BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

--------------------------------

LÊ THỊ ANH ĐÀO PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI

VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH

HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NĂM 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

-------------------------------- LÊ THỊ ANH ĐÀO PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI

VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH

HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

MÃ SỐ : 62.31.12.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

Hướng dẫn 1: PGS.TS. NGUYỄN THỊ NHUNG

Hướng dẫn 2: TS. LÊ THỊ KIM XUÂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NĂM 2011

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của

mình, cụ thể:

Tôi tên là: Lê Thị Anh Đào

Sinh ngày 03 tháng 03 năm 1963 – Tại: Quảng Ngãi

Quê quán: Quảng Ngãi

Hiện công tác tại: Khoa Ngân hàng Quốc tế Trường Đại học Ngân hảng TP.

HCM – 36 Tôn Thất Đạm – Quận 1 – TP. HCM

Là Nghiên cứu sinh khóa 09 của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM

Mã số học viên: 010109040001

Cam đoan đề tài: Phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội

nhập quốc tế và khu vực

Người hướng dẫn khoa học:

- Hướng dẫn 1: PGS.TS. NGUYỄN THỊ NHUNG

- Hướng dẫn 2: TS. LÊ THỊ KIM XUÂN

Luận án được thực hiện tại Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.

Đề tài này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có

tính độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố

toàn bộ nội dung này bất kỳ ở đâu (hoặc đã công bố phải nói rõ ràng các thông

tin của tài liệu đã công bố); các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận án được

chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.

TP.HCM, ngày 21 tháng 07 năm 2011

Tác giả

Lê Thị Anh Đào

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

Asean–Australia- Newzealand Khu vực thương mại tự do ASEAN- ACERFTA Free Trade Area Úc-Newzealand

Khu vực thương mại tự do ASEAN- ACFTA Asean - China Free Trade Area Trung Quốc

AFTA Asean Free Trade Area Khu vực thương mại tự do Asean

Khu vực thương mại tự do ASEAN- AJFTA Asean Japan Free Trade Area Nhật Bản

AUD Australia Dollar Đô la Úc

Tỷ giá dựa trên một rổ tiền tệ, trượt BBC Basket Band Crawl có biên độ

Bank International Settlement Ngân hàng thanh toán quốc tế BIS

Bank State Philippine NHTW Philippine BSP

CCTT Chính sách tiền tệ

CCTM cán cân thương mại

CCTT cán cân thanh toán

Common Effective Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu CEPT Preferential Tariff lực chung

China Foreign Exchange CFETS Sàn giao dịch ngoại hối Trung Quốc Trading System

CHF Franc Thụy Sỹ

Kinh doanh chênh lệch lãi suất có CIA Covered Interest arbitrage bảo hiểm rủi ro tỷ giá

CNY China Yuan Nhân dân tệ

ĐTRNN Đầu tư ra nước ngoài

EUR EURO Đồng tiền chung Châu Âu

Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FED Federal Reserve System Hệ thống dự trữ liên bang Hoa Kỳ

FII Foreign Indirect Investment Đầu tư gián tiếp nước ngoài

GBP Pound Sterling Bảng Anh

GDV Giao dịch vốn

HKD HongKong Dolla Đôla Hồng Kông

IDR Rupiah Đồng Rupi của Indonesia

INR Indian Rupee Đồng Rupee của Ấn Độ

IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế

JPY Japan Yen Yên Nhật

KRW Won Won của Hàn Quốc

NHNN Ngân hàng nhà nước Việt Nam

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTW Ngân hàng trung ương

Moneytary Authority of MAS Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore Singapore

MYR Malaysia Ringit Đồng Ringit Malaysia

PBOC People’s Bank of China Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc

PHP Philippine Peso Đồng Peso của Philippin

State Administration of SAFE Cục Quản lý ngoại hối Foreign Exchange

SGD Singarpore Dollar Đôla Singarpore

The Society for Worldwide Hệ thống viễn thông tài chính liên SWIFT Interbank Financecial ngân hàng toàn thế giới. Telecommunication)

TCTD Tổ chức tín dụng

THB Thailand Bath Bạt Thái

Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt

Thị trường ngoại hối TTNH

Thị trường ngoại tệ TTNT

Thị trường không chính thức TTKCT

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng TTNTLNH

Thị trường tài chính TTTC

Untited State dollar Đô la Mỹ USD

Vietcombank Ngân hàng ngoại thương Việt Nam VCB

Vietnam Dong Đồng Việt Nam VND

World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới WTO

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu theo các loại hình giao dịch

.......................................................................................................................... 47

Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu từ năm 1990-

1995 .................................................................................................................. 52

Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu từ năm 1996-

2006 .................................................................................................................. 53

Bảng 2.4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu từ 2007-2010 .. 54

Bảng 2.5 : Kim ngạch nhập khẩu từ năm 2000-2010 ...................................... 58

Bảng 2.6 Qui mô vốn điều lệ của một số NHTM của các quốc gia trong khu

vực .................................................................................................................... 63

Bảng 2.7: Tỷ lệ % Lợi nhuận họat động kinh doanh ngoại hối

so với lợi nhuận trước thuế .............................................................................. 70

Bảng 2.8: Tỷ giá (VND/USD) từ 1990 đến 1992 .......................................... 75

Bảng 2.9: Tỷ giá (VND/USD) từ 1994 đến 1998 .......................................... 78

Bảng 2.10: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ........................ 79

Bảng 2.11: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ khách hàng ............................. 81

Bảng 2.12: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ từ năm

1995-2005 ........................................................................................................ 82

Bảng 2.13: Tỷ trọng doanh số giao dịch trên hai thị trường từ năm 2006-2010

.......................................................................................................................... 83

Bảng 2.14: Tỷ lệ mua, bán giao dịch kỳ hạn và hoán đổi trong tổng giao dịch

thị trường ngoại hối Việt Nam ......................................................................... 88

Bảng 2.15: Lượng kiều hối chính thức chuyển về Việt Nam từ năm 1999-2010

.......................................................................................................................... 97

Bảng 2.16: Diễn biến Tỷ giá bình quân liên ngân hàng và Tỷ giá bình quân thị

trường tự do từ năm 1999 - 2006 ................................................................... 113

Bảng 2.17: Tỷ giá BQLNH và tỷ giá trên thị trường tự do từ năm 2007-2010

........................................................................................................................ 115

Bảng 2.18: Dự trữ ngoại hối Việt Nam giai đoạn 2001–2010 ....................... 118

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu ........................................ 47

Biểu đồ 2.2: Khách quốc tế đến Việt nam trong thời gian từ 1995-2010 ........ 56

Biểu đồ 2.3: Lượng kiều hối và Việt Nam từ năm 1999 – 2010 ...................... 98

Biểu đồ 2.4: Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức và thị trường

tự do giai đoạn 1999-2006 ............................................................................. 114

Biểu đồ 2.5: Tỷ giá VND/USD từ năm 2007 đến năm 2010 ......................... 115

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU

LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ PHÁT TRIỂN CHƯƠNG 1:

THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ....... 1

1.1. Tổng quan về thị trường ngoại hối .............................................................. 1

1.1.1. Khái niệm, chức năng của thị trường ngoại hối ....................................... 1

1.1.2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối ........................................................... 2

1.1.3. Phân loại thị trường ngoại hối .................................................................. 3

1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động ........................................................................ 3

1.1.3.2. Theo tính chất giao dịch ........................................................................ 5

1.1.3.3. Theo tính chất pháp lý của thị trường ................................................... 6

1.1.3.4.Theo tính chất tập trung của thị trường .................................................. 6

1.1.4. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối ............................................... 7

1.1.4.1. Phân loại theo hình thức tổ chức ........................................................... 7

1.1.4.2. Phân loại theo chức năng trên thị trường .............................................. 9

1.1.5. Những nghiệp vụ trên TTNH ................................................................. 12

1.1.5.1. Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay ........................................................... 12

1.1.5.2. Nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn(Forex Forward Transaction) .................. 12

1.1.5.3. Nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối (Forex Swap Transaction) .................. 14

1.1.5.4. Giao dịch tiền tệ tương lai ................................................................... 15

1.1.5.5. Hợp đồng quyền chọn tiền tệ .............................................................. 17

1.2. Những nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường ngoại hối của một

quốc gia ............................................................................................................ 19

1.2.1 Tác động của qui luật thị trường ............................................................. 19

1.2.2. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ............................................ 20

1.2.3. Chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia ............................................ 22

1.2.3.1. Chính sách tỷ giá ................................................................................. 23

1.2.3.2. Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản vãng

lai ...................................................................................................................... 27

1.2.3.3. Chính sách quản lý ngoại hối đối với tài khoản vốn ........................... 30

1.3. Những điều kiện để phát triển TTNH trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc

tế ....................................................................................................................... 32

1.3.1. TTNTLNH đóng vai trò trung tâm ........................................................ 33

1.3.2. Doanh số giao dịch trên TTNH phải tương thích với hoạt động ngoại

thương và đầu tư quốc tế .................................................................................. 33

1.3.3. Đồng nội tệ có khả năng chuyển đổi ...................................................... 34

1.3.4. Nguồn nhân lực có kiến thức về TTNH ................................................. 35

1.3.5. Hệ thống tài chính có đầy đủ hạ tầng cơ sở với trang bị thiết bị kỹ thuật

hiện đại ............................................................................................................. 35

1.3.6. Hệ thống quản lý giám sát thị trường tài chánh hoạt động hiệu quả ..... 36

1.3.7. TTNH có sự liên thông với thị trường tài chính của khu vực và quốc tế

.......................................................................................................................... 37

1.3.8. Một cơ chế kiểm soát ngoại hối thông thoáng và một chính sách tỷ giá

linh hoạt. ........................................................................................................... 37

1.4. Những bài học kinh nghiệm ...................................................................... 38

Kết luận chương 1 ............................................................................................ 45

CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM ...... 46

2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH TTNH TRÊN THẾ GIỚI .............................. 46

2.1.1. Nhận định chung về thị trường ngoại hối thế giới ................................. 46

2.1.2. Những nét đặc trưng của TTNH Châu Á trong giai đoạn hiện nay ....... 49

2.2. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế đến sự phát triển TTNH Việt

Nam .................................................................................................................. 52

2.2.1. Nguồn cung ngoại tệ gia tăng do hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài,

chuyển tiền kiều hối, xuất khẩu phát triển ...................................................... 52

2.2.2. Nguồn cung ngoại tệ từ những hoạt động khác gia tăng ....................... 55

2.2.3. Cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu gia tăng .................................... 57

2.2.5. Tăng cường sự hợp tác hổ trợ và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các tổ

chức kinh tế, tài chính của Việt Nam ............................................................... 59

2.2.6. Đối mặt với những bất ổn do quá trình mở cửa thị trường tài chính ..... 60

2.2.7. Sự canh tranh gay gắt hơn với những đối thủ hơn hẳn về tiềm lực và bề

dày kinh nghiệm ............................................................................................... 62

2.3. Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam ........................ 64

2.3.1. Những văn bản pháp lý qui định hoạt động kinh doanh ngoại hối ........ 64

2.3.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng trên

TTNH Việt Nam .............................................................................................. 70

2.3.2.1.Quá trình hình thành và hoạt động TTNT liên ngân hàng ................... 72

2.3.2.2. Thực trạng thị trường ngoại tệ khách hàng của Việt Nam .................. 81

2.3.2.3. Thực trạng sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh tại các NHTM

Việt Nam .......................................................................................................... 84

2.3.2.4. Thực trạng yết giá kinh doanh và mua bán ngoại tệ ........................... 90

2.3.3. Thị trường ngoại tệ không chính thức .................................................... 93

2.3.3.1 Những hình thức biểu hiện ................................................................... 93

2.3.3.2. Những nguồn cung cấp ngoại tệ trên thị trường không chính thức .... 97

2.4 Vai trò của NHNN đối với TTNH Việt Nam trong giai đoạn vừa qua .... 102

2.4.1 Thực hiện vai trò can thiệp TTNH và điều hành chính sách tỷ giá ...... 102

2.4.2. Những biện pháp góp phần hạn chế hoạt động của thị trường ngoại tệ

không chính thức. ........................................................................................... 106

2.5. Đánh giá quá trình phát triển TTNH của Việt Nam trong thời gian qua và

nguyên nhân của những tồn tại ...................................................................... 107

2.5.1. Những mặt đạt được ............................................................................. 107

2.5.2. Những hạn chế của Thị trường ngoại hối Việt Nam ............................ 109

2.5.2.1. Hoạt động TTNTLNH còn khiêm tốn ............................................... 109

2.5.2.2. Hàng hóa trên thị trường ngoại hối chưa đa dạng ............................. 109

2.5.2.3.Sự thiếu vắng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá và mục đích tham gia thị

trường ngoại hối cũng chưa đa dạng .............................................................. 110

2.5.2.4 Thị trường phái sinh còn sơ khai........................................................ 111

2.6. Nguyên nhân của những thực trạng trên ................................................. 111

2.6.1.Cơ chế điều hành tỷ giá chưa linh động với diễn biến của thị trường .. 111

2.6.2. Sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính

thức ................................................................................................................. 116

2.6.3. Tính chuyển đổi của VND chưa cao .................................................... 116

2.6.4. Dự trữ ngoại hối thấp ........................................................................... 118

2.6.5. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện .................................................... 119

Kết luận chương 2 .......................................................................................... 120

CHƯƠNG 3:NHỮNG BIỆN PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN THỊ

TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP .. 121

3.1. Cơ sở và định hướng phát triển TTNH ................................................... 121

3.1.1. Cơ sở phát triển thị trường ngoại hối ................................................... 121

3.1.1.1. Căn cứ vào thành quả đạt được trong quản lý kinh tế của Việt Nam

trong những năm gần đây ............................................................................... 121

3.1.1.2.Căn cứ vào sự tăng trưởng của hệ thống ngân hàng .......................... 123

3.1.1.3. Căn cứ mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ................... 124

3.1.2. Định hướng phát triển TTNH ............................................................... 126

3.1.2.1. Phát triển TTNH là bước đi tất yếu trong quá trình hoàn thiện và phát

triển thị trường tài chính của Việt Nam .......................................................... 126

3.1.2.2. Xây dựng hệ thống tài chính an toàn và hội nhập ............................. 127

3.2. Những biện pháp phát triển TTNH trong hội nhập kinh tế ..................... 128

3.2.1. Hoàn thiện TTNH theo hướng hiện đại và hội nhập ............................ 128

3.2.1.1. Minh bạch hóa thông tin trên thị trường ........................................... 128

3.2.1.2. Mở rộng các chủ thể kiến tạo thị trường ........................................... 129

3.2.1.3. Hoàn thiện các sản phẩm ngoại hối phái sinh ................................... 130

3.2.1.4. Khuyến khích thành lập các công ty môi giới, công ty tư vấn.......... 134

3.2.1.5. Xây dựng lộ trình thành lập sàn giao dịch ngoại tệ .......................... 135

3.2.1.6. Đa dạng hóa các ngoại tệ trong giao dịch ......................................... 136

3.2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối .................................................... 137

3.2.2.1. Về điều hành tỷ giá ........................................................................... 137

3.2.2.2. Về tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa tài khoản vốn theo lộ

trình ................................................................................................................ 140

3.2.3. Phát huy vai trò của NHNN- phát triển TTNT liên ngân hàng ............ 143

3.2.3.1. Phát huy vai trò của NHNN .............................................................. 143

3.2.3.2. Phát triển TTNTLNH về khối lượng giao dịch và số lượng thành viên

........................................................................................................................ 145

3.2.3.3. Biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng ............... 146

3.2.4. Tăng cường kiểm soát, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần hoạt động của thị

trường ngoại tệ không chính thức .................................................................. 148

3.2.5. Hạn chế tình trạng đôla hóa và tạo khả năng chuyển đổi dần cho đồng

Việt Nam ........................................................................................................ 150

3.2.5.1. Hạn chế tình trạng đôla hóa một cách triệt để hơn ........................... 150

3.2.5.2. Nâng cao tính chuyển đổi của VND ................................................. 151

3.2.6. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong hoạt

động kinh doanh ngoại hối ............................................................................. 153

3.2.7. Hoàn chỉnh khung pháp lý ................................................................... 155

Kết luận chương 3 .......................................................................................... 157

KẾT LUẬN .................................................................................................... 158

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC

GIẢ ................................................................................................................. 160

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 161

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 168

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam đã mở cửa từ năm 1990 đến nay, trãi qua hơn 20 năm với

những mốc lịch sử đánh dấu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2005, IMF

công nhận Việt Nam chấp thuận điều VIII điều lệ IMF, đây là điều kiện tiên

quyết mà Việt Nam phải thực hiện để được gia nhập WTO. Tháng 12/2006 Việt

Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, điều này có nghĩa là Việt Nam

đã cam kết xây dựng chính sách và thực hiện phù hợp với các qui định của WTO.

Với áp lực này, Việt Nam phải gia tăng kỷ cương trong việc ban hành và thực thi

các biện pháp chính sách, không được tùy tiện thi hành những biện pháp hành

chánh, phi thị trường. Đồng thời, xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thị

trường để đón nhận những cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập mang đến.

Đánh giá quá trình mở cửa kể từ khi gia nhập WTO, đã cho thấy Việt

Nam có những thành tựu đáng ghi nhận về tốc độ tăng trưởng cao trong 2 năm

2007-2008, trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút nhà đầu tư nước ngoài,

kết quả là lượng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng mạnh mẽ, thu hút lượng kiều hối

gia tăng với những con số ấn tượng , đồng thời kim ngạch xuất nhập khẩu ngày

càng tăng cao, tác động đến thị trường tài chính nói chung và TTNH nói riêng

đều phát triển. TTNH đã trở thành kênh truyền dẫn lượng ngoại tệ vào và ra khỏi

quốc gia phục vụ cho nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Mức độ mở cửa theo lộ

trình ngày càng rộng hơn đòi hỏi Việt Nam phải có sự thay đổi trong chính sách

quản lý và điều hành nhằm ứng phó trước những sự biến động bất thường của

các dòng vốn, cũng như tận dụng các cơ hội do sự gia tăng dòng luân chuyển

ngoại tệ để phát triển TTNH làm cơ sở cho thị trường tài chính và thị trường tiền

tệ cùng phát triển.

Tuy nhiên, sau hơn 4 năm gia nhập WTO nền kinh tế của Việt Nam chưa

được đánh giá là tăng trưởng ổn định, đồng thời TTNH còn quá sơ khai, kém

phát triển. Nguồn vốn ngoại tệ luân chuyển kém linh hoạt, cung- cầu trên thị

trường tại nhiều thời điểm rơi vào tình trạng mất cân đối và căng thẳng giả tạo.

Hoạt động quản lý, điều tiết và can thiệp cuả NHNN trên TTNH bị động, lúng

túng và hiệu quả chưa cao. Năng lực quản trị rủi ro và kinh doanh ngoại tệ của

các NHTM còn chưa tương thích với nền kinh tế mở cửa. Các công cụ ngoại hối

phái sinh sử dụng không hiệu quả. Khả năng tiếp cận và sử dụng các công cụ

phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá của các chủ thể trong nền kinh tế còn rất

hạn chế. Bên cạnh đó, là sự tồn tại và cạnh tranh mạnh mẽ của thị trường ngoại

tệ chợ đen, đã gây khó khăn cho việc thu hút ngoại tệ và làm giảm khả năng cung

ngoại tệ của thị trường chính thức, làm giảm hiệu quả của nguồn vốn ngoại tệ.

Trước thực trạng đó, tác giả đã chọn đề tài” Phát triển thị trường ngoại hối

trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến

sỹ kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Thị trường ngoại hối

mà tác giả đã nghiên cứu gồm:

1/“The Development and Growth of Foreign Exchange Market in the

SEACEN countries”. Ng Beoy Kui. 1988. Đây là một nghiên cứu về sự tăng

trưởng và phát triển thị trường ngoại hối của các quốc gia khu vực Đông Nam Á,

bên cạnh đó cung cấp tổng quan về cấu trúc và những đặc điểm thị trường ngoại

hối trong khu vực. Điểm nhấn mạnh của nghiên cứu là đưa những điều kiện cơ

bản để thị truờng ngoại hối hoạt động và phân tích những hạn chế làm cản trở thị

trường ngoại hối phát triển một cách vững chắc.

Đây là một nghiên cứu rất gần với nội dung của đề tài luận án, tuy nhiên

nghiên cứu này được thực hiện vào năm 1988 Việt Nam chưa mở cửa kinh tế,

chưa gia nhập WTO cũng như thế giới chưa có khủng hoảng tài chính mà nguyên

nhân từ những giao dịch phái sinh trên thị trường tài chính(năm 2009). Vận dụng

những nghiên cứu này Luận án sẽ đối chiếu so sánh với thực trạng của TTNH

Việt Nam.

2/ “Vietnam’s’s Exchange rate Policy and implications for its Foreign

Exchange Market, 1986-2009”. Tran Phuc Nguyen, 2010. Nghiên cứu những

nguyên nhân cơ bản về tình trạng hoạt động hạn chế của TTNH Việt Nam, đặc

biệt nhấn mạnh vai trò của chính sách tỷ giá đến quá trình phát triển TTNH.

Công trình nghiên cứu này chưa phân tích đến ảnh hưởng của chính sách ngoại

hối và tác động của hội nhập kinh tế đến cung cầu ngoại tệ. Luận án sẽ mở rộng

nghiên cứu những tác động của chính sách quản lý ngoại hối và hội nhập kinh tế

đến sự phát triển của TTNH Việt Nam. Bởi vì, nguồn cung và cầu ngoại tệ là

điều kiện cơ sở để phát triển TTNH việc nghiên cứu nội dung này sẽ trả lời câu

hỏi TTNH Việt Nam có cơ sở để phát triển không? Ngoài ra, việc gia nhập WTO

đã đánh dấu một bước hội nhập sâu của TTTC nói chung và TTNH nói riêng của

Việt Nam điều này mang đến thuận lợi cũng như những bất ổn cho TTTC Việt

Nam, việc nhận diện những vấn đề trên để có những biện pháp tận dụng được

những tiện ích cũng như đối phó với những tác động tiêu cực của quá trình toàn

cầu hóa giúp cho TTNH phát triển và hội nhập tốt hơn.

3/ “Phát triển và hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam” TS.

NGUYỄN VĂN TIẾN, năm 2000. Nội dung của đề tài tập trung phân tích thực

trạng TTNH Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến năm 2000. Đây là những yếu

tố lịch sử về kinh tế, hệ thống pháp lý, trình độ quản lý TTNH Việt Nam trong

giai đoạn trước khi gia nhập WTO, Luận án sẽ căn cứ vào những nghiên cứu này

làm nền tảng phân tích TTNH Việt Nam từ sau khi gia nhập WTO (năm 2007)

đến năm 2010 để cập nhật thực trạng TTNH nhằm có những giải pháp thích hợp

cho việc phát triển thị trường.

4/ “Determinants of ViệtNam Informal Market Exchange Rates. The asset

Market approach”. Nguyễn Đức Thanh năm 2002. Đề tài nghiên cứu về những

yếu tố quyết định đến tỷ giá trên thị trường ngoại hối không chính thức của Việt

Nam và những ảnh hưởng của chính sách kinh tế vĩ mô với mục tiêu là ổn định

thị trường đến việc lựa chọn một tỷ giá thích hợp. Nghiên cứu này tập trung phân

tích những nhân tố tạo nên cung cầu và hoạt động của một TTNH cùng tồn tại

song song với TTNH chính thức của nước ta và được gọi bằng nhiều tên, như là

thị trường tự do, thị trường không chính thức. Luận án tiếp cận nghiên cứu này

để phân tích thực trạng thị trường ngoại tệ không chính thức của Việt Nam kể từ

khi gia nhập WTO đã ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của TTNH chính

thức như thế nào.

5/ “The Institutional and Structural Problems of China’s Foreign

Exchange Market & Implication for the New Exchange Rate”. ZHANG Jikang

and LIANG Yuanyuan, 2004. Nghiên cứu về những vấn đề về thể chế và kết cấu

của TTNH của Trung Quốc và ảnh hưởng của chính sách tỷ giá mới. Nghiên cưú

này đã phân tích quá trình phát triển TTNH dựa vào các cột mốc cải cách chính

sách ngoại hối cuả Trung Quốc. Đây là những nghiên cứu có giá trị làm bài học

kinh nghiệm cho việc phát triển TTNH của Việt Nam bởi vì Việt Nam và Trung

Quốc có nhiều điểm tương đồng về thể chế, nền tảng kinh tế và quản lý vĩ mô.

Ngoài ra còn nhiều luận văn, nghiên cứu và những bài báo trên tập san

chuyên ngành có nội dung liên quan đến đề tài nhưng chỉ đề cập đến một vài khía

cạnh của mục tiêu Luận án, như “Giải pháp phát triển TTNH Việt Nam” Luận án

Tiến sỹ Kinh Tế Trần Nguyên Nam, năm 2009. Đề tài “ Về tiền đề “cần” và

“đủ” và bước đi để đưa đồng Việt Nam trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi

trong bối cảnh hội nhập kinh tế và thị trường tài chính quốc tế” của TS Lê Đình

Thu, năm 2009. Và khảo sát của tác giả Lưu Minh Ngọc thực hiện phỏng vấn qua

Yahoo để lấy ý kiến về hoạt động của TTNH Việt Nam năm 2008 : “ Interview

through Yahoo! Messenger regarding the operation of the current forex market of

Vietnam, 20May 2008”.

3. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở những lý thuyết và những nghiên cứu trước đây về chính sách

quản lý ngoại hối và đặc điểm hoạt động của TTNH. Luận án tập trung đánh giá

thực trạng về TTNH Việt Nam và phân tích những tác động của việc điều hành

chính sách quản lý ngoại hối đến TTNH. Từ đó xác định những giải pháp để phát

triển TTNH trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Luận án” Phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội

nhập quốc tế và khu vực” lấy thực trạng TTNH Việt Nam trong bối cảnh hội

nhập kinh tế làm đối tượng nghiên cứu.

Phạm vi nghiên cứu là chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam và

những hoạt động của TTNH Việt Nam từ năm 1990 đến nay. Mặc dù theo pháp

lệnh ngoại hối năm 2006 khái niệm ngoại hối có bao gồm vàng, các chứng từ có

giá được ghi bằng ngoại tệ, bản tệ được thanh toán bên ngoài biên giới…, nhưng

những loại này chỉ chiếm một phần nhỏ so với ngoại tệ, vì thế luận án giới hạn

nghiên cứu hoạt động kinh doanh ngoại hối trong phạm vi hẹp là trình bày về

ngoại tệ.

Đối với vấn đề hội nhập, Luận án giới hạn phạm vi không gian của đề tài

nghiên cứu là hội nhập về kinh tế quốc tế và khu vực trong cùng nội dung, mặc

dù biết rằng hội nhập khu vực có những điểm khác biệt so với hội nhập quốc tế,

tuy nhiên xu hướng phát triển là từ khu vực để đến với quốc tế vì thế việc nghiên

cứu hội nhập quốc tế sẽ mang ý nghĩa lâu dài hơn.

5. Phương pháp nghiên cứu

Với mục tiêu đánh giá thực trạng về TTNH Việt Nam, luận án sẽ căn cứ

vào khung lý thuyết những nghiên cứu trước đây của các tác giả như: Ng Beoy

Kui, 1988, Nguyễn văn Tiến, 2000, Nguyễn Trần Phúc September 2009 để so

sánh, tổng hợp và phân tích, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê logic, lập

luận biện chứng đứng trên quan điểm lịch sử và phát triển để đưa ra những giải

pháp nhằm phát triển và hoàn thiện TTNH.

Số liệu thu thập từ nguồn tài liệu của NHNN, IMF, WorldBank, BIS, Báo

cáo thường niên của các NHTM, của Tổng cục Thống kê kết hợp nguồn thông tin

của báo chí tạp chí chuyên ngành và kế thừa những kết quả nghiên cứu thực

nghiệm có liên quan.

Luận án sẽ tập trung giải quyết 4 nội dung chính:

Thứ nhất, lý thuyết hoạt động và phát triển TTNH? Kinh nghiệm của các

nước trong việc điều hành và phát triển TTNH bài học nào cho Việt Nam.

Thứ hai, thực trạng TTNH Việt Nam có đáp ứng được yêu cầu để phát

triển hay không?

Thứ ba, tác động của hội nhập kinh tế đến cung cầu ngoại tệ và ảnh

hưởng của chính sách quản lý ngoại hối đến việc phát triển TTNH Việt Nam.

Thứ tư, giải pháp nào để phát triển TTNH được ổn định và vững chắc

trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế?.

Nhằm giải quyết những vấn đề trên, bố cục Luận án được phân chia như

sau

6. Bố cục của Luận án

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và phụ lục, bố cục của Luận án

gồm 3 chương:

Chương 1: Lý luận về thị trường ngoại hối và phát triển TTNH trong hội

nhập kinh tế quốc tế.

Chương 2: Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam.

Chương 3: Những biện pháp góp phần phát triển thị trường ngoại hối Việt

Nam trong tiến trình hội nhập.

7. Những điểm mới của Luận án

Kết quả nghiên cứu của tác giả trình bày trong Luận án thể hiện được một

số các điểm mới chủ yếu sau:

(1) Hệ thống hóa những nội dung cơ bản của chính sách quản lý ngoại hối

đã tác động đến thị trường ngoại hối.

(2)Hệ thống hóa những tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến

sự phát triển thị trường ngoại hối làm cơ sở cho những kiến nghị định hướng phát

triển thị trường ngoại hối Việt Nam.

(3) Phân tích những nguyên nhân tạo nên sự tồn tại và phát triển của thị

trường ngoại tệ không chính thức ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những biện

pháp góp phần thu hẹp thị trường này.

(4) Phân tích những tồn tại của thị trường ngoại hối Việt Nam từ sau khi gia

nhập WTO và đề xuất những biện pháp góp phần phát triển thị trường ngoại hối.

Theo khung lý thuyết của những nghiên cứu trước đây về TTNH như Ng

Boey Kui cho rằng điều kiện cơ bản để cho TTNH hoạt động đó là : (1) cho phép

những người tham gia thị trường có thể xác lập trạng thái ngoại hối mở để kinh

doanh trên tài khoản của mình và điều kiện này chỉ có thể thực hiện thuận lợi khi

tự do hóa kiểm soát ngoại hối (2) Tỷ giá phải biến động thực sự để những người

tham gia thị trường có thể thực hiện đa dạng các nghiệp vụ kinh doanh chênh

lệch tỷ giá và đầu cơ cũng như phát triển thị trường ngoại hối phái sinh.(3)Để

TTNH hoạt động cần có sự phát triển thị trường tiền tệ và vai trò của NHTW.(4)

Phát triển các giao dịch phái sinh ngoại hối. Đây là những điều kiện cần thiết để

xem xét một TTNH có khả năng để hoạt động và phát triển hay không?.

Với đề tài nghiên cứu “Vietnam’s Exchange rate Policy and implications

for its Foreign Exchange Market, 1986-2009” của Tran Phuc Nguyen đã cho

thấy vai trò của chính sách tỷ giá đến quá trình phát triển TTNH. Hay đề tài

nghiên cứu Khoa học của TS Nguyễn văn Tiến(2000) về” Phát triển và hoàn

thiện thị trường ngoại hối Việt Nam” đã đưa ra những khung lý thuyết cơ bản về

TTNH với những nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối theo tiêu chuẩn quốc tế.

Nghiên cứu của ZHANG Jikang and LIANG Yuanyuan(2004) những vấn đề về

thể chế và kết cấu của TTNH của Trung Quốc đã trình bày về ảnh hưởng của tự

do hóa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn đến TTNH.

Dựa vào những nghiên cứu trên và phát triển theo mục đích yêu cầu

nghiên cứu của đề tài, chương 1 của Luận án đưa ra khung lý thuyết nền tảng để

làm cơ sở đánh giá thực trạng TTNH trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, vì

thế nội dung của chương sẽ giải quyết các vấn đề sau:

Thứ nhất, những lý thuyết cơ bản về hoạt động của TTNH? Thành viên

tham gia thị trường họ là ai và đóng vai trò gì trên TTNH? Thứ hai, khung pháp

lý nền tảng được thể hiện qua chính sách quản lý ngoại hối dưới tác động của hội

nhập kinh tế ảnh hưởng như thế nào đối với việc để TTNH hoạt động ổn định và

có trật tự. Thứ ba, để phát triển TTNH cần phải có những điều kiện gì? Thứ tư,

bài học kinh nghiệm của các nước khác trong quá trình phát triển TTNH.

1

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VÀ PHÁT TRIỂN THỊ

TRƯỜNG NGOẠI HỐI TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. Tổng quan về thị trường ngoại hối

1.1.1. Khái niệm, chức năng của thị trường ngoại hối

Hầu hết trên thế giới các quốc gia và vùng lãnh thổ đều có đồng tiền riêng

của quốc gia và khu vực, vì thế khi thực hiện các hoạt động thương mại, đầu tư

hay các giao dịch xã hội có liên quan đến tiền tệ giữa các quốc gia sẽ dẫn tới nhu

cầu chuyển đổi đồng tiền của nước này sang đồng tiền nước khác. Người có nhu

cầu về ngoại tệ sẽ bán bản tệ mua ngoại tệ và ngược lại người có khoản thu bằng

ngoại tệ sẽ bán ngoại tệ để mua bản tệ. Hoạt động mua bán các đồng tiền của các

nước sẽ được thực hiện trên thị trường được gọi là TTNH. Vậy, TTNH là nơi

mua bán các đồng tiền của các quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, thực hiện

việc chuyển hoá giá trị của các đồng tiền của các quốc gia thông qua cung cầu

tiền tệ.[48]

Chức năng của TTNH là kết quả phát triển tự nhiên của một trong các chức

năng cơ bản của NHTM, đó là: nhằm cung cấp dịch vụ cho các khách hàng thực

hiện các giao dịch thương mại quốc tế, sau đó là giúp luân chuyển các khoản đầu

tư, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính quốc tế khác.

Như vậy, thông qua các giao dịch trên, TTNH đã thực hiện các chức năng

sau:

(1) Thỏa mãn nhu cầu thanh khoản quốc tế phát sinh từ các hoạt động

thương mại và đầu tư quốc tế.

(2) Là nơi cung cấp các công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối như giao dịch kỳ

hạn, giao dịch hoán đổi, giao dịch quyền chọn, giao dịch tương lai. Khi TTNH

phát triển về chiều rộng lẫn chiều sâu. Các giao dịch và sản phẩm dịch vụ liên tục

ra đời và phát triển để đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng tăng của các đối

tượng khách hàng.

2

(3) Là nơi để NHTW của các nước can thiệp hoạt động của mình nhằm điều

chỉnh tỷ giá hối đoái, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia bằng cách mua hay

bán số ngoại tệ cần thiết nhằm điều tiết cung cầu ngoại tệ. Mức độ mua vào hay

bán ra của NHTW trên TTNH không chỉ phụ thuộc vào mức độ chênh lệch giữa

cung và cầu ngoại tệ trên thị trường mà còn phụ thuộc vào những yếu tố như cơ

chế tỷ giá hiện hành, mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và mức tỷ giá

mục tiêu mà NHTW muốn theo đuổi.

1.1.2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối

TTNH là một thị trường khổng lồ và thanh khoản nhất trên thế giới [54],

theo khảo sát của BIS vào tháng 9/2010 doanh số giao dịch của TTNH toàn cầu

lên tới hơn 3900 tỷ USD một ngày [61] . Tỷ giá liên tục thay đổi khoảng 20 lần

trong 1 phút, giao dịch số lượng lớn với mức lời nhỏ được cho là dấu hiệu của

tính thanh khoản [54].

Là một thị trường cạnh tranh hoàn hảo: do thị trường có tính chất toàn cầu

với khối lượng giao dịch cực lớn, các hàng hóa( tiền tệ) đồng chất (không có chất

lượng hơn, kém), thông tin lưu chuyển tự do và không có các rào cản đối với việc

tham gia thị trường [48]

Là một thị trường hoạt động hiệu quả: các thông tin liên quan đến tỷ giá

luôn được phản ánh nhanh chóng và chính xác lên tỷ giá và tỷ giá tuy được yết ở

các khu vực thị trường khác nhau nhưng hầu như là thống nhất với nhau, có độ

chênh lệch không đáng kể, hiếm khi tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh kiếm lời

từ nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá(arbitrage).

TTNH không nhất thiết phải tập trung tại một vị trí địa lý cụ thể mà là một

thị trường quốc tế, bao gồm một mạng lưới người mua và người bán rộng khắp

trên toàn thế giới, giao dịch với nhau thông qua các phương tiện truyền thông

hiện đại như điện thoại, telex, fax và các hệ thống kinh doanh điện tử.

Trung tâm của TTNH là thị trường liên ngân hàng (Interbank) với các thành

viên chủ yếu là các NHTM, ngân hàng đầu tư, các nhà môi giới ngoại hối và

3

NHTW. Doanh số giao dịch trên Interbank chiếm 85% doanh số giao dịch toàn

cầu [48].

TTNH mang tính toàn cầu, hoạt động liên tục 24/24 giờ một ngày, trừ các

ngày cuối tuần và các ngày lễ. Sở dĩ có đặc điểm này là vì các trung tâm ngoại

hối chính thường nằm ở các múi giờ khác nhau; bất cứ thời điểm nào cũng sẽ rơi

vào thời gian làm việc của ít nhất một trung tâm tài chính lớn; khoảng thời gian

8g-9g sáng và 1g-3g chiều số lượng giao dịch lớn nhất trong ngày vì đó là thời

gian cùng mở cửa của các trung tâm tài chính lớn của các châu lục, giờ làm việc

của các trung tâm này bao phủ hầu hết 24 giờ/ngày, bắt đầu với các trung tâm ở

Viễn Đông (Sydney, Tokyo và Hongkong), tiếp theo là Trung Đông (Bahrain),

tới Châu Âu (Frankfurt và London), kế là các trung tâm ở Mỹ và kết thúc ở San

Francisco; các trung tâm ngoại hối quan trọng nhất theo doanh số giao dịch có

thể kể đến lần lượt là: London, New York, Tokyo, Singapore và Frankfurt [54]

Là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm

lý…nhất là đối với chính sách tiền tệ của các nước phát triển.

USD là đồng tiền được giao dịch nhiều nhất chiếm tỷ lệ gần 42.5% trong

tổng số các đồng tiền tham gia(điều này có nghĩa là có tới gần 85% doanh số

giao dịch trên TTNH là có sự hiện diện của USD)[61a]

Đối tượng được mua bán trên TTNH thế giới chủ yếu là khoản tiền gửi

được ghi bằng các loại tiền trên thế giới.

TTNH được phân thành nhiều loại tùy thuộc vào các tiêu thức khác nhau

1.1.3. Phân loại thị trường ngoại hối

1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động

Thị trường hối đoái được chia thành hai thị trường có mối liên hệ chặt chẽ.

Bao gồm:

- Thị trường liên ngân hàng hoặc thị trường bán buôn (Interbank): Đây là

một mạng lưới các quan hệ ngân hàng đại lý, trong đó các NHTM mở tài khoản

tiền gửi thanh toán tại các ngân hàng khác. Tại Mỹ trên TTNH ngoài sự tham gia

4

của các NHTM trên TTLNH còn có cả các công ty Đầu tư và các định chế tài

chính khác cùng tham gia, chính xác hơn nên gọi là thị trường liên giao

dịch(Interdealer)[54]

Đối với thị trường tài chính nói chung, thị trường liên ngân hàng là một

trong những thị trường cơ sở và quan trọng nhất vì hầu hết các giao dịch mua và

bán tiền tệ được chu chuyển qua kênh thị trường liên ngân hàng toàn cầu. Do đó,

trọng tâm của thị trường hối đoái là thị trường liên ngân hàng.

Ở Mỹ và một số TTNH lớn khác, thị trường Interbank được thực hiện dưới

hai hình thức: TTLNH trực tiếp giữa các ngân hàng với ngân hàng và TTLNH

gián tiếp thông qua môi giới [48]

Trên TTLNH trực tiếp: Các dealer của các ngân hàng hỏi giá và báo giá lẫn

nhau thông qua các phương tiện truyền thông, điển hình là thông qua điện thoại,

telex và hệ thống giao dịch điện tử.Trong một giao dịch bao giờ cũng có hai

dealer của hai ngân hàng tham gia. Một dealer hỏi giá và một dealer báo giá,

dealer hỏi giá còn được gọi là dealer khởi tạo giao dịch (“initiator”), khi hỏi giá,

dealer hỏi giá thường không nói cho đối tác biết mình muốn mua hay bán, trong

khi đó dealer báo giá phải báo giá hai chiều mua và bán, vì thế, thị trường gọi

những nhà giao dịch trên TTLNH là nhà tạo giá (Market Maker).

Trên TTLNH gián tiếp: Các dealer gửi các lệnh có giới hạn(limit order)

lệnh mua hay lệnh bán với số lượng xác định đến nhà môi giới cuả mình. Các

nhà môi giới đối chiếu và làm khớp các lệnh mua và bán, cung cấp giá tốt nhất

cho khách hàng của mình giá mua cao nhất và giá bán thấp nhất “inside spread”

Các nhà môi giới được hưởng hoa hồng từ hai bên khi giao dịch thành công.

So sánh giao dịch trên thị trường liên ngân hàng trực tiếp và gián tiếp, ta

thấy có những điểm khác biệt sau:

Trong giao dịch trực tiếp, các dealer luôn biết đối tác của mình là ai, trong

khi trong giao dịch gián tiếp các dealer chỉ biết chi tiết của đối tác khi giao dịch

được thực hiện;

5

Trong giao dịch trực tiếp các dealer luôn sẳn sàng báo giá và phải chịu sự

ràng buộc đối với giá mình đưa ra. Với giao dịch qua môi giới, các dealer có thể

chủ động hơn trong việc quyết định giao dịch tùy thuộc vào nhu cầu và mục đích

của mình; các dealer không cần phải báo giá hai chiều; các dealer có thể hủy bỏ

lệnh giao dịch khi nó chưa thực hiện.

Trong giao dịch trực tiếp việc hỏi giá và báo giá diễn ra liên tục nhưng tỷ lệ

được giao dịch không nhiều. Hình thức giao dịch gián tiếp qua môi giới dễ dàng

khớp lệnh hơn, làm tăng tính thanh khoản cho thị trường.

- Thị trường khách hàng hoặc thị trường bán lẻ (Non- Interbank), trong đó

các ngân hàng giao dịch với khách hàng thương mại của mình, các khách hàng

không phải ngân hàng giao dịch với nhau. Hay còn gọi là giao dịch trên thị

trường bán lẻ, là những giao dịch giữa NHTM và khách hàng mua bán lẻ. Trong

giao dịch này, các khách hàng sẽ giao dịch theo tỷ giá mà NHTM yết công khai.

Tỷ giá giao dịch trên thị trường mua bán lẻ được gọi là tỷ giá bán lẻ. Các NHTM

thường tính toán tỷ giá mua bán lẻ trên cơ sở tỷ giá trên TTLNH, do vậy, chênh

lệch giá mua và bán trên thị trường mua bán lẻ lớn hơn so với trên thị trường bán

buôn.[48]

Giao dịch trên thị trường mua bán lẻ có qui mô tương đối nhỏ và không

đồng đều. Tỷ giá trên thị trường này thường không có biến động mạnh tỷ giá

được yết buổi sáng có thể sẽ được sử dụng cả ngày đối với tất cả các giao dịch.

Thủ tục thanh toán: Thông thường việc thanh toán giữa các ngân hàng

được thực hiện qua một hệ thống thanh toán điện tử như SWIFT (The Society for

Worldwide Interbank Financecial Telecommunication). Ở Mỹ các ngân hàng

giao dịch ngoại hối thanh toán bằng USD giữa các ngân hàng thông qua CHIPS-

Clearing House Interbank Payments System [54]

1.1.3.2. Theo tính chất giao dịch

Thị trường giao ngay là thị trường thực hiện giao dịch giao ngay có ngày

giá trị là hai ngày làm việc sau ngày ký hợp đồng và giao dịch giao ngay được

coi là giao dịch sơ cấp(Primary operation);

6

Thị trường phái sinh đây chính là nơi thực hiện các giao dịch phái sinh

(Derivative operations) bao gồm giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, tương lai, quyền

chọn. Các giao dịch của thị trường phái sinh là những giao dịch có ngày giá trị

khác hai ngày làm việc.

1.1.3.3. Theo tính chất pháp lý của thị trường

Thị trường ngoại hối chính thức (Official Market FX): Là thị trường giao

dịch ngoại hối của các tổ chức tín dụng với các cá nhân, tổ chức kinh tế và các tổ

chức tín dụng được phép khác, thị trường này hoạt động theo các nguyên tắc, thể

chế do nhà nước qui định trong các văn bản pháp luật. Các chủ thể tham gia được

pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Thị trường ngoại tệ không chính thức(Unoffictial Market FX): trong nhiều

nghiên cứu thị trường này được biết đến với tên gọi là thị trường chợ đen( black

market), kinh tế ngầm (underground economic), Grosse(1994) định nghĩa TTNH

chợ đen là thị trường mua bán ngoại tệ bên ngoài hệ thống tài chính hợp pháp

của một quốc gia [56] , trong nghiên cứu của Janivier gọi là thị trường ngoại hối

song song mà sự tồn tại của thị trường này là tình trạng dư cầu ngoại tệ do phản

ứng của sự kiểm soát cung ngoại hối cuả chính phủ[4343], hay khi mà tỷ giá

chính thức và tỷ giá thị trường có sự chênh lệch đáng kể sẽ là cơ sở tồn tại thị

trường chợ đen [42].

1.1.3.4. Theo tính chất tập trung của thị trường

Hai đặc trưng chủ yếu phân biệt TTNH với những thị trường tài chính khác

là hầu hết thị trường là không tập trung và doanh số giao dịch rất lớn

Thị trường phi tập trung (The Over The Counter -OTC): các bên tham gia

thực hiện giao dịch với nhau bằng cách sử dụng điện thoại, telex, mạng máy tính

mà không cần phải tập trung tại một khu vực địa lý như sàn giao dịch [47]. Giao

dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi và một phần giao dịch quyền chọn được thực

hiện trên thị trường phi tập trung.

Thị trường tập trung (Centralized market) hay Sở giao dịch- The Exchange:

các giao dịch tương lai và một phần giao dịch quyền chọn được thực hiện tại Sở

7

giao dịch. Muốn được giao dịch phải là thành viên của sàn giao dịch và tuân thủ

những qui định về ký quỹ, mở tài khoản giao dịch, nếu không phải là thành viên

thì có thể giao dịch thông qua môi giới là thành viên của Sở giao dịch. Sở giao

dịch có trách nhiệm tổ chức, quản lý các hoạt động và đưa ra những qui định về

loại tiền được giao dịch, khối lượng giao dịch, về kỳ hạn và giới hạn mức biến

động của tỷ giá.

Trên thị trường tập trung, giao dịch được thực hiện với mức giá được công

bố công khai và tất cả những nhà kinh doanh trên thị trường đều có cơ hội đối

mặt với các mức giá như nhau. Ngược lại, trên thị trường phi tập trung, giá được

yết và các giao dịch được thực hiện riêng lẽ, có thể được thực hiện qua phương

tiện truyền thông [46].Ví dụ như Sở giao dịch chứng khoán Newyork(Newyork

Stock Exchange- NYSE), Sở giao dịch chứng khoán London(London Stock

Exchange-LSE) là những thị trường tập trung.

Để biết được cơ chế hoạt động của thị trường cũng như đánh giá mức độ

phát triển của một TTNH phải xem xét các thành viên tham gia, phân loại thành

viên tham gia tùy vào tiêu thức là hình thức tổ chức hay chức năng của thành

viên đối với thị trường.

1.1.4. Các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối

1.1.4.1. Phân loại theo hình thức tổ chức

Theo hình thức tổ chức chúng ta có thể phân các chủ thể thành năm nhóm

chính: các khách hàng mua bán lẻ, các ngân hàng thương mại, các định chế tài

chính khác, các nhà môi giới và các ngân hàng trung ương.

Nhóm khách hàng mua bán lẻ. Nhóm này bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa quốc gia, những nhà

đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm mục đích

phục vụ cho hoạt động của chính mình. Các cá nhân cũng có thể tham gia vào

thị trường ngoại hối, ví dụ những người đi du lịch, đi nước ngoài học tập, công

tác… có nhu cầu mua ngoại tệ và thường là bằng tiền mặt. Tuy nhiên, loại giao

8

dịch bằng tiền mặt như vậy chỉ chiếm một phần nhỏ, không quan trọng trong

tổng giá trị của các giao dịch ngoại hối được thực hiện. Nhóm khách hàng mua

bán lẻ tham gia trên thị trường với hai mục đích chính: chuyển đổi tiền tệ và

phòng ngừa rủi ro tỷ giá.

Các ngân hàng thương mại.

Các NHTM tham gia giao dịch trên cả hai thị trường, bán lẻ và bán buôn

nhằm hai mục đích:

Thị trường bán lẻ còn được gọi là thị trường khách hàng, ngân hàng cung

cấp dịch vụ cho khách hàng, mua bán ngoại tệ cho khách hàng theo tỷ giá niêm

yết, phần lớn các hoạt động trên thị trường mua bán lẻ của các NHTM thường

được xem là hoạt động cung cấp dịch vụ cho khách hàng, chủ yếu là mua hộ, bán

hộ, chuyển tiền hộ.

Trên thị trường bán buôn còn được gọi là TTLNH các NHTM giao dịch với

nhau; họ hoạt động chủ yếu như là các nhà đầu cơ chấp nhận rủi ro ngoại hối

kiếm lời thông qua sự biến động của tỷ giá. Với hoạt động đầu cơ, các ngân hàng

thương mại làm thay đổi cơ cấu tiền tệ các tài sản có và các tài sản nợ của mình

tạo trạng thái mở ngoại tệ nên đối mặt với rủi ro về tỷ giá, vì thế đòi hỏi các giao

dịch viên phải thận trọng, chính xác và nhạy bén. Ngoài ra, các NHTM còn thực

hiện nghiệp vụ arbitrage - kinh doanh chênh lệch tỷ giá để kiếm lời hoặc phòng

ngừa rủi ro tỷ giá cho chính các hoạt động của mình.

Các định chế tài chính khác.

Nhóm này bao gồm các ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính, các quỹ

đầu tư, các quỹ hưu trí và các quỹ tương hỗ. Họ thường tham gia giao dịch ngoại

hối với quy mô giao dịch lớn, phục vụ ngoại hối cho đa dạng khách hàng và cạnh

tranh với các NHTM, góp phần hình thành thị trường bán buôn [54].

Các NHTM, các định chế tài chính khác và các công ty lớn giao dịch với

nhau bằng hai cách. Cách thứ nhất là giao dịch trực tiếp với nhau thông quan

điện thoại hoặc thông qua hệ thống kinh doanh điện tử. Cách thứ hai là giao dịch

thông qua các nhà môi giới.

9

Các nhà môi giới ngoại hối.

Đây là nhóm chủ thể tham gia phổ biến thông tin thị trường và thực hiện

việc làm khớp các giao dịch giữa người mua và người bán. Khác với các nhà

kinh doanh, các nhà môi giới không tạo ra các trạng thái ngoại hối cho mình mà

kiếm lợi nhuận thông qua việc thu phí hoa hồng môi giới. Các nhà môi giới hoạt

động khắp toàn cầu, cung cấp dịch vụ 24/24 cho thị trường.

Các ngân hàng trung ương.

NHTW thực hiện việc mua bán ngoại tệ thông qua giao dịch trực tiếp với

các NHTM hoặc thông qua các nhà môi giới

Ngoài ra NHTW tham gia mua bán ngoại tệ trên TTNH để thực hiện các

hoạt động thanh toán của chính phủ.

1.1.4.2. Phân loại theo chức năng trên thị trường

Theo chức năng hoạt động trên TTNH, các chủ thể tham gia thị trường có

thể phân thành các nhóm sau: nhà tạo giá sơ cấp, nhà tạo giá thứ cấp, nhà chấp

nhận giá, nhà môi giới, nhà đầu cơ và người can thiệp trên thị trường [48].

Nhóm các nhà tạo giá sơ cấp: Bao gồm các NHTM lớn, các nhà kinh

doanh đầu tư lớn và một số công ty lớn, thực hiện tạo giá trên thị trường bán

buôn – thị trường liên ngân hàng. Họ là những nhà kinh doanh chuyên nghiệp

trên thị trường, họ sẵn sàng tạo giá lẫn cho nhau trên cơ sở yết giá hai chiều. Khi

được yêu cầu, họ sẽ yết đồng thời cả giá mua vào và bán ra và sẵn sàng mua và

bán theo tỷ giá đã yết. Các nhà tạo giá sơ cấp còn được gọi là những nhà bán

buôn.

Các nhà tạo giá thứ cấp thường là các NHTM, tạo giá trên thị trường bán

lẻ – thị trường khách hàng, tạo giá một chiều trên cơ sở yết giá hai chiều cho các

khách hàng của mình. Nghĩa là họ đưa ra tỷ giá mua vào và bán ra cho khách

hàng nhưng khách hàng không phải là người tạo giá ngược lại cho các NHTM.

Việc tạo giá trên thị trường bán lẻ được thực hiện trên cơ sở tỷ giá được hình

thành trên thị trường bán buôn.

10

Các nhà chấp nhận giá là những khách hàng mua bán lẻ. Họ đơn thuần

chấp nhận giá đưa ra của các thành viên tạo giá trên thị trường bán lẻ và tiến

hành giao dịch. Đôi khi các NHTM lớn cũng là những người chấp nhận giá khi

mua và bán những đồng tiền mà họ không giao dịch tích cực.

Nhóm các nhà cung cấp dịch vụ bao gồm các tổ chức cung cấp thông tin

cập nhật thường xuyên về thị trường và cung cấp các hệ thống giao dịch điện tử

như Reuters, Telerate và Knight-Ridder là các nhà cung cấp dịch vụ nổi tiếng.

Nhóm các nhà môi giới đóng vai trò trung gian giữa người mua và người

bán trên thị trường. Các nhà môi giới giúp người mua và người bán tiếp cận các

cơ hội kinh doanh tốt, tiết kiệm thời gian, chi phí và làm cho thị trường hoạt

động sôi động. Tại một thời điểm, một nhà môi giới có thể nhận được nhiều lệnh

mua và bán từ các chủ thể khác nhau trên thị trường. Nhà môi giới sẽ lựa chọn tỷ

giá mua cao nhất và tỷ giá bán thấp nhất để tạo thành giá chào tốt nhất cung cấp

cho người hỏi giá. Người môi giới không kinh doanh cho chính mình không tạo

trạng thái ngoại tệ mở vì thế họ cũng không đối mặt với rủi ro tỷ giá biến động

[55].

Nghiệp vụ môi giới có thể được thực hiện bằng các hình thức: (1)Môi giới

bằng giọng nói(Voice-Broker), là những người có kỷ năng trong việc thực hiện

giao dịch cho khách hàng và mức độ tin tưởng của khách hàng quyết định sự

thành công của nhà môi giới giọng nói. Để thực hiện chức năng này, những nhà

môi giới phải tiếp cận với một số lượng lớn các nhà giao dịch và biết rõ tỷ giá mà

tại đó những người tham gia thị trường được chuẩn bị để mua và bán, cùng một

lúc họ phải liên lạc bằng điện thoại với nhiều nhà giao dịch để thỏa thuận về điều

kiện thị trường, số lượng giao dịch và tỷ giá thực hiện. (2) Khớp lệnh tự động

(Automated Oder-Matching) hay hệ thống môi giới điện tử (Electronic Broking

Systems) với hệ thống này các nhà giao dịch có thể thấy trên màn hình của họ tỷ

giá mua và bán được yết của những đối tác tiềm năng để sẳn sàng giao dịch, khi

được khớp lệnh giao dịch tự động thực hiện. (3) Nhà môi giới trên sàn giao dịch

11

tương lai và quyền chọn, lệnh từ khách hàng sẽ được chuyển đến cho nhà môi

giới tại sàn (Floor broker). Nhà môi giới tại sàn cố gắng thực hiện lệnh trên sàn

hối đoái bằng cách đấu giá mở (by open outcry) [54].

Nhóm các nhà đầu cơ hoạt động tương đối mạnh trên TTNH, họ mua vào

hay bán ra một đồng tiền nhất định trên cơ sở phán đoán của mình về xu hướng

biến động tỷ giá, chấp nhận duy trì trạng thái ngoại hối mở, họ có thể thu được

lợi nhuận hoặc phải chịu thua lỗ khi tỷ giá biến động. Các nhà đầu cơ thường bị

buộc tội gây ra những biến động trên các thị trường, gây tác động không tích cực

đến nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, yếu tố đầu cơ là cần thiết nhằm tăng tính

thanh khoản cho thị trường và làm cho thị trường sôi động. Hoạt động đầu cơ

trên TTNH không được chính phủ của các nước Đông Nam Á chấp thuận vì họ

cho rằng đầu cơ sẽ tạo nên rắc rối gây nên tình trạng mất ổn định [50].

Người thực hiện chức năng can thiệp

Sự tham gia của những NHTW trên TTNH của nước họ có sự khác nhