việt Nam xét về năng lực vốn còn rất
khiêm tốn so với các NHTM của một số quốc gia trong khu vực
Qua số liệu ở bảng 2.6 cho thấy qui mô vốn của các NHTM của Việt Nam
lớn nhất chỉ có Agribank là hơn 1tỷ USD còn lại đều ít hơn khoảng dưới 800
triệu USD như Vietcombank, BIDV thấp hơn so với mức vốn nhỏ nhất của các
NHTM Singapore và Malaysia. Với năng lực vốn như vậy các NHTM của Việt
Nam sẽ gặp nhiều khó khăn cho việc phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối
trên TTNH khu vực cũng như trên toàn thế giới.
63
Bảng 2.6: Qui mô vốn điều lệ của một số NHTM
của các quốc gia trong khu vực
Vốn
Quốc gia
Quốc gia
Vốn
Đơn vị tính: Triệu USD
INDONESIA
MALAYSIA
Bank Mandiri
2,122
MayBank
4,102
Bank BNI
1,499
Public Bank(PBB)
2,382
Bank Cetral Asia
Commerce Asset- Holding
1,695
1,304
Bank Rakyat Indonesia
1,070
AMMB Holding
1,476
Bank Dabamon Indonesia
807
RHB Bank Berhad
1,179
Panin Bank
363
Hong Leong Bank
1,128
VIỆTNAM
THAILAND
Agribank
1062
Bangkok Bank
3,178
BIDV
724
Siam Commercial Bank
2,189
Vietcombank
621
Kasikorn Bank
1,996
Vietin Bank
577
Krung Thai Bank
1,837
ACB
401
Siam City Bank
853
Techcombank
355
Thai Military Bank
802
Sacombank
344
Bank of Ayudhya
771
PHILIPPINES
SINGAPORE
Bank of Philippines
975
DBS Bank
9,623
6,297
Metropolitan Bank Et Trst
704
United overseas Bank
Company
Equitable PCI Bank
464
Oversea- Chinese Banking
5,589
Corporation
Nguồn:www.thebanker.com/top 1000[74]
Bên cạnh đó đối với hoạt động tài trợ ngoại thương, thanh toán quốc tế,
ngân hàng ngoại có ưu thế hơn hẳn các ngân hàng Việt Nam về trình độ nghiệp
vụ và kinh nghiệm, họ còn được sự hổ trợ của ngân hàng mẹ ở nước ngoài về các
khâu thẩm định đánh giá khách hàng và các ngân hàng khác, họ mạnh dạn tài trợ
với những điều kiện hấp dẫn cho khách hàng, vì thế đây là thế mạnh của các
64
ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong nước thì được đánh giá là có thế
mạnh hơn về mảng dịch vụ bán lẻ.Tuy nhiên, để chuẩn bị cho quá trình mở cửa
hoàn toàn trong ngành ngân hàng vào năm 2011, các ngân hàng nước ngoài đã
nhanh chóng mở rộng hoạt động tại Việt Nam, đặc biệt là mảng dịch vụ bán lẻ.
Với năng lực tài chính lớn mạnh và uy tín toàn cầu, chất lượng dịch vụ cao từ
những ngân hàng ngoại sẽ là thách thức lớn đối với các NHTM Việt Nam.
Trước mắt, các NHTM Việt Nam có lợi thế hơn do có mạng lưới chi nhánh
rộng khắp có quan hệ truyền thống với khách hàng, am hiểu rõ những tập quán
văn hóa hiểu biết thấu đáo về thị trường cũng như hành vi, nếp suy nghĩ của
khách hàng Việt Nam mà các ngân hàng nước ngoài không thể có được.Tuy
nhiên, ưu thế này đang mất dần khi các ngân hàng nước ngoài đang tuyển dụng
hàng loạt nhân sự là người Việt. Các NHTM Việt Nam đã thực hiện nhiều biện
pháp như hợp tác chiến lược nhưng vẫn chưa thể cạnh tranh được về công nghệ
tiên tiến, sản phẩm toàn cầu của NH nước ngoài và với trình độ quản trị và cơ sở
hạ tầng của các NHTM Việt Nam hiện nay việc tiếp cận các công nghệ ngân
hàng hiện đại là không đơn giản. Nếu các NHTM trong nước không cải tiến dịch
vụ, hoạt động hiệu quả, thì trong tương lai không xa họ phải chia sẻ thị phần với
các doanh nghiệp khổng lồ như HSBC, ANZ, Standard Charter Bank...
Như vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện để TTNH Việt
Nam phát triển đồng thời cũng sẽ đối mặt với nhiều bất ổn, vấn đề hiện nay cần
đánh giá đúng thực trạng của TTNH Việt Nam để có sự chuẩn bị đón nhận những
cơ hội và đối phó với những thách thức nhằm tận dụng cơ hội để phát triển
TTNH nói riêng và thị trường tài chính nói chung một cách an toàn và hiệu quả.
2.3. Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam
2.3.1. Những văn bản pháp lý qui định hoạt động kinh doanh ngoại hối
Hiện nay, văn bản có vị trí pháp lý cao nhất về quản lý hoạt động ngoại hối
là Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 được ban hành ngày 13 tháng
65
12 năm 2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Pháp lệnh ngoại hối ra đời đã
thống nhất những nguyên tắc quản lý ngoại hối vào một đầu mối văn bản pháp lý
chuyên ngành, là cơ sở chi phối toàn bộ các vấn đề liên quan đến ngoại hối và
hoạt động kinh doanh ngoại hối, pháp lệnh khẳng định chính sách quản lý ngoại
hối của Việt Nam là nhằm tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm lợi ích hợp pháp cho
các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế; thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển
đổi của đồng Việt Nam; thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng
đồng Việt Nam; thực hiện các cam kết của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về
ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam.
Để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh ngoại hối Chính phủ ban hành Nghị định
số 160/2006/NĐ-CP vào ngày 28 tháng 12 năm 2006.
Riêng đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối, ngày 11/04/2008, NHNN
Việt Nam đã ban hành Thông tư số 03/2008/TT-NHNN (TT 03) hướng dẫn chi
tiết về hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của Ngân hàng và Tổ chức tín dụng
phi Ngân hàng đã được quy định trong Nghị định 160/2006/NĐ-CP của Chính
phủ ban hành ngày 28/12/2006. Đề cập đến các điều kiện cũng như thủ tục xin
cấp phép hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của các Ngân hàng.
Theo quy định tại Thông tư 03, các Ngân hàng có thể được cung ứng các
dịch vụ ngoại hối trên thị trường trong nước nếu đáp ứng đủ các điều kiện về:
phương án hoạt động cung ứng dịch vụ đã được Hội đồng Quản trị thông qua; có
đầy đủ trang thiết bị, cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu thực hiện dịch vụ; có
nhân sự am hiểu về hoạt động ngoại hối, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại hối và
quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối.
Ngoài ra, để được cung ứng hoạt động dịch vụ ngoại hối trên thị trường
quốc tế thì Ngân hàng cần phải đáp ứng được các yêu cầu bổ sung, như: có hệ
thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ; tuân thủ các quy định của NHNN về
tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động và trong việc phân loại nợ, trích lập và sử
66
dụng dự phòng rủi ro tín dụng, không vi phạm các quy định hiện hành về quản lý
ngoại hối trong thời gian một năm và phải kinh doanh có lãi trong năm liền kề
năm đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế.
Việc đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế
không được thực hiện trước việc đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối
trên thị trường trong nước. Đối với các tổ chức tín dụng là ngân hàng liên doanh,
ngân hàng 100% vốn nước ngoài được hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối
theo quy định tại giấy phép thành lập và hoạt động. Chi nhánh ngân hàng nước
ngoài được hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối theo quy định tại giấy phép mở
chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Các tổ chức tín dụng sau khi được cấp giấy phép hoạt động phải duy trì các
điều kiện để cung ứng dịch vụ ngoại hối. Trong trường hợp, sau khi đã được cấp
giấy phép hoạt động mà không tiếp tục duy trì được các điều kiện đã quy định thì
tổ chức tín dụng phải tạm ngừng nghiệp vụ cung ứng dịch vụ ngoại hối được
phép và báo cáo cho NHNN trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày không còn
đủ điều kiện. Cụ thể, NHNN sẽ đình chỉ, thu hồi hoặc hủy bỏ một số nội dung
trong giấy phép hoạt động trong các trường hợp: bị NHNN đặt vào tình trạng
kiểm soát đặc biệt; có chứng cứ hồ sơ xin cấp giấy phép hoạt động có những
thông tin sai lệch; giấy phép thành lập và hoạt động bị thu hồi hoặc hết hiệu lực;
chia, sáp nhập, hợp nhất, phá sản; tự động chấm dứt hoạt động cung ứng dịch vụ
ngoại hối...
Như vậy theo pháp lệnh để được phép hoạt động kinh doanh ngoại hối các
NHTM phải đáp ứng những yêu cầu về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, về trình độ
quản lý và kinh doanh phải có lãi, nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính.
Đồng thời để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Tổ chức
tín dụng. NHNN qui định hạn mức trạng thái ngoại hối, hạn mức này được thực
hiện dựa vào quyết định đã ban hành từ năm 2002, đó là QĐ số 1082/2002/QĐ-
NHNN ngày 07/10/2002 quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng
được phép hoạt động ngoại hối tại Việt Nam, trừ các ngân hàng liên doanh và
67
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, theo đó các NHTM được phép duy trì trạng
thái ngoại tệ dư thừa hay dư thiếu là 30% so với vốn tự có.
Để thống nhất cách tính trạng thái ngoại tệ, quyết định 1082 qui định tỷ giá
quy đổi trạng thái của một ngoại tệ là tỷ giá bán giao ngay chuyển khoản giữa
ngoại tệ đó với đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng vào cuối ngày làm việc và
nguyên tắc tính trạng thái của một ngoại tệ như sau:
- Trạng thái ngoại tệ cuối ngày được tính trên cơ sở trạng thái ngoại tệ ngày
hôm trước và chênh lệch giữa doanh số mua, doanh số bán phát sinh trong ngày
của ngoại tệ đó, bao gồm cả giao dịch giao ngay và kỳ hạn.
- Trạng thái ngoại tệ cuối tháng được tính trên cơ sở số dư tại thời điểm
cuối ngày làm việc cuối cùng của tháng của tài khoản mua bán ngoại tệ kinh
doanh, tài khoản ngoại tệ bán ra từ các nguồn khác, tài khoản cam kết mua ngoại
tệ giao ngay, tài khoản cam kết bán ngoại tệ giao ngay, tài khoản cam kết mua
ngoại tệ có kỳ hạn và tài khoản cam kết bán ngoại tệ có kỳ hạn.
Trạng thái ngoại tệ cuối tháng là cơ sở để đối chiếu bảo đảm tính chính xác
của trạng thái ngoại tệ cuối ngày.
Nguyên tắc tính tổng trạng thái ngoại tệ
- Quy đổi trạng thái nguyên tệ của từng ngoại tệ sang đồng Việt Nam theo
tỷ giá quy đổi trạng thái.
- Cộng các trạng thái ngoại tệ dương với nhau để tính tổng trạng thái ngoại
tệ dư thừa. Cộng các trạng thái ngoại tệ âm với nhau để tính tổng trạng thái ngoại
tệ dư thiếu.
Để hướng dẫn thực hiện các giao dịch phái sinh, NHNN cũng đã ban hành
quyết định và văn bản hướng dẫn, hiện tại, đối với giao dịch ngoại hối kỳ hạn,
thực hiện theo quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN ngày 28 tháng 05 năm 2004
[30]. Theo quyết định này, cách tính tỷ giá kỳ hạn đã có sự thay đổi căn bản,
không còn theo điểm kỳ hạn cố định như biên độ được công bố cho từng kỳ hạn
qui định mà dựa theo lãi suất cơ bản VND và lãi suất do FED công bố, cụ thể tỷ
giá kỳ hạn được xác định theo nguyên tắc sau:
68
Các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ và khách hàng thoả thuận mức
tỷ giá kỳ hạn giữa đồng Việt Nam và Đôla Mỹ nhưng tỷ giá kỳ hạn này không
được vượt quá mức tỷ giá được xác định trên cơ sở: Tỷ giá giao ngay của ngày
ký hợp đồng kỳ hạn.Chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành là lãi suất cơ
bản của đồng Việt Nam (tính theo năm) do NHNN Việt Nam công bố và lãi suất
mục tiêu của Đôla Mỹ do Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ công bố (Fed Funds Target
rate). Kỳ hạn của hợp đồng. Kỳ hạn của hợp đồng cũng được mở rộng từ 3 ngày
đến 365 ngày. Đồng thời qui định các TCTD không được thu phí giao dịch đối
với các giao dịch hối đoái kỳ hạn.
Sau đó ngày 10/11/2004 NHNN ra quyết định số 1452/2004QĐ-NHNN đã
mở rộng phạm vi đối tượng được phép tham gia giao dịch kỳ hạn ngoài các tổ
chức kinh tế, có các tổ chức khác và cá nhân có nhu cầu ngoại tệ hợp pháp cũng
được quyền tham gia mua bán ngoại tệ kỳ hạn, đây là quyết định tạo điều kiện
cho giao dịch kỳ hạn được sử dụng rộng rãi, phù hợp với những biến động ngày
càng tăng của tỷ giá trong giai đoạn hội nhập.
Trên cơ sở sau khi cho phép thực hiện thí điểm, NHNN đã chính thức cho
phép các NHTM được thực hiện giao dịch quyền chọn thông qua Quyết định số
1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10 tháng 11 năm 2004 về giao dịch hối đoái của các
tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối. Quyết định này đã giới thiệu
cho thị trường làm quen với giao dich quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, và là
bước đệm tiền đề giúp cho NHNN đưa ra thực hiện công cụ phòng ngừa rủi ro
khác là quyền chọn tiền đồng.
Những điểm đáng lưu ý của quyết định 1452/2004 là:
Thứ nhất, đồng tiền giao dịch: giao dịch quyền chọn chỉ thực hiện ngoại tệ
với ngoại tệ.
Thứ hai, đối tượng tham gia giao dịch: bao gồm các TCDT được phép, các
tổ chức kinh tế, tổ chức khác, cá nhân và NHNN. Trong đó, các TCTD được
phép không được mua quyền chọn của các tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá
69
nhân. Có nghĩa là các tổ chức tín dụng được phép là người luôn đứng ở vị thế
người bán quyền chọn với các tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân.
Thứ ba, giới hạn cung ứng hợp đồng quyền chọn của các tổ chức tín dụng
được phép: TCTD được phép được duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền lựa chọn
không có giao dịch đối ứng tối đa là 10% vốn tự có.
Thứ tư, kỳ hạn của các hợp đồng quyền chọn: do các TCTD được phép và
khách hàng tự thỏa thuận.
Kế tiếp, trước nhu cầu về bảo hiểm rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu, ngày 18/4/2005, NHNN đã có công văn số 326/NHNN-QLNH cho
phép ACB triển khai thí điểm giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VND. Theo
công văn này, NHNN đã đưa ra những quy định cụ thể về các loại ngoại tệ được
giao dịch, cơ sở tính phí quyền chọn, thời hạn giao dịch, đối tượng giao dịch…
Ngày 29/8/2006, NHNN cũng đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC. Nội
dung chính của công văn này gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về nguyên
tắc và nội dung kế toán đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ hoán
đổi tiền tệ, nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, để giải quyết vấn đề hạch toán kế toán
nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các NHTM.
Tuy nhiên, qua 3 năm thực hiện quyền chọn ngoại tệ –VND, NHNN đánh
giá việc sử dụng giao dịch này của các TCTD và doanh nghiệp chỉ nhằm mục
đích lách trần tỷ giá nhiều hơn là bảo hiểm rủi ro tỷ giá và gặp khó khăn trong
việc kiểm tra thực hiện giao dịch này, vì thế vào ngày 18/3/2009 NHNN ban
hành văn bản số 1820/NHNN-QLNH chấm dứt thực hiện quyền lựa chọn tiền tệ
ngoại tệ và VND, các TCTD chỉ được cung cấp quyền lựa chọn giữa hai ngoại tệ
với nhau.
Như vậy, những văn bản pháp lý về giao dịch phái sinh đã được ban hành
nhưng còn giới hạn cách sử dụng và chưa cho phép thực hiện giao dịch tiền tệ
tương lai.
70
2.3.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng trên
TTNH Việt Nam
Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối các ngân hàng vừa là nhà tạo thị
trường, nhà môi giới, nhà chấp nhận giá, nhà đầu cơ, có nghĩa là ngân hàng có
thể tham gia kinh doanh trên TTNH với đầy đủ mục đích hay đầy đủ chức năng
của các thành viên tham gia. Nhưng kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng Việt
Nam hiện nay đa số chỉ đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ cho khách hàng nghĩa
là chỉ có chức năng là nhà tạo giá thứ cấp, nhà chấp nhận giá, chứ ít có ngân hàng
tham gia thực sự trên TTNH với vai trò nhà tạo gíá sơ cấp.
Các NHTM lớn ở Việt Nam có hoạt động kinh doanh ngoại hối đã phát
triển nghiệp vụ này qua các năm, xem đây là lĩnh vực mở rộng hoạt động kinh
doanh và tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi vì, thông qua các giao dịch ngoại
hối với khách hàng, ngân hàng đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho các nhà xuất
nhập khẩu góp phần phát triển giao dịch thanh tóan và tài trợ ngoại thương.
Điểm qua về tỷ lệ lợi nhuận kinh doanh ngoại hối của một số NHTM lớn
điển hình có thể thấy rõ điều này
Bảng 2.7: Tỷ lệ Lợi nhuận họat động kinh doanh
ngoại hối so với tổng lợi nhuận trước thuế
Đơn vị tính:%
2007 2008 2009 2010 Năm
11.11 31.61 18.35 Ngân hàng VCB 10.25
7.29 26.51 14.88 ACB 6.16
6.37 45.95 14.44 Sacombank -7.00
22.14 65.42 8.83 EIB 0.66
6.89 33.64 5.79 3.2 BIDV
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng[38]
Qua số liệu trên có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh ngoại hối đã mang
đến cho các ngân hàng một khoản lợi nhuận không nhỏ như EIB có lợi nhuận từ
họat động kinh doanh ngoại hối chiếm tỷ lệ đến 65.42% năm 2008 so với tổng lợi
71
nhuận trước thuế, hay Sacombank có tỷ lệ gần 50% năm 2008 so với lợi nhuận
trước thuế. Tại những ngân hàng này cho ta thấy hoạt động kinh doanh ngoại hối
không phải là một mảng kinh doanh hổ trợ cho các hoạt động khác mà còn đóng
vai trò quan trọng trong nguồn thu lợi nhuận của ngân hàng.
Tuy nhiên qua những số liệu trên có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh
ngoại hối của các ngân hàng trong 2 năm 2009, 2010 đã sụt giảm nhiều, do bị
ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2009 và biến động của thị
trường tài chính trong nước và trên thế giới. Điều này cho chúng ta thấy rõ sự tác
động mạnh mẽ những yếu tố ngoại sinh đến hoạt động kinh doanh ngoại hối nhất
là trong một nền kinh tế mở, đồng thời sự biến động của thị trường tiền tệ, tài
chính sẽ tác động đến TTNH.
Để phát triển hoạt động kinh doanh các ngân hàng như ACB,
Sacombank,VCB, Eximbank, Việt Á Bank đã đầu tư hệ thống Reuters 3000 và
cập nhật hệ thống thanh toán Corebanking với phiên bản T24, là phiên bản mới
nhất hiện nay. Những ngân hàng lớn đều quan tâm đến tổ chức bộ phận kinh
doanh ngoại hối và tìm kiếm các chuyên viên có nhiều kinh nghiệm về hoạt động
này, nhằm mục đích thành lập đội ngũ nhân viên kinh doanh ngoại hối chuyên
nghiệp có trình độ cao.
Các ngân hàng quan tâm đến việc triển khai các nghiệp vụ phái sinh theo
chuẩn mực quốc tế như BIDV bằng việc ký kết hợp đồng khung hoán đổi và phái
sinh quốc tế (ISDA) với một số định chế tài chính nước ngoài trên thế giới.
ISDA- International Swap and Derivaties Association tên viết tắt của Hiệp hội
quốc tế về hoán đổi và phái sinh, là tổ chức thương mại quốc tế lớn nhất xét về số
lượng công ty thành viên. Hợp đồng khung ISDA là một tiêu chí bắt buộc mà tất
cả các bên phải ký trước khi họ tiến hành các giao dịch phái sinh, chuẩn hóa giấy
tờ pháp lý cho các giao dịch này. Điều này giúp cho các bên trong một hợp đồng
IDSA không cần phải nghiên cứu qua nhiều văn bản giấy tờ mỗi khi có một giao
dịch phái sinh, từ đó tiết kiệm nhiều thời gian và công sức[9].
72
2.3.2.1.Quá trình hình thành và hoạt động TTNT liên ngân hàng
Có thể nói TTNH của Việt Nam gồm 3 thị trường cùng tồn tại:
Thị trường chính thức gồm: Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường
bán lẻ và thị trường không chính thức hay còn gọi là thị trường tự do, thị trường
chợ đen.
Thời kỳ trước năm 1991 nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại
hối, áp dụng chế độ tỷ giá cố định do nhà nước áp đặt, không dựa vào yếu tố thị
trường và những yếu tố cho sự hình thành TTNH là không có. Nghị định
53/HĐBT ngày 26/3/1988 ra đời tách hệ thống ngân hàng thành hai cấp: NHNN
và ngân hàng chuyên doanh, trong đó chỉ có ngân hàng Ngoại thương được phép
hoạt động kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế và mở tài khoản ở nước
ngoài.
Sau đó Nghị định 161/HĐBT ngày 18/10/1988 được ban hành thay thế
Nghị định 102(ngày 6/7/1963) của Hội đồng Chính phủ. Theo nghị định
161/HĐBT và Thông tư hướng dẫn số 33-NH-TT đã chính thức xóa bỏ thế độc
quyền trong kinh doanh ngoại hối của Nhà nước được thể hiện qua nội dung qui
định:”Nhà nước XHCN Việt Nam thông qua NHNN Việt Nam thực hiện thống
nhất quản lý nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh
doanh ngoại hối đều được thực hiện theo qui định của NHNN Việt Nam. Ngân
hàng Ngoại Thương Việt Nam được phép kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra, các
ngân hàng chuyên doanh khác, các ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn
kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN TW Việt
nam cho phép.” Như vậy các ngân hàng thương mại muốn kinh doanh ngoại hối
có thể làm thủ tục để NHNN cấp giấy phép.
Trong thực tế lúc bấy giờ trước sự phát triển cuả hoạt động thanh toán quốc
tế và kiều hối, nhiêù NHTM đã làm đơn xin phép hoạt động kinh doanh ngoại
hối, và NHNN đã cấp phép cho một loạt các NHTM có đủ điều kiện. Thời gian
73
này với chủ trương thu hút vốn nước ngoài, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
được ban hành năm 1987, luồng vốn ngoại tệ đổ vào Việt Nam càng tăng nhưng
do chúng ta vẫn duy trì tỷ giá chính thức do NHNN công bố và cách xa tỷ giá
thực, vì thế các NHTM gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh mua ngoại tệ
với TTKCT.
Những năm đầu thập niên 90 với những biến động lớn về chính trị sự tan rã
của Liên xô và hàng loạt các nước Đông Âu trong phe XHCN dẫn tới thị trường
thanh toán đa biên giữa Việt Nam và các nước XHCN bị tan rã, tất cả các nước
XHCN đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt Nam sang USD,
việc chuyển đổi này ảnh hưởng khá lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam
bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi [5].
Trong thời gian đó, NHNN đã đề xuất ý kiến thành lập Quỹ điều hòa ngoại
tệ tại NHNN để tập trung nguồn ngoại tệ hiếm hoi từ xuất khẩu nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn và can thiệp TTNH
nhằm ổn định tỷ giá.
Năm 1991 là năm đánh dấu sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong hoạt động quản lý ngoại
hối được thể hiện bằng việc thành lập 2 Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà nội
và T/PHCM thông qua quyết định số 107/QĐ-NH ngày 16/8/1991 của NHNN về
việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại
tệ[17].Nhằm mục đích thông qua hoạt động của Trung tâm sẽ nắm bắt được thực
tế về cung cầu ngoại tệ và xác định tỷ giá hợp lý phù hợp với sức mua của VND
đồng thời tăng cường công tác quản lý vĩ mô của nhà nước về quản lý tiền tệ.
Họat động của Trung tâm do Ban điều hành lãnh đạo gồm ba đại diện của
NHNN và bốn đại diện của các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đối
tượng tham gia gồm: NHNN với mục đích mua, bán ngoại tệ theo yêu cầu của
nhà nước, tăng quỹ dự trữ ngoại tệ và can thiệp thị trường; Các ngân hàng được
74
phép kinh doanh ngoại tệ; Các đơn vị tổ chức kinh tế. Chỉ thực hiện giao dịch
một ngoại tệ là USD, giao dịch được tổ chức theo hình thức đấu giá tỷ giá sẽ
được ấn định khi đạt được cung và cầu về ngoại tệ; Số lượng ngoại tệ cho mỗi
lần giao dịch: tối thiểu là 10000USD.
NHNN giao cho các ngân hàng được phép, tập hợp các yêu cầu mua bán
ngoại tệ của những khách hàng không được phép mua bán tại Trung tâm, những
nhu cầu mua ngoại tệ là để thanh toán trong vòng 7 ngày kể từ khi mua và việc
sử dụng ngoại tệ phải phù hợp với các qui định về quản lý ngoại hối. Như vậy là
không cho phép mua bán kỳ hạn, trong khi đó ngày giao dịch chỉ có 2 ngày trong
tuần thứ 3 và thứ 6[14].
Các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá không vượt
quá 0,5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước. Việc công bố tỷ giá
chính thức dựa trên tỷ giá hình thành trên hai trung tâm giao dịch ngoại tệ Hà nội
và T/P Hồ chí Minh đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình điều hành
chính sách tỷ giá, đó là tỷ giá được hình thành có căn cứ chính thức vào các yếu
tố thị trường.
Thông qua hoạt động của hai Trung Tâm đã tạo ra tập quán, kiến thức kinh
doanh ngoại hối cho NHNN và các NHTM và các tổ chức kinh tế, tạo nền móng
cho việc hình thành TTNH.
Kể từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động vào ngày 1/12/1994, tổng
số phiên giao dịch qua hai trung tâm là 692 phiên với tổng doanh số là 660,5
triệu USD[14].
Tuy nhiên, qua một thời gian hoạt động, Trung tâm giao dịch ngoại hối đã
thể hiện một số vấn đề tồn tại như sau:
Cung cầu ngoại tệ tại hai trung tâm không phản ánh chính xác cung cầu
ngoaị tệ của toàn bộ nền kinh tế bởi vì giao dịch bị giới hạn bởi khu vực địa lý,
không thể nào đại diện cho toàn bộ nhu cầu của cả nước được. Tỷ giá được hình
75
thành tại hai trung tâm chưa phản ánh được cung cầu ngoại tệ, tỷ giá chính thức
do NHNN công bố vẫn còn mang tính áp đặt, vì thế chênh lệch giữa hai thị
trường rất cao. Nguyên nhân của tình trạng này là do trong giai đoạn trước đó,
chính phủ áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ và tỷ giá này chênh lệch rất lớn so với tỷ
giá thanh toán, phần chênh lệch nhà nước phải bù lỗ. Bên cạnh đó tỷ giá chính
thức qui định thấp, các tổ chức kinh tế, cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không
bán ngoại tệ cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc người nước
ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản mà thường đưa hàng vào sử
dụng hay sử dụng ngoại tệ mặt trực tiếp trên thị trường[14].
Thực tế này đã gây ảnh hưởng lớn trên thị trường, làm cho tỷ giá trên thị
trường diễn biến phức tạp, chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị
trường lên đến hàng trăm điểm.
Bảng2.8 : Tỷ giá (VND/USD) từ 1990 đến 1992
Đơn vị tính: đồng
Năm
1990
1991
1992
5133
9274
11179
Tỷ giá chính thức (TGCT)
5610
9546
11334
Tỷ giá trên thị trường tự do(TGTTTD)
+477
+272
+155
Chênh lệch (TGTTTD và TGCT)
Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN[21]
Thêm vào đó, cách thức giao dịch yêu cầu phải có mặt tại Trung tâm khác
xa so với đặc điểm của TTNH thế giới chủ yếu là thị trường không tập trung,
phương thức mua bán không đáp ứng được sự biến động của tỷ giá, số lượng
người tham gia ngày càng giảm đi, nhiều phiên được tổ chức mang tính hình
thức.
Cơ chế thanh toán không khuyến khích các NHTM bán ngoại tệ tại Trung
tâm, bởi vì nếu bán một khoản lớn ngoại tệ phải chia nhỏ ra từng đơn vị mua;
trong khi đó nếu các đơn vị mua lại không có tài khoản tại ngân hàng bán, thì
việc thu hồi số tiền VND rất phức tạp và thường không đáp ứng nhu cầu cuả các
76
ngân hàng thương mại. Vì vậy, các NHTM thường bán ngoại tệ cho NHNN bên
ngoài phiên giao dịch, sau đó tại các phiên giao dịch NHNN bán lại cho các tổ
chức kinh tế. Điều này đã biến NHNN thành trung gian mua bán giữa các NHTM
và tổ chức kinh tế, làm cho vai trò điều tiết của NHNN bị mờ nhạt.[14]
Với phương thức giao dịch trực tiếp như vậy, thanh toán sẽ phức tạp và tốn
phí, nên thực sự hai trung tâm chỉ có ý nghĩa tại hai thành phố Hồ Chí Minh và
Hà Nội với vai trò cung cấp ngoại tệ để thanh toán chứ chưa phản ánh tất cả
những giao dịch của hoạt động kinh doanh ngoại hối.
Bên cạnh đó, hoạt động mua bán ngoại tệ ra thị trường của NHNN không
thể giữ bí mật về số lượng, tại Trung tâm trong các phiên giao dịch các NHTM
thường nhìn vào động thái mua bán của NHNN để thực hiện, nếu NHNN bán ra
nhiều thì NHTM mua vào nhiều,và ngược lại nếu NHNN mua vào nhiều thì các
NHTM sẽ bán ra, điều này gây rối loạn thị trường và gây khó khăn cho NHNN
trong việc điều hành lượng tiền cung ứng [14].
Trước thực trạng đó và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng
nhu cầu giao dịch ngoại tệ của cả nước, mô hình tổ chức trung tâm không còn
phù hợp đòi hỏi phải có tầm vóc mới với qui mô quốc gia[16], NHNN đã ra QĐ
số 203/QĐ-NH vào ngày 20/9/1994 thành lập Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
và ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH, đánh dấu bước ngoặc
quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển TTNH Việt Nam theo các
chuẩn mực quốc tế. Quyết định gồm những nội dung sau:
Thành viên tham gia trên TTNTLNH: gồm NHNN vừa là thành viên vừa
người tổ chức giám sát và điều hành và các NHTM được phép kinh doanh ngoại
hối và NHNN. Để được cấp phép các NHTM phải có hệ thống nối mạng tốt với
NHNN làm đơn xin gia nhập gửi NHNN. Nếu được chấp nhận, NHTM sẽ được
cấp Giấy chứng nhận thành viên, CODE giao dịch cho từng thành viên. Như vậy,
khác với Trung tâm giao dịch ngoại tệ, TTNTLNH không có sự tham gia của tổ
chức kinh tế. NHNN không trực tiếp mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế,
các tổ chức kinh tế và cá nhân sẽ mua ngoại tệ tại các NHTM
77
Các đồng tiền giao dịch: Hướng chủ đạo gồm 6 ngoại tệ: USD, DEM, GBP,
FRF, JPY, HKD với VND.Trong thời gian đầu trên TTNTLNH chỉ giao dịch
giữa USD và VND.
Số lượng giao dịch: tối thiểu là 50000USD cho mỗi lần giao dịch và phải
chẳn đến hàng chục nghìn.
Các loại nghiệp vụ: Ban đầu chỉ thực hiện nghiệp vụ giao ngay (Spot) và kỳ
hạn (Forward)
Về tỷ giá giao dịch: Tỷ giá giao dịch giữa các thành viên được xác định trên
cơ sở tỷ giá chính thức của NHNN và biên độ dao động do Thống đốc qui định,
sau đó giám đốc Sở giao dịch NHNN sẽ qui định tỷ giá giao dich giữa NHNN
với các thành viên.
Phương thức giao dịch: Bằng các phương tiện truyền thông: điện thoại,
telex, Fax, hay qua mạng vi tính.
Chỉ những người đã đăng ký trong đơn gia nhập TTNTLNH mới được phép
giao dịch trên điện thoại. Việc cam kết trên điện thoại được coi như không đổi,
sau khi đã cam kết trên điện thoại, trước 3g chiều cùng ngày, các bên mua bán
phải xác nhận bằng một trong các cách sau: telex, Fax, hoặc qua mạng vi tính.
Trình tự chào giá: Đầu tiên là chào giá mua vào và bán ra. Tiếp theo là
chào số lượng ngoại tệ mua bán. Sau khi thương lượng hai bên làm thủ tục thanh
toán bằng chuyển khoản thông qua các tài khoản mở tại NHNN hoặc tại NH
nước ngoài.
Thời hạn thanh toán: Thanh toán theo thông lệ quốc tế, đối với giao dịch
giao ngay thực hiện trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo; Đối với giao dịch kỳ
hạn, ngày giá trị được xác định kể từ ngày ký hợp đồng cộng với thời hạn của
hợp đồng và cộng thêm hai ngày làm việc tiếp theo. Nếu thanh toán chậm sẽ bị
phạt: mức phạt bằng 150% lãi suất LIBOR của ngoại tệ thanh toán và 150% lãi
suất tiền vay của NHNN nếu là VND tính trên số ngày chậm trả.
Về tổ chức và điều hành: NHNN vừa là thành viên vừa là người tổ chức,
giám sát và điều hành TTNTLNH. Chủ tịch TTNTLNH là một lãnh đạo của
NHNN(Phó thống đốc). Giám đốc Sở giao dịch NHNN là người điều hành trực
tiếp và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch về:
78
- Tổ chức thực hiện qui chế và nội quy giao dịch trên TTNTLNH.
- Trên cơ sở tỷ giá do NHNN công bố sẽ qui định tỷ giá mua bán của NHNN
và các thành viên.
- Tổng hợp và báo cáo với Thống đốc về tình hình hoạt động của TTNTLNH.
- Tập hợp ý kiến của các thành viên, dự thảo trình Thống đốc những nội dung
cần sửa đổi bổ sung về Qui chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH
Với mục đích là nhằm hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức,
thông qua những giao dịch trên TTNTLNH, NHNN sẽ tham gia với tư cách là
người mua bán cuối cùng để can thiệp thị trường, nhằm thực hiện chính sách
tỷ giá, chính sách tiền tệ theo đúng mục tiêu đề ra.
Sau khi quyết định QĐ số 203/QĐ-NH đi vào thực tiển từ tháng 10 năm
1994, hoạt động của thị trường ngoại hối có khởi sắc hơn.
Trong giai đoạn từ năm 1994 -1998, tỷ giá tương đối ổn định, chênh lệch
giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp.
Bảng 2.9: Tỷ giá VND/USD từ 1994-1998
Đơn vị tính: đồng
1994
1995
1996
1997
1998
10978 11037 11040 11175 12998
Năm Ngân hàng Tỷ giá chính thức (TGCT)
Tỷ giá trên thị trường tự do(TGTTTD) 10984 11050 11052 11180 13020
+6
+13
+12
+5
+10
Chênh lệch (TGTTTD và TGCT)
Nguồn: BCTN NHNN [21]
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động phát sinh những bất cập đồng thời với
những thay đổi về tổ chức và hoạt động của ngân hàng nói chung và sự ra đời của
các văn bản luật như Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín dụng được ban hành
vào tháng 12/1997 nói riêng, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số
101/1999/QĐ-NHNN13, ngày 26/3/1999 về Qui chế tổ chức và hoạt động của
TTNTLNH thay thế cho quyết định số 203/QĐ-NHNN13, ngày 20/9/1994.
QĐ 101/1999/QĐ có những nội dung thay đổi so với QĐ 203 như sau:
Qui định điều kiện và trách nhiệm của thành viên trên TTNTLNH chặc chẽ
hơn, để là thành viên của TTNTLNH thì các tổ chức kinh tế phải có giấy phép
hoạt động ngoại hối. Có quá trình kinh doanh ngoại tệ tốt, không có vi phạm về
79
các qui định quản lý ngoại hối. Có hệ thống máy móc thiết bị đảm bảo nối mạng
thông suốt, an toàn trong giao dịch giữa các thành viên khác và với NHNN. Có
đội ngũ cán bộ được đào tạo và thông thạo nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Ngoài
ra các thành viên phải có nghĩa vụ cung cấp cho NHNN văn bản chính thức phân
công người có trách nhiệm điều hành hoạt động của phòng giao dịch thị trường
của TCTD, qui chế giao dịch hối đoái của TCTD, danh sách các giao dịch viên
và hạn mức giao dịch của mỗi giao dịch viên và mã CODE của phương tiện sẽ
dùng trong giao dịch. Chịu trách nhiệm về khả năng chuyên môn của các giao
dịch viên và chấp hành chế độ báo cáo tình hình giao dịch theo qui định của
NHNN.
Mở rộng loại ngoại tệ giao dịch với qui định tự do giao dịch giữa VND và
các ngoại tệ. Giao dịch giữa ngoại tệ và ngoại tệ phải theo qui định của NHNN
trong từng thời kỳ.
Thời gian giao dịch: tất cả các ngày làm việc trong tuần, như vậy là nhiều
hơn so với giao dịch trên Trung tâm giao dịch ngoại tệ.
Ngoài giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi thêm nghiệp vụ quyền chọn.
Phương thức giao dịch: Hệ thống giao dịch tiền đồng của Telerate, Dealing
2000 của Reuters, Telex, Swift. Sau một thời gian đưa vào hoạt động hệ thống
giao dich tiền đồng của Telexrate đã bị bỏ vì không hiệu quả.
Từ sau quyết định 101/1999, NHNN đã ban hành những văn bản qui định,
và thông tư hướng dẫn thi hành, nhằm quản lý hoạt động ngoại hối và làm cơ sở
pháp lý cho hoạt động trên TTNH.
Bảng 2.10: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Năm
giao dịch giữa ngân hàng
+29
+45
+113
+58
-35.9
+4.23
và ngân hàng so với năm
liền kề
59
65
65
79
98
105
Số lượng thành viên
Chỉ tiêu Tỷ lệ tăng/giảm doanh số
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN và tính toán của tác giả [21]
80
Theo Báo cáo thường niên của NHNN, doanh số giao dịch của TTNTLNH
mỗi năm đều gia tăng như từ năm 2005 là năm bắt đầu cho thực hiện chính thức
giao dịch quyền chọn tăng 29% so với năm 2004, đặc biệt là vào năm 2007,
doanh số giao dịch giữa các ngân hàng tăng 113% so với năm 2006, do thời điểm
này nguồn cung ngoại tệ dồi dào từ luồng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào thị
trường chứng khoán rất lớn. Tuy nhiên tỷ lệ tăng của doanh số giao dịch giữa
các ngân hàng bị ảnh hưởng khá lớn của luồng ngoại tệ chảy vào, cụ thể năm
2008, trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ có nhiều diễn biến phức tạp, hoạt động
trên TTNTLNH tiếp tục tăng nhưng với tốc độ thấp hơn nhiều chỉ tăng khoảng
25% so với năm 2007, do vào năm 2008 hoạt động trên thị trường chứng khoán
có sự sụt giảm lớn so với thời kỳ phát triển mạnh mẽ của năm 2006 và 2007 đã
tác động đến doanh số hoạt động trên thị trường ngoại tệ.
Số lượng các thành viên tham gia TTNTLNH có tăng hàng năm theo sự gia
tăng về số lượng các NHTM cũng như do nhu cầu thanh toán quốc tế phát triển.
Đánh giá về hoạt động của TTNHLNH từ khi ra đời đến nay, có những
điểm đáng lưu ý sau:
- Vai trò chi phối của NHNN thể hiện qua doanh số giao dịch có liên quan
đến NHNN chiếm tỷ lệ 29%, 65%, 68%, và 60% trong 4 năm từ 1999 đến 2002
với năm 2004 là 86%, điều này cho thấy rằng các NHTM chỉ tham gia TTLNH
khi nào muốn cân bằng hoặc tái thiết lập trạng thái ngoại hối của họ [50].
- Nghiệp vụ sử dụng trên TTNTLNH phần lớn là nghiệp vụ giao ngay,
nghiệp vụ hoán đổi và kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ và thường NHTM bán kỳ
hạn cho doanh nghiệp vì vậy trạng thái ngoại tệ của NHTM luôn ở trạng thái
đoản.
- Số lượng thành viên tham gia trên thị trường còn khiêm tốn so với tổng số
lượng các tổ chức tài chính trong và ngoài nước hiện tại.
81
2.3.2.2. Thực trạng thị trường ngoại tệ khách hàng của Việt Nam
Thị trường ngoại tệ chính thức của Việt Nam chia làm hai lĩnh vực: Thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng như được trình bày phần trên và thị trường ngoại
tệ giữa ngân hàng và khách hàng, hay còn gọi là thị trường ngoại tệ khách hàng
là thị trường bán lẻ chiếm phần lớn doanh số giao dịch trên TTNH Việt Nam.
Trên thị trường này, các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ sẽ tiến hành
mua bán ngoại tệ cho khách hàng là doanh nghiệp hay cá nhân có nhu cầu sử
dụng ngoại tệ hợp pháp. Ngân hàng được phép sẽ giao dịch trên cơ sở tỷ giá
BQLNH do NHNN công bố và với biên độ được qui định trong từng thời kỳ.
Các ngân hàng được phép sẽ có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ chứng minh
nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp và hợp lý của khách hàng theo đúng qui định về
quản lý ngoại hối do NHNN ban hành.
Bảng 2.11: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ khách hàng
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Đơn vị tính:%
Năm Chỉ tiêu Tỷ lệ tăng/giảm doanh số
giao dịch giữa ngân hàng
+8
+26
+45
+29.41
-27.27
+5.45
và khách hàng so với năm
liền kề
Nguồn: Tổng hợp từ BCTN của NHNN và tính toán của tác giả[21]
Bên cạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng còn có hoạt động thu
mua ngoại tệ được thực hiện bởi các bàn đổi ngoại tệ do ngân hàng trực tiếp
quản lý và các đại lý đổi ngoại tệ được phép hoạt động theo quyết định số
1216/2003/QĐ-NHNN ngày 9/10/2003, kênh giao dịch này đã tạo điều kiện
thuận tiện cho những người có nhu cầu bán ngoại tệ, góp phần thu hút nguồn
ngoại tệ trên thị trường, làm gia tăng doanh số thu mua ngoại tệ của ngân hàng.
Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động nhiều quầy đại lý thu đổi đã vi phạm qui
định, thực hiện cả hoạt động mua bán ngoại tệ với tỷ giá vượt biên độ gây rối
loạn thị trường. Vì thế, ngày 11/7/2008, Thống đốc NHNN đã ký quyết định số
82
21/2008/QĐ-NHNN về việc ban hành qui chế đại lý đổi ngoại tệ thay thế cho QĐ
số 1216/2003/QĐ-NHNN, theo đó trong thời gian 3 tháng kể từ ngày quyết định
có hiệu lực, các TCTD sẽ phải ký kết lại hoặc thanh lý hợp đồng đại lý đối với
các đại lý không đáp ứng yêu cầu về điạ điểm, điều kiện làm đại lý, các điều
khoản trong hợp đồng đại lý, quyết định này được đánh giá là một bước chấn
chỉnh mạnh mẽ của NHNN đối với hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ của
NHTM với khách hàng.
TTNH Việt Nam có đặc điểm khác với TTNH thế giới, về tỷ trọng giao dịch
giữa hai thị trường TTNTLNH và thị trường ngoại tệ khách hàng thông qua bảng
số liệu dưới đây:
Bảng 2.12: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ
Đơn vị tính:%
Thị trường ngoại tệ Năm Doanh số mua bán TTNTLNH khách hàng
100 12.7 87.3 1995
100 25.1 74.9 1996
100 36.7 63.3 1997
100 10.6 89.4 1998
100 21.1 78.9 1999
100 22.4 77.6 2000
100 19.7 80.3 2001
100 4.7 95.3 2002
100 6.0 94.0 2003
100 5.4 94.6 2004
100 5.8 94.2 2005
100 13.0 87.0 Tổng
Nguồn:Nguyễn Văn Tiến (2010) [15]
83
Qua bảng trên ta thấy tỷ trọng giao dịch trên TTNTLNH quá thấp so với thị
trường ngoại tệ khách hàng mặc dù doanh số của cả hai thị trường đều tăng
nhưng tỷ trọng của TTNTLNH chỉ đạt trung bình 13% trên tổng doanh số giao
dịch của TTNH Việt Nam. Số liệu trên thể hiện trình độ sơ khai của TTNH Việt
Nam và khi nói đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ là người ta nghĩ đến đó là thị
trường kinh doanh ngoại tệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Sau khi gia nhập WTO, doanh số giao dịch trên TTNH có nhiều thay đổi,
do tác động trực tiếp của quá trình hội nhập đến nguồn cung cầu ngoại tệ, đồng
thời tác động của việc điều hành chính sách tỷ giá có sự linh động hơn trước,
thực thi cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa có chọn lọc tài khoản
vốn làm gia tăng luồng vốn và những giao dịch liên quan đến ngoại tệ.
Bảng 2.13: Tỷ trọng doanh số giao dịch trên
hai thị trường từ năm 2006-2010
Đơn vị tính:%
Doanh số mua bán TTNTLNH TTNT khách hàng Năm
2006 100 35.4 64.6
2007 29 71 100
2008 35.5 64.5 100
2009 48,58 51.42 100
2010 49 51 100
Nguồn: Tổng hợp các báo cáo của NHNN và tính toán của tác giả[21]
Từ năm 2006 đến nay tỷ trọng doanh số giao dịch trên TTNTLNH có gia
tăng rõ rệt chiếm trung bình khoản 40%, nhất là vào hai năm 2009 và 2010 tỷ
trọng đạt gần 50% do có sự tham gia của NHNN đã góp phần làm gia tăng tỷ
trọng này. Tuy nhiên, tỷ trọng này vẫn còn thấp so với đặc điểm của TTNH trên
thế giới là doanh số giao dịch trên TTNTLNH chiếm hơn 85% và là thị trường
đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành tỷ giá phù hợp với cung cầu ngoại tệ
trên thị trường.[47] Với một tỷ trọng thấp như vậy cho thấy giao dịch trên
84
TTLNH không phải là nơi đã thực hiện đúng sự tương tác giữa các lực lượng thị
trường để từ đó hình thành nên tỷ giá của thị trường[50]
Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ lý do lượng ngoại tệ để đáp
ứng nhu cầu giao dịch của các chủ thể còn khiêm tốn, vai trò của NHNN còn mờ
nhạt và số lượng thành viên tham gia còn hạn chế.
2.3.2.3. Thực trạng sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh tại các NHTM
Việt Nam
Hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng ngoài giao dịch giao
ngay còn sử dụng giao dịch ngoài hối phái sinh như kỳ hạn, hoán đổi và quyền
chọn.
Đối với giao dịch kỳ hạn: Khi khách hàng có nhu cầu mua bán kỳ hạn hoán
đổi, giao dịch viên sẽ căn cứ vào tỷ giá giao ngay, lãi suất (VND theo lãi suất cơ
bản do NHNN công bố, USD theo lãi suất FED công bố) để tính toán giá chào
mua, chào bán cho khách hàng, tỷ giá được tính không được vượt quá tỷ giá trần
qui định. Sau đó các khách hàng sẽ thực hiện ký quỹ, có thể bằng VND hay bằng
ngoại tệ, mức ký quỹ tùy theo từng thời kỳ phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh
của từng ngân hàng, phổ biến ở mức 3% đối với VND/USD và 7-10% đối với
VND và ngoại tệ khác.
Đối với giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Forex swap) chủ yếu chỉ thực hiện
giữa các ngân hàng và giữa NHTM với NHNN nhằm giải quyết vần đề về thiếu
vốn tạm thời. Tuy nhiên, việc xác định tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch kỳ hạn và
giao dịch hoán đổi là như nhau, nghĩa là không có sự phân biệt giữa một giao
dịch kỳ hạn riêng lẽ mà trong thuật ngữ kinh doanh ngoại hối gọi là Forward
Ouright với giao dịch kỳ hạn hoán đổi Forward swap. Theo lý thuyết, trong giao
dịch hoán đổi ngoại hối Forex swap là kết hợp 2 giao dịch đồng thời mua và bán
một lượng ngoại tệ, và phổ biến là loại swap kết hợp 2 giao dịch giao ngay và
giao dịch kỳ hạn. Trong vế kỳ hạn khi xác định tỷ giá kỳ hạn sẽ lấy tỷ giá giao
ngay đã thực hiện trong vế giao ngay để tính tỷ giá kỳ hạn vì thế giao dịch này
khi thực hiện sẽ có lợi hơn là thực hiện 2 giao dịch giao ngay và kỳ hạn riêng lẻ.
85
Đối với các loại giao dịch hoán đổi lãi suất(Interest rate swap/currency
swap) đa số được thực hiện bởi các ngân hàng nước ngoài, còn các ngân hàng
Việt Nam chỉ có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân
hàng Ngoại thương (VCB). Trong đó có BIDV là ngân hàng quốc doanh tiên
phong đưa ra các sản phẩm hoán đổi lãi suất, bao gồm: hoán đổi tiền tệ
chéo(cross currency swap) - phòng ngừa rủi ro tỷ giá lẫn lãi suất; Trên TTLNH,
BIDV cũng là ngân hàng Việt Nam đầu tiên thực hiện giao dịch hoán đổi tiền tệ
chéo liên ngân hàng trong giao dịch với Ngân hàng Standard Chartered Bank tại
Luân Đôn. [19]
Đối với giao dịch quyền chọn: Khi khách hàng có nhu cầu giao dịch, giao
dịch viên sẽ thu thập các dữ liệu về số lượng ngoại tệ, loại tiền, ngày ký hợp
đồng, tỷ giá thực hiện, loại quyền chọn, kiểu quyền chọn, thời hạn hiệu lực. Căn
cứ trên các yếu tố đó, giao dịch viên sẽ liên lạc với các ngân hàng nước ngoài để
tham khảo mức phí. Nếu đồng ý về mức phí này, khách hàng sẽ tiến hành ký hợp
đồng quyền chọn với ngân hàng. Trong thời gian hiệu lực, nếu khách hàng muốn
thực hiện hợp đồng thì gửi giấy đề nghị thực hiện hợp đồng cho ngân hàng,
khách hàng phải chuyển tiền cho ngân hàng hoặc cho phép ngân hàng ghi nợ vào
tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp, sau đó ngân hàng sẽ ghi có số tiền đối ứng
vào tài khoản của doanh nghiệp. Đồng thời ngân hàng sẽ gửi yêu cầu thực hiện
hợp đồng cho đối tác là ngân hàng nước ngoài. Như vậy vai trò của NHTM giống
như trung gian cho khách hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, thực hiện
thu phí khách hàng và trả phí cho ngân hàng nước ngoài.
NHNN ngày 12/2/2003 lần đầu tiên cho phép Eximbank được thực hiện thí
điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ. Tuy nhiên, sau 6 tháng thí
điểm chỉ được khoảng hơn 10 doanh nghiệp tham gia với 50 hợp đồng thực hiện
quyền chọn, tổng giá trị hơn 5 triệu USD. Sau đó, NHNN cũng lần lượt cho phép
6 ngân hàng khác là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Citibank,
Vietcombank, Ngân hàng Công thương Việt Nam (ICB) và Ngân hàng
86
Từ năm 2004 sau quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN, mặc dù không còn
giới hạn về số lượng NHTM tham gia giao dịch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ
nhưng thực tế cho thấy các hoạt động mua bán này chưa thật sự sôi động chỉ có
chi nhánh ngân hàng nước ngoài như HSBC, Citibank và một số ít NHTM Việt
Nam như Eximbank, Techcombank, ACB… còn lại hầu như không có phát sinh
giao dịch nào.
Tháng 4/2005 NHNN đã bắt đầu cho triển khai thực hiện thí điểm giao dịch
quyền chọn giữa ngoại tệ với VND. ACB là ngân hàng đầu tiên được thí điểm
nghiệp vụ này, với mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối thiểu
là 10.000 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn
giao dịch giữa các ngoại tệ khác và VND). ACB chia nhỏ giá trị hợp đồng nhằm
tạo điều kiện cho khách hàng dễ sử dụng. Tiếp theo ACB là ngân hàng
Techcombank, hợp đồng chỉ được thực hiện với quyền chọn Châu Âu và BIDV
được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 tính đến tháng 5/2008, đã có 7 ngân hàng
được phép thực hiện giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VND.
Cũng giống với giao dịch giữa quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, quyền
chọn ngoại tệ với VND yêu cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này phải
có đề án chi tiết quy trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro, và được
NHNN chấp nhận bằng văn bản. Quy định về tỉ giá thực hiện như sau:
- Đối với hợp đồng quyền chọn VND/USD: tỷ giá này không vượt quá tỷ giá
kỳ hạn VND/USD cùng thời hạn.
-Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VND: tỷ giá do
ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận.
87
Hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo quyền chọn kiểu Mỹ vì điều
kiện thanh toán linh hoạt hơn. Các ngân hàng như ACB, Techcombank, BIDV,
VIB dù là những ngân hàng tham gia các nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ chỉ
mới thực hiện được một số hợp đồng với doanh số không đáng kể. Từ 2007 đến
thời điểm hiện nay, số lượng giao dịch quyền chọn ngoại tệ và ngoại tệ của các
ngân hàng có tăng lên tuy nhiên tỷ trọng vẫn còn rất nhỏ.
Trên các website của các ngân hàng có hoạt động kinh doanh ngoại hối đều
quảng cáo có cung cấp tất cả giao dịch ngoại hối phái sinh được cho phép tại Việt
Nam bao gồm: Giao dịch quyền chọn ngoại tệ-ngoại tệ (Forex option), giao dịch
hoán đổi lãi suất (Interest rate swap), giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Forex swap),
giao dịch kỳ hạn ngoại tệ (forex forward).
Tuy nhiên, giao dịch chiếm tỷ lệ cao nhất đó là giao dich giao ngay (khoảng
trên 90%) còn những giao dịch phái sinh chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn, ngoại trừ giao
dịch kỳ hạn, các giao dịch phái sinh khác thậm chí không có doanh số phát sinh.
Theo điều tra của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam(BIDV)[9],
những ngân hàng thực hiện các giao dịch phái sinh trên thị trường trong thời
gian vừa qua gồm có:
Giao dịch hoán đổi tiền tệ (Currency swap) có các ngân hàng Citibank,
Standard Chartered Bank, BIDV.
Giao dịch hoán đổi lãi suất (Interest rate swap) (kèm một số chi tiết điều
chỉnh) có các ngân hàng Vietcombank, HSBC, Calyon, Citibank, ABN AMRO.
Giao dịch Quyền chọn ngoại tệ ((Forex option) có các ngân hàng NHTMCP
Quốc tế, Vietcombank, ACB, BIDV, Techcombank, NHTMCP Quân đội,
Eximbank.
Giao dịch kỳ hạn ngoại tệ (Forex forward) hầu hết các ngân hàng có hoạt
động ngoại tệ đều thực hiện.
Thực trạng sử dụng các giao dịch phái sinh của các NHTM Việt Nam trong
thời gian qua được thể hiện qua bảng 2.14 :
88
Bảng 2.14: Tỷ lệ mua, bán giao dịch kỳ hạn và hoán đổi trong tổng giao
dịch thị trường ngoại hối Việt Nam
Đơn vị tính: %
Tỷ lệ mua bán kỳ hạn Tỷ lệ mua bán kỳ hạn, hoán đổi Năm & hoán đổi Mua Bán
2000 5.5 24 76
2001 5.6 19 81
2002 5.6 14 86
2003 4.9 17 83
2004 5.2 16 84
2005 5.5 25 75
2006 5.6 23 77
2007 7.1 26 74
2008 7.4 30 70
2009 8.2 34 66
2010 7.5 38 62
5.8 31 69 Trung bình
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của NHNN và tính toán của tác giả [21]
Qua thực trạng sử dụng giao dich ngoại hối phái sinh những năm vừa qua
có thể rút ra những nhận định sau:
Thứ nhất, doanh số giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi chỉ chiếm
khoảng gần 8% trên tổng doanh số giao dịch của các NHTM và trong doanh số
giao dịch kỳ hạn và hoán đổi có sự bất cân xứng giữa doanh số mua và bán,
doanh số bán kỳ hạn của ngân hàng chiếm tỷ lệ gần 70% so với doanh số mua
vào kỳ hạn, như vậy trong giao dịch kỳ hạn NHTM thường ở trạng thái đoản về
ngoại tệ.
Số liệu bất cân xứng về mua và bán ngoại tệ kỳ hạn cho thấy người mua
ngoại tệ nhiều hơn người bán ngoại tệ và điều này có phản ánh nhu cầu bảo hiểm
89
rủi ro ngoại tệ tăng giá hay không thì cũng chưa thể khẳng định được vì có thể
người ký hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn cần mua ngoại tệ và không thể mua
ngoại tệ dễ dàng trên thị trường giao ngay. Ít người bán ngoại tệ không hẳn là
không có ngoại tệ bán cho ngân hàng mà do họ thấy tỷ giá thường xuyên tăng
nên không cần phải bán kỳ hạn và bán cho ngân hàng khi cần sẽ khó khăn để
mua lại. Bên cạnh đó còn có nguyên nhân là do các NHTM không tích cực tạo
giá giao dịch kỳ hạn cho cả khách hàng và TTLNH, họ chỉ tạo giá khi có yêu
cầu[49].
Thứ hai là, trong giao dịch kỳ hạn yêu cầu khách hàng ký quỹ và cách tính
tỷ giá kỳ hạn như quyết định 648/2004/QĐ-NHNN sử dụng lãi suất cơ bản do
NHNN công bố đối với VND và lãi suất USD của FED là chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế (Lãi suất của hai đồng tiền là lãi suất tiền gửi và tiền vay trên thị
trường tại thời điểm ký kết hợp đồng). Với cách tính này đã làm cho tỷ giá kỳ
hạn cao hơn so với tỷ giá giao ngay vào ngày đáo hạn của hợp đồng kỳ hạn, như
vậy tỷ giá kỳ hạn không phản ánh đúng sự kỳ vọng về tỷ giá giao ngay của thị
trường trong tương lai.
Cách tính tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch hoán đổi cũng không thực hiện đúng
với đặc điểm của loại giao dịch này và vì thế đã không khai thác được những ưu
thế của giao dịch và không hấp dẫn khách hàng sử dụng giao dịch hoán đổi.
Thứ ba là, giao dịch quyền chọn hiện nay ít được khách hàng sử dụng do
những nguyên nhân sau: (1) Quyền chọn giữa ngoại tệ với VND đã không được
phép thực hiện theo văn bản số 1820/NHNN-QLNH ngày 18/3/2009 NHNN và
chỉ còn loại quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ; (2) Do cách tính phí quyền chọn,
hiện tại do giao dịch quyền chọn trên TTNH Việt Nam quá ít giao dịch vì vậy đa
số các ngân hàng sau khi bán quyền chọn cho khách hàng sẽ thực hiện mua lại
quyền chọn trên TTNH quốc tế, khi phí tính cho khách hàng Việt Nam sẽ gồm
hai phần: phần phí quyền chọn của ngân hàng nước ngoài và phần phí dịch vụ
của NHTM Việt Nam, bên cạnh đó NHTM Việt Nam lại tính luôn phần thuế VAT
vào nữa, nếu không thì NHTM sẽ chiụ lỗ phần phí này, do đó phí quyền chọn sẽ
90
cao. Đây là điều làm nản lòng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam khi
muốn sử dụng giao dịch quyền chọn; (3) Do sợ trách nhiệm của các doanh
nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước vì khi bảo hiểm bằng quyền chọn phải trả
phí nhưng nếu đến thời điểm thực hiện người mua quyền chọn bỏ không thực
hiện hợp đồng do tỷ giá trên thị trường biến động thuận lợi hơn tỷ giá thực hiện,
và như vậy doanh nghiệp mất đi khoản phí sẽ bị đánh giá là sử dụng phương án
bảo hiểm không hiệu quả.
Qua đó có thể thấy rằng tình hình sử dụng các công cụ phái sinh để bảo
hiểm rủi ro tỷ giá và lãi suất đang có nguy cơ thu hẹp và thị trường phái sinh
ngoại tệ của Việt Nam vừa mới được hình thành đã trở nên èo uột không phát
triển.
Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của thị trường Việt Nam còn có
những qui định và những nét đặc thù riêng tạo nên một bức tranh không được
sáng sủa cho sự chuẩn bị một thị trường tài chính của nền kinh tế toàn cầu hóa.
2.3.2.4. Thực trạng yết giá kinh doanh và mua bán ngoại tệ
Theo kỹ thuật kinh doanh ngoại hối, để có thể đảm bảo trạng thái ngoại hối
theo qui định các NHTM sẽ sử dụng các kỹ thuật yết giá để thực hiện trạng thái
ngoại tệ mục tiêu mình mong muốn. Nếu muốn mua nhiều hơn bán, các ngân
hàng sẽ yết tỷ giá mua vào cao hơn giá trên thị trường và khi muốn bán nhiều
hơn mua các NHTM sẽ yết giá bán thấp hơn giá trên thị trường, và nguyên tắc
kinh doanh là yết tỷ giá mua nhỏ hơn tỷ giá bán để có lời, thông qua tỷ giá được
yết có thể xác định được chiến lược kinh doanh của các ngân hàng.
Tuy nhiên, trên TTNH Việt Nam bảng yết giá của các NHTM không hoàn
toàn có ý nghĩa như vậy, thậm chí có những lúc các NHTM yết tỷ giá mua bằng
tỷ giá bán (VND/USD) và tùy từng thời điểm điều này có mục đích khác nhau:
Khi tỷ giá mua bằng tỷ giá bán và bằng tỷ giá sàn:
S b = Sa = TGLNH - % (biên độ qui định) là NHTM chỉ muốn bán chứ
không muốn mua và ngược lại
91
Tỷ giá ngày 7-09-2004 của VCB HCM. TGLNH:15,715VND/USD. Biên độ:+/-0.25%.
Ngọai tệ Giá mua Giá bán Tiền mặt Chuyển khoản
USD 15747 15754 15754
Khi tỷ giá bán bằng tỷ giá mua bằng tỷ giá trần: Sa = Sb = TGLNH + % (biên độ qui định) là các NHTM chỉ muốn mua
chứ không muốn bán và tình trạng này phổ biến hơn.
Tỷ giá ngày 13-02-2008 của VCB HCM. TGLNH 16,079VND/USD. Biên độ: +/- 0.75%
Ngọai tệ Giá mua Giá bán Tiền mặt Chuyển khoản
USD 15858 15958 15958
Trường hợp yết gía mua = giá bán và bằng giá trần là phổ biến trong thời
gian qua của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên vào năm 2008, tình hình lại diễn
biến theo một chiều hướng khác: giá mua = giá bán = giá sàn đây là trường hợp
hiếm có chỉ xảy ra vào giai đoạn đầu của năm 2008 vì đó cũng là giai đoạn
nguồn cung USD tăng vọt do lượng tiền kiều hối về nhiều và thị trường chứng
khoán của Việt Nam thu hút mạnh luồng vốn gián tiếp.
Hiện tượng yết giá như trên là do bị khống chế bởi qui định tỷ giá
VND/USD phải được mua bán theo qui định của NHNN căn cứ vào TGLNH và
biên độ qui định, TGLNH thường có khoảng cách xa so với tỷ giá thị trường nên
cho dù sử dụng hết biên độ vẫn không tương ứng với giá thị trường.
Tuy nhiên, tỷ giá thì yết như vậy nhưng trong thực tế các NHTM Việt Nam
hầu như không thực hiện mua bán theo tỷ giá niêm yết mà có nhiều biện pháp để
lách qui định trần tỷ giá, như sau:
Mua bán thông qua ngoại tệ thứ 3, vì NHNN chỉ qui định trần tỷ giá của
VND/USD còn các ngoại tệ khác là tự do thỏa thuận. Đây là hình thức mua bán
92
USD với đúng tỷ giá trần nhưng sau đó khách hàng sẽ phải trả thêm phần chênh
lệch thông qua tỷ giá của ngoại tệ thứ 3.
Sử dụng giao dịch kỳ hạn. Hình thức này lợi dụng sự chênh lệch của tỷ giá
kỳ hạn và tỷ giá giao ngay để bù đắp phần chênh lệch so với tỷ giá trần.
Thu phí: Khi NHNN phát hiện và ra quyết định cấm những cách mua bán
vượt trần tỷ giá như trên, các NHTM thêm một lần lách qui định trần bằng hình
thức mới đó là tính đủ các loại phí để hạch toán phần chênh lệch. Hình thức này
tồn tại cho đến ngày 1/7/2009 mới bị ngăn chặn bởi Công văn 4941/NHNN-
QLNH trong đó ghi rõ các tổ chức tín dụng không được phép thu phí thông qua
các hợp đồng dịch vụ và các hình thức khác như chi trả hoa hồng, phí quản lý
tiền mặt… để bán vượt trần.
Mua ngoại tệ trên thị trường tự do: Có ngân hàng lách trần tỷ giá bằng cách
dựa vào qui định cá nhân khi bán ngoại tệ cho ngân hàng không cần phải khai
báo nguồn gốc, đã môi giới cho doanh nghiệp cần mua ngoại tệ với người muốn
bán ngoại tệ, doanh nghiệp sẽ mua ngoại tệ theo tỷ giá trên thị trường tự do sau
đó, lấy danh nghĩa cá nhân bán lại cho ngân hàng theo tỷ giá mua được niêm yết
sau đó ngân hàng sẽ bán lại cho nhà nhập khẩu theo đúng tỷ giá bán niêm yết để
hợp thức hóa khoản ngoại tệ thanh toán cho đối tác. Như vậy thể hiện trên chứng
từ nhà nhập khẩu mua ngoại tệ và ngân hàng bán ngoại tệ theo đúng giá qui định
nhưng thực tế các doanh nghiệp phải trả bằng giá trên thị trường tự do. ( Trong
cuộc chất vấn tại Quốc hội có doanh nghiệp nói họ phải mua USD theo tỷ giá
chênh lệch đến 400- 500đ mỗi USD, số chênh lệch này được thanh toán ngầm
qua tài khoản cá nhân hoặc bằng tiền mặt không có chứng từ hợp lệ)
Hiện tượng yết tỷ giá một đằng mà thực hiện một nẻo đã kéo dài từ rất lâu,
cho thấy vấn đề thực thi theo pháp lệnh chưa được tuân thủ chặc chẽ, đồng thời
cơ chế tỷ giá chưa phù hợp với thị trường, gây khó khăn cho NHTM trong việc
cạnh tranh với thị trường tự do để mua được ngoại tệ.
Bên cạnh đó, khi thực hiện mua hay bán ngoại tệ, các ngân hàng xác lập
một trạng thái mở ngoại tệ là trạng thái phát sinh khi mua hoặc bán ngoại tệ
nhưng chưa có giao dịch đối ứng để cân bằng. Để quản trị rủi ro trong kinh
doanh ngoại tệ, các ngân hàng xây dựng một hạn mức trạng thái ngoại tệ phù hợp
với qui định của NHNN và với chiến lược kinh doanh của từng ngân hàng.
93
Tuy nhiên, trong thời gian qua, trên TTNH của Việt Nam các NHTM thường
đóng vai trò người bán nhiều hơn là người mua ngoại tệ, vì thế dễ dàng hình
dung trạng thái ngoại hối của các NHTM Việt Nam thường ở trạng thái dư thiếu
về ngoại tệ. Do đó, để đảm bảo hạn mức trạng thái ngoại hối theo qui định của
NHNN là 30% so với vốn tự có ( tháng 6/2011, NHNN đưa dự thảo Thông tư
quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân
hàng nước ngoài giảm còn 20% vốn tự có) các ngân hàng sẽ tìm đến TTNTLNH
để thực hiện các giao dịch đối ứng nhưng với bức tranh toàn cảnh của TTNH Việt
Nam lệnh mua nhiều hơn bán, sẽ khó khăn để thỏa mãn được nhu cầu của các
ngân hàng. Để can thiệp thị trường ngoại tệ, cần đến vai trò người mua bán cuối
cùng của NHNN, nhưng việc bán ra ngoại tệ hay không và bán ra bao nhiêu còn
tùy thuộc vào các chính sách tiền tệ và tỷ giá trong từng thời kỳ.
Tóm lại, hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ khách hàng
của Việt Nam được các NHTM sẳn sàng tham gia nhưng cơ chế quản lý và chính
sách tỷ giá chưa tương thích với cơ chế thị trường đã hạn chế sự phát triển của thị
trường ngoại tệ.
2.3.3. Thị trường ngoại tệ không chính thức
2.3.3.1 Những hình thức biểu hiện
Ngoài hoạt động của thị trường ngoại tệ chính thức, Việt Nam còn có hoạt
động của thị trường ngoại tệ không chính thức hay còn gọi là thị trường ngoại tệ
tự do.
Mặc dù, theo Pháp lệnh ngoại hối, trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch,
thanh toán, niêm yết, quảng cáo không được thực hiện bằng ngoại tệ, trừ các giao
dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm
thu hộ, ủy thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính
phủ cho phép.
Tuy nhiên hoạt động mua bán ngoại tệ ngoài thị trường chính thức vẫn diễn ra
khắp cả nước, đó là hoạt động buôn lậu chuyển tiền qua biên giới, hoạt động mua
94
Các cửa hàng kinh doanh vàng bạc đá quí, tại những tiệm vàng dù lớn hay
nhỏ đều có kèm với hoạt động kinh doanh ngoại tệ, những tiệm vàng nhỏ thì làm
chân rết cho các tiệm vàng lớn, những trùm kinh doanh ngoại tệ, có những địa
điểm nổi tiếng có thể kể đến là “chợ đôla” phố Hà Trung, Phố Trần Nhân
Tông(Hà Nội).Tại TP HCM có các tiệm vàng chợ Bến Thành, chợ Bình Tây, chợ
Bàn Cờ… là những chợ đầu mối về ngoại tệ, vào mỗi buổi sáng các tiệm vàng
nhỏ sẽ điện thoại hỏi giá cả ngoại tệ của những đầu nậu kinh doanh ngoại tệ để
yết giá mua bán ngoại tệ cho khách hàng, giá cả sẽ biến động nhiều nhất là
khoảng 9g,10 g sáng cũng trùng với giờ hoạt động mạnh nhất của thị trường
ngoại hối thế giới đó là khoảng thời gian thị trường ngoại hối cuả 3 Châu lục Mỹ,
Âu, Á đồng loạt mở cửa.
Các bàn đại lý thu đổi ngoại tệ, vào năm 2010 TPHCM có 78 bàn, đại lý
thu đổi ngoại tệ, tại Hà Nội con số này ít hơn, nhưng cũng không dưới 60-70 bàn
trực thuộc các ngân hàng. Tính bình quân mỗi ngân hàng có 10 đại lý, thì cả
nước đang có ít nhất 420 đại lý thu đổi ngoại tệ (42 ngân hàng nội. Các ngân
hàng ngoại không có đại lý dạng này). Mỗi đại lý được các ngân hàng khoán mức
thu đổi ngoại tệ khác nhau tùy theo từng đơn vị, tùy vị trí và quy mô. Mức khoán
cao nhất, khoảng 100.000-150.000 USD/tháng hoặc xấp xỉ 300.000- 500.000
USD/quí. Thông thường thì 50.000-60.000 USD/tháng [67]. Mức khoán có nghĩa
là hàng tháng mỗi đại lý phải bán cho ngân hàng của họ số ngoại tệ nói trên theo
tỷ giá tiền mặt niêm yết của ngân hàng. Nếu vượt quá mức khoán này họ sẽ bán
ra bên ngoài với tỷ giá cao hơn, các ngân hàng không có khả năng quản lý được
doanh số mua bán thực tế của các bàn đại lý.
Theo qui định là đại lý thu đổi ngoại tệ hộ cho các ngân hàng, tuy nhiên hầu
như các đại lý đều thực hiện cung ứng ngoại tệ cho khách hàng là cá nhân và cả
các doanh nghiệp nhập khẩu không mua được ngoại tệ tại ngân hàng với số
95
lượng lên đến con số hàng trăm ngàn USD mà họ thu gom được trên thị trường
với những phương thức rất nhanh gọn chỉ cần thỏa thuận xong giá cả, mà không
cần có chứng từ nào cả. Họ có thể lấy hàng từ khắp các tỉnh thành với giá cả
được chốt ngày hôm nay và giao hàng ngày hôm sau, điều này cho thấy giao dịch
của họ rất mạnh với chân rết rộng khắp nước. Các đại lý còn mua bán các ngoại
tệ mạnh khác ngoài USD với giá giao dịch do họ tự quyết định trên cơ sở sự biến
động của tỷ giá USD với các ngoại tệ theo sát tỷ giá trên thị trường ngoại hối thế
giới. [67]
Giá USD chợ đen, đều bắt nguồn từ các đại lý lớn mà thực chất là những
tay buôn bán lớn trên thị trường. Giá này được chính các đại lý này xác lập và áp
dụng, chỉ chậm hơn giá hàng ngày của các ngân hàng khoảng 30 phút và có thể
biến động hàng ngày. Việc trao đổi, lưu thông, thậm chí vận chuyển USD số
lượng lớn được thực hiện một cách dễ dàng dưới danh nghĩa các đại lý hợp pháp,
mà các cơ quan chức năng - với hạn chế về lực lượng và nghiệp vụ điều tra - khó
lòng phát hiện và xử lý.
Như vậy, hệ thống các đại lý đã hoạt động không còn đúng với thực chất
thu đổi hộ ngoại tệ cho ngân hàng nữa mà đã biến tướng thành thị trường chợ đen
và có khả năng tạo giá cũng như thu hút lượng ngoại tệ nhưng không vào ngân
hàng mà có thể là trung gian cho những giao dịch bên ngoài ngân hàng. Đã đến
lúc nên xem xét lại hiệu quả của hệ thống đại lý thu đổi ngoại tệ, có thực sự cần
thiết khi hệ thống giao dịch ngân hàng ngày càng dày đặc và phủ khắp nơi. Bên
cạnh đó với sự kết nối hệ thống thanh toán quốc tế rất hiện đại có nhiều hình thức
thanh toán, như thẻ quốc tế... cũng khiến cho khách du lịch không còn lệ thuộc
nhiều vào các đại lý thu đổi.
Chợ buôn tiền tại các cửa khẩu của Việt Nam: Chợ Đông Kinh ở Lạng Sơn
là một trong số các chợ có lượng buôn bán ngoại tệ lớn và ngày càng phát triển
do hoạt động giao thương buôn bán tại biên giới với hàng nhập tiểu ngạch từ
Trung Quốc rất sôi động, doanh số lên đến hàng trăm triệu nhân dân tệ, nhưng
hoạt động đổi tiền buôn bán ngoại tệ là hoàn toàn do tư nhân thực hiện , ngân
96
hàng và các cơ quan nhà nước đều không nắm được doanh số thực tại các địa bàn
này, đồng thời tại những cửa khẩu cũng là nơi cung cấp ngoại tệ cho hoạt động
buôn lậu, gây chảy máu nguồn ngoại tệ còn khan hiếm của nước ta.[64]
Biên giới phía nam với Campuchia có cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh) chợ
ngoại tệ tại đây cũng hoạt động rất mạnh mẽ và linh động trong phương thức
thanh toán, chủ yếu là lòng tin và hệ thống những người buôn bán lẻ cung cấp tận
tay ngoại tệ phục vụ kịp thời cho những người muốn đổi ngoại tệ sang biên giới
sử dụng, hoạt động này cũng công khai mà không bị cơ quan chức năng nào hỏi
thăm hay quản lý để nắm được doanh số thực tế.
Biên giới với Lào có cửa khẩu Lao Bảo( Quảng Trị), hiệu quả của khu kinh
tế cửa khẩu Lao Bảo mở ra đã làm cho thị trấn này ngày càng tấp nập lượng
người quá cảnh hai chiều và nhu cầu đổi tiền để sang biên giới sử dụng cũng gia
tăng và ở đâu có cầu thì ắt có cung, nắm bắt nhu cầu này những người buôn tiền
đã hiện diện tại cửa khẩu để kinh doanh và cũng không hề thấy tại đây bóng dáng
hoạt động của ngân hàng nào [64].
Các hoạt động mua bán có thanh toán bằng ngoại tệ trong dân cư, những
mặt hàng nhập khẩu có giá trị cao như hàng kim khí điện máy, xe hơi, xe gắn
máy, máy tính, máy ảnh.... hầu như đều được yết giá bằng ngoại tệ và việc thanh
toán cũng có thể thực hiện bằng ngoại tệ. Mua bán bất động sản, cho thuê nhà
cũng được thực hiện bằng ngoại tệ.Ngoài ra còn có những công ty du lịch với giá
vé, phí dịch vụ cũng đều quy ra USD. Tại khu vực trung tâm TP Hồ Chí Minh và
tại những khu vực tập trung khách du lịch quốc tế như trên đường Đồng Khởi,
Nguyễn Huệ, và đặc biệt khu phố được gọi là phố Tây Phạm Ngũ Lão, Bùi Viện(
T/P Hồ chí Minh) những giao dịch thanh toán trên 90% ở đây từ ăn uống, lưu trú,
đi lại, mua sắm đều được tính bằng USD, và khi lưu thông bằng đồng USD, sẽ có
người có nhu cầu đổi đô và ngược lại.
Mặc dù ngày 8-5-2009, Thủ tướng đã có Công văn số 695/TTg-KTN yêu
cầu tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về quản
lý ngoại hối, đặc biệt là các hoạt động thu đổi ngoại tệ trái phép, quảng cáo, niêm
97
yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, xem ra đến nay công tác thực hiện chỉ
đạo này vẫn còn lơi lỏng, chưa kiên quyết.
2.3.3.2. Những nguồn cung cấp ngoại tệ trên thị trường không chính thức
Thị trường ngoại tệ không chính thức ở Việt Nam hoạt động được là do có
nhiều nguồn cung cấp ngoại tệ như:
Nguồn kiều hối: Đây là luồng ngoại tệ chảy vào trong nước ngày càng tăng
và chiếm doanh số khá lớn trong cán cân vãng lai, theo thống kê hiện có khoảng
4 triệu người Việt Nam sống ở 103 nước và vùng lãnh thổ, trong đó gần 400.000
người có trình độ đại học trở lên. Ngoài ra, còn khoảng 500.000 lao động Việt
Nam đang làm việc ở nước ngoài. Các chuyên gia cho rằng nguồn kiều hối vẫn
chủ yếu từ Mỹ, Canada và một số thị trường có số lượng lao động xuất khẩu
nhiều như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia...Với số lượng người Việt sinh sống và
lao động ở nước ngoài nhiều như vậy cộng thêm truyền thống gia đình giúp đỡ
thân nhân của người Việt đã tạo nên một nguồn cung ngoại tệ đáng kể hàng năm
[72]
Kể từ năm 2000 thực hiện Quyết định số 170/1999/QĐ-TTg và Thông tư số
02/2000/TT-NHNN7 đã xoá bỏ việc người nhận kiều hối đóng thuế thu nhập
không thường xuyên giúp cho lượng kiều hối gia tăng mạnh mẽ.
Bảng 2.15: Lượng kiều hối chính thức chuyển về
Đơn vị: Tỷ USD
Việt Nam từ năm 1999-2010
Số lượng
Số lượng
Năm
Năm
1.2 1.76 1.82 2.1
4.29 4.7 5.5 7.2
1999 2000 2001 2002
2005 2006 2007 2008
2.7
6.8
2003
2009
3.2
8.54
2004
2010
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN [38]
98
Biểu đồ 2.3: Lượng kiều hối và Việt Nam từ năm 1999 – 2010
Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN [38]
Năm 1999, kiều hối mới có 1.2 tỷ USD thì năm 2002 đã tăng gần gấp đôi
và năm 2007 là 5.5 tỉ USD và năm 2008 đạt kỷ lục tăng 30% - vượt qua mức 7.2
tỉ USD. Năm 2009, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới,
kiều hối giảm còn gần 6,3 tỉ USD. Năm 2010 đạt hơn 8.5 tỷ USD tương đương
8% GDP tăng 25,6% so với năm 2009 và vượt mục tiêu dự kiến ban đầu là quanh
mức 6 tỷ USD. Tuy nhiên, các ngân hàng chỉ mua lại khoảng 10% lượng ngoại tệ
này.[67]
Tuy chưa thể thống kê chính xác lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường
này nhưng có thể thấy rằng đó là số lượng khá lớn vì nếu chỉ xét trên lượng kiều
hối gửi về và số lượng ngoại tệ mà các ngân hàng mua được có sự chênh lệch
đáng kể, điều này xảy ra vì đa số những người nhận tiền kiều hối đều rút ngoại tệ
và bán ra trên TTKCT vì tỷ giá cao hơn tỷ giá chính thức trong ngân hàng.
Đây là số lượng tính toán được chuyển qua con đường chính thức chưa kể
đến số lượng chuyển tiền thông qua con đường không chính thức, trên thực tế
lượng kiều hối phi chính thức còn cao hơn nhiều, chiếm khoảng 30-60% lượng
kiều hối chính thức, do vậy có thể nói lượng ngoại tệ từ nguồn kiều hối còn cao
99
hơn cả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo ước đoán của IMF thì lượng USD
lưu thông ở Việt Nam vào khoảng 10 tỷ USD.
Kiều hối được chuyển về Việt Nam qua các kênh như: ngân hàng, công ty
chuyển tiền nhanh, các đại lý làm dịch vụ kiều hối, chuyển tiền tự do, tự mang
vào khi nhập cảnh. Cơ chế quản lý ngoại hối hiện hành của Việt Nam không cấm
mang kiều hối vào Việt Nam, miễn là khi nhập cảnh có khai báo đủ với cơ quan
Hải Quan theo qui định. Khoản kiều hối này phần lớn không bán lại cho ngân
hàng mà chủ yếu nắm giữ ngoại tệ mặt và mua bán trên TTKCT.
Bên cạnh đó qui định với nguồn kiều hối chính thức cho phép việc chi trả
bằng ngoại tệ mặt cho người thụ hưởng trong nước cũng là nguyên nhân tạo nên
lượng lớn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường chợ đen. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với
cơ chế quản lý ngoại hối nói chung và cơ chế kiều hối nói riêng hiện nay là vừa
khuyến khích việc chuyển kiều hối về nước vừa thu hút được các nguồn kiều hối
vào hệ thống ngân hàng.
Cũng có thể thấy rằng đây chính là nguồn cung lớn nhất trên TTKCT.
Nguồn cung từ các công ty tư nhân có thu nhập ngoại tệ: khi các công ty này
được thanh toán bằng ngoại tệ họ bỏ vào tài khoản tiền gửi cá nhân và theo qui
định họ có thể rút ngoại tệ mặt trên tài khoản ngoại tệ cá nhân và khi tỷ giá chính
thức thấp hơn tỷ giá trên TTKCT, họ bán ra ngoài để kiếm lời. Đặc biệt, trong
những trường hợp thị trường khan hiếm ngoại tệ, các công ty nhập khẩu cần mua
ngoại tệ để thanh toán nhưng ngân hàng không có ngoại tệ để bán, có ngân hàng
biết được doanh nghiệp có ngoại tệ đã sẳn sàng làm trung gian cho những tổ chức
kinh tế có ngoại tệ để bán cho công ty nhập khẩu Như vậy lượng ngoại tệ này
cũng có thể được xem như là nguồn cung trên TTKCT.
Nguồn cung ngoại tệ từ những người có thu nhập bằng ngoại tệ, những
người kinh doanh có thực hiện thanh toán bằng ngoại tệ hay Việt kiều về thăm
nhà và một số những người nước ngoài vào Việt Nam đi du lịch hay học tập, làm
ăn, kinh doanh cũng mang ngoại tệ về họ không bán cho ngân hàng theo tỷ giá
100
chính thức mà bán bên ngoài ngân hàng với tỷ giá chênh lệch cao hơn tỷ giá
chính thức. Nguồn cung này chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong doanh số trên TTKCT.
2.3.4.3. Nguồn cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ không chính thức
Những người cư trú có nhu cầu về ngoại tệ: là du học sinh, những người ra
nước ngoài du lịch, thăm thân nhân, khám chữa bệnh ..vvv. Đời sống kinh tế
ngày càng phát triển, người dân càng có khuynh hướng nâng cao chất lượng cuộc
sống, từ ăn, mặc, đi lại nhu cầu vật chất lẫn tinh thần và do vậy nhu cầu ngoại tệ
đi học,đi du lịch, chữa bệnh…ở nước ngoài đều tăng lên.
Nhu cầu ngoại tệ của du học sinh: Việt Nam là một trong những quốc gia
có số lượng du học sinh mỗi năm đều gia tăng, theo số liệu thống kê của Cơ quan
Quốc tế giáo dục Úc thuộc Tổng lãnh sự quán Úc tại TPHCM, có hơn 21.000 học
sinh - sinh viên Việt Nam đang học tập tại các trường phổ thông và đại học ở Úc
chỉ tính riêng 8 tháng đầu năm 2009, tăng 58% so với cùng kỳ năm 2008. Trong
khi đó, theo thống kê của Viện Giáo dục quốc tế thuộc Viện Giáo dục quốc tế
Mỹ thì số lượng du học sinh Việt Nam học tập tại Mỹ trong năm học 2008-2009
là 12.830, tăng 46% so với năm học trước, xếp thứ 9 trong tổng sắp số du học
sinh quốc tế đang du học tại Mỹ, tăng 11 bậc so với hai năm trước đây[69]. Như
vậy chỉ tính riêng 2 nước có số du học sinh lớn nhất là Mỹ và Úc vào năm 2009
hơn 33000 du học sinh và với tỷ lệ tăng trung bình là 50% thì ước tính năm 2010
số lượng du học sinh của Việt Nam ra nước ngoài học tập 100000 người và cứ
tính chi phí cho mỗi du học sinh trung bình khoảng 20000USD/ năm thì lượng
ngoại tệ cần thiết vào khoảng 2 tỷ USD/năm, số lượng ngoại tệ này hầu như
không được ngân hàng đáp ứng đủ mà nhu cầu ra nước ngoài học tập thì tăng lên
không ngừng hàng năm.
Nhu cầu ngoại tệ của những người ra nước ngoài công tác, du lịch, chữa
bệnh…: Nhu cầu ngoại tệ của nhóm này cũng tăng lên hàng năm và họ thường
mua được ngoại tệ theo tỷ giá chính thức của ngân hàng vì thế đa số họ đều tìm
đến TTKCT với cách mua bán nhanh chóng không đòi hỏi chứng từ mà hầu như
đáp ứng đủ nhu cầu của họ.
101
Nhu cầu ngoại tệ của các công ty nhập khẩu, các doanh nghiệp nhập khẩu
tư nhân hay nhà nước, họ thường xuyên gặp phải tình huống khi cần mua ngoại
tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thì ngân hàng không có đủ ngoại tệ để đáp
ứng kịp thời việc này làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh
và có nguy cơ phải bồi thường hợp đồng, hay họ phải chịu thêm những chi phí
phát sinh khi hàng đã đến cảng như phí lưu kho, lưu bãi , …. mà không có ngoại
tệ thanh toán để nhận hàng, vì thế bằng mọi cách họ phải mua được ngoại tệ và
họ tìm đến TTKCT.
Và cuối cùng là nhu cầu ngoại tệ của giới buôn lậu, hoạt động buôn lậu
chắc chắn không thể thực hiện được nếu không có ngoại tệ do TTKCT cung cấp.
Những hàng hóa nhập lậu như vàng, ngoại tệ mặt, hàng xa xỉ phẩm, rượu, xe máy
vv..có nhu cầu ngoại tệ rất lớn và tỷ giá trên thị trường không chính thức bị ảnh
hưởng nhiều nhất từ nguồn cầu ngoại tệ này. Vào những đợt thị trường vàng
trong nước có biến động giá vàng trong nước cao hơn ở nước ngoài giới buôn lậu
sẽ thu gom ngoại tệ để đi nhập hàng ở nước ngoài về bán kiếm lời chênh lệch,
hoạt động này đã làm cho giá ngoại tệ bị tác động rõ rệt bởi vì lượng ngoại tệ cho
mỗi đợt nhập vàng cần đến hàng triệu USD. Trong bài viết trên website của
Chính phủ, Thống đốc NHNN Nguyễn văn Bình đã nhận định:”Hoạt động buôn
lậu vàng qua biên giới diễn ra rất phổ biến và với qui mô ngày càng lớn, riêng
nhập khẩu vàng lậu trung bình một năm cũng từ 20 đến 40 tấn. “ [77]
Như vậy, những yếu tố cung cầu để cho một thị trường ngoại tệ tồn tại là có
thực và thực tế thì TTKCT ở Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ từ lâu ước tính
chiếm khoảng 20% thị phần [14] và thị trường này ngày càng cạnh tranh mạnh
mẽ với thị trường chính thức.
Tóm lại, TTKCT còn tồn tại là do những nguyên nhân sau: (1) Sự chênh
lệch tỷ giá trên thị trường ngoại tệ chính thức và tỷ giá trên TTKCT, trong một
nước nếu có các tỷ giá khác nhau thì sẽ có thị trường mua bán ngoại tệ tồn tại
song song với thị trường chính thức. (2) Trong điều kiện khi nền kinh tế vĩ mô
không ổn định, tâm lý người dân chưa an tâm khi nắm giữ VND họ muốn cất trữ
102
Sự tồn tại của thị trường ngoại tệ không chính thức khiến một khối lượng
lớn đôla trôi nổi trong dân cư không được kiểm soát và làm gia tăng tình trạng
đôla hoá trong nền kinh tế. Đây cũng là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng các hoạt
động kinh tế ngầm và các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp khác. Điều đó cho
thấy sự tồn tại của thị trường ngoại tệ không chính thức không chỉ gây bất ổn cho
TTNH, gây khó khăn cho điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của NHNN, mà còn
góp phần gây trở ngại cho các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát các hoạt
động kinh tế ngầm, ngăn ngừa các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp khác.
2.4 Vai trò của NHNN đối với TTNH Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
2.4.1 Thực hiện vai trò can thiệp TTNH và điều hành chính sách tỷ giá
Quá trình hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì TTNH càng bị tác động, có
những tác động tích cực và tiêu cực ảnh hưởng đến thị trường, NHNN với vai trò
thực thi chính sách tiền tệ thông qua hoạt động can thiệp trên TTNH và sử dụng
cơ chế điều hành tỷ giá qua đó thực thi vai trò cứu cánh cuối cùng cùa NHNN
trên TTNH, để tận dụng những tác động thuận lợi và khắc phục những tác động
xấu đến thị trường đảm bảo cho thị trường hoạt động và phát triển ổn định.
Khi bắt đầu mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đối đầu với cuộc khủng hoảng
tài chính đầu tiên là khủng hoảng tài chính-tiền tệ diễn ra ở khu vực Đông Nam
Á vào năm 1997, điểm xuất phát từ Thái Lan, sau đó lan nhanh khắp khu vực và
103
có phạm vi ảnh hưởng toàn thế giới, Việt Nam cũng không thoát khỏi ảnh hưởng
đó. Đây là những năm khó khăn và nhiều thử thách đối với nền kinh tế Việt Nam,
do ảnh hưởng của thiên tai và khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong
khu vực. Với bối cảnh nền kinh tế như vậy, NHNN đã có điều chỉnh cơ chế tỷ giá
tương đối linh động hơn so với giai đoạn trước. Cụ thể:
Trong năm 1997, thực hiện mở rộng biên độ giao dịch lên +/- 5% rồi tăng
lên +/- 10% và tăng tỷ giá chính thức 1 lần vào cuối năm. Năm 1998, có hai đợt
điều chỉnh tỷ giá chính thức quan trọng: Đợt 1 tăng tỷ giá 5.59%; đợt 2: tăng
10% và nới lỏng biên độ dao động từ +/- 5% đến +/-10% và sau đó giảm xuống
+/-7%.
Biện pháp giảm giá mạnh VND vào năm 1998 được xem là hợp lý vì USD
tăng giá mạnh và các đồng tiền trong khu vực Đông Nam Á đều mất giá do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và là những quốc gia có những mặt
hàng xuất khẩu tương tự như Việt Nam, vì vậy việc tăng tỷ giá sẽ làm tăng khả
năng cạnh tranh hàng xuất khẩu cho Việt Nam và được xem là nguyên nhân giúp
cho TTNH Việt Nam không có những biến động mạnh như TTNH của các nước
Đông Nam Á.
Vào ngày 25/2/1999 NHNN đã ban hành quyết định 64/1999/QĐ_NHNN7
về việc công bố tỷ giá của đồng Việt Nam, theo đó:” Hàng ngày, NHNN công bố
tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNTLNH của đồng Việt Nam với đồng đô la
Mỹ, thay cho việc công bố tỷ giá chính thức và tỷ giá bình quân liên ngân hàng
mua vào bán ra trên TTNTLNH.” Quyết định này cho thấy sự thay đổi trong điều
hành tỷ giá của NHNN trước quá trình hội nhập kinh tế việc công bố rộng rãi tỷ
giá BQLNH trên các phương tiện thông tin đại chúng tạo điều kiện cho những
chủ thể có giao dịch ngoại tệ có thể dễ dàng tiếp cận thông tin chính thức về tỷ
giá để lập chiến lược kinh doanh và thực hiện bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
Kể từ thời điểm gia nhập WTO đến nay, việc điều hành tỷ giá có những
thay đổi đáng kể, tỷ giá BQLNH được thay đổi nhiều hơn chứ không cố định
quá lâu (như trước đây năm 2005 chỉ có 2 lần điều chỉnh tỷ giá đợt 1vào tháng
104
1/2005, đợt 2 vào tháng 12/2005). Đầu năm 2007 NHNN điều chỉnh biên độ từ
0.25% lên 0.5% và với đà tăng tỷ giá 1.38% từ cuối năm 2006 tỷ giá được kỳ
vọng sẽ tiếp tục tăng, tuy nhiên vào năm 2007 khi luồng vốn FDI, FII và kiều
hối chảy vào tăng rất mạnh gây áp lực tăng giá VND, NHNN đã đưa ra lưu thông
200,000ngàn tỷ đồng để mua ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối lên 20 tỷ USD và
khuyến khích các NHTM mua USD vào nhưng các NHTM không thể mua vào
nhiều vì bị khống chế bởi hạn mức trạng thái ngoại tệ và ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh. Đây là giai đoạn yêu cầu sự can thiệp của NHNN là mua vào ngoại
tệ nhưng mua bao nhiêu cho phù hợp với chính sách tiền tệ và mức tỷ giá xác
định, NHNN chưa can thiệp hợp lý với yêu cầu của thị trường và kết quả là tỷ giá
trên thị trường chính thức cao hơn thị trường tự do.
Số liệu thống kê cho thấy, từ tháng 6/2008 đến tháng 2/2011, NHNN đã 6
lần điều chỉnh tỷ giá BQLNH: Trong năm 2008 có 2 lần điều chỉnh với tỷ lệ tăng
là 1,99% và 3% , với 2 lần thay biên độ từ +/- 1% lên +/-2%. Trên cơ sở dự báo
tình hình kinh tế thế giới năm 2009, NHNN đã nâng tỷ giá bình quân trên
TTNTLNH tăng 3%. Đây là bước thay đổi bất ngờ trong điều hành tỷ giá so với
những lần trước chỉ vào khoảng dưới 1% và những năm sau điều chỉnh tỷ giá
tăng cao hơn trước, năm 2009 tăng 1 lần hơn 5% , năm 2010 tăng 2 lần hơn 3%
và hơn 2% và đầu năm 2011 NHNN sau một thời gian kiềm giữ đã giảm giá
mạnh VND xuống 9,3% so với USD[71]. Với động thái này cho thấy rằng
NHNN nhận định tỷ giá trên TTNTLNH chưa phản ảnh đúng giá thị trường, cho
nên dù biên độ có thay đổi dãn ra bao nhiêu phần trăm vẫn không giảm bớt chênh
lệch giữa tỷ giá của 2 thị trường. Vì thế, vấn đề là xem lại tỷ giá BQLNH được
xác định trên TTNTLNH nơi có doanh số chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với doanh số
ngoại tệ của toàn bộ nền kinh tế có phản ánh giá trị thực của VND hay không?.
Kết hợp đồng bộ các biện pháp để tác động vào cung cầu ngoại tệ vào
những giai đoạn tình hình cung ngoại tệ khan hiếm mà một trong những nguyên
nhân là do các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ vẫn tiếp tục găm giữ ngoại tệ
không bán cho ngân hàng. NHNN đã triển khai các biện pháp như:(1) nâng biên
105
độ tỷ giá từ +/-3% lên +/-5%, áp dụng từ ngày 24/03/2009 nhằm giảm bớt sự
chênh lệch tỷ giá giữa 2 thị trường; (2) kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh
ngoại hối của các tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm các tổ chức tín dụng thực hiện
nghiêm túc các quy định quản lý ngoại hối về thực hiện niêm yết và giao dịch;
(3) đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền ổn định tâm lý người dân và triển
khai các biện pháp tạo sự đồng thuận giữa các NHTM, thống nhất tăng lãi suất
huy động USD và giảm lãi suất cho vay ngoại tệ nhằm khắc phục tình trạng mất
cân đối cung - cầu ngoại tệ. Những biện pháp trên của NHNN đã giúp thị trường
ngoại hối trong quý 3/2009 diễn biến tương đối ổn định.
Căn cứ vào những nguyên nhân gây căng thẳng cầu ngoại tệ NHNN đã có
những biện pháp phù hợp như vào cuối năm 2009, tình hình mất cân đối cung -
cầu ngoại tệ lại xuất hiện trở lại mà nguyên nhân của hiện tượng này là do ảnh
hưởng của thông tin về mức thâm hụt cán cân thương mại ngày càng tăng và dự
trữ ngoại hối suy giảm, mà đặc biệt là dưới tác động của cơn sốt giá vàng, giá
vàng trong nước tăng cao đã khiến cầu ngoại tệ tăng đột biến do giới đầu cơ đẩy
mạnh hoạt động thu mua USD để mua vàng, trước tình hình đó NHNN đã lập tức
công bố cho nhập khẩu vàng nhằm giảm sức ép lên giá vàng và tăng tỷ giá
BQLNH lên 5,44%; thu hẹp biên độ từ mức ±5% xuống mức ±3% và tăng lãi
suất cơ bản tiền đồng lên 8%. Với các biện pháp nêu trên, TTNH Việt Nam đã
tạm thời ổn định trở lại, hiện tượng găm giữ và tích trữ ngoại tệ đã dần được khắc
phục.
Vào năm 2010, NHNN đã đồng thời thực hiện các biện pháp nhằm tác
động đến nguồn cung ngoại tệ đang căng thẳng, đó là (1)điều chỉnh tăng tỷ giá
(2) giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng
[34]. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ
hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã tạo điều kiện
cho các NHTM tăng thêm ngoại tệ cho vay trên thị trường. (3) quy định mức trần
lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là
106
1%/năm [34] nhằm giảm tình trạng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản chuyển sang
bán ngoại tệ tăng thêm nguồn cung USD.
Tóm lại, từ sau khi gia nhập WTO trước những biến động của thị trường do
những nguyên nhân từ kinh tế thế giới và tình hình trong nước, NHNN đã điều
hành chính sách tỷ giá có thay đổi tần suất tác động và điều chỉnh biên độ, kết
hợp đồng bộ với những biện pháp khác để hạn chế tình trạng căng thẳng về cung
cầu ngoại tệ như qui định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ, gỉam tỷ lệ dự trữ bắt
buộc USD, bên cạnh đó còn thực hiện những biện pháp tác động đến yếu tố tâm
lý là nguyên nhân gây căng thẳng ngoại tệ của nước ta bằng cách sử dụng
phương tiện truyền thông để công bố chính thức về định hướng can thiệp tỷ giá
để hạn chế tin đồn gây hoang mang dư luận.
2.4.2. Những biện pháp góp phần hạn chế hoạt động của thị trường ngoại tệ
không chính thức.
Ban hành pháp lệnh ngoại hối [39] làm cơ sở pháp lý để qui định những
hoạt động liên quan đến ngoại hối là bước tiến trong quá trình xây dựng một
khung thể chế để điều hành TTNH, nhưng kể từ khi ban hành việc theo dõi giám
sát và sử dụng chế tài đối những hành vi vi phạm pháp lệnh ngoại hối hầu như
không được chú trọng mà chỉ thực hiện thanh tra, kiểm tra, phạt khi thị trường
ngoại hối gặp khó khăn về cung cầu ngoại tệ, tỷ giá căng thẳng…
Trong năm 2008, sau một loạt những hành động của Nhà nước nhằm vào
TTKCT mà đỉnh điểm là khoảng giữa năm 2008, thì TTKCT thức trầm lắng một
thời gian, có lúc gần như đóng băng, nhưng rồi sau đó thị trường hoạt động sôi
nổi trở lại cùng với sự lơ là trong kiểm tra của Nhà nước.
NHNN ban hành các chỉ thị kiểm tra và xử lý những vi phạm trong mua bán
và niêm yết giá bằng ngoại tệ [17] nhằm hạn chế TTKCT và tình trạng đô la hóa.
Tuy nhiên, vào năm 2010 hoạt động mua bán ngoại tệ trên TTKCT vẫn nhộn
nhịp vì lúc này sự chênh lệch tỷ giá giữa hai thị trường rất cao có lúc lên đến
2000VND, hầu như các NHTM không mua được ngoại tệ dẫn đến tình trạng
căng thẳng ngoại tệ trong khi đó nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu càng tăng,
107
NHNN kết hợp với các cơ quan chức năng đã thi hành nhiều biện pháp
mạnh nhằm hạn chế cơ sở tồn tại TTKCT như: cấm triệt để việc mua bán ngoại
tệ ngoài ngân hàng và đi kèm theo đó là những chế tài như tịch thu ngoại tệ, đồng
thời đưa ra những kiến nghị sẽ hạn chế kinh doanh vàng miếng ngoài thị trường
chính thức, trong thời gian này TTKCT đã co cụm không còn hoạt động rầm rộ
như trước và ngoại tệ cũng đã chảy vào ngân hàng nhiều hơn. Tuy nhiên, lại xuất
hiện vấn đề bức xúc là nhu cầu ngoại tệ chính đáng của người dân không được
ngân hàng đáp ứng, họ phải lén lút mua trên TTKCT với giá cao hơn nhiều.
2.5. Đánh giá quá trình phát triển TTNH của Việt Nam trong thời gian qua và nguyên nhân của những tồn tại
2.5.1. Những mặt đạt được
Thứ nhất, đã xây dựng nền móng cơ sở pháp lý cho hoạt động của TTNH
TTNH hoạt động theo qui chế được ban hành [29] về căn bản phù hợp với
Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín dụng đảm bảo cho hoạt động của thị trường
phù hợp với luật pháp, đồng thời cơ sở pháp lý của hoạt động kinh doanh ngoại
hối đang dần hoàn thiện, NHNN đã xây dựng hệ thống các văn bản pháp qui về
hoạt động quản lý ngoại hối với mức độ luật hoá càng cao không còn ở dưới
dạng các nghị định mà là pháp lệnh (Pháp lệnh ngoại hối ban hành năm 2005)
tạo môi trường cho việc điều hành, thực hiện chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối
và kinh doanh ngoại hối theo khuôn khổ của pháp luật.
Những qui định quản lý ngoại hối đáp ứng yêu cầu của điều VIII của Hiệp
Định GATT 1994 các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng lai đã được tự do hóa,
các biện pháp quản lý ngoại hối chỉ áp dụng trong những trường hợp ngoại lệ để
duy trì sự ổn định tài chính và tiền tệ quốc gia.
NHNN đã từng thành lập trung tâm giao dịch ngoại hối tạo cơ sở cho hoạt
động của một sàn giao dịch ngoại tệ, tuy nhiên cơ chế thanh toán và giao dịch
108
của trung tâm không hợp lý và không tương thích với hoạt động của sàn giao
dịch ngoại hối như TTNH của các nước trong khu vực và thế giới.
Thứ hai, ảnh hưởng tích cực của quá trình hội nhập tạo động lực cho các
NHTM trong nước nâng cao trình độ mở rộng hoạt động và tăng năng lực vốn.
Theo cam kết khi gia nhập WTO đến năm 2010 các ngân hàng nước ngoài được
phép thực hiện tất cả các dịch vụ mà NHTM trong nước được thực hiện(Phụ lục
số 3), sự cạnh tranh gay gắt của những đối tác nước ngoài có kinh nghiệm có
năng lực về vốn và trình độ cao đã tạo sức ép mạnh lên các NHTM, vì thế các
NHTM ngày càng chú ý tập trung nguồn lực để nâng cao trình độ chuyên môn,
trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại và tăng năng lực vốn để tạo điều kiện kinh
doanh ngoại hối tốt hơn. Điển hình như các NHTM trong nước: VCB, Eximbank
đã có trang bị phòng kinh doanh ngoại hối với các thiết bị hiện đại và tổ chức
hoạt động kinh doanh nối mạng với thị trường thế giới, hai ngân hàng này được
xem là có thế mạnh về kinh doanh ngoại hối với các chuyên gia có trình độ cao
về nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh đó là các ngân hàng nước ngoài, ngân
hàng liên doanh có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối trên TTNH
thế giới như: Standar Chartered Bank, Deustsche Bank, HSBC, … sẽ là những
chủ thể có khả năng tham gia và phát triển TTNH sẽ làm tăng tính cạnh tranh và
thanh khoản cao cho thị trường. Hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM
ngày càng mở rộng và năng lực kinh doanh, quản trị rủi ro của các NHTM ngày
càng được chú trọng và củng cố.
Thứ ba, mặc dù giao dịch phái sinh còn sơ khai nhưng thị trường này đã
bước đầu hình thành trên cơ sở có khung pháp lý qui định và các chủ thể trên thị
trường đã làm quen với giao dịch kỳ hạn, quyền chọn tiền tệ để bảo hiểm rủi ro
tỷ giá và rủi ro lãi suất.
Thứ tư, thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động và có thời kỳ rất phát
triển (năm 2007, 2008) đã thu hút lượng ngoại tệ đầu tư gián tiếp nước ngoài
chảy vào rất mạnh mẽ, tác động làm tăng lượng cung ngoại tệ cho TTNH giải
quyết tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại tệ.
Thứ năm, thực hiện tốt cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai, thực hiện quản
lý giao dịch ngoại hối trên tài khoản vãng lai bằng những giải pháp thị trường và
109
theo pháp lệnh, xóa bỏ tình trạng cấp phép mua bán ngoại tệ, giao quyền kiểm tra
thực hiện việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ.
Tuy nhiên đánh giá hoạt động TTNH Việt Nam có thể thấy còn rất nhiều
hạn chế trong tổ chức, quản lý và điều hành thị trường.
2.5.2. Những hạn chế của Thị trường ngoại hối Việt Nam
2.5.2.1. Hoạt động TTNTLNH còn khiêm tốn
So với số lượng ngân hàng hiện nay(102 ngân hàng gồm tất cả các hình
thức sở hữu, chưa tính đến số lượng 17 công ty tài chính ) [66] số ngân hàng
tham gia trên TTLNH còn quá ít so với tổng số lượng các tổ chức tín dụng, các
định chế tài chính phi ngân hàng của tất cả các hình thức sở hữu hiện nay, điều
này cũng dẫn đến doanh số giao dịch trên TTNTLNH chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng doanh số giao dịch ngoại tệ của nền kinh tế, qua đó cho thấy sự hạn chế về
năng lực kinh doanh ngoại hối và nguồn vốn còn khiêm tốn của các ngân hàng
tham gia TTNTLNH. Doanh số giao dịch chủ yếu là của NHNN, doanh số giao
dịch của các NHTM với vai trò nhà tạo giá còn hạn chế
Chính điều này đã cho thấy hoạt động của TTNTLNH chỉ là hình thức chưa
thực sự đóng vai trò là thị trường sơ cấp nơi hình thành tỷ giá, một biến số kinh
tế quan trọng ảnh hưởng đến quá trình điều hành chính sách tỷ giá. Điều này
cũng lý giải vì sao tỷ giá BQLNH thường có sự cách biệt so với tỷ giá trên
TTKCT.
Bên cạnh đó, trong vài thời điểm NHNN chưa thực hiện đầy đủ vai trò can
thiệp thị trường, là người cuối cùng mua bán ngoại tệ theo nhu cầu cuả thị trường
khi TTNH căng thẳng về cung cầu USD.
2.5.2.2. Hàng hóa trên thị trường ngoại hối chưa đa dạng
Một TTNH chỉ hoạt động sôi nổi khi nào có sự tham gia của nhiều đồng
tiền, nhưng TTNH của Việt Nam chủ yếu chỉ có USD còn các ngoại tệ mạnh
khác như EUR, JPY, GBP, AUD, SGD chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng
doanh số giao dịch, tỷ lệ doanh số giao dịch của các ngoại tệ khác USD chưa
tương thích với cơ cấu các quốc gia có giao dịch thương mại với Việt Nam.
110
Điều này xuất phát từ những nguyên nhân sau: (1) Do USD là đồng tiền
được chấp nhận nhiều trong thanh toán quốc tế cho dù là thanh toán giữa hai
quốc gia không có Mỹ; (2) Do thói quen sử dụng USD trong thanh toán, cất trữ,
định giá của thị trường Việt Nam; (3) Do các NHTM Việt Nam không sẳn lòng
mua những ngoại tệ khác USD trừ một vài ngân hàng lớn như VCB, Eximbank,
ACB.
2.5.2.3.Sự thiếu vắng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá và mục đích tham gia thị
trường ngoại hối cũng chưa đa dạng
Trên TTNH thế giới sự tham gia của những người bảo hiểm (Hedger) là
lực lượng lớn tạo nên sự sôi động của thị trường nhưng ở Việt Nam hoạt động
này không được phát triển vì: (1) Do tỷ giá chậm điều chỉnh theo cung cầu trên
thị trường, hoặc điều hành theo khuynh hướng tạo tâm lý kỳ vọng vào sự gia tăng
của tỷ giá, vì vậy không tạo nên sự quan tâm đến việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá. (2)
Do người sử dụng ngoại tệ còn thiếu thông tin các sản phẩm phái sinh, thiếu
hướng dẫn về định giá sản phẩm này và năng lực dự báo tỷ giá, đa số các doanh
nghiệp hoạt động xuất nhập ở Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên không
có giám đốc tài chính phụ trách về rủi ro tỷ giá, doanh nghiệp chưa nhận thức
được tác động của rủi ro tỷ giá và hiệu quả của việc sử dụng các công cụ bảo
hiểm. Cũng như doanh nghiệp chưa chấp nhận phí bảo hiểm là một khoản chi
phải được tính vào giá thành sản phẩm và mục đích bảo hiểm rủi ro tỷ giá là để
cố định khoản thu và chi không bị rủi ro do tỷ giá biến động.
Tại TTNH của các khu vực và thế giới, các NHTM là những chủ thể chính
tham gia trên TTNH với nhiều mục đích và chức năng khác nhau tác động đến
hoạt động của TTNH. Nhưng mục đích của các NHTM Việt Nam tham gia
TTNH chủ yếu để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng. Còn những mục
đích như kinh doanh chênh lệch tỷ giá, đầu cơ, môi giới rất hạn chế.
Nguyên nhân là do: Thứ nhất, các NHTM hạn chế về nguồn ngoại tệ không
đủ để thực hiện các hoạt động kinh doanh và thiếu vắng đội ngũ chuyên viên có
trình độ và kinh nghiệm để phân tích, phán đoán xu hướng biến động của tỷ giá
111
cũng như khả năng sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối khi duy trì
một trạng thái mở ngoại tệ.
Thứ hai, NHNN vẫn chưa xem đầu cơ trên TTNH là một giao dịch như
những nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, và chưa thấy được vai trò của nhà đầu cơ
trên TTNH là làm tăng tính thanh khoản trên thị trường.
Thứ ba, là sự liên thông giữa TTNH trong nước và các TTNH trong khu
vực như Thị trường HongKong, Singapore hay ngoài khu vực Châu Á như Thị
trường ngoại hối London, Newyork còn hạn chế.
2.5.2.4 Thị trường phái sinh còn sơ khai
Như đã phân tích trong phần thực trạng TTNH Việt Nam có doanh số giao dịch
trên thị trường phái sinh rất thấp được được ước lượng gần 10% so với tổng
doanh số giao dịch trên TTNH, đây là một tỷ lệ quá nhỏ so với tiêu chuẩn quốc
tế, cụ thể theo dữ liệu khảo sát của BIS, giao dịch giao ngay chỉ chiếm 1/3, giao
dịch hoán đổi chiếm khoảng một nửa và giao dịch kỳ hạn là 10% , tương tự các
giao dịch phái sinh chiếm 50% trên thị trường trong nền kinh tế mới nổi của các
nước Châu Á trừ trường hợp của Trung Quốc nơi TTNH chủ yếu vẫn là giao
ngay[51].
Ngoài ra các giao dịch phái sinh chủ yếu là giao dịch kỳ hạn và hoán đổi còn
giao dịch quyền chọn ngày càng vắng bóng và chưa có giao dịch tương lai tiền tệ.
2.6. Nguyên nhân của thực trạng trên
2.6.1.Cơ chế điều hành tỷ giá chưa linh động với diễn biến của thị trường
Theo cơ chế thả nổi, tỷ giá được xác định bởi lực lượng thị trường và sự chi
phối của chính phủ trên tỷ giá này chỉ được thực hiện thông qua việc mua và bán
trên TTNH[48]. Trong trường hợp của Việt Nam, chứng minh cho cơ chế thả nổi
(float) như được đề cập trong chương 1 là NHNN không thiết lập tỷ giá chính
thức mà đơn giản chỉ thông báo tỷ giá bình quân liên ngân hàng được xác định
thông qua tương tác cung và cầu trên thị trường trong ngày giao dịch hôm trước.
Cơ chế quản lý (managed) là tỷ giá chỉ dịch chuyển trong biên độ được qui
định[51].
112
Trên thực tế tỷ giá hối đoái chính thức được thông báo hầu như không thay
đổi trong suốt giai đoạn từ năm 1994-1997, tỷ giá cố định trong khoảng 10890-
11175 VND/USD, chủ yếu là sử dụng biên độ và biên độ thì quá cao +/- 10% sau
đó giảm xuống +/-5%. Tuy vậy, tỷ giá các ngân hàng yết đều kịch trần, cho thấy
tỷ giá chính thức quá thấp so với tỷ giá thị trường. Sự bất hợp lý này chỉ có thể
xem lại tỷ giá chính thức chứ không thể nới rộng biên độ thêm nữa vì biên độ quá
cao sẽ gây mất ổn định như kinh nghiệm của Thái Lan sau khi mở biên độ giao
dịch lên 25%(năm 1997) TTNH đã nhanh chóng rơi vào hoảng loạn và NHTW
Thái Lan đã phải tiêu tốn 12 tỷ USD để giữ biên độ nhưng vẫn không có kết quả.
Năm 2001 tỷ giá chính thức sau khi đã cộng hết biên độ nhưng vẫn cách xa
so với tỷ giá TTKCT hơn 200 điểm, đó là vì tỷ giá được qui định với biên độ quá
nhỏ và biến động một chiều +0.1%, đã hàm ý cho thị trường thấy rằng tỷ giá chỉ
có tăng không có giảm, như vậy đã khuyến khích sự kỳ vọng tăng giá dẫn đến
hàng loạt những hoạt động gìm giữ ngoại tệ không đưa ra thị trường, người
không có nhu cầu thanh toán ngoại tệ vẫn mua ngoại tệ gây căng thẳng giả tạo.
Sau đó, để khắc phục các hạn chế này, ngày 1 tháng 7 năm 2002, NHNN mở
rộng biên độ tỷ giá lên ±0,25%.
Khuynh hướng điều chỉnh tăng tỷ giá qua các năm, năm 2001 tỷ giá tăng
3.9% so với 2000, năm 2002 tăng 1.97% so với năm 2001và năm 2003 tỷ giá
tăng khoảng 1.8% so với 2002. Từ năm 2004 đến 2006, tỷ giá tăng trung bình 1-
2% mỗi năm, một tỷ lệ tăng không phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế và
tình hình kinh tế thế giới trong giai đoạn này.
Cụ thể vào năm 2005, kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao, GDP tăng
8.4%, mức cao nhất trong 9 năm qua, trong khi đó USD tăng giá mạnh 14.5% so
với Euro, và 15% so với JPY[23], mặc dù cán cân vãng lai của Mỹ thâm hụt và
tỷ lệ lạm phát tăng do nền kinh tế Mỹ tiếp tục tăng trưởng tốt. Trong khi đó cán
cân tổng thể của Việt Nam năm 2005 đạt thặng dư tăng mạnh so với năm 2004,
do cán cân vốn và cán cân vãng lai đều thặng dư, lần đầu tiên từ năm 2001, cán
cân vãng lai (CCVL) thặng dư chủ yếu là do cán cân thương mại (CCTM) giảm
thâm hụt do lượng xuất khẩu tăng đồng thời được lợi về giá, thêm vào đó là do
tăng chuyển tiền một chiều. Đối với cán cân vốn tăng chủ yếu do nguồn vốn FDI,
113
ODA tăng. Trước thực tế đó, VND tăng giá so với các ngoại tệ mạnh khác (EUR,
GBP, JPY, AUD..) nhưng lại được điều chỉnh giảm giá so với USD và tỷ giá
TTLNH từ đầu năm đến cuối năm 2005 tăng 0.77%[21].
Vào năm 2006 khi USD giảm giá mạnh trên TTNH thế giới, tỷ giá
USD/EUR đã vượt quá giá trị 1.33USD=EUR vào trung tuần tháng 12/2006, cao
nhất kể từ khi EUR ra đời. So với GBP có lúc 1GBP xấp xỉ bằng 2 USD; tuy
nhiên tỷ giá VND/USD trên thị trường liên ngân hàng vẫn lại tăng 1.36%, tỷ giá
trên thị trường giao dịch giữa các NHTM và khách hàng tăng ít hơn khoảng
0.88%; trên thị trường tự do là 1.0% trong cả năm 2006.
Bảng 2.16: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và
Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm 1999- 2006
Đơn vị tính: đồng
Tỷ giá bình Tỷ giá bình Tỷ giá trần Chênh Năm quân liên quân thị có cộng biên độ lệch (1) ngân trường tự do (3) (5=4-3) hàng(2) (4)
13935 13949 13965 + 30 1999
14173 14187 14260 +93 2000
14488 14502 14728 +226 2001
15106 - 15278
15240 (Biên độ từ 0.1%lên 15288 +10 2002
0.25%)
15536 15530 15526 -4 2003
15724 15764 15777 +17 2004
15820 15859 15873 +14 2005
15966 16006 16030 +24 2006
Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN[21]
114
Biểu đồ 2.4: Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức
và thị trường tự do giai đoạn 1999-2006
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN[21]
Đầu năm 2007, NHNN đã mở rộng biên độ thêm +/-0.25% lên mức +/-
0.5% với đà tăng tỷ giá ở năm 2006 việc nới rộng biên độ ở đầu năm được kỳ
vọng là sẽ làm cho tỷ giá tiếp tục tăng. Tuy nhiên năm 2007, luồng ngoại tệ vào
nước ta tăng đột biến, tăng gấp 5 lần so với năm 2006, cùng với lượng kiều hối
chuyển về lớn đã gây áp lực tăng giá VND và lúc này tỷ giá trên TTLNH công
bố thấp hơn tỷ giá trên TTNT không chính thức và các NHTM yết tỷ giá mua
bằng tỷ giá bán ngoại tệ trên cơ sở trừ hết biên độ chứ không phải cộng như
thường lệ. Biến động tỷ giá trong năm 2007 ngược với thực trạng phổ biến từ
trước đó là: tỷ giá do NHNN công bố đã tăng khoảng 0.25%, trong khi đó trên thị
trường tự do vào cuối năm 2007 so với đầu năm thì tỷ giá không tăng thậm chí
còn giảm nhẹ. Vào cuối năm 2007, NHNN nới rộng biên độ lên +/- 0.75%(theo
QĐ số 3039/QĐ- NHNN ngày 24/12/2007). Tình hình trên kéo dài qua những
tháng đầu năm 2008, trong quý 1/2008, trên TTLNH, hầu hết các ngân hàng đều
yết giá trừ hết biên độ 0.75%, nhưng vẫn không bán ra được vì lúc này, các ngân
hàng đều thiếu hụt VND.
Diễn biến cung cầu ngoại tệ của năm 2007-2008 là tác động đầu tiên của
hội nhập kinh tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO, phải ứng phó với luồng ngoại
tệ chảy mạnh vào trong nước và phản ứng của NHNN được cho là chưa kịp thời,
115
Bảng 2.17: Tỷ giá BQLNH và tỷ giá bình quân
trên thị trường tự do từ năm 2007-2010
Đơn vị: đồng
Năm TGBQLNH TG trần BQLNH Tỷ giá trên thị trường Chênh lệch
(1) (2) (3) tự do (4) (5=4-3)
2007 16,127 16,248 16,110 -138
2008 16,327 16,817 16,650 -167
2009 17133 17,880 18,334 +454
2010 18,710 19,272 19,630 +358
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN[21]
Biểu đồ 2.5: Tỷ giá VND/USD từ năm 2007 đến năm 2010
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN[21]
116
2.6.2. Sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính
thức
Như trong khung lý thuyết có trình bày khi nào trong nền kinh tế còn tồn tại
các tỷ giá khác nhau và tình trạng cầu vượt cung ngoại tệ thì sẽ tồn tại một thị
trường song song với thị trường ngoại tệ chính thức. Giao dịch trên thị trường
không chính thức(TTKCT) hiện nay vẫn còn sôi nổi và thanh khoản cao hơn
giao dịch trên TTNH chính thức. Bởi vì, những yếu tố của nền kinh tế tạo nên sự
tồn tại và phát triển của TTKCT vẫn còn như: tình trạng đôla hóa hiện diện trong
hầu hết các chức năng của tiền tệ, giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ vẫn còn
trong họat động của đời sống kinh tế, sự lo ngại về tình trạng mất giá của VND
đã tạo nên tâm lý thích tích trữ USD. Chênh lệch tỷ giá giữa TTNH chính thức và
TTKCT, là nguyên nhân gây khó khăn cho việc cạnh tranh thu mua ngoại tệ của
các ngân hàng với TTKCT, vì thế ngoại tệ không được tập trung vào ngân hàng,
đã làm cho tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại tệ của nước ta càng lớn. Thị
trường chính thức không đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của
doanh nghiệp của người dân, vì thế họ phải tìm đến TTKCT tạo điều kiện cho thị
trường này tồn tại và phát triển.
Ngoài ra, tình trạng bất ổn trên thị trường vàng trong nước theo những
chuyên gia tài chính cho là do giới đầu cơ đang thao túng, làm cho giá vàng trong
nước cao hơn giá thế giới, lượng vàng nhập lậu gia tăng dẫn đến tăng cầu về
ngoại tệ trên TTKCT, tác động tăng tỷ giá VND/USD, ảnh hưởng đến việc điều
hành chính sách tỷ giá của chính phủ.
2.6.3. Tính chuyển đổi của VND chưa cao
Theo quỹ tiền tệ quốc tế(IMF) một đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền
được sử dụng rộng rãi để thanh toán các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng
rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt. Có nghĩa là đồng tiền đó phải được chấp
nhận ở trong nước và trên quốc tế, để tự do chuyển đổi đồng tiền đó phải chuyển
đổi được sang ngoại tệ mà không có bất kỳ sự hạn chế nào.[15]
117
Để phát triển TTNH điều cần thiết là hàng hoá phải được lưu chuyển dễ
dàng, có nghĩa là VND phải được chuyển đổi dễ dàng sang ngoại tệ và ngược lại
khi có ngoại tệ có thể dễ dàng mua VND. Tuy nhiên, trong thời gian qua nhu cầu
ngoại tệ chính đáng của cá nhân và tổ chức kinh tế chưa được ngân hàng đáp ứng
đầy đủ, ngay cả những nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển ngoại tệ vào đầu tư
phải bán ngoại tệ sang VND để đầu tư trong nước và khi chuyển lợi nhuận về
nước họ cũng gặp khó khăn trong việc mua ngoại tệ, qua thực tế đó có thể đánh
giá mức độ tự hóa tài khoản vãng lai chưa được thực hiện đầy đủ hay tính chuyển
đổi của VND chưa cao.
Bên cạnh đó, để đánh giá một đồng tiền có khả năng chuyển đổi được phải
là đồng tiền được chấp nhận trong thanh toán quốc tế, nhưng VND chưa được sử
dụng nhiều trong hoạt động ngoại thương chỉ có một số quốc gia lân cận như
Lào, Campuchia, Trung Quốc trong thanh toán biên mậu là có sử dụng VND để
thanh toán.
Tính chuyển đổi VND thấp là do: (1) Nền kinh tế Việt Nam phát triển chưa
ổn định, tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng chất lượng tăng trưởng chưa cao,
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn rất thấp so với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Nền kinh tế còn nhiều bất ổn, mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu
tư, nợ công đang là vấn đề đáng báo động và nguy cơ lạm phát tăng cao.
(2) Thị trường tài chính còn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, thị trường chứng
khoán sụt giảm trầm trọng so với sự phát triển quá nóng cuả những năm 2006-
2007, hoạt động của thị trường chứng khoán ảm đạm dẫn đến đầu tư nước ngoài
sụt giảm ảnh hưởng mạnh đến luồng ngoại tệ chảy vào.Thị trường tiền tệ đang
trong giai đoạn các ngân hàng nhỏ thiếu thanh khoản đã cạnh tranh bằng việc
tăng lãi suất, gây ra cảnh tiền tệ chảy từ ngân hàng này sang ngân hàng khác có
lãi cao hơn, NHNN phải thực hiện biện pháp hành chính không chế trần lãi suất
tiền gửi, các ngân hàng nhỏ thiếu thanh khoản tìm mọi cách lách trần lãi suất
bằng nhiều hình thức khuyến mãi khen thưởng gây rối loạn thị trường và làm
giảm tính nghiêm minh của luật pháp.
118
(3) Chính phủ phải thực thi những biện pháp chống suy giảm kinh tế và chủ
trương kìm chế lạm phát, những hệ lụy của các biện pháp này đã gây sức ép
giảm giá trị VND, gây khan hiếm ngoại tệ và hạn chế tính chuyển đổi của VND.
(4) Tất cả những yếu tố trên đã dẫn tới tâm lý không muốn nắm giữ VND
của đại bộ phận người dân và để bảo toàn tài sản người dân thường chuyển từ
VND sang USD hay vàng, vì vậy thường tạo nên những cơn sốt vàng và ngoại tệ,
càng làm giảm khả năng chuyển đổi của VND.
2.6.4. Dự trữ ngoại hối thấp
Bảng 2.18: Dự trữ ngoại hối Việt Nam giai đoạn 2001–2010
Đơn vị tính: tỷ USD
Năm
2001
2002
2003
2004 2005 2006 2007 2008 2009
2010
6,314
8,6
11,5 21,0 23,0 14.1
12.4
Dự trữ ngoại hối 3,387 3,692 5,619
Nguồn: ADB, IMF Country Report No.09/110, the case of Vietnam [62]
Theo báo cáo của IMF dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt mức cao nhất là
vào 2 năm 2007, 2008 đạt mức 15 tuần nhập khẩu, vượt mức an toàn của IMF là
12-14 tuần nhập khẩu, đó là do trong 2 năm này kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh,
kiều hối chuyển về nước tăng và cán cân vốn cũng tăng mạnh. Tuy nhiên, so
sánh với luồng vốn ngắn hạn chảy mạnh vào trong 2 năm này, thì dự trữ ngoại
hối như vậy là còn thấp.
Đến năm 2009 mức dự trữ ngoại hối càng giảm mạnh chỉ còn tương đương
10 tuần nhập khẩu, đó là do những nguyên nhân khách quan của khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế thế giới đã làm cho kim ngạch xuất khẩu nước ta giảm
mạnh, chuyển tiền kiều hối giảm từ 1-1,2 tỷ USD và nhất là nguồn vốn đầu tư
vào Việt Nam FDI giảm mạnh vốn thực hiện dự báo giảm 16,5% [21], FII
chuyển ra ròng khoảng 560 triệu USD. Năm 2010, dự trữ ngoại hối sụt giảm chỉ
còn hơn 7 tuần nhập khẩu, giảm 12% so với năm 2009, một trong những yếu tố
chính làm sụt giảm dự trữ ngoại hối là do thâm hụt cán cân thanh toán, do nhập
siêu liên tục, trong năm 2009 nước ta nhập khẩu lên tới 84-85 tỷ USD, như vậy
cần phải dự trữ 20 tỷ USD mới đảm bảo nhập khẩu. Mức dự trữ như hiện nay là
119
quá thấp so với các nước trong khu vực như Philippine 62.4 tỷ USD, Malaysia
106.5 tỷ USD năm 2010 (theo báo cáo của ADB năm 2011).
Như vậy, tình hình dự trữ ngoại tệ của Việt Nam thấp chủ yếu là do: (1)
Cán cân thương mại thường xuyên thâm hụt, thặng dư của cán cân vốn lại giảm
dần từ năm 2008 đến nay đến nay, (2) Lỗi và sai sót trên cán cân thanh toán
quốc tế của Việt Nam quá cao năm 2009 hơn 1,3 tỷ USD, năm 2010 gần 1,1 tỷ
USD, điều này cho thấy lượng ngoại tệ vào có tăng nhưng không được tập trung
vào hệ thống ngân hàng và nguồn thu ngoại tệ còn nằm tản mạn trong dân cư,
trong các công ty. (3) Việc phối hợp chưa được chặc chẽ giữa Bộ Tài chính và
NHNN về quản lý nguồn thu ngoại tệ do xuất khẩu dầu thô làm hạn chế khai thác
hiệu quả nguồn thu ngoại tệ còn khan hiếm của đất nước.(4) Định hướng chiến
lược quản lý dự trữ ngoại hối chủ yếu mới chỉ đặt ra mặt cơ cấu đảm bảo an toàn
tài sản, hình thức đầu tư còn đơn giản chủ yếu dưới hình thức tiền gửi tại các
ngân hàng, các công cụ tài chính như trái phiếu chính phủ, chưa áp dụng các hình
thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao như đầu tư vào cổ phiếu hay uỷ thác đầu tư
vào các quỹ.
2.6.5. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện
Pháp lệnh ngoại hối và Nghị định 160 đã được ban hành để quản lý hoạt
động kinh doanh ngoại hối theo khuôn khổ pháp luật, nhưng Thông tư hướng dẫn
thực hiện chế tài xử phạt do vi phạm pháp lệnh ngoại hối trong việc sử dụng
ngoại tệ thanh toán, yết giá hàng hóa trong nước gây trở ngại cho việc kiểm tra,
giám sát và xử phạt không đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp và giảm hiệu
quả của pháp lệnh và nghị định.
Các văn bản pháp lý qui định giao dịch phái sinh đã có nhưng chưa đầy đủ :
(1) Hạn chế về kỳ hạn đối với giao dịch kỳ hạn, (2) Không có những văn bản
hướng dẫn cụ thể thực hiện giao dịch quyền chọn, trong khi đó quyền chọn là
một sản phẩm phái sinh phức tạp về cách thực hiện cũng như cách tính phí.
120
Kết luận chương 2
Chương 2 đã trình bày những nét chung của TTNH thế giới và khu vực
ngày nay, những yếu tố thuận lợi và bất lợi đã tác động đến sự phát triển TTNH,
đồng thời phân tích thực trạng của TTNH Việt Nam. Nêu những hạn chế của
TTNH đó là: Thứ nhất, hoạt động của TTNTLNH chiếm tỷ lệ quá thấp so với
tổng doanh số giao dịch ngoại tệ trên thị trường, thứ hai là vai trò của NHNN
chưa phát huy hiệu quả đối với sự phát triển TTNH trong giai đoạn hội nhập, thứ
ba là sự tồn tại và hoạt động mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính thức,
thứ tư là thị trường ngoại tệ phái sinh còn sơ khai chưa được phát triển.
Trên cơ sở đó Luận án đã tóm tắt những mặt đạt được và những hạn trong
quá trình phát triển TTNH của Việt Nam thời gian qua, đồng thời đưa ra nguyên
nhân mà chủ yếu những thiếu sót trong quá trình điều hành chính sách tỷ giá và
thực thi những biện pháp quản lý ngoại hối là những nhân tố tác động trực tiếp
đến quá trình hoạt động và phát triển của TTNH nói riêng và nền kinh tế nói
chung để làm cơ sở cho những giải pháp trong chương 3.
121
CHƯƠNG 3
NHỮNG BIỆN PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
NGOẠI HỐI VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
3.1. Cơ sở và định hướng phát triển TTNH
3.1.1. Cơ sở phát triển thị trường ngoại hối
3.1.1.1. Căn cứ vào thành quả đạt được trong quản lý kinh tế của Việt Nam
trong những năm gần đây
TTNH là thị trường cấp cao trong hệ thống tài chính của một quốc gia, thị
trường chỉ có thể phát triển được cùng với sự phát triển của nền kinh tế với
những thành quả nhất định để làm cơ sở vật chất và trình độ nghiệp vụ cho hoạt
động của TTNH và ngược lại sự phát triển TTNH sẽ là nhân tố thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế thông qua vai trò là cầu nối khơi thông dòng chảy vốn ngoại
tệ thu hút và khai thác hiệu quả nguồn vốn ngoại tệ. Chính vì thế, dựa vào thành
quả đạt được trong nền kinh tế để xem xét khả năng của nền kinh tế trong việc
phát triển TTNH là cần thiết.
Cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam vừa hoàn thành chiến lược phát triển kinh
tế xã hội 2001 – 2010 với những kết quả đáng khích lệ. Trong 10 năm, kinh tế
đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7,26%/năm với cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển
biến tích cực, thể chế kinh tế thị trường tiếp tục được hoàn thiện, quy mô nền
kinh tế tăng gấp 3,3 lần năm 2000. [20]
Điểm qua những thành tựu đạt được trong 3 năm gần đây, để thấy được sự
linh hoạt trong điều hành nền kinh tế trong bối cảnh mở cửa chịu nhiều tác động
của những yếu tố ngoại sinh.
Khủng hoảng tài chính trong năm 2008, 2009 đã đẩy kinh tế thế giới vào
tình trạng suy thoái, đồng thời làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị
trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế -
122
xã hội khác của nước ta. Cùng với đó là bão lũ xảy ra liên tiếp, dịch bệnh bùng
phát ở nhiều địa phương. Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam vẫn đạt được
những thành quả nhất định, kiềm chế lạm phát, chỉ số tăng giá tiêu dùng tháng
12/2009 so với tháng 12/2008 tăng 6,52%, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu tăng
dưới 10% Quốc hội đề ra; chỉ số tăng giá bình quân năm 2009 là 6,88%, thấp
nhất trong 6 năm gần đây.
Năm 2010, với diễn biến kinh tế thế giới thuận lợi hơn, cùng với sự năng
động của nền kinh tế, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,8%. Trong bối cảnh
gần như cả thế giới, kể cả những nền kinh tế phát triển tiếp tục lâm vào tình trạng
khủng hoảng nợ và chưa khắc phục xong cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu xuất phát từ Mỹ năm 2008, thì nền kinh tế Việt Nam vẫn
kiểm soát được hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô ở mức chấp nhận được. Tốc độ
tăng tín dụng tổng quát xung quanh 25%, đạt mức kỳ vọng; Thị trường bất động
sản khá ổn định ở mức không bị trồi, sụt quá lớn; Vốn đăng ký đầu tư trực tiếp
nước ngoài đạt 17,2 tỉ USD, vốn giải ngân tăng 10% so với 2009 và gần mức kỷ
lục 11,5 tỉ USD năm 2008; Xuất khẩu đạt 71,6 tỉ USD; Nhập siêu chỉ còn 17,3%
tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu; Tăng trưởng GDP khá, ở mức 6,78%.
[20].Việt Nam vẫn đứng trong số các nước tăng trưởng khá trong khu vực châu
Á.
Trên cơ sở những thành tựu đạt được của giai đoạn 2000-2010, chính phủ
đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011 - 2020, với mục tiêu
của Việt Nam là bảo đảm kinh tế vĩ mô, đạt được tốc độ tăng trưởng bền vững,
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, duy trì xã hội
ổn định, đồng thuận, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tăng
cường công tác bảo vệ môi trường, chủ động đối phó với biến đổi khí hậu, nâng
cao hiệu quả của công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế, bảo đảm quốc phòng an
ninh, tạo nền tảng để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
123
Cụ thể, năm 2011 mục tiêu chính phủ đặt ra là tốc độ tăng trưởng GDP sẽ
từ 7-7.5%, đảm bảo môi trường vĩ mô ổn định, đồng thời từng bước khắc phục
những tồn tại vốn có của nền kinh tế là cơ sở hạ tầng, thể chế và nguồn nhân lực
thì với nội lực sẵn có, nền kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 7% một cách
ổn định và bền vững.
Bên cạnh đó, những tổ chức quốc tế đã đánh giá khá tốt về môi trường đầu
tư của Việt Nam, cho thấy Việt Nam là một thị trường đầy hứa hẹn cho đầu tư,
kinh doanh quốc tế phát triển.
Xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam trong Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn
cầu của Diễn đàn kinh tế Thế giới đã tăng lên vị trí 59 trong 139 nước trong năm
2010( từ vị trí 75 trong năm 2009) về môi trường đầu tư của Việt Nam, và xếp
hạng trong Chỉ số thuận lợi thương mại cũng diễn đàn này tăng lên vị trí 71 trong
125 quốc gia( từ vị trí 89 trong năm 2009).
Điều tra triển vọng đầu tư thế giới (WIPS) 2009 – 2011 của Diễn đàn
thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) cho thấy: Việt Nam là một
trong 15 nền kinh tế hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Những yếu
tố được các nhà đầu tư đánh giá là hấp dẫn ở Việt Nam vẫn là tốc độ phát triển
thị trường, khả năng thâm nhập và thị trường khu vực, nhân công rẻ và ưu đãi
đầu tư.
Theo báo cáo về môi trường kinh doanh 2011 do Ngân hàng Thế giới và
Công ty tài chính quốc tế IFC vừa thực hiện, Việt Nam xếp thứ 4 trong số 10 nền
kinh tế có mức độ cải cách nhất trong năm 2010 trên 3 lĩnh vực là thành lập
doanh nghiệp, cấp giấy phép xây dựng và vay vốn tín dụng.
3.1.1.2.Căn cứ vào sự tăng trưởng của hệ thống ngân hàng
Để tham gia TTNH thì các chủ thể tham gia thị trường phải có năng lực về
cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu, trong những chủ thể tham gia TTNH thì
ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất vì vậy xem xét đến sự phát triển hệ thống
ngân hàng của một quốc gia sẽ cho biết khả năng phát triển TTNH nói riêng và
thị trường tài chính nói chung của quốc gia đó.
124
Theo số liệu của IMF ngành ngân hàng ở Việt Nam đã mở rộng đáng kể
những năm gần đây, tổng tài sản của ngành đã tăng gấp 2 lần trong giai đoạn
2007-2010 từ 1057 tỷ đồng( 52,4tỷ USD) lên 2669 nghìn tỷ đồng(128 tỷ USD),
con số này được dự báo sẽ tăng lên 3667 nghìn tỷ đồng(175,4tỷ USD) vào cuối
năm 2012. Việt Nam cũng nằm trong danh sách 10 quốc gia có tốc độ tăng
trưởng tài sản ngân hàng nhanh nhất theo thống kê của The Banker, đứng vị trí
thứ hai chỉ sau Trung quốc. Trong đó Eximbank là ngân hàng duy nhất của Việt
Nam nằm trong tốp 25 ngân hàng có tốc độ tăng nhanh nhất về tài sản trong năm
2010, đứng ở vị trí thứ 13[74]. Thứ hai, hệ thống ngân hàng liên tục duy trì tăng
trưởng lợi nhuận và khả năng sinh lời khá tốt bất chấp khủng hoảng tài chính
trong nước, khu vực và thế giới, mức trung bình tăng trưởng lợi nhuận của 8
NHTM hàng đầu của Việt Nam là 46% trong năm 2008, 59% trong năm 2009 và
31% trong năm 2010, kết quả kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài không
được công bố rộng rãi, tuy nhiên đại diện của khối này là HSBC Việt Nam đã đạt
mức tăng trưởng 40% lợi nhuận sau thuế năm 2010.
Hệ thống ngân hàng lớn mạnh về vốn, lợi nhuận gia tăng chứng tỏ năng lực
kinh doanh của các ngân hàng đã có sự phát triển nhất định về trình độ kỹ thuật,
nghiệp vụ và quản trị rủi ro, đây là cơ sở điều kiện để các NHTM có thể tham gia
với TTNH khu vực và thế giới.
3.1.1.3. Căn cứ mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Tuy Việt Nam mới gia nhập WTO được hơn 3 năm nhưng tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã trải qua gần 20 năm, từ đầu thập niên 1990
đã bắt đầu tiếp nhận luồng vốn FDI và trở thành thành viên ASEAN vào năm
1995. Từ năm 1996, nước ta bắt đầu thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung(CEPT), nhằm thiết lập khu vực thương mại tự do trong khối
ASEAN(AFTA). Một cột mốc quan trong trong quá trình hội nhập là vào năm
2000 Việt Nam ký và thực hiện năm 2001 Hiệp định thương mại song phương
với Hoa Kỳ với những nội dung và chuẩn mực cam kết sát với nội dung WTO.
Tiếp đến là Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc
125
được ký kết vào năm 2002, nội dung chính của Hiệp định là xây dựng một khu
vực thương mại tự do ASEAN-Trung quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm. Lĩnh
vực tự do hóa bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư cũng
như các hợp tác khác về tài chính, ngân hàng. Vào năm 2007, Việt Nam gia nhập
WTO, phải thực hiện một số nội dung liên quan đến thị trường tài chính như sau:
cam kết mở cửa thị trường thông qua cắt giảm thuế quan; chính sách giá cả minh
bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với các qui định của WTO, các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động theo tiêu chí thương mại, nhà nước không can thiệp
trực tiếp hay gián tiếp vào họat động của doanh nghiệp, chấp nhận điều khoản
phi thị trường trong khoảng thời gian tối đa là 12 năm, cam kết mở cửa thị trường
dịch vụ tài chính, kiểm toán, kế toán, bảo hiểm…
Tháng 12/2008 khu vực thương mại tự do ASEAN-Nhật Bản ( AJFTA)
được thiết lập và có hiệu lực ngay với một số cam kết. Vào đầu năm 2009, khu
vực thương mại tự do ASEAN-Úc-Newzealand( ACERFTA) được ký kết. Các
Hiệp định tự do thương mại khu vực song phương có mức độ mở cửa còn cao
hơn cam kết trong WTO.
Qua những mốc lịch sử trên, có thể thấy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
tự do hoá thương mại, đầu tư và chuyển sang thể chế kinh tế thị trường của Việt
Nam đang diễn ra ngày càng sâu rộng và không thể đảo ngược. Hội nhập kinh tế
chúng ta sẽ có điều kiện tốt hơn để mở rộng họat động ra nước ngoài và thâm
nhập thị trường nước ngoài dễ dàng hơn vì được đối xử bình đẳng tốt hơn
Thực tế cho thấy, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải cách đáng kể theo hướng
thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính – ngân hàng trước yêu cầu phát
triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời xây dựng
cơ sở tài chính hạ tầng để sẳn sàng tiếp nhận những cơ hội cũng như chuẩn bị
ứng phó với những thách thức của quá trình mở cửa mang đến. TTNH Việt Nam
là một trong những cơ sở hạ tầng tài chính chịu nhiều tác động của quá trình hội
nhập đó, đánh giá những yếu tố thuận lợi cũng như bất lợi do quá trình hội nhập
126
tài chính mang đến để từ đó có thể tận dụng những cơ hội nhằm thúc đẩy TTNH
phát triển đồng thời hạn chế những rủi ro do quá trình mở cửa mang đến.
3.1.2. Định hướng phát triển TTNH
3.1.2.1. Phát triển TTNH là bước đi tất yếu trong quá trình hoàn thiện và phát
triển thị trường tài chính của Việt Nam
Hội nhập kinh tế song hành với quá trình hội nhập về tài chính, vì thế Việt
Nam phải có những bước chuẩn bị để đón nhận những thời cơ lẫn những thách
thức của quá trình hội nhập đối với hệ thống tài chính. Thực tế, Việt Nam chưa
có một TTTC hoàn thiện mà đang trong quá trình xây dựng và phát triển, nhưng
muốn có TTTC phát triển thì phải phát triển đồng thời thị trường vốn và TTNH.
TTNH hoạt động hiệu quả sẽ làm tăng thanh khoản tạo điều kiện cho thị
trường vốn hoạt động sôi nổi, TTNH không chỉ hỗ trợ cho các nhu cầu thanh
toán ngoại tệ cho các giao dịch vãng lai và các giao dịch vốn, thị trường còn cung
cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, và là một kênh hỗ trợ cho Chính phủ
điều tiết thị trường tiền tệ. Một TTNH phát triển sâu rộng sẽ hỗ trợ cho tất cả các
mục tiêu của chính sách ngoại hối, từ đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán, nâng
cao khả năng tự do chuyển đổi của VND, đến việc điều hành chính sách tỷ giá
mục tiêu có hiệu quả. Ngược lại, thị trường vốn, thị trường tiền tệ phát triển sẽ
tạo điều kiện cho TTNH hoạt động hiệu quả hơn.
Vì thế, chiến lược phát triển TTNH phải nằm trong chiến lược tổng thể của
thị trường tài chính.
Dự báo đến năm 2020 TTTC Việt Nam sẽ phát triển mạnh, ổn định và hội
nhập sâu vào TTTC quốc tế. Hệ thống ngân hàng sẽ có những cải cách mạnh mẽ
sau khủng hoảng, có thể sẽ đưa đến việc thành lập các tập đoàn tài chính mới hội
nhập sâu rộng vào thị trường tài chính quốc tế, có qui mô vốn lớn, hoạt động đa
năng.
Trong dài hạn, với điều kiện kinh tế tăng trưởng bền vững, khu vực tài
chính Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện tốt để tăng trưởng, mở rộng hoạt động,
127
tăng cường sức cạnh tranh và mở rộng ra thị trường quốc tế. Sự hội nhập của nền
kinh tế Việt Nam vào kinh tế khu vực và quốc tế, và việc tiến hành tự do hóa tài
chính từng bước cũng yêu cầu hệ thống tài chính trong nước phải có sự điều
chỉnh trong cơ cấu hoạt động, năng lực quản trị rủi ro, tăng cường khả năng
chống đỡ đối với các cú sốc từ bên trong và bên ngoài, để có thể phát triển bền
vững.
3.1.2.2. Xây dựng hệ thống tài chính an toàn và hội nhập
Trong quá trình phát triển TTNH cần chú trọng đến nền tài chính còn sơ
khai doanh số còn thấp, kiến thức và kinh nghiệm của ngân hàng về công cụ giao
dịch phái sinh phức tạp như quyền chọn, giao dịch tiền tệ tương lai cũng như
trình độ kiến thức kinh tế thị trường của doanh nghiệp, cá nhân còn hạn chế. Vì
thế, phản ứng của nền kinh tế trước những chính sách vĩ mô, trước sự tác động
của khủng hoảng kinh tế sẽ có những diễn biến khó lường. Những nhà kinh
doanh, đầu tư, người dân thường bị yếu tố tâm lý chi phối mạnh, dẫn dắt và ứng
xử theo bầy đàn. Điều này cũng do môi trường có yếu tố thông tin bất đối xứng,
nguồn dữ liệu chưa được kiểm định, không thống nhất nhau giữa các cơ quan
thông tin ảnh hưởng mạnh đến việc phân tích và dự báo về diễn biến thị trường.
Để phát triển TTTC Việt Nam hoạt động an toàn và hiệu quả, đảm bảo an
ninh tài chính quốc gia; giám sát các luồng vốn; mở cửa khu vực tài chính theo
các cam kết quốc tế, cần có những giải pháp cơ bản về cơ chế và giám sát thị
trường tài chính nhằm hạn chế rủi ro.
Căn cứ vào những điểm tương đồng về thể chế chính trị và cơ sở hạ tầng
của nền kinh tế, và cùng xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị
trường, nước ta có thể dựa vào kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá trình mở
cửa và phát triển TTNH. Đáp ứng yêu cầu hội nhập nhưng vẫn đảm bảo độc lập
trong thực thi chính sách theo mục tiêu đề ra.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, mức độ tự do hóa các giao dịch ngoại
hối của Việt Nam hiện nay đã ngang với các nước có dự trữ ngoại hối lớn, đủ sức
can thiệp và đáp ứng cho thị trường. Pháp lệnh Ngoại hối của Việt Nam ban hành
128
năm 2005 được đánh giá là có độ mở lớn hơn điều lệ quản lý ngoại hối của Trung
Quốc ban hành năm 2008, các quy định về giao dịch vãng lai có độ mở ngang
nhau, các giao dịch vốn được thực hiện tự do hơn và rất thông thoáng.
Tuy nhiên, Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển chưa thực sự bền
vững, lạm phát cao, dự trữ ngoại hối của nhà nước còn mỏng, nhập siêu tăng qua
các năm, nếu hoạt động ngoại hối được tự do quá, sẽ gây khó khăn cho cơ quan
quản lý nhà nước, gây sức ép lên tỷ giá và ngăn cản việc tăng dự trữ ngoại hối.
Dựa vào cơ sở và định hướng trên, để phát triển TTNH Việt Nam trong tiến
trình mở cửa và hội nhập kinh tế, luận án đưa ra những biện pháp sau
3.2. Những biện pháp phát triển TTNH trong hội nhập kinh tế
3.2.1. Hoàn thiện TTNH theo hướng hiện đại và hội nhập
3.2.1.1. Minh bạch hóa thông tin trên thị trường
Phát triển TTNH theo hướng ngày càng hoàn thiện dần những đặc điểm cơ
bản vốn có của một TTNH là thị trường hoạt động hiệu quả, mà theo đó những
thông tin tác động đến tỷ giá được những nhà kinh doanh tiền tệ, những người có
những giao dịch liên quan đến ngoại tệ có thể tiếp cận dễ dàng. Muốn vậy, cần
thực hiện minh bạch hóa thông tin trên TTNH, thông qua các hình thức:
(1)NHNN phải là nơi cung cấp thông tin chính thống làm cơ sở dữ liệu để
hoạch định kế hoạch, chiến lược kinh doanh. Đồng thời những cơ quan chức
năng khác cũng phải xác định cập nhật và cung cấp thông tin thuộc trách nhiệm
của cơ quan và nêu rõ cách tính toán và sai số thống kê (nếu có). Ngoại trừ
những thông tin ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, còn những thông tin liên quan
đến hoạt động thị trường cần phải được công khai tạo điều kiện cho những người
có liên quan tiếp cận dễ dàng nhằm đảm bảo sự cạnh tranh hoàn hảo cho thị
trường.
Cụ thể với giải pháp này NHNN nên thường xuyên cập nhật thông tin trên
trang Web của NHNN, công khai các thông tin cần thiết về chính sách tiền tệ, về
mục tiêu tăng trưởng, lạm phát, để giúp doanh nghiệp và người dân hiểu đúng,
129
hiểu đầy đủ bản chất của mọi diễn biến trong nền kinh tế nói chung và thị trường
ngoại tệ nói riêng và trên cơ sở đó có ứng xử phù hợp.
Trên TTNH Việt Nam còn thiếu vắng vai trò của các công ty tư vấn tài
chính chuyên nghiệp, vì thế đồng thời với quá trình minh bạch hóa thông tin nên
khuyến khích thành lập các công ty phân tích và dự báo tỷ giá chuyên cung cấp
thông tin liên quan đến sự thay đổi của tiền tệ, đây cũng là một biện pháp hổ trợ
những nhà đầu tư có vốn nhưng không có kinh nghiệm kinh doanh.
(2)NHNN khi xây dựng chính sách về tỷ giá, nên có những cuộc tranh luận
để xác định mức tỷ giá thích hợp cho từng thời điểm. Bởi vì, khi đưa ra bất cứ
mức tỷ giá nào mà không có lý do chính đáng, không mang tính thuyết phục cao
và giải thích rõ ràng sẽ tạo ra sự hoài nghi và bị tâm lý đám đông chi phối làm thị
trường hỗn loạn, mục tiêu chính sách có thể bị phá sản.Trong những trường hợp
có những luồng dư luận gây tâm lý xáo trộn làm thị trường biến động bất thường,
NHNN phải kịp thời thông tin rộng rãi trên những phương tiện truyền thông và
trong những trường hợp hợp cần thiết phải công khai mức dự trữ ngoại hối để
người dân, doanh nghiệp an tâm về sự nhất quán trong quá trình thực thi chính
sách của nhà nước.
3.2.1.2. Mở rộng các chủ thể kiến tạo thị trường
Để TTNH là thị trường có hiệu quả phải có đầy đủ các chủ thể với các chức
năng khác nhau tham gia thị trường ngoại hối. Mỗi chủ thể với chức năng là nhà
tạo lập thị trường, nhà môi giới, tư vấn, đầu cơ và chức năng can thiệp thị trường
của NHNN sẽ làm cho thị trường hoạt động sôi nổi, tính thanh khoản cao, đáp
ứng nhu cầu đa dạng của những thành viên tham gia và tác động ngược lại làm
cho thị trường hoạt động hiệu quả hơn.
Muốn vậy, NHNN mở rộng số lượng các thành viên tham gia TTNH, nới
lỏng các qui định và thủ tục rườm rà để lôi kéo nhiều tổ chức tài chính tham gia
thị trường. Đồng thời, để TTNH phát triển phù hợp với tiến trình hội nhập quốc
tế, ngoài thành viên là các tổ chức tín dụng cần phải mở rộng thêm cho những tổ
chức kinh tế, cá nhân có thể tham gia thông qua các tổ chức môi giới. Việc đầu tư
130
vào ngoại tệ cũng tương tự như việc đầu tư vào các loại tài sản khác, nhà đầu tư
có thể mở tài khoản giao dịch ngoại tệ tại các công ty môi giới tương tự như tài
khoản chứng khoán rồi nạp VND hoặc USD vào tài khoản và giao dịch mua bán
ngoại tệ. Khi muốn rút tiền, họ sẽ phải bán ngoại tệ ra thị trường để lấy VND.
Bằng cách này, tuy họ có tài khoản đầu tư bằng ngoại tệ nhưng trên thực tế ngoại
tệ không chảy ra khỏi hệ thống ngân hàng.[65]
Ngoài ra, NHNN nên nhìn nhận chính xác hơn về khái niệm đầu cơ trên
TTNH, theo lý thuyết hoạt động cơ ngoại tệ là tạo trạng thái ngoại tệ mở với mục
đích để kiếm lời thông qua sự biến động của tỷ giá và chấp nhận rủi ro nếu tỷ giá
biến động ngược với dự đoán, có thể ví von hành động của họ là tấm đệm để
thẩm thấu những rủi ro mà những người bảo hiểm rủi ro tỷ giá bán lại trên thị
trường. Một thị trường có người bán sẽ có người mua thì thị trường mới hoạt
động sôi nổi và tính thanh khoản mới cao.
Tuy nhiên, để thị trường hoạt động theo khuôn khổ pháp luật, đảm bảo an
toàn hệ thống tài chính cần phải có hệ thống giám sát, theo dõi phát hiện kịp thời
những hành động đầu cơ gây rối loạn thị trường, đây là điều không thể tránh khỏi
khi mở cửa thị trường chúng ta phải chuẩn bị đón nhận tất cả những cơ hội lẫn
thách thức do quá trình mở cửa mang đến. Vấn đề là nên chủ động để đối phó,
trên cơ sở học tập kinh nghiệm trong quản lý và điều hành TTNH của những
quốc gia tiên tiến trên thế giới.
3.2.1.3. Hoàn thiện các sản phẩm ngoại hối phái sinh
Giao dịch ngoại hối phái sinh đã xuất hiện ở Việt Nam khoảng 10 năm, tuy
nhiên như đã nhận xét trong chương 2, TTNH phái sinh hầu như dậm chân tại
chỗ chưa phát triển, ngoài những nguyên nhân khách quan còn do yếu tố chủ
quan là những giao dịch phái sinh được thực hiện chưa hoàn toàn phù hợp với
những tập quán quốc tế, chưa phát huy hết những tiện ích cho người sử dụng. Vì
thế để phát triển TTNH phái sinh, cần phải hoàn thiện các sản phẩm này với
những biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, mở rộng kỳ hạn đối với giao dịch kỳ hạn
131
Theo quyết định 648/2004/QĐ-NHNN, giao dịch kỳ hạn có kỳ hạn tối thiểu
là 3 ngày và thời hạn tối đa là 365 ngày. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có những
khoản đầu tư, thanh toán bằng ngoại tệ có thời hạn dài hơn 365 ngày, nếu khách
hàng có nhu cầu sử dụng hợp đồng kỳ hạn để bảo hiểm rủi ro tỷ giá trong những
trường hợp này thì họ không thể thực hiện được. Trong khi trên thế giới kỳ hạn
trong các giao dịch kỳ hạn này đều do hai bên tham gia tự thỏa thuận. Như vậy,
để tránh tình trạng khách hàng có nhu cầu sử dụng hợp đồng kỳ hạn nhưng lại
không thực hiện được do hạn chế về quy định kỳ hạn tối đa là 365 ngày, NHNN
cần xem xét việc dỡ bỏ kỳ hạn tối đa của giao dịch kỳ hạn để các chủ thể tham
gia giao dịch chủ động hơn trong việc sử dụng các hợp đồng kỳ hạn. Điều này
không những tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia thị trường với mục đích kinh
doanh, đầu tư hay bảo hiểm có nhiều kỳ hạn để lựa chọn và đáp ứng nhu cầu đa
dạng trong kinh doanh có như vậy các NHTM mới có thể phát triển sản phẩm và
tăng cường doanh số giao dịch.
Thứ hai, để các NHTM được chủ động tính toán tỷ giá kỳ hạn
Trong các giao dịch ngoại hối phái sinh được cho phép sử dụng tại Việt
Nam giao dịch ngoại hối kỳ hạn có khung pháp lý quy định khá rõ ràng, và trong
những năm gần đây đã được hoàn thiện, cách tính tỷ giá kỳ hạn đã dần phù hợp
hơn với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, để tỷ giá này phù hợp với ý nghĩa là tỷ giá
giao ngay kỳ vọng trong tương lai thì các yếu tố hình thành nên tỷ giá phải là
những yếu tố thị trường tác động trực tiếp lên tỷ giá, đó là: tỷ giá giao ngay, lãi
suất thị trường của 2 đồng tiền liên quan và kỳ hạn tương ứng. Nhưng theo cách
xác định hiện tại thì lãi suất được sử dụng là lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam
do NHNN Việt Nam công bố và lãi suất mục tiêu của USD do Cục Dự Trữ Liên
Bang Mỹ (FED) công bố. Dù cách tính này tiến bộ hơn so với cách quy định mức
gia tăng cho phép đối với mỗi kỳ hạn cố định được áp dụng từ trước năm 2004
tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp.
Đó là, lãi suất để tính tỷ giá kỳ hạn không phải là lãi suất tiền gửi và lãi suất
cho vay của VND và USD, nghĩa là không do cung cầu của thị trường tiền tệ
132
quyết định mà là do sự điều chỉnh của Chính phủ Việt Nam và Mỹ nên chưa
phản ánh đúng thị trường, có khi không phản ánh đúng chênh lệch lãi suất tiền
gửi và lãi suất cho vay tương ứng của VND và USD trên thị trường ngoại hối
Việt Nam. Do đó có thể làm cho tỷ giá kỳ hạn không sát với thực tế, đặc biệt với
những kỳ hạn dài thì điểm kỳ hạn được tính quá rộng trong khi thực tế thì tỷ giá
có thể không biến động mạnh đến vậy. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng tỷ giá kỳ
hạn bán ra của ngân hàng thường cao hơn tỷ giá giao ngay tại thời điểm hợp
đồng đến hạn, làm cho các doanh nghiệp bảo hiểm rủi ro đều thấy bất lợi nếu sử
dụng giao dịch kỳ hạn so với mua ngoại tệ giao ngay tại thời điểm thanh toán.
Vì vậy, để cách tính tỷ giá kỳ hạn phản ánh đúng những diễn biến của thị
trường và để giảm bớt những bất hợp lý giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay
của kỳ hạn đó thì nên để các NHTM tự xác định tỷ giá kỳ hạn dựa trên các mức
lãi suất tiền gửi và cho vay của thị trường. Việc xác định tỷ giá kỳ hạn do mỗi
ngân hàng thực hiện đòi hỏi ngân hàng phải tính toán kỹ lưỡng khi đưa ra tỷ giá
kỳ hạn, bởi vì lúc này các ngân hàng phải cạnh tranh nhau để đưa ra tỷ giá phù
hợp nhất, và nếu tỷ giá kỳ hạn được xác định vượt mức khách hàng chấp nhận thì
khách hàng sẽ mua bán trên thị trường giao ngay hoặc giao dịch với các ngân
hàng khác có mức giá cạnh tranh hơn và ngân hàng sẽ mất đi cơ hội kinh doanh.
Thứ ba, xóa bỏ việc ký quỹ trong giao dịch kỳ hạn
Một vấn đề nữa trong việc sử dụng giao dịch kỳ hạn đó là các NHTM nên
bỏ qui định ký quỹ khi thực hiện hợp đồng[14] Tuy là một biện pháp nhằm hạn
chế rủi ro trong trường hợp khách hàng hủy bỏ hợp đồng khi đến hạn. Trường
hợp này xảy ra khi đến hạn thanh toán hợp đồng, tỷ giá lại có sự biến động quá
lớn so với tỷ giá thực hiện, gây nguy cơ thua lỗ cao cho khách hàng.
Trong giai đoạn hiện nay, khi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được
phép thâm nhập ngày càng sâu rộng vào TTTC nước ta, thì những biện pháp
không phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ làm giảm tính cạnh tranh của các NHTM
Việt Nam so với các ngân hàng quốc tế.
Thứ tư, xem lại cách tính tỷ giá trong giao dịch hoán đổi ngoại tệ
133
Thay đổi cách tính tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch hoán đổi ( nên sử dụng tỷ
giá giao ngay đã áp dụng trong vế giao ngay để tính tỷ giá kỳ hạn) như vậy sẽ có
lợi cho khách hàng hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế, đây là giai đoạn ban
đầu hội nhập việc sử dụng phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo cơ hội cho TTNH
Việt Nam có thể liên thông dễ dàng với TTNH thế giới, đồng thời khuyến khích
khách hàng sử dụng đa dạng các công cụ phái sinh bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
Thứ năm, mở rộng thực hiện giao dịch quyền chọn
Để khuyến khích sử dụng giao dịch quyền chọn, NHNN nên cho phép thực
hiện trở lại việc sử dụng quyền chọn ngoại tệ với VND, thay vì chỉ cho phép thực
hiện ngoại tệ với ngoại tệ, vì hiện nay ở Việt Nam mục đích sử dụng giao dịch
quyền chọn chủ yếu là bảo hiểm rủi ro tỷ giá, nếu các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu không thể mua quyền chọn bằng VND mà phải thông qua một ngoại tệ
khác, thì việc bảo hiểm sẽ không còn ý nghĩa vì nếu ngoại tệ được chọn làm
trung gian để bảo hiểm không biến động cùng chiều ( tăng cùng tăng, giảm cùng
giảm) và không tương thích về độ tăng giảm của tỷ giá với ngoại tệ cần bảo hiểm
kết quả sẽ ngược lại. Thực tế cũng đã chứng minh điều này, khi NHNN ra quyết
định không cho thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ và VND thì doanh số
giao dịch quyền chọn sụt giảm trầm trọng.
Bên cạnh đó, với ý kiến lo ngại việc các NHTM sử dụng giao dịch quyền
chọn như một hình thức để mua bán ngoại tệ lách trần tỷ giá qui định, NHNN có
thể kiểm tra thông qua việc lựa chọn mẫu vài hợp đồng quyền chọn, nếu hợp
đồng quyền chọn mua ngoại tệ có tỷ giá thực hiện cao hơn tỷ giá giao ngay ( E
>S) tại thời điểm thực hiện hợp đồng mà khách hàng vẫn quyết định thực hiện
hợp đồng mua ngoại tệ là điều phi lý và có thể thấy ngay đây là một hợp đồng
quyền chọn núp bóng để né trần tỷ giá. Mặt khác, có thể hạn chế về kiểu quyền
chọn chỉ cho phép thực hiện quyền chọn kiểu Châu Âu vào ngày đáo hạn mới
được phép thực hiện
Thứ sáu, nên đưa dần giao dịch tương lai tiền tệ vào thực hiện
134
Trên cơ sở giao dịch tương lai hàng hóa thép, coffee, gạo, đã được các ngân
hàng triển khai thực hiện. Như vậy bước đầu thị trường cũng đã làm quen dần
với một công cụ phái sinh được sử dụng để bảo hiểm rủi ro về giá cả. Có thể tổ
chức các buổi hội thảo đúc kết kinh nghiệm và giới thiệu về giao dịch này.Chuẩn
bị những điều kiện cần thiết để đưa giao dịch tiền tệ tương lai vào thực hiện trước
tiên cần phải có sàn giao dịch tập trung.
Ngoài những biện pháp cụ thể nêu trên, NHNN cần thay đổi nhận thức rằng
các sản phẩm phái sinh là mang tính đầu cơ, cờ bạc. Sản phẩm phái sinh vừa là
công cụ phòng ngừa rủi ro vừa là công cụ để đầu cơ. Nhà đầu cơ chính là nhà đầu
tư rủi ro, họ sử dụng các phân tích đánh giá thị trường và chấp nhận rủi ro để ra
quyết định mua bán những giá trị trong tương lai, nếu những dự đoán của họ
đúng thì họ lời, ngược lại phải gánh chịu thua lỗ.
Tuy nhiên, thị trường các sản phẩm phái sinh là một loại thị trường cao cấp,
rất phức tạp, dễ bị lợi dụng để đầu cơ lũng đoạn thị trường nên rất cần các nhà
quản lý tài giỏi nhiều kinh nghiệm và phải được quản lý chặt chẽ, thường xuyên
cập nhập số liệu để quản lý và phát hiện các biểu hiện không bình thường của thị
trường để có chính sách can thiệp cần thiết, không để nó hoạt động và phát triển
theo hướng tiêu cực.
3.2.1.4. Khuyến khích thành lập các công ty môi giới, công ty tư vấn
Các công ty môi giới đóng vai trò là cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ trên
TTNH, tăng tính thanh khoản cho thị trường. Các doanh nghiệp cũng như ngân
hàng dễ dàng hơn khi muốn mua hoặc bán ngoại tệ, sẽ kích thích hoạt động của
thị trường trở nên sôi động hơn.
Giao dịch thông qua môi giới có ưu điểm là nhu cầu mua bán được lan
truyền nhanh, nhà đầu tư có thể giữ bí mật chiến lược kinh doanh khi đặt lệnh
thông qua môi giới và giá mà môi giới cung cấp là giá cạnh tranh nhất. Do đó,
vai trò của nhà môi giới là cần thiết cho TTNH, nước ta chưa có tổ chức môi giới
chuyên nghiệp vì vậy trong quá trình phát triển TTNH cần chú ý đến yếu tố này.
135
Trước tiên, để thành lập các công ty môi giới ngoại hối nên dựa trên những
cơ sở sẳn có của các NHTM từ việc thành lập công ty con với chức năng môi
giới ngoại hối, bởi vì ngân hàng là tổ chức kinh tế có những chuyên gia về lĩnh
vực tài chính- ngân hàng, có sẳn khách hàng có nhu cầu về mua bán ngoại tệ. Sau
đó từng bước thành lập các công ty môi giới hoạt động độc lập, mà những công
ty này có thể là những người kinh doanh vàng và ngoại tệ trên thị trường tự do
hiện nay, việc đưa họ vào kinh doanh trên thị trường chính thức vừa đưa dần hoạt
động ngoại tệ vào khuôn khổ luật pháp vừa phát huy được những kinh nghiệm về
kinh doanh ngoại tệ đồng thời cũng là biện pháp thu hẹp hoạt động của thị trường
ngoại tệ không chính thức.
Hoạt động tư vấn ở Việt Nam còn chưa được chú trọng, trong khi kiến thức
về kinh doanh ngoại hối, khả năng phân tích thị trường của những nhà đầu tư,
kinh doanh ngoại tệ chưa đủ để tiếp cận thị trường, mà thị trường thế giới ngày
càng biến động phức tạp, việc nắm bắt thông tin kịp thời để đưa ra quyết định
đúng đắn là một trong những yếu tố thành công của hoạt động kinh doanh ngoại
hối. Dịch vụ tư vấn này có thể do chính các ngân hàng có hoạt động kinh doanh
ngoại hối cung cấp, hay là công ty độc lập bởi các tổ chức truyền thông có sự
hợp tác của các chuyên gia về hoạt động đầu tư kinh doanh ngoại hối.
Các công ty môi giới và tư vấn phải được thành lập và hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật và phải được cấp phép của NHNN để tham gia trên TTNH
Việt Nam với chức năng trên được xem như là một thành viên chính thức của
TTNH.
3.2.1.5. Xây dựng lộ trình thành lập sàn giao dịch ngoại tệ
Theo mô hình TTNH của Trung Quốc có những điểm phù hợp về bộ máy tổ
chức với hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, theo đó sự phân công quản lý về
hoạt động ngoại hối là Vụ Quản lý ngoại hối, có trách nhiệm tham mưu giúp
Thống đốc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động quản lý ngoại hối,
trong đó bao gồm quản lý quản lý TTNH, TTNTLNH, quản lý trạng thái ngoại
hối của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối. Như vậy là Vụ
136
quản lý ngoại hối có trách nhiệm giống như ban quản lý ngoại hối của Trung
Quốc (SAFE) cũng quản lý cả hai thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường
bán lẻ.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa có Hệ thống giao dịch ngoại tệ (CFETS) được hoạt
động như sàn giao dịch ngoại tệ, trên thị trường ngoại hối Trung Quốc, CFETS là
sàn giao dịch hoạt động trên cơ sở các thành viên với một hệ thống giao dịch điện
tử toàn quốc, được tổ chức trên thị trường liên ngân hàng. Với một cơ chế giao
dịch đấu giá mở tương tự như một nhà môi giới điện tử, giao dịch với nhau trên
sàn hoặc qua hệ thống giao dịch từ xa, sàn giao dịch điện tử sẽ ngay lập tức khớp
các lệnh[60].
Nhưng mô hình xây dựng sàn giao dịch của Việt Nam không hoàn toàn giống
như của Trung Quốc vì CFETS phải chịu sự kiểm soát quá chặt chẽ của PBOC và
theo định hướng của nền kinh tế độc quyền phi thị trường, làm cho các thành viên
trên CFETS giao dịch không mang tính cạnh tranh sàn giao dịch ngoại hối của
Việt Nam khi xây dựng sẽ định hướng theo cơ chế thị trường chế thị trường, và
chịu sự quản lý của Sở giao dịch ngoại hối (The Foreign Exchange) được tổ chức
như hình thức Sở giao dịch chứng khoán hiện nay.
Để TTNH Việt Nam phát triển có thể thực hiện đa dạng các loại giao dịch
ngoại hối phái sinh cần phải có Sở giao dịch tổ chức thực hiện vì giao dịch tương
lai tiền tệ chỉ có thể thực hiện được khi có Công ty thanh toán bù trừ là đại diện
của Sở giao dịch đứng ra thực hiện quá trình thanh toán và bù trừ cho các bên.
Sở giao dịch chịu trách nhiệm xây dựng các qui chế hoạt động, ban hành các
qui định để là thành viên của Sở giao dịch, thành lập sàn giao dịch ,các trung
tâm thanh toán bù trừ, các công ty thanh khoản thành viên để theo dõi tài khoản
của các nhà kinh doanh.
3.2.1.6. Đa dạng hóa các ngoại tệ trong giao dịch
Hiện nay, TTNH nước ta vẫn giao dịch chủ yếu bằng USD, điều này cũng
do tác động của thị trường trong thời gian qua của nước ta. Tuy nhiên, với xu
hướng đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán quốc tế thì cần thiết đòi hỏi phải đa
137
dạng hóa ngoại tệ giao dịch trên TTNH để hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc
tế góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương và đầu tư quốc tế phát triển.
Việc nhiều ngoại tệ được giao dịch trên thị trường cũng giúp đa dạng hóa
cơ cấu ngoại tệ của quốc gia cũng như cơ cấu dự trữ ngoại hối. Bên cạnh đó, đây
cũng là một yếu tố làm tăng tính mở của TTNH, hỗ trợ cho việc tăng khả năng
chuyển đổi của VND.
Đa dạng các ngoại tệ làm cho lượng ngoại tệ được giao dịch sẽ nhiều hơn,
hàng hóa trên thị trường sẽ phong phú hơn như vậy doanh số giao dịch sẽ gia
tăng và TTNH sẽ hoạt động hiệu quả hơn.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối
3.2.2.1. Về điều hành tỷ giá
Khi nền kinh tế ngày càng hội nhập, dù chưa hoàn toàn tự do hóa tài khoản
vốn nhưng dưới yêu cầu của những cam kết khi gia nhập WTO luồng vốn sẽ
di chuyển dễ dàng hơn đã đặt ra thách thức mới đối với việc kiểm soát luồng
vốn, điều hành chính sách tiền tệ và cơ chế tỷ giá mà những nhà nghiên
cứu gọi là "bộ ba bất khả thi": (i) tỉ giá hối đoái cố định; (ii) tự do hóa tài
khoản vốn và (iii) sự độc lập của chính sách tiền tệ. Các nhà làm chính sách
hiểu rằng chỉ có thể đạt được 2 trong 3 mục tiêu trên cùng một lúc, vì nếu tự do
hóa luồng vốn mà thực thi chính sách tỷ giá cố định cần phải mua ngoại tệ vào
đưa nội tệ ra làm tăng lượng cung tiền ảnh hưởng đến việc thực hiên mục tiêu
của chính sách tiền tệ, vì thế nếu muốn tự do hóa dòng vốn và ổn định tiền tệ
thì phải thả nổi tỷ giá. Tương tự để có thể vừa thực hiện chính sách tỷ giá cố
định vừa đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ thì cần phải kiểm soát
dòng vốn không thể tự do hóa
Điều này đã được chứng minh trong giai đoạn năm 2007-2009, khi lượng
ngoại tệ chảy vào gia tăng mạnh mẽ, NHNN đã phải mua USD để ổn định tỷ
giá và không thực hiện trung hòa kịp thời cùng với giá nguyên liệu thế giới gia
tăng đã làm tăng mức lạm phát, ngay cả khi trung hòa kịp thời thì lãi suất vẫn
138
bị tác động ảnh hưởng mục tiêu của chính sách tiền tệ. Như vậy, việc hội nhập
kinh tế đã đặt ra cho NHNN những thách thức về điều hành chính sách vĩ mô
nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng.
Để thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt cần phải xác định:
Thứ nhất, nên xây dựng một cơ chế điều hành tỷ giá linh động vừa hoạt
động trong điều kiện bình thường vừa sử dụng khi có các cú sốc từ bên ngoài hay
khi khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Vì vậy, chính sách tỷ giá nên được xây dựng theo
hướng thiên về thả nổi nhằm phản ánh đúng những biến động của thị trường
nhưng NHNN sẽ có những hành động can thiệp kịp thời đúng thời điểm thông
qua việc mua vào và bán ra ngoại tệ khi tỷ giá biến động quá mức, kết hợp với
việc kiểm soát luồng vốn. Tuy nhiên, để tỷ giá của TTLNH là tỷ giá phù hợp với
giá trị thực của VND thì hoạt động trên TTLNH phải hiệu quả sự tham gia đặt
lệnh mua bán của các chủ thể trên thị trường phải sôi nổi doanh số chiếm tỷ trọng
lớn và vai trò tham gia của NHNN chỉ là thành viên của thị trường và đóng vai
trò can thiệp.
Như vậy, tỷ giá hàng ngày được công bố phải theo tín hiệu thị trường,
trong một ngày tỷ giá cũng có thể tăng và giảm chứ không chỉ có một tỷ giá cố
định trong suốt ngày và thậm chí là suốt tuần như trước hay cố định một thời
gian lâu rồi sau đó lại tăng mạnh như cách điều hành tỷ giá từ trước nay, mà nên
thay đổi có tăng có giảm hàng ngày vì: (1) Chính sự tăng giảm đó mới tạo cơ hội
cho hoạt động kinh doanh ngoại hối phát triển, vì nếu giá cả của thị trường(tỷ
giá) cứ cố định thì sẽ không có rủi ro tỷ giá và không cần thực hiện bảo hiểm rủi
ro, như vậy sẽ không có các chủ thể muốn bảo hiểm rủi ro hạn chế lượng thành
viên tham gia thị trường.
(2) Việc điều hành tỷ giá tạo ra tâm lý kỳ vọng sự tăng giá USD như bao
lâu nay cũng không phù hợp với xu thế vận động của thị trường mà nên linh hoạt
hơn phù hợp với diễn biến của cung cầu tiền tệ trên thị trường.
Để có thể xác định tỷ giá phù hợp với cơ chế thị trường vấn đề cần phải đặt
ra là NHNN phải có đội ngũ chuyên viên giỏi, kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh
139
doanh ngoại hối phải được giao quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm và về tỷ giá
đã tính toán, nhằm thực hiện được mục tiêu chính sách tỷ giá đưa ra.
Cơ chế tỷ giá linh hoạt phù hợp với sự biến động cung cầu trên thị trường
sẽ giúp cho TTNH hoạt động hiệu quả.
Thứ hai, xóa bỏ cơ chế neo tỷ giá vào USD mà nên xác định tỷ giá trên cơ
sở neo tỷ giá vào một rổ tiền với cơ cấu các tiền tệ theo tỷ trọng thương mại của
những quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam. Tỷ giá VND được phản
ánh chính xác hơn và ít bị phụ thuộc riêng vào sự mạnh yếu của USD, tình trạng
Đô la hóa thị trường cũng sẽ giảm. Tỷ giá đó phải được tính toán để thực hiện
mục tiêu của chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng nội
tệ .
Một cơ chế quản lý phù hợp phải đi kèm với việc xây dựng một hệ thống
giám sát tài chính hiệu quả, thường xuyên giám sát các hoạt động trên TTNH để
kịp thời ngăn chặn các hành vi lũng đoạn thị trường, đầu cơ… và cảnh báo nguy
cơ xảy ra khủng hoảng tiền tệ để kịp thời ứng phó.
NHNN cần xây dựng qui chế thông tin, thống kê, hệ thống hóa kịp thời số
liệu luồng ngoại tệ ra vào trong nước, từ đó dự báo quan hệ cung cầu trên thị
trường để làm căn cứ điều hành chính sách tỷ giá và quản lý TTNH hiệu quả hơn.
TTTT và TTNH có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Do
đó, lãi suất với bản chất là giá cả trên TTTT và tỷ giá với bản chất là giá cả trên
TTNH cũng có tác động lẫn nhau. Đối với những quốc gia duy trì cơ chế tỷ giá
thả nổi và lãi suất thả nổi, thì khi chênh lệch lãi suất của một cặp đồng tiền không
tương thích với sự biến động của tỷ giá thì theo qui luật ngang giá lãi suất với tác
động của các lực lượng thị trường thông qua những hoạt động kinh doanh chênh
lệch giá sẽ đưa tỷ giá đến vị trí cân bằng mới.
Ở Việt Nam, với chính sách lãi suất chưa thả nổi hoàn toàn và tỷ giá theo cơ
chế thả nổi có quản lý để tránh hiện tượng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản,
NHNN bằng các nghiệp vụ của mình tác động để giảm lãi suất huy động USD
xuống làm tăng chênh lệch lãi suất giữa VND và USD, tăng tính hấp dẫn của tiền
140
đồng lên, từ đó hạn chế hiện tượng găm giữ ngoại tệ giảm bớt tình trạng căng
thẳng về ngoại tệ.
3.2.2.2. Về tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa tài khoản vốn theo lộ
trình
Việt Nam đã cam kết thực hiện tự do hoá tài khoản vãng lai theo pháp lệnh
ngoại hối không hạn chế nhu cầu mua ngoại tệ hợp lý hợp pháp của những cá thể
và các tổ chức kinh tế nhưng trong thực tế nhu cầu chính đáng về ngoại tệ của
người dân, doanh nghiệp chưa được đáp ứng kịp thời, đầy đủ. Những nhà đầu tư
nước ngoài khi chuyển ngoại tệ vào đầu tư, họ có nhu cầu chính đáng khi có lợi
nhuận sẽ bán VND mua ngoại tệ để chuyển về nước, nhưng TTNH Việt Nam
thường xuyên ở trong tình trạng cầu lớn hơn cung và ngân hàng gặp khó khăn
cho việc thỏa mãn nhu cầu mua ngoại tệ của nhà đầu tư, chính điều này là một
trong những nguyên nhân làm giảm sức thu hút của thị trường Việt Nam đối với
các nhà đầu tư nước ngoài, làm hạn chế nguồn ngoại tệ chảy vào ảnh hưởng đến
nguồn cung ngoại tệ trên thị trường, vì thế cần phải hoàn thiện tốt những cam kết
về tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai. Muốn vậy NHNN cần có
những biện pháp tăng cường thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, đảm bảo
cân bằng cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện thực hiện tốt thanh toán quốc tế, thúc
đẩy hoạt động ngoại thương phát triển.
Giao dịch quan trọng trong tài khoản vãng lai của nước ta đó là kiều hối, là
khoản chuyển tiền một chiều không có rủi ro với số lượng lớn góp phần bù đáng
kể vào tình trạng thâm hụt cán cân thương mại, cần tạo mọi điều kiện tốt nhất để
gia tăng nguồn kiều hối, đồng thời áp dụng các biện pháp kinh tế có kết hợp biện
pháp hành chính để khoản ngoại tệ này sẽ được thu hút vào hệ thống ngân hàng
nhằm phát huy lợi thế của nguồn ngoại tệ này.
Tuy chính sách cơ chế quản lý ngoại hối của nước ta trong thời kỳ hội nhập
phải đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế, hướng đến tự do hóa thị trường tài
chính- tiền tệ-ngoại hối. Nhưng không có nghĩa là buộc chúng ta phải ngay lập
141
tức phải thực thi các chính sách quản lý tự do hóa hoàn toàn như các nền kinh tế
phát triển, mà cần dựa vào thực tiễn, hoàn cảnh của nước ta hiện nay.
Trong giai đoạn này và trong vài thập niên tới, nhu cầu xây dựng cơ sở hạ
tầng, cũng như thực hiện các chương trình kinh tế xã hội lớn của nhà nước rất
cần vốn vì thế, chúng ta cần phải tập trung quản lý ngoại tệ từ mọi nguồn về một
đầu mối là NHNN, từ nguồn thu xuất khẩu dầu thô, đến tất cả các nguồn thu xuất
khẩu khác, nhằm sử dụng tốt nguồn ngoại tệ của nước ta trên phương châm phát
huy hết sức mạnh nội lực rồi mới đến huy động nguồn vốn từ bên ngoài, bởi vì
chúng ta đều hiểu rằng vốn đầu tư của nước ngoài vào làm cho cán cân vốn thặng
dư, trong ngắn hạn sẽ giúp cải thiện cán cân vãng lai thâm hụt, nhưng trong
tương lai luồng vốn này sẽ được chuyển ra dưới hình thức lợi nhuận hay chuyển
vốn về nước.
Nói như vậy, để thấy rằng việc tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài
là rất cần thiết nhưng việc quản lý nguồn vốn vào và ra nhằm phát huy hiệu quả
của vốn đầu tư vừa có những biện pháp ứng phó kịp thời khi có những bất ổn của
việc đảo chiều luồng vốn xảy ra là hết sức quan trọng. Theo tiến trình hội nhập,
Việt Nam đã và đang thực thi cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hoá
tài khoản vốn có giới hạn. Tiếp tục phát huy theo định hướng trên, Việt Nam nên
tự do hóa giao dịch theo một lộ trình tự do hoá dòng vốn vào và chưa nên tự do
hóa luồng vốn chảy ra, vì những lý do sau:
- Việt Nam không đưa ra cam kết cụ thể về mặt thời gian đối với việc tự
do hóa giao dịch vốn.
- Việt Nam đang trong giai đoạn thâm hụt cán cân thương mại lớn, đang
rất cần vốn để xây dựng, vì vậy ưu tiên cho các luồng vốn vào là điều cần quan
tâm.
- Tự do hóa giao dịch vốn là vấn đề quan trọng nhưng rất phức tạp và cần
được tiến hành một cách có trật tự và thận trọng, tùy thuộc và điều kiện của mỗi
nước, những lợi ích tiềm năng và khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính.
142
Để có thể thực hiện nới lỏng quản lý giao dịch vốn phải tăng cường kỷ luật
tài chính, minh bạch hóa hệ thống kế toán, kiểm toán, tăng cường thanh tra, giám
sát và phòng ngừa rủi ro, trong đó việc thực hiện minh bạch hóa thông tin đóng
vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực của các quyết định chính sách và
biện pháp điều chỉnh.
Đối với luồng vốn vào, tự do hóa vốn đi dần từng bước, trước tiên với
nguồn vốn dài hạn, như luồng vốn FDI, vì luồng vốn này ít bị những biến động
về tài chính như các luồng vốn khác, nếu có hiện tượng đảo chiều luồng vốn ra
nước ngoài thì cũng không gây ra khủng hoảng tài chính như luồng vốn ngắn
hạn, từng bước mở cửa thị trường vốn trong nước theo phạm vi và trình tự hợp
lý, phù hợp dần với thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh.
Luồng vốn ngắn hạn nên giám sát chặt chẽ, có biện pháp điều chỉnh cơ cấu luồng
vốn nước ngoài theo hướng hạn chế rủi ro của các luồng vốn ngắn hạn thông qua
các chính sách kinh tế vĩ mô và kiểm soát các luồng vốn, phù hợp với yêu cầu
của nền kinh tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, nhằm ổn
định thị trường và tỉ giá hối đoái.
Đối với dòng vốn đầu tư ra nước ngoài, NHNN cần nhanh chóng ban hành
các Thông tư hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với hoạt động ĐTRNN nhằm tạo
khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho công tác quản lý, theo dõi, giám sát của các cơ
quan chức năng và tạo điều kiện cho nhà đầu tư mua và chuyển ngoại tệ ra đầu tư
nước ngoài trong giai đoạn tiền khả thi, điều tra thăm dò khảo sát, trước khi có
Giấy chứng nhận đầu tư. Ngoài ra, để đối phó với tình trạng doanh nghiệp sử
dụng nguồn ngoại tệ không đúng với mục đích, NHNN cần có chế tài cụ thể để
cảnh cáo, trừng phạt. Đối với những dự án đã đi vào hoạt động và có nguồn thu
nhập ổn định, doanh nghiệp đã mở tài khoản ngoại tệ tại nước đầu tư để hoạt
động. NHNN cần phải giám sát hoạt động thu chi trên tài khoản đó, đồng thời
yêu cầu thực thi việc báo cáo theo đúng Nghị định 78/2006-NHNN.
143
3.2.3. Phát huy vai trò của NHNN- phát triển TTNT liên ngân hàng
3.2.3.1. Phát huy vai trò của NHNN
Phát triển TTNH theo định hướng để thực thi chính sách tiền tệ của NHNN
đề ra trong từng giai đoạn, thì chức năng can thiệp TTNH của NHNN rất quan
trọng nhằm tác động lên cung cầu ngoại tệ, theo đó NHNN phải thực thi đúng vai
trò là người mua bán cuối cùng trên TTNTLNH. Khi các NHTM cần mua ngoại
tệ NHNN phải bán và ngược lại khi các NHTM dư ngoại tệ bán thì NHNN phải
mua vào có như vậy tạo tính thanh khoản cho thị trường để tránh găm giữ ngoại
tệ cũng như tâm lý kỳ vọng sự tăng tỷ giá. Nếu NHNN không bán ngoại tệ khi
cầu lớn hơn cung sẽ tạo cơ hội cho giới đầu cơ tung tin đồn về sự sụt giảm dự trữ
ngoại hối, làm người dân hoang mang và sẽ tăng cường cất giữ ngoại tệ càng
trầm trọng thêm tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại tệ đồng thời làm giảm
hiệu quả về sử dụng ngoại tệ.
Với chức năng can thiệp TTNH, động thái mua bán ngoại tệ của NHNN
như phát tín hiệu cho thị trường về sự thay đổi của tỷ giá, thông qua đó NHNH sẽ
điều hành tỷ giá theo mục tiêu đề ra. Vì thế, khi nào nên mua và nên bán NHNN
phải có phương án cụ thể để thực hiện đúng thời điểm mới phát huy tác dụng,
tránh tình trạng thực hiện biện pháp tình thế, chịu sự dẫn dắt của TTKCT, làm
mất đi vai trò định hướng thị trường của NHNN. Khi đó tỷ giá hình thành trên
TTLNH sẽ tác động đến tỷ giá giao dịch trên TTNH khách hàng qua đó NHNN
đã gián tiếp tác động đến hoạt động của TTNH cả nước.
Để có thể tác động kịp thời lên TTNH điều quan trọng là NHNN phải có
lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh, vì thế vấn đề quản lý, sử dụng quỹ dự trữ ngoại
hối cần đặc biệt chú trọng thông qua các biện pháp sau: (1)Xác định mức dự trữ
ngoại hối hợp lý phù hợp với qui mô của nền kinh tế, của tình hình tự do hóa cán
cân vãng lai và cán cân vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo vệ
giá trị đồng tiền, cân bằng giữa lợi ích điều hành chính sách tiền tệ và chi phí của
việc nắm giữ dự trữ ngoại hối. Theo thông lệ quốc tế phải dự trữ lượng ngoại tệ
đủ để đáp ứng các nhu cầu nhập khẩu, Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ quốc tế
144
(IMF) tại Việt Nam Il Houng Lee cho rằng: ” Trong điều kiện thị trường vốn, thị
trường tài chính chưa thực sự phát triển, tôi cho rằng, nguồn dự trữ ngoại tệ
tương đương 12 tuần nhập khẩu là đủ với Việt Nam trong thời điểm hiện nay, bởi
nguồn dự trữ này vừa đủ để Việt Nam thanh toán 100% khoản nợ ngắn hạn”.Tuy
nhiên, ông cũng khuyến cáo, Việt Nam nên tăng nhanh mức dự trữ ngoại tệ cần
nâng cao dự trữ lên mức hợp lý đảm bảo đủ can thiệp duy trì sự ổn định trên thị
trường ngoại hối cũng như của cả hệ thống tài chính và toàn bộ nền kinh tế, có
thể chống đỡ cú sốc từ bên ngoài và duy trì sức mạnh kinh tế của quốc gia.
(2)Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời
gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của
mình nhưng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị
mất giá, có thể xem xét sử dụng thêm vàng vào cơ cấu dự trữ ngoại hối, vì theo
xu hướng hiện nay của các NHTW trên thế giới, khi nền kinh tế thế giới có
những bất ổn thì vàng là nơi trú ẩn an toàn hơn. Đồng thời để tăng hiệu quả đồng
vốn dự trữ có thể xem xét đầu tư với phương châm an toàn và có tính thanh
khoản cao như mua trái phiếu của những quốc gia được xếp hạng có uy tín.
(3)Phải tập trung nguồn ngoại tệ vào một đầu mối do NHNN quản lý, có
như vậy mới phát huy hết hiệu quả của vốn ngoại tệ cũng như tạo điều kiện cho
NHNN có đủ ngoại tệ dự trữ để tham gia can thiệp trên thị trường ngoại tệ khi
cần thiết. Nên chuyển nguồn thu ngoại tệ từ dầu thô mà Bộ Tài chính quản lý về
NHNN và khi Bộ Tài Chính cần ngoại tệ sẽ yêu cầu bán lại trên cơ sở bằng với
tỷ giá NHNN đã mua của Bộ Tài chính, có như vậy sẽ sử dụng hợp lý nguồn
ngoại tệ của quốc gia vừa đáp ứng nhu cầu ngọai tệ cần thiết của NSNN.
Ngoài ra, NHNN cần kết nối thị trường tiền tệ trong nước với thị trường
tiền tệ quốc tế nhằm tiếp cận các thông lệ quốc tế trong kinh doanh tiền tệ.
NHNN phải thực sự là đầu tàu dẫn dắt và khuyến khích TTLNH phát triển phù
hợp với môi trường quốc tế, có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh ngoại hối phát triển.
145
3.2.3.2. Phát triển TTNTLNH về khối lượng giao dịch và số lượng thành viên
Đặc điểm của TTNH trên thế giới là giao dịch trên TTNTLNH chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng doanh số giao dịch ngoại hối của quốc gia, mà trong đó
NHNN đóng vai trò là người tạo lập và điều tiết TTNH.
TTNTLNH là nơi để NHNN thực thi và điều hành chính sách tỷ giá tương
ứng với từng thời kỳ của nền kinh tế thông qua việc can thiệp vào cung cầu tiền
tệ trên thị trường. Đây cũng được coi là cơ sở để phát triển giao dịch giữa các
ngân hàng, là nơi các NHTM tham gia thực hiện kinh doanh cho chính mình và
mua bán ngoại tệ đáp ứng nhu cầu cho khách hàng. Do đó để hoạt động kinh
doanh ngoại hối phát triển, điều cần thiết cần thu hút nhiều ngân hàng tham gia
để tăng doanh số giao dịch giúp cho thị trường hoạt động sôi nổi. Bởi vì, từ khi
ra đời vào năm 1994 đến nay, doanh số giao dịch trên TTNTLNH vẫn chiếm tỷ lệ
thấp so với doanh số giao dịch và nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế, tính thanh
khoản của thị trường không cao thường chỉ giao dịch một phía, các NHTM đặt
lệnh mua nhiều hơn.
Doanh số giao dịch gia tăng sẽ có điều kiện thực hiện nhiều loại hình giao
dịch phái sinh giữa các ngân hàng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn, trên cơ sở
đó các NHTM mới phát triển được các giao dịch ngoại hối phái sinh trên thị
trường bán lẻ cho khách hàng, bởi vì các NHTM khi thực hiện các giao dịch phái
sinh cho khách hàng sẽ tìm kiếm giao dịch đối ứng trên TTNTLNH để bảo hiểm
cân bằng trạng thái ngoại hối.
Để tăng số lượng các thành viên trên TTNTLNH nên mở rộng đối tượng
được phép tham gia bao gồm các NHTM trong nước, liên doanh, nước ngoài và
cả các tổ chức kinh tế có vốn lớn nếu đáp ứng đủ các điều kiện do NHNN qui
định. Một TTNH phát triển phải có một TTLNH hoạt động hiệu quả có doanh số
chiếm tỷ trọng lớn và giao dịch chủ yếu trên TTLNH là giữa những NHTM và
các tổ chức phi ngân hàng, vai trò của NHNN chỉ đóng vai trò là người mua bán
cuối cùng chứ không phải đóng vai trò chủ yếu trong giao dịch.
146
Điều cần thiết là các NHTM phải có vốn ngoại tệ đủ lớn để trở thành nhà
tạo thị trường(maket makers) thực hiện chiến lược kinh doanh tiền tệ trên
TTNTLNH, muốn vậy phải có biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào hệ thống
ngân hàng.
3.2.3.3. Biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng
Thứ nhất, kết hợp những biện pháp vừa kinh tế vừa hành chánh, trong giai
đoạn này để đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ có thể học tập kinh nghiệm cuả
Trung Quốc về quản lý nguồn ngoại tệ, theo cách thức nới lỏng dần tỷ lệ kết hối:
trong các năm từ 1994 đến 1996, kết hối ngoại tệ 100%, đến năm 1997, các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp sản xuất được phép kinh
doanh xuất nhập khẩu được tự giữ một phần ngoại tệ trên tài khoản với mức
không quá 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm. Năm 2002, Trung
Quốc tiếp tục cho phép các doanh nghiệp trên được tự giữ ngoại tệ trên tài khoản
với mức không quá 20% nguồn thu ngoại tệ từ giao dịch vãng lai. Năm 2007, dự
trữ ngoại hối Trung Quốc đạt 1.528,249 tỷ USD, cán cân vãng lai thặng dư
371,832 tỷ USD, cán cân vốn thặng dư 73,454 tỷ USD, khi đó Trung Quốc mới
xóa bỏ chính sách kết hối ngoại tệ.
Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày
11/12/2001 trước Việt Nam 5 năm và Trung Quốc cũng phải thực hiện điều kiện
phải cam kết mở cửa lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán. Tuy nhiên,
việc yêu cầu các tổ chức kinh tế bán ngoại tệ cho ngân hàng không cản trở việc
thực hiện cam kết này.
Giao dịch vốn luôn là lĩnh vực nóng được quản lý chặt chẽ, cho đến nay
Trung Quốc vẫn chưa thực hiện tự do hóa giao dịch vốn. Nhờ thực hiện các
chính sách quản lý ngoại hối đồng bộ và linh hoạt, Trung Quốc đã thành công
trong việc điều hành tỷ giá, giải quyết được các khó khăn về cung cầu ngoại tệ,
đảm bảo cung ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển[60].
Như vậy so với Trung Quốc, Việt Nam chỉ mới yêu cầu những Tập đoàn,
Tổng công ty của nhà nước như Dầu khí, Than - Khoáng sản, Công nghiệp Hóa
147
chất, Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam, Tổng công ty Lương thực Miền
Bắc, Tổng công ty Lắp máy … bán ngoại tệ, chưa thực hiện biện pháp kết hối đối
với tất cả những tổ chức có nguồn thu ngoại tệ không phân biệt sở hữu. Trong
những trường hợp cần thiết có thể thực hiện biện pháp kết hối, vì cam kết tham
gia vào WTO có cho phép thực hiện những biện pháp phi thị trường trong một
thời gian tối đa là 12 năm [Phụ lục số 3]. Cụ thể Pháp lệnh Ngoại hối, tại khoản
2, điều 41 pháp lệnh này đã ghi: “Khi xét thấy cần thiết, để bảo đảm an ninh tài
chính, tiền tệ quốc gia, Chính phủ được áp dụng các quy định về nghĩa vụ bán
ngoại tệ của người cư trú là tổ chức”.
Thứ hai, cần phải kết hợp với biện pháp kinh tế để các tổ chức kinh tế tự
nguyện bán ngoại tệ cho ngân hàng, các ngân hàng có thể sử dụng các công cụ
ngoại hối phái sinh như mua ngoại tệ kỳ hạn với tỷ giá kỳ hạn được tính toán phù
hợp với cơ chế thị trường giảm bớt chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá
trên thị trường tự do nhưng vẫn tuân thủ đúng qui định về nguyên tắc xác định tỷ
giá do NHNN qui định. Để khuyến khích các đơn vị bán ngoại tệ NHTM sẽ tính
giá mua kỳ hạn cao, bằng cách lấy tỷ giá giao ngay là giá trần, lãi suất VND là lãi
suất tiền gửi và lãi suất USD là lãi suất tiền vay của thị trường ở Việt Nam chứ
không sử dụng theo lãi suất cơ bản VND và lãi suất USD do FED công bố.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp xác định được thời điểm cần ngoại tệ, NHTM
và doanh nghiệp có thể sử dụng hợp đồng hoán đổi ngoại hối, bán giao ngay và
mua kỳ hạn với cách xác định tỷ giá kỳ hạn bằng cách sử dụng tỷ giá giao ngay
đã áp dụng trong vế giao ngay như vậy sẽ có lợi cho doanh nghiệp hơn là sử
dụng hai giao dịch riêng lẻ. Thông qua việc ký hợp đồng hoán đổi như vậy doanh
nghiệp sẽ yên tâm có ngoại tệ để thanh toán tiền hàng trong tương lai, còn ngân
hàng mua được ngoại tệ để kinh doanh, hạn chế tình trạng NHTM dư ngoại tệ
trên tài khoản tiền gửi của khách hàng nhưng thiếu ngoại tệ để bán và xét ở góc
độ vĩ mô ngoại tệ được sử dụng hiệu quả.
Thứ ba, Chính phủ cần mở rộng nhiều dự án đầu tư hấp dẫn để thu hút
nguồn ngoại tệ trong dân cư vừa tăng cung ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng vừa
148
đáp ứng được nhu cầu đầu tư của người dân, hạn chế tình trạng cất trữ ngoại tệ
trong két sắt khi mà người dân thừa vốn nhưng không yên tâm với việc nắm giữ
VND.
Sự phát triển thị trường ngoại tệ chính thức còn là kết quả của sự thu hẹp thị
trường ngoại tệ không chính thức và ngược lại.
3.2.4. Tăng cường kiểm soát, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần hoạt động của thị
trường ngoại tệ không chính thức
Việc tồn tại thị trường ngoại tệ không chính thức đã ảnh hưởng nhiều đến
hoạt động kiểm soát và quản lý ngoại hối của NHNN. Một lượng lớn cung cầu
ngoại tệ nằm ngoài khả năng kiểm soát của Chính phủ làm cho việc xác định giá
trị bản tệ và hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia gặp nhiều khó khăn, đặc biệt
trong tình hình tài chính bất ổn và bị tác động bởi biến động của thị trường tài
chính toàn cầu.
Ở Việt Nam, những yếu tố để thị trường ngoại tệ không chính thức tồn tại
và phát triển xuất phát từ thực trạng kinh tế và cơ chế quản lý ngoại hối của Việt
Nam, nội dung chi tiết đã được liệt kê trong chương 2. Vấn đề hiện nay, để thu
hẹp và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thị trường bày cần phải áp dụng những biện
pháp mạnh tay hơn đồng thời phải kết hợp với các cơ quan chức năng để đạt
được hiệu quả tốt nhất.
Thứ nhất, cần triệt để nghiêm cấm việc mua bán ngoại tệ ngoài các TCTD
được phép. Để tăng cường hiệu lực của pháp lệnh ngoại hối cần phảỉ có những
chế tài về mặt kinh tế như xử phạt, tịch thu ngoại tệ, để có tác dụng răn đe gây
ảnh hưởng mạnh đến ý định thực hiện việc mua bán ngoại tệ ngoài thị trường.
NHNN phối hợp với các cơ quan chức năng công an, quản lý thị trường mới có
kết quả tốt, đồng thời nên có những biện pháp hổ trợ như tuyên truyền, thông tin
về pháp lệnh ngoại hối trên các phương tiện truyền thông báo, đài, để người dân
có thể biết và thực hiện tốt, đây là một khâu quan trọng đối với thực trạng của
nước ta, vì trãi qua một thời gian khá lâu mặc dù pháp lệnh đã ra đời từ năm
2006 nhưng rất ít người dân nắm được vì thế họ vô tình phạm luật, cũng như
149
chưa thấy ai bị phạt, bị tịch thu ngoại tệ, nên họ không sợ. Bên cạnh đó, còn do
sự tiện lợi do mua bán ngoại tệ trên thị trường không chính thức khi nào cần
ngoại tệ có thể đến tiệm vàng để mua dễ dàng và nhanh chóng trong khi đó nếu
đến NHTM sẽ phải xuất trình đầy đủ các loại chứng từ, mà nhiều khi không được
đáp ứng nhu cầu. Để cạnh tranh với thị trường ngoại tệ không chính thức NHNN
nên cho phép các NHTM thực hiện mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận như
đã triển khai thí điểm tại Eximbank.
Thứ hai, các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ phải đáp ứng đủ nguồn
ngoại tệ cho cá nhân và tổ chức có nhu cầu chính đáng, hợp lệ và hợp pháp. Mặc
dù kinh doanh là việc của mỗi ngân hàng nhưng NHNN có thể có những biện
pháp quản lý hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM thông qua việc kiểm
tra đột xuất, khi khách hàng cần ngoại tệ nhưng do tình trạng khan hiếm ngoại tệ,
các ngân hàng găm giữ và không chịu bán, NHNN có thể xử phạt bằng những
biện pháp kinh tế như khi ngân hàng cần mua ngoại tệ trên TTNTLNH, NHNN
sẽ không ưu tiên bán cho những ngân hàng đó.
Bên cạnh đó, các NHTM cũng nên hợp tác với NHNN trong việc tạo điều
kiện dễ dàng thuận lợi cho cá nhân cần mua ngoại tệ và tư vấn cho người dân có
thể thay thế sử dụng ngoại tệ mặt bằng các phương tiện thanh toán khác vừa an
toàn vừa hiện đại. Ngoài ra, các NHTM có thể bán ngoại tệ theo đúng loại ngoại
tệ của nước mà cá nhân đến nhằm giảm căng thẳng cầu USD, cũng như các
NHTM có kinh doanh ngoại tệ cũng phải mua cả những loại ngoại tệ khác
USD.[65]
Để giảm bớt tình trạng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản, các NHTM nên có
những chính sách khuyến khích các tổ chức kinh tế khi có thu ngoại tệ nếu bán
cho ngân hàng sẽ được ưu tiên bán lại ngoại tệ khi doanh nghiệp cần, hay có thể
thỏa thuận mua ngoại tệ theo tỷ giá có kỳ hạn. Về phía NHNN nên kết hợp chính
sách lãi suất và chính sách tỷ giá một cách hợp lý để khuyến khích nhà đầu tư
bán ngoại tệ chuyển sang VND nhằm tăng cường nguồn cung ngoại tệ đáp ứng
cho nhu cầu ngoại tệ cuả thị trường.
150
Thứ ba, rà soát và rút giấy phép các đại lý thu đổi ngoại tệ vi phạm pháp
lệnh ngoại hối, đồng thời củng cố và phát triển hoạt động thu đổi ngoại tệ do
ngân hàng thực hiện, vì hiện nay số lượng các phòng giao dịch của các ngân hàng
đã gia tăng đáng kể và có thể thực hiện thu đổi ngoại tệ mà không cần phải ký
hợp đồng với các đại lý. NHNN nên hổ trợ các ngân hàng mở phòng giao dịch
thu đổi ngoại tệ tại các cửa khẩu vùng biên để thay thế các hoạt động buôn tiền
của tư nhân vừa đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của cá nhân vừa thu mua lượng ngoại
tệ mặt trong dân cư. Thông qua đó, NHNN sẽ quản lý được hoạt động kinh
doanh ngoại tệ và thu hẹp dần hoạt động của thị trường ngoại tệ không chính
thức.
3.2.5. Hạn chế tình trạng đôla hóa và tạo khả năng chuyển đổi dần cho đồng Việt Nam
3.2.5.1. Hạn chế tình trạng đôla hóa một cách triệt để hơn
Để hạn chế những nguyên nhân gây nên tình trạng đôla hóa và làm giảm
khả năng chuyển đổi của VND, NHNN cần phải thực thi đồng thời các biện pháp
sau:
(1)Thiết lập hệ thống luật có chế tài phạt nặng việc thực hiện niêm yết và
thanh toán bằng ngoại tệ ở trong nước. Để chế tài trên có hiệu quả phải có sự
phối hợp với cơ quan chức năng để tăng cường kiểm tra kiểm soát việc thực hiện
pháp lệnh ngoại hối, triệt để kiên quyết thực hiện trong nước chỉ được thanh toán
bằng Việt Nam đồng.
(2) NHNN nên xây dựng lộ trình hạn chế cho phép cá nhân mở tài khoản
tiết kiệm ngoại tệ mà không xuất trình nguồn gốc hợp pháp của ngoại tệ. Để tập
trung nguồn ngoại tệ còn trôi nổi bên ngoài hệ thống ngân hàng, cũng như để thu
hút nguồn kiều hối, tạm thời trong giai đoạn này, chúng ta vẫn duy trì cho phép
cá nhân được mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại ngân hàng được
phép, nếu nguồn ngoại tệ này có nguồn gốc hợp pháp.
Theo qui định, các tổ chức kinh tế khi nhập ngoại tệ vào tài khoản phải
chứng minh nguồn gốc hợp pháp của nguồn ngoại tệ đó, nhưng cá nhân thì lại
151
không bị yêu cầu. Đây chính là kẻ hở trong quản lý ngoại hối gây ra nhiều hệ lụy
như: các tổ chức kinh tế giữ ngoại tệ trên tài khoản tiết kiệm cá nhân, khoản tiền
này có thể xuất phát từ những thu nhập bất hợp pháp hoặc của tội phạm. Tuy
nhiên, do pháp lệnh ngoại hối cho phép người dân có quyền giữ, gửi tiết kiệm và
bán ngoại tệ cho ngân hàng nên trong ngắn hạn chưa thể chấm dứt việc cá nhân
gửi tài khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ nhưng trong trung hạn, dài hạn sẽ tiến tới
xóa bỏ việc này.
Hạn chế việc rút ngoại tệ mặt sẽ giải quyết được vấn đề căng thẳng về cung
cầu ngoại tệ và sử dụng có hiệu quả lượng ngoại tệ trong nền kinh tế. Bên cạnh
đó việc hạn chế nắm giữ tiền mặt đôla Mỹ sẽ cắt đứt công cụ tiếp tay cho hoạt
động buôn lậu và TTKCT.
(3) Trong những thời điểm quan trọng có thể thi hành biện pháp hạn chế
cho vay bằng ngoại tệ, chỉ cho doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ vay,
nhằm giảm bớt sự căng thẳng về cung cầu ngoại tệ. Tuy nhiên đây chỉ là biện
pháp hành chính chỉ được áp dụng như một giải pháp tình thế, trong cơ chế hoạt
động của nền kinh tế thị trường thì việc chọn vay ngoại tệ hay nội tệ tùy thuộc
vào doanh nghiệp lựa chọn phương án vay nào khả thi hơn khi so sánh giữa lãi
suất của hai đồng tiền và có bảo hiểm rủi ro tỷ giá bằng công cụ phái sinh kỳ hạn.
Đối với các cá nhân vay vốn nước ngoài cho phép cá nhân được nhận tiền vay
bằng ngoại tệ trên tài khoản mở tại ngân hàng nhưng chỉ được rút VND để thực
hiện việc đầu tư, kinh doanh.
3.2.5.2. Nâng cao tính chuyển đổi của VND
Điều 3 Pháp lệnh ngoại hối có ghi rõ: “Thực hiện mục tiêu chính sách tiền
tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam”, nhưng cho đến nay
tính chuyển đổi của VND vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn.
Để thực hiện được điều này, cần thực hiện các biện pháp đồng bộ và phải
có sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng. có lộ trình, bởi vì điều này không
phải muốn là được như Trung Quốc có dự trữ ngoại hối lớn nhất, là nền kinh tế
152
vươn lên thứ hai thế giới nhưng CNYvẫn chưa phải là đồng tiền có khả năng
chuyển đổi cao.
Để nâng cao tính chuyển đổi của VND cần phải tiến hành từng bước theo lộ
trình:
Thứ nhất, thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của VND cho những giao dịch
trên tài khoản vãng lai, về mặt lý thuyết Việt Nam đã tự do hóa tài khoản vãng
lai, bằng pháp lệnh ngoại hối nhưng thực tế, có những giao dịch hợp pháp, được
phép thanh toán nhưng không mua được ngoại tệ vì ngân hàng không đủ ngoại tệ
để cung cấp cho nhu cầu chính đáng của người dân, của doanh nghiệp.
Thứ hai, xây dựng cơ chế từng bước đưa VND tham gia vào thanh toán
xuất nhập khẩu.Theo ý kiến của ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Ngân
hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) nói: “Ở một mức độ nào đó, việc
chuyển đổi đồng tiền bản địa trong thanh toán quốc tế ở thời điểm hiện nay có
thể làm được”. Theo ông, năm 2010, kim ngạch nhập khẩu cả nước là 84 tỷ USD,
nếu 10% trong số này (8,4 tỷ USD) được thanh toán cho đối tác bằng VND thì áp
lực tỷ giá sẽ giảm đi rất nhiều.[70]
Thứ ba, từng bước thực hiện tính chuyển đổi của VND đối với các giao
dịch trên tài khoản vốn thông qua việc cho phép sử dụng VND trong quan hệ
vay, trả nợ nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Các biện pháp trên chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở:
(1) Phát triển nền kinh tế bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị
VND, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện cán cân thanh toán.
(3) Nâng cao dự trữ ngoại tệ là điều kiện đảm bảo thực hiện tính chuyển
đổi của VND.
(4)Nâng cao chất lượng dich vụ của hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo đáp
ứng kịp thời nhanh chóng việc chuyển đổi đồng tiền phục vụ nhu cầu ngoại tệ
hợp pháp của người dân và tổ chức kinh tế.
153
(5) Nâng cao năng lực kinh doanh đàm phán ký kết hợp đồng của những
nhà kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm dành quyền lựa chọn VND trong thanh
toán.
Như vậy, có thể thấy rằng việc nâng cao tính chuyển đổi VND là vấn đề có
tầm vĩ mô đòi hỏi sự phát triển của nền kinh tế và sự hoàn thiện của hệ thống tài
chính.
3.2.6. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong hoạt
động kinh doanh ngoại hối
Trước tiên là tăng năng lực tài chính, hiện nay có 20/39 ngân hàng chưa
đáp ứng được yêu cầu vốn tối thiểu là 3000tỷ đồng (11 ngân hàng có vốn điều lệ
từ 1000 tỷ đồng trở xuống)[66] đang nỗ lực tìm vốn từ cổ đông hiện hữu, nhà đầu
tư chiến lược, phát hành cổ phần gọi vốn, chào bán cổ phần cho nhà đầu tư nước
ngoài. Con số 3000tỷ đồng( theo tỷ giá hiện nay tương đương 150 triệu USD) đối
với những ngân hàng nhỏ của Việt Nam là con số đáng kể nhưng so với các ngân
hàng khu vực thì còn khiêm tốn, nhất là để tham gia hoạt động kinh doanh ngoại
hối trên TTNH khu vực và thế giới; vì thế các ngân hàng thương mại của Việt
Nam cần tập trung nâng cao năng lực về vốn, để có thể phát triển các nghiệp vụ
kinh doanh ngoại hối, vốn lớn là điều kiện cần thiết để thực hiện hoạt động này
và tiềm lực vốn càng lớn khả năng cạnh tranh sẽ cao hơn.
Kế tiếp là nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ chuyên viên, vì kinh
doanh ngoại hối với đầy đủ hoạt động của nó là một lĩnh vực đòi hỏi trình độ
nghiệp vụ chuyên môn cao và bộ máy tổ chức phải khoa học. Cho nên những
ngân hàng muốn phát triển nghiệp vụ này cần phải: Tuyển chọn những chuyên
viên có trình độ cao có hiểu biết tốt về các loại sản phẩm phái sinh, có kinh
nghiệm trên thị trường kinh doanh tiền tệ quốc tế để lãnh đạo phòng ban này, làm
đầu tàu hướng dẫn và huấn luyện các nhân viên giao dịch, thường xuyên mở lớp
tập huấn đào tạo để cập nhật những kiến thức mới cũng như học hỏi rút kinh
nghiệm để nâng cao trình độ.
154
Tổ chức hoạt động của phòng kinh doanh theo mô hình chuyên môn hóa
cao có đủ ba phòng ban chức năng với đội ngũ chuyên nghiệp:
Đối với phòng kinh doanh giao dịch trực tiếp với khách hàng phải là những
giao dịch viên(Dealer) có sự nhạy bén trong kinh doanh có năng lực phân tích,
tổng hợp các yếu tố tác động đến tỷ giá để yết tỷ giá phù hợp, đồng thời phải xác
định chiến lược kinh doanh để thiết lập trạng thái ngoại tệ vừa phù hợp với thị
trường để đảm bảo nâng cao lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn, tránh rủi ro cao.
Đối với phòng hỗ trợ (back office) cần có những nhân viên có tính chu đáo
cẩn thận hạn chế sai sót về mặt nghiệp vụ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh .
Đối với phòng kiểm soát(Mid office): phải độc lập với 2 phòng trên và có
trách nhiệm theo dõi giám sát những giao dịch do các giao dịch viên ký kết, để
đảm bảo các giao dịch viên này tuân thủ những qui định kinh doanh ngoại hối về
hạn mức trạng thái ngoại tệ, về tỷ giá giao dịch, nhằm phát hiện sớm những giao
dịch có dấu hiệu vi phạm để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong kinh doanh.
Bởi vì, như chúng ta đã biết các giao dịch ngoại hối phái sinh như giao dịch
quyền chọn hay tương lai có tính đòn bẩy tài chính rất cao, vì thế có thể có những
giao dịch viên liều lĩnh chạy theo lợi nhuận cao mà rủi ro lớn, đặt ngân hàng vào
nguy cơ phá sản.
Hiện đại hóa hệ thống máy tính nối mạng, quản lý bằng hệ thống cơ sở dữ
liệu, trang bị các phần mềm tính phí quyền chọn và hệ thống EBS để có thể tham
chiếu giá cả và lượng giao dịch trên thị trường thế giới. Electronic Brokerage
System (EBS) là hệ thống môi giới cho các nhà kinh doanh, làm nghiệp vụ môi
giới dựa trên cơ sở kỹ thuật và dịch vụ thanh toán. EBS là thành viên của thị
trường chứng khoán Bắc Mỹ thông qua EBS, các nhà kinh doanh ngoại hối có
thể thấy được các luồng tiền di chuyển trên thị trường thế giới; các ngân hàng có
thể thấy được các lệnh trên thị trường mua và thị trường bán đang ở mức nào.
Nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối, song song
với những biện pháp phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối, các ngân hàng
155
cần phải quan tâm đến việc quản trị rủi ro do hoạt động kinh doanh này mang
đến.
Để hạn chế rủi ro và tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh, ngân hàng
cần chú ý đến các biện pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng hạn mức trạng thái ngoại tệ một cách linh hoạt và hợp
lý. Hạn mức (hay giới hạn trạng thái ngoại hối mở)là một công cụ quản trị rủi ro
hữu hiệu trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hạn mức này ngân hàng nên phân
định và giới hạn mức thua lỗ tối đa cho mỗi giao dịch ngoại hối tùy thuộc vào
năng lực kinh doanh, kinh nghiệm, trình độ của mỗi giao dịch viên. Đồng thời
phải ban hành các chế tài đối với những hành vi vi phạm, giao quyền đầy đủ và
tự chủ cho bộ phận giám sát, để chủ động xử lý kịp thời những trường hợp vi
phạm nhằm tăng tính kỷ luật trong kinh doanh và đảm bảo an toàn vốn cho ngân
hàng.
Thứ hai, quan tâm đến hoạt động phân tích và dự báo, trong giai đoạn hội
nhập kinh tế ngày càng sâu và rộng của thế giới ngày nay, sự tăng giảm giá của
bất cứ loại ngoại tệ mạnh nào, sự thay đổi chính sách kinh tế của những nước có
quan hệ thương mại với nước ta, giá cả của những sản phẩm thiết yếu như xăng,
dầu, vàng đều ngay lập tức ảnh hưởng đến tỷ giá, ảnh hưởng đến lãi lỗ trên trạng
thái ngoại hối của ngân hàng đó.
Đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối công tác phân tích và dự báo đóng
vai trò hết sức quan trọng, độ chính xác của hoạt động này sẽ giúp cho ngân hàng
lập chiến lược kinh doanh xác định hạn mức trạng thái, mức biến động tỷ giá đối
với ngoại tệ, để yết giá phù hợp nhằm thực hiện được chiến lược đã đề ra, cũng
như định giá và phí của các giao dịch một cách hợp lý vừa mang tính cạnh tranh
cao vừa phòng ngừa rủi ro.
3.2.7. Hoàn chỉnh khung pháp lý
Để phát triển TTNH an toàn và có hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc
gia, cần có cơ chể giám sát họat động thị trường, đồng thời với quan điểm nhà
nước không trực tiếp can thiệp vào thị trường nhưng phải giám sát chặc chẽ thị
156
trường tài chính nói chung và TTNH nói riêng thông qua khuôn khổ luật pháp.
Vì thế vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay NHNN phải hoàn thiện và bổ sung các
quy định về luật pháp, tạo môi trường pháp lý đồng bộ thông thoáng về hoạt
động tài chính tiền tệ cho hoạt động của thị trường tài chính
Hoạt động kinh doanh ngoại hối muốn phát triển được cần phải có khung
pháp lý đầy đủ, rõ ràng; vừa tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia dễ dàng hiểu
rõ và thực thi theo đúng pháp luật, vừa tạo điều kiện cho NHNN có thể kiểm tra
giám sát nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhà kinh doanh vừa bảo đảm hệ thống tài
chính được an toàn. Các biện pháp phải thực hiện là:
(1) Rà soát lại các văn bản pháp lý đã ban hành nhằm tránh sự mâu thuẫn
tránh những qui định còn chồng chéo gây rối cho các chủ thể tham gia kinh
doanh ngoại hối.
(2) Cần mau chóng ban hành các thông tư, quyết định hướng dẫn cụ thể và
kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của các văn bản pháp lý. Hoàn thiện qui chế,
chế độ kế toán về việc hạch toán các sản phẩm phái sinh như đối với quyền chọn
tiền tệ khi không thực hiện hợp đồng thì phí quyền chọn được hạch toán như là
chi phí vào giá thành sản phẩm. Để chuẩn bị cho việc thực hiện giao dịch tương
tiền tệ Bộ Tài chính cũng nên nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu về hạch toán và
tính thuế, việc tính thuế của giao dịch này cần phải xác định trên số lợi nhuận
ròng (là lợi nhuận thu trên thị trường tương lai trừ đi mức lỗ trên thị trường giao
ngay).
(3)Các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh là những nghiệp vụ mang tính kỹ
thuật cao và phức tạp cả trong thực hiện và kiểm soát vì thế các văn bản cần phải
đầy đủ cả những chế tài nghiêm minh về dân sự và hình sự để phòng ngừa và xử
lý những hành vi phá hoại gây rối loạn thị trường, hay vi phạm những thỏa thuận
trong hợp đồng kinh doanh ngoại hối.
157
Kết luận chương 3
Trong chương 3 Luận án trình bày cơ sở để phát triển TTNH Việt Nam là dựa
trên những thành quả đạt được trong quản lý, trong điều hành nền kinh tế vượt
qua được những cú sốc khủng hoảng kinh tế trong những năm vừa qua, sự phát
triển hệ thống ngân hàng, đồng thời căn cứ vào mức độ mở cửa nền kinh tế để
đưa ra định hướng phát triển TTNH cho phù hợp chủ trương chính sách phát
triển kinh tế trong từng giai đoạn.
Xác định (1) Phát triển TTNH là bước đi tất yếu không thể tránh khỏi trong quá
trình hội nhập nền kinh tế, phải xác định đây là mục tiêu để hoàn thiện thị trường
tài chính tiến tới đón nhận những thời cơ cũng như những thách thức do quá trình
mở cửa mang đến. Bước chuẩn bị càng chu đáo bao nhiêu thì càng tận dụng được
cơ hội cũng như hóa giải được những rủi ro bất trắc do qua trình mở cửa mang
đến vì thế (2) định hướng xây dựng TTNH phải đảm bảo an tòan nhưng cần phải
chú ý đến yếu tố hội nhập vì có liên thông với TTNH thế giới thì TTNH Việt
Nam mới phát triển.
Trên cơ sở định hướng đó, Luận án đã đưa ra các biện pháp nhằm phát triển
TTNH Việt Nam trong tiến trình hội nhập, giải pháp trọng tâm là hoàn thiện
TTNH theo hướng hiện đại và hội nhập với những biện pháp cụ thể nhằm xây
dựng TTNH có đầy đủ đặc điểm của một TTNH trên thế giới cần phải có để phát
huy hết hiệu quả của thị trường này mang đến cho nền kinh tế. Nhóm biện pháp
còn lại là những biện pháp hổ trợ cho sự hoàn thiện và phát triển thị trường như
phát triển TTNTLNH, hạn chế và thu hẹp thị trường ngoại tệ không chính thức,
hạn chế tình trạng đôla hóa, nâng cao tính chuyển đổi của VND và có những
biện pháp cần thiết khác là hoàn thiện thị trường tài chính để tạo điều kiện tương
tác với TTNH cùng phát triển, và biện pháp cuối cần phải có đó là hoàn thiện
khung pháp lý làm cơ sở cho các hoạt động kinh doanh ngoại hối và công tác
giám sát quản lý TTNH hoạt động nhằm đạt được mục đích đảm bảo an toàn hệ
thống tài chính.
158
KẾT LUẬN Toàn cầu hóa đang là xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới vì thế tác
động của khủng hoảng tài chính, khủng hoảng kinh tế của quốc gia hay khu vực
và cả những thành tựu phát triển kinh tế đã lan truyền mạnh mẽ đến các nền kinh
tế khác trên thế giới và Việt Nam cũng không đứng ngoài ảnh hưởng đó. Nhận
thức được ảnh hưởng trên sẽ thấy rằng việc phát triển và hoàn thiện thị trường tài
chính là một vấn đề quan trọng nhằm phát huy hiệu quả cũng như giám sát dòng
vốn do quá trình mở cửa mang lại để đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính của
đất nước.
Để có thể có những biện pháp khả thi nhằm phát triển TTTC, cần phải đánh
giá thực trạng của TTNH Việt Nam đã đáp ứng được những yêu cầu gì cho hoạt
động của thị trường và những ảnh hưởng của chính sách điều hành vĩ mô của nhà
nước.
Dựa vào khung lý thuyết về nghiên cứu hoạt động và phát triển TTNH,
Luận án đã giải quyết được nhưng mục tiêu đã đề ra, đó là:
Xác định chính sách quản lý ngoại hối tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến
TTNH nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế phát triển.
TTNH Việt Nam doanh số thấp, còn sơ khai về các giao dịch phái sinh,
nghèo nàn về mục đích tham gia thị trường cũng như hạn chế về các chủ thể thị
trường. Bên cạnh đó TTNH Việt Nam có những đặc thù riêng đó là sự tồn tại và
cạnh tranh mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính thức, thái độ của người
dân đối với ngoại tệ, sự chấp hành những qui định pháp luật về quản lý ngoại hối,
trình độ kiến thức về kinh tế thị trường nói chung và nghiệp vụ kinh doanh ngoại
hối nói riêng của đại bộ phận các chủ thể của nền kinh tế còn hạn chế.
Luận án đã đưa ra nhóm biện pháp để hoàn thiện TTNH theo hướng hiện
đại và hội nhập dựa trên những xuất phát điểm là một nền kinh tế mới mở cửa
với cơ chế quản lý ngoại hối còn nhiều thiếu sót đồng thời luận án cũng đưa ra
các biện pháp hổ trợ để phát triển năng lực vốn của thị trường như tập trung
nguồn ngoại tệ, hạn chế tình trạng đôla hóa, nâng dần tính chuyển đổi của VND,
159
đồng thời không thể bỏ qua biện pháp hòan thiện khung pháp lý là nền tảng cho
hoạt động của TTNH được diễn ra trôi chảy mà vẫn đảm bảo an ninh tài chính.
Những biện pháp để phát triển TTNH cần phải thực hiện đồng bộ và
nghiêm túc, từ những vấn đề về chính sách đến điều hành, tổ chức thực hiện và
thanh tra giám sát.
Mặc dù, hiện nay nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong quá
trình kiềm chế lạm phát và ưu tiên mục tiêu ổn định nền kinh tế hơn mục tiêu
phát triển mà thực trạng TTNH Việt Nam còn quá sơ khai về cơ chế hoạt động,
về trình độ quản lý điều hành nhưng xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế,
việc xây dựng hoàn thiện và phát triển TTNH là những bước đi cần thiết phải
được quan tâm chú trọng để có thể tận dụng các cơ hội và hóa giải các thách thức
trở ngại của quá trình hội nhập trở thành những yếu tố, những động lực để phát
triển nền kinh tế; đưa TTTC Việt Nam nói chung và TTNH nói riêng dần dần hội
nhập với TTTC thế giới.
Tác giả đã cố gắng để kết quả nghiên cứu được hoàn thiện, nhưng do quá
trình thu thập dữ liệu về TTNH Việt Nam quá khó khăn, tác giả gặp rất nhiều trở
ngại trong việc tiếp cận thông tin một cách chính thức để dữ liệu được đầy đủ và
đồng bộ. Tác giả rất mong nhận được những đóng góp quý báu của các nhà khoa
học và những người quan tâm đến đề tài để tác giả có điều kiện học hỏi và hoàn
thiện công trình nghiên cứu.
Xin chân thành cám ơn!
160
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN
ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Tham gia biên soạn sách Thị trường ngoại hối và các giao dịch ngoại hối, in lần
đầu năm 2007, tái bản lần 2 năm 2009 và lần 3 sửa chữa và bổ sung năm 2010.
2. Tham gia biên soạn giáo trình thực hành Thanh toán quốc tế in lần đầu năm 2010
tái bản sửa chữa và bổ sung vào năm 2011.
3. Bài báo” Tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay ở nước ta”, Tạp chí Ngân
hàng số 11/2004.
4. Bài báo:”Chiến lược quyền chọn trong kinh doanh tiền tệ”. Tạp chí Thị trường Tài
chính Tiền tệ số 21/2004.
5. Bài báo: “Tác động của hội nhập kinh tế đến thị trường ngoại hối Việt Nam”. Tạp
chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 17/ 2011.
161
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Phạm thị Hoàng Anh (2009), “Chế độ tỷ giá của Singapore và Trung Quốc-Lý
thuyết thực tế và những gợi ý cho Việt Nam”- Tạp chí Ngân Hàng tháng 9/2009.
2. Nguyễn văn Dũng (2007), “Thị trường phái sinh ở Việt Nam: Thực trạng và giải
pháp phát triển”. NHNN, Chi nhánh TPHCM.
3. HaruhiKo Koroda (2011), “Tương lai Châu á: Thách thức khu vực- Trách nhiệm
toàn cầu”, Hội Nghị thường niên lần thứ 44 của Hội Đồng Thống đốc ADB,
ngày 5/5/2011.
4. Nguyễn Thị Thu Hằng và nhóm nghiên cứu(2010), ” Lựa chọn chính sách tỷ giá
trong bối cảnh phục hồi nền kinh tế” Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
5. Lê Quốc Lý (2004), “Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam”,
NXB Thống Kê, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Mùi và nhóm nghiên cứu (2007), “Phát triển thị trường phái sinh ở
Việt Nam hiện nay- Giải pháp từ nhiều phía” Học viện Tài chính, Bộ Tài chính.
7. Trần Nguyên Nam (2009), “Giải pháp phát triển TTNH Việt Nam”, Luận án Tiến
sỹ Kinh Tế. Học viện tài chánh, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Nhung (2005),”Cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam hướng tới hội
nhập kinh tế quốc tế”, NHNH Việt Nam, NXB Thống Kê, Hà Nội.
9. Nguyễn Trần Phúc (2009), “Thị trường ngoại hối và các giao dịch ngoại hối”,
NXB Phương Đông, TP HCM.
10. Lê Phan Thị Diệu Thảo (2002), “Các biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả
công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
11. Lê Phan Thị Diệu Thảo (2011), “Giải bài toán đôla hóa tại Việt Nam”, Hội thảo
khoa học Chính sách tài khóa-tiền tệ và phát triển thị trường tài chính Việt Nam,
NXB Đại học Quốc gia TP.HCM.
162
12. TS Lê Đình Thu (2009), “Về tiền đề “cần” và “đủ” và bước đi để đưa đồng Việt
Nam trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi trong bối cảnh hội nhập kinh tế và thị
trường tài chính quốc tế”. Kỷ yếu các công trình NCKH, NXB Thống kê.
13. Nguyễn Văn Tiến (2004), “Phát triển và hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt
Nam”. Kỷ yếu các công trình NCKH, NXB Thống Kê, Hà Nội
14. Nguyễn Văn Tiến (2002), “TTNH Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”,
NXB Thống kê, Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Tiến (2010), “Thị trường ngoại hối và các nghiệp vụ phái sinh”.
NXB Thống Kê, Hà Nội.
16. Chính phủ, Nghị định 160/2006/NĐ-CP, Quy định chi tiết hướng dẫn thi hành
pháp lệnh ngoại hối, ngày 28/12/2006.
17. Chính phủ, Nghị định số 107/2008/NĐ-CP ban hành ngày 22/9/2008, Quy định
xử phạt hành chính các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá quá mức, đưa tin
thất thiệt, buôn lậu và gian lận thương mại.
18. Chính phủ, Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg ngày 4/7/2007 của Thủ tướng chính
phủ về Đề án” Nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, khắc phục đôla hóa
trong nền kinh tế”.
19. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2007), “Giao dịch hoán đổi lãi suất,
giao dịch hàng hóa tương lai-Công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro hiệu quả tại
ngân hàng đầu tư và phát triển” Hội thảo khoa học, NXB Văn hóa-Thông tin.
20. Ngân hàng Nhà nước, Báo cáo tại Hội nghị cấp cao về kinh doanh tại Việt Nam,
Hà nội, ngày 3/5/2011.
21. Ngân hàng Nhà nước, Báo cáo thường niên các năm 1990 -2010.
22. Ngân hàng Nhà nước, Công văn số 2878, công văn số 2879, công văn số 2880,
công văn số 2880, công văn số 2882/NHNN-QLNH tháng 4 năm 2009.
23. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), “Giải pháp phát triển thị trường phái
sinh ở Việt Nam”, NXB Văn hóa-Thông tin Hà Nội.
24. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định 207/QĐ-NH ngày 16/08/1991 về:” Thành lập
trung tâm giao dịch ngoại tệ”.
163
25. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định 203/1991/NH-QĐ của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước về: “Thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng”.
26. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định 17/1998/QĐ-NHNN ngày 10/11/1998: “Quy
chế giao dịch hối đoái”.
27. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN ngày 28 tháng 05 năm
2004 về: “Giao dịch kỳ hạn”.
28. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10/11/2004 về:
“Giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối”.
29. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 21/2008/QĐ-NHNN ngày 11/7/2008 Quy
chế về đại lý thu đổi ngoại tế thay thế cho Quyết định 1216 năm 2003
30. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 74/QĐ-NHNN ngày18/1/2010 của NHNN,
Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng.
31. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định 230/QĐ-NHNN ngày 11/2/2011 về: “Ban hành
một số qui định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các TCTD được phép giao
dịch hối đoái”.
32. Ngân hàng Nhà nước, Tài liệu họp báo Về Hội nghị Thống đốc và Hội nghị Phó
Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN 29/3 - 3/4/2008, Đà Nẵng, Việt Nam.
33. Ngân hàng Nhà nước, Thông báo số 74/TB-NHNN ngày 11/02/2011, Thông báo
tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành.
34. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 03/2008/TT-NHNN, ngày 11/4/2008, Hướng
dẫn và hoạt động cung ứng dich vụ ngoại hối của tổ chức tín dụng.
35. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 03/2010/TT-NHNN, Về quy định mức lãi suất
tiền gửi tối đa bằng Đô la Mỹ của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng.
36. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo thường niên các năm 2005, 2006, 2007, 2008,
2009, 2010.
37. Ngân hàng Thế giới (2008), “Cập nhật về tình hình khu vực Đông Á Thái Bình
Dương”
38. Ngân hàng VCB, BIDV, Eximbank, Sacombank, ACB, Báo cáo thường niên các
năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010.
164
39. Quốc Hội, Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH 11 ban hành vào ngày
13/12/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/6/2006.
40. Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng (2003), “Xây dựng cơ chế quản lý ngoại
hối phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới”, NXB Thống Kê.
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
41. Bob Steiner (2002), “Foreign Exchange And Money Markets”, Butterworth-
Heinemann Finance, Securities Institute.
42. Ding Jianding (1998), “China’s Foreign Exchange Black Market and Exchange
Flight: Analysis of Exchange Rate Policy”.The Developing Economies.XXXVI-
1:24
43. Jake Bernstein (1989), “How The Futures Markets Work”, Newyork Institute of
Finance.
44. Janvier D. Nkurunziza (2002), “Exchange rate policy and the parallel market for
foreign currency in Burundi” AERC Research Paper 123, Nairobi.
45. Joseph A. Walker (1991), “How The Options Markets Work”, Newyork Institute
Of Finance.
46. Laurence S. Copeland (2000), “Exchange Rates And International Finance,
Financial Time”, Prentice Hall.
47. Lucio Sarno and Mark P.Talor (2001), “The Microstructure of the foreign-
Exchange Market: A selective Survey of the Literature”. Princeton, New Jersey.
48. Mossa, I.A (2004), “International Finance: an analytical approach” , 2 edn, The
McGraw-Hill, Sydney.
49. Ngoc Luu Minh (2008), “Interview through Yahoo! Messenger regarding the
operation of the current forex market of Vietnam”
50. Ng Beoy Kui (1988), “The Development and Growth of Foreign Exchange
Market in the SEACEN countries”. SEACEN, Research and Traning
Centre.Kuala Lumpur Malaysia.
165
51. Phuc Nguyen Tran (2910), “Vietnam’s’s Exchange rate Policy and implications
for its Foreign Exchange Market, 1986-2009”. Griffith Business School(AFE),
Griffith University, Australia.
52. Phuc Nguyen Tran (2009b), “The Foreign Exchange Market in Vietnam:
Evolution,Current Structure, and Operational Characteristics”, Working paper,
Griffith University, Brisbane.
53. Ralph, Connel và Sunsil Sharma (2009), “A Framework for Financial Market
Development” IMF Working paper. WP/09/156.
54. Sam Y.Cross (1998),”The Foreign Exchange Market in the United State”.
Federal Reserve Bank of NY.
55. Simon T Gray & Nick Talbot(2006)”Developing Financial Markets”
Handbooks in for Central Banking No.26. Bank of England
56. Thanh Nguyen Duc (2002), “Determinants of VietNam Informal Market
Exchange Rates. The asset Market approach”. Vietnam-Netherlands MDE
Progam, Hanoi.Vietnam.
57. Yang Bai (2009),”Research of Foreign Exchange Management Legal System”.
Polytechnic University, China.
58. Yin-Wong Cheung (1998), “The Hong Kong Foreign Exchange Market”.
HKCER Letters,Vol. 50.
59. Yosuke Tsuyuguchi and Philip Wooldridge (2008), “The evolution of trading
activity in Asean Foreign Exchange markets”, BIS Working Papers 252.
60. Zhang Jikang And Liang Yuanyuan (2006), “The Institutional and Structural
Problems of China’s Foreign Exchange Market & Implication for the New
Exchange Rate Regime”. China: an International Journal, Vol.4,No.1,p.26.
61. BIS (2010), “Triennual Central Bank Servey of Foreign Exchange and OTC
Derivaties Market Activity”, Preliminary global results – Turnover.1.
62. IMF (2009), Country Report No.09/110, “The case of Vietnam”
63. IMF (2010), Country Report No. 10/281.
WEBSITE
166
64. Báo điện tử Công an nhân dân: http/ca.cand.com.vn/vi-vn/anninhkinhte/
phongsuđieutra. Lấy về lúc 03:59, Thứ Sáu, 03/04/2009.
65. Báo điện tử Sài gòn tiếp thị : http://sgtt.vn/Goc-nhin/141626/Cai-cach-thi-truong-
ngoai-hoi-chính-thúc-de-xoa-bỏ-cho-den.html. Lấy về lúc 11:00, Thứ Hai
14/3/2011.
66. GAFIN http://gafin.vn/20120117113756569p0c34/von-dieu-le-ngan-hang-tang-
hon-46000-ty-dong-trong-2011.htm. Lấy về lúc 12g30. Thứ Ba, 24/1/2911.
67. Báo điện tử Thời báo kinh tế Sài gòn
http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/29217/ E ngại kiều hối
chảy khỏi ngân hàng. Lấy về lúc 22:23.Thứ Tư, 27/1/2010
điện tử Thời báo kinh tế Sài 68. Báo Gòn:
http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/tiente/49431/Dai-ly-thu-doi-ngoai-
te-Tay-dai-den-dau?.html Lưu Hảo. Lấy về 18:28 Thứ bảy, 12/3/2011.
69. Báo điện tử Thời báo kinh tế Sài Gòn: http://www.thesaigontimes.vn/
Home/thoisu/doisong/27436/ . Úc lựa chọn hàng đầu của du học sinh Việt Nam
Lấy về lúc 13:46 , Thứ Ba, 18/9/2009.
70. Báo điện tử Việt báo: http://vietbao.vn/Kinh-te/VND-huong-ngoai-Khong-
de/20454053/90/. Lấy về lúc 9:40. Thứ tư, 17/6/2008
đồng kinh tế Việt 71. Cộng Nam
http://vneconomy.vn/20110331035017899P0C6/binh-on-ty-gia-chia-khoa-nam-
o-can-bang-quyen-so-huu.htm. Lấy về lúc 10:23 Thứ 2 13/2/2011
72. http://vietstock.vn/ChannelID/759/Tin-tuc/176401-kieu-hoi-tang-manh.aspx. Lấy
về lúc 11:20.Thứ ba 14/2/2011
73. Quỹ tiền tệ Quốc tế: http://elibrary data.imf.org/FindDataReports. aspx?d
=33061&e=169393. Lấy về lúc 10:00, Thứ Năm, 13/09/2012.
74. Tạp chí The Banker: http://www.thebanker.com/top 1000
75. http://www.tradechakra.com/economy/philippines/banking-and-finance-in-
philippines-243.php.
76. Website của Hải Quan Việt Nam: http://www.customs.gov.vn.
167
77. Website Ngân hàng nhà nước: http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!
nhap-wto-cua-viet-nam-trong-linh-vuc-thuong-mai-dich-vu/cam-ket-mo-
cua-thi-truong-d-6. Lấy về lúc 12:24, Thứ Tư, 06/07/2011.
78. Website Trung tâm WTO của VCCI: http://trungtamwto.vn/wto/cam-ket-gia-
79. Website Tổng cục Thống kê: http://www.gso.gov.vn/
168
PHỤ LỤC
Phụ lục số 1
Phân bổ doanh số giao dịch
̀ng Tư, Đơn vị tính tỷ USD và %
Doanh số trung bình ngày vào thá
ngoại hối toàn cầu theo khu vực địa lý
Quốc gia
Australia
Canada
China
France
HongKong
Indonesia
Japan
Malaysia
Philipine
Singapore
2007 Số lượng % 22.7 20.6 9.3
Thailand United Kingdom 685.2 383.4
United State
2010 Số lượng % 1.5 40.6 1.5 41.7 0.4 19.8 7.3 193.3 0.7 18.5 0.1 3.4 6.2 312.3 0.1 7.3 0.1 5 5.3 266 0.1 7.4 36.7 17.9
2001 1998 2004 Số lượng % Số lượng % Số lượng % 1.5 9.8 0.8 2.8 12.8 1.5 9.9 1.9 6.4 12.1 0.0 0 0.2 0.0 0.6 9.6 11.8 65.1 40.6 151.3 0.4 2.8 0.7 2.4 11.3 0.2 3.9 0.1 1.8 2.3 9 152.7 7 146.3 207.4 0.1 1.4 0.1 1.1 1.7 0.1 1.1 0 0.8 0.7 6.1 103.7 6.9 144.9 133.6 0.1 0.1 1.9 3.1 3.1 835.3 32 32.6 541.7 16.1 498.8 18.3 272.6 1 0.9 0.0 11.4 176.1 17.3 0.8 3 0.1 250.2 8 3.5 0.1 2.3 0 241.8 5.1 6.3 0.1 1483.2 32 19.1 745.2 1 0.9 0.2 8.1 0.9 0.1 5.8 0.1 0.1 5.6 0.1 34.6 1853.3 17.4 904.4
Nguồn:Trích Bảng 9, Triennial Central Bank Survey 2010 , BIS.
169
Phụ lục số 2
Phân bổ doanh số theo các loại tiền tệ
Doanh số trung bình ngày của tháng 4
Đơn vị : %
US dollar
86.8
89.9
88.0
85.6
84.9
Euro
…
37.9
37.4
37.0
39.1
JPY
21.7
23.5
20.0
17.2
19.0
GBP
11.0
13.0
16.5
14.9
12.9
AUD
3.0
4.3
6.0
6.6
7.6
CAD
3.5
4.5
4.2
4.3
5.3
CHF
7.1
6.0
6.0
6.8
6.4
HKD
1.0
2.2
1.8
2.7
2.4
SGD
1.1
1.1
0.9
1.2
1.4
CNY
0.0
0.0
0.1
0.5
0.3
MYR
0.0
0.1
0.1
0.1
0.3
THB
0,1
0.2
0.2
0.2
0.2
IDR
0.1
0.0
0.1
0.1
0.2
Tiền tệ 1998 2001 2004 2007 2010
Nguồn : Trích Bảng số 3,Triennial Central Bank Survey 2010,BIS
170
Phụ lục số 3
Cam Kết Mở Cửa Thị Trường Dịch Vụ Ngân Hàng
Và Các Dịch Vụ Tài Chính
Việt Nam có cam kết mở cửa những dịch vụ ngân hàng nào khi gia
nhập WTO?
Về dịch vụ ngân hàng, trong WTO, Việt Nam đã đưa ra cam kết mở cửa trong
1. Dịch vụ nhận tiền gửi (nhận tiền gửi và các khoản phải trả khác từ công
chúng);
2. Dịch vụ cho vay (cho vay dưới tất cả các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu
dùng, tín dụng cầm cố thế chấp, bao thanh toán và tài trợ giao dịch thương
mại);
3. Dịch vụ thuê mua tài chính;
4. Dịch vụ thanh toán (tất cả các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao gồm
thẻ tín dụng, thẻ thanh toán và thẻ nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng);
5. Bảo lãnh và cam kết;
6. Kinh doanh trên tài khoản của mình hoặc của khách hàng, tại sở giao dịch,
trên thị trường giao dịch thoả thuận hoặc bằng cách khác, các loại:
o Công cụ thị trường tiền tệ (bao gồm séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi);
o Ngoại hối;
o Các công cụ tỷ giá và lãi suất, bao gồm các sản phẩm như hợp đồng hoán
đổi, hợp đồng kỳ hạn;
các ngành sau:
o Vàng khối.
7. Môi giới tiền tệ;
8. Quản lý tài sản (quản lý tiền mặt hoặc danh mục đầu tư, mọi hình thức
quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác);
9. Các dịch vụ thanh toán và bù trừ tài sản tài chính (bao gồm chứng khoán,
các sản phẩm phái sinh và các công cụ chuyển nhượng khác);
10. Cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính cũng
như các phần mềm liên quan của các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính
khác
Các nhóm dịch vụ mà Việt Nam có cam kết này được xác định theo phân
loại tại Phụ lục về dịch vụ tài chính của WTO.
171
Các ngân hàng nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt
Nam có được cung cấp dịch vụ cho khách hàng tại Việt Nam không?
Theo cam kết, Việt Nam cho phép các ngân hàng nước ngoài không có hiện
diện thương mại tại Việt Nam (công ty con, chi nhánh, văn phòng đại diện,
hợp đồng hợp tác kinh doanh) cung cấp cho khách hàng tại Việt Nam
nhưng chỉ giới hạn ở các dịch vụ sau:
- Cung cấp thông tin tài chính;
- Xử lý dữ liệu tài chính;
- Cung cấp phần mềm tài chính;
- Tư vấn, môi giới, phân tích tín dụng;
- Nghiên cứu và tư vấn về đầu tư, danh mục đầu tư, mua lại, tái cơ cấu và
chiến lược doanh nghiệp.
172
Điều kiện thành lập ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài tại Việt Nam?
Về việc thành lập liên doanh
Việt Nam cam kết cho phép thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam
ngay từ thời điểm gia nhập WTO (11/1/2007) với điều kiện:
- Phía nước ngoài tham gia liên doanh phải là ngân hàng thương mại có
tổng tài sản có trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm liền trước thời điểm nộp
đơn xin thành lập liên doanh tại Việt Nam; và
- Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không vượt quá 50%
vốn điều lệ.
Về việc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài
Việt Nam cam kết cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài kể
từ ngày 1/4/2007 với điều kiện ngân hàng nước ngoài là chủ đầu tư phải là
ngân hàng thương mại có tổng tài sản có trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm
liền trước thời điểm nộp đơn xin thành lập ngân hàng tại Việt Nam.
Ngoài điều kiện theo cam kết, việc thành lập ngân hàng tại Việt Nam phải
tuân thủ các điều kiện kỹ thuật áp dụng chung theo quy định của pháp luật
Việt Nam.
Hộp 1 - Pháp luật Việt Nam quy định gì về việc thành lập ngân hàng FDI?
Nghị định 22/2006/NĐ-CP của Chính phủ là văn bản chính quy định về tổ
chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài và văn phòng đại diện của các tổ
chức
tín
dụng
nước
ngoài
tại
Việt
Nam.
Tất cả các điều kiện về việc thành lập ngân hàng FDI trong cam kết WTO
của Việt Nam đã được đưa vào nội dung Nghị định này.
173
Điều kiện thành lập các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam?
Điều kiện chung
Việt Nam cam kết cho phép thành lập các công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam với điều kiện:
- Công ty mẹ phải có tổng tài sản trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước
thời điểm nộp đơn xin thành lập công ty tại Việt Nam;
- Tuân thủ các điều kiện kỹ thuật áp dụng chung theo quy định của pháp
luật Việt Nam.
Ngoài các điều kiện chung, việc thành lập công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính còn phải đáp ứng điều kiện riêng đối với từng loại như sau:
Đối với công ty tài chính
Việt Nam cam kết cho phép thành lập công ty tài chính liên doanh, công ty
tài chính 100% vốn nước ngoài với điều kiện phía nước ngoài phải là các
ngân hàng thương mại nước ngoài hoặc công ty tài chính nước ngoài.
Đối với công ty cho thuê tài chính
Việt Nam cam kết cho phép thành lập công ty cho thuê tài chính liên
doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài với điều kiện phía
nước ngoài phải là các ngân hàng thương mại nước ngoài, công ty tài chính
nước ngoài hoặc công ty cho thuê tài chính nước ngoài.
174
Điều kiện thành lập chi nhánh của tổ chức tài chính nước ngoài tại
Việt Nam?
Đối với Chi nhánh Ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam
Việt Nam cam kết cho phép các ngân hàng thương mại nước ngoài được
thành lập chi nhánh của họ tại Việt Nam với điều kiện:
1. Ngân hàng mẹ có tổng tài sản trên 20 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm liền trước
thời điểm nộp đơn xin lập chi nhánh ở Việt Nam;
2. Chi nhánh được thành lập phải chịu các hạn chế trong hoạt động của
mình.
Ngoài các điều kiện nêu trong cam kết nói trên, các ngân hàng nước ngoài
muốn thành lập chi nhánh tại Việt Nam phải tuân thủ các điều kiện khác về
mặt kỹ thuật theo quy định của pháp luật Việt Nam (áp dụng chung cho cả
ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài).
Hộp 2 - Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định như thế nào về việc thành
lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam?
Những nội dung về điều kiện đối với việc mở chi nhánh của ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam đã
được đưa vào Công văn số 1210/NHNN-CNH của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam. Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện hành có mức mở cửa như
mức cam kết.
Trên thực tế, trước khi gia nhập WTO, một số chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đã được cấp phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam (37 chi nhánh
tính đến 4/2007) mà không phải chịu các điều kiện tương tự.
Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, việc thành lập chi nhánh
của ngân hàng nước ngoài sẽ phải các điều kiện tuân thủ quy định tại Công
văn nói trên (tức là phù hợp với cam kết).
Hộp 3 - Những hạn chế trong hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam
Không được phép mở các điểm giao dịch khác ngoài trụ sở giao dịch
chính của mình
Ví dụ Ngân hàng A mở chi nhánh X1 tại Việt Nam thì chi nhánh X1 này
không được tự mình mở các điểm giao dịch, chi nhánh khác. Nếu muốn mở
rộng mạng lưới hoạt động, Ngân hàng A phải tự mình xin phép mở các chi
nhánh X2, X3, v.v hoặc thông qua các hình thức đầu tư khác.
Việt Nam cam kết không hạn chế số chi nhánh trực tiếp của các ngân hàng
nước ngoài;
Bị hạn chế trong việc nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể
nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng (chưa cung cấp
các khoản vay, cho vay, chưa nhận tiền gửi, v.v) theo % mức vốn mà ngân
hàng mẹ cấp cho chi nhánh như sau:
175
Từ 1/1/2007: 650% vốn pháp định được cấp;
Từ 1/1/2008: 800% vốn pháp định được cấp
Từ 1/1/2009: 900% vốn pháp định được cấp;
Từ 1/1/2010: 1000% vốn pháp định được cấp;
Từ 1/1/2011: được nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam ở mức tương
tự các ngân hàng Việt Nam.
Đối với Chi nhánh Công ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính tại Việt
Nam
Việt Nam chưa cam kết gì về việc thành lập chi nhánh công ty tài chính,
công ty cho thuê tài chính nước ngoài tại Việt Nam. Vì vậy, việc cho phép
thành lập chi nhánh các công ty này tại Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào
chính sách và pháp luật liên quan của Việt Nam trong từng thời kỳ.
176
Điều kiện thành lập văn phòng đại diện của ngân hàng thương mại,
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính nước ngoài tại Việt Nam?
Việt Nam cam kết cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài (ngân hàng
thương mại nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính) được
mở Văn phòng đại diện tại Việt Nam với điều kiện Văn phòng đại diện
không được phép tiến hành các hoạt động thương mại sinh lời trực tiếp.
Thời hạn hoạt động tối đa của các loại hình tổ chức tín dụng FDI ở
Việt Nam là bao lâu?
Trong WTO, Việt Nam không cam kết về thời hạn hoạt động của các loại
hình tổ chức tín dụng này. Như vậy, Việt Nam có quyền tự do quy định về
thời hạn này.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành thì thời hạn hoạt động tối đa của các tổ
chức tín dụng này được quy định như sau:
- Đối với ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài: không
quá 99 năm;
- Đối với chi nhánh của ngân hàng nước ngoài: không vượt quá thời hạn
hoạt động của ngân hàng mẹ và không quá 99 năm;
- Đối với văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài: không vượt quá
thời hạn hoạt động của ngân hàng mẹ;
- Công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài,
công ty cho thuê tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100%
vốn nước ngoài: 50 năm
Thời hạn hoạt động cụ thể được quy định trong giấy phép được cấp và có
thể được gia hạn theo yêu cầu (thời hạn gia hạn không vượt quá thời hạn
hoạt động trước đó được quy định trong giấy phép).
177
Ngân hàng nước ngoài có được thiết lập các máy rút tiền tự động, phát
hành thẻ tín dụng không?
Theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài
được hưởng đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia đầy đủ, tức là các ngân
hàng này có quyền thiết lập và vận hành các máy rút tiền tự động (ATM)
như các ngân hàng Việt Nam. Hiện nay đối với các ngân hàng Việt Nam,
không có hạn chế số lượng các máy rút tiền tự động mà các ngân hàng này
được phép lắp đặt.
Các tổ chức tín dụng nước ngoài cũng được phép phát hành thẻ tín dụng tại
Việt Nam như các ngân hàng Việt Nam.
178
Việt Nam có thể áp dụng các biện pháp khác ngoài cam kết đối với việc
thành lập, tham gia, hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực ngân hàng và dịch vụ tài chính không?
Do tính đặc thù và tầm quan trọng của dịch vụ tài chính (đối với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, đối với các nhà đầu tư, những người gửi tiền…),
WTO cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp khác vì lý
do thận trọng, đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính.
Do đó, ngoài các hạn chế về hình thức pháp nhân, yêu cầu về vốn, các hạn
chế về hoạt động đối với chi nhánh… đối với nhà đầu tư nước ngoài được
phép áp dụng theo cam kết, Việt Nam có thể xem xét áp dụng bổ sung các
biện pháp mang tính hạn chế, kiểm soát chặt chẽ nhằm mục tiêu thận trọng.
Hộp 4 – Ví dụ về các yêu cầu bổ sung có thể có đối với tổ chức tài chính
nước ngoài (ngoài cam kết)
Yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc;
Yêu cầu về vốn đối với việc thành lập chi nhánh, ngân hàng liên
doanh;
Yêu cầu về điều kiện vật chất, kỹ thuật, nhân lực, v.v đối với các tổ
chức tín dụng.
Các yêu cầu này, nếu có, phải được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối
xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài (các ngân hàng thương mại nước ngoài,
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính).
179
Những hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại các
ngân hàng Việt Nam?
Việt Nam cam kết về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần của các nhà
đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam như sau:
- Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh được cổ phần hóa (ví dụ
VCB, BIDV…): Tỷ lệ cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài trong
các ngân hàng cổ phần hóa này có thể bị hạn chế như mức tỷ lệ cổ phần của
các ngân hàng dân doanh Việt Nam trong các ngân hàng cổ phần hóa này;
- Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần thuộc khu vực dân doanh:
tổng số cổ phần do các cá nhân, tổ chức nước ngoài nắm giữ tại mỗi ngân
hàng thương mại cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn
điều lệ của ngân hàng đó, trừ khi luật pháp Việt Nam có qui định khác hoặc
được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Việt Nam có đưa ra cam kết nào về ngoại hối hay không?
Về ngoại hối, Việt Nam cam kết như sau:
- Về giao dịch vãng lai: dỡ bỏ tất cả các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng
lai (và trên thực tế Việt Nam đã thực hiện cam kết này);
- Về giao dịch vốn: Việt Nam đã nới lỏng các giao dịch chuyển vốn của các
nhà đầu tư nước ngoài và việc vay nước ngoài của các tổ chức cư trú;
- Về các biện pháp quản lý ngoại hối: chỉ được áp dụng trong những trường
hợp ngoại lệ, do Chính phủ quyết định, để duy trì an ninh tài chính và tiền
tệ quốc gia phù hợp với điều lệ của Quỹ Tiền tệ quốc tế;
Về cân đối ngoại tệ: Chính phủ cam kết bảo đảm cân đối nhu cầu ngoại tệ
cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án đặc biệt quan trọng
trong các chương trình của Chính phủ và hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các dự
án cơ sở hạ tầng và một số dự án quan trọng khác trong trường hợp các
ngân hàng được phép giao dịch ngoại hối không thể đáp ứng được tất cả
các yêu cầu về ngoại tệ.
Nguồn:
http://trungtamwto.vn/wto/cam-ket-gia-nhap-wto-cua-viet-nam-
trong-linh-vuc-thuong-mai-dich-vu/cam-ket-mo-cua-thi-truong-d-6 lấy về
12:24’ ngày 06/07/2011
180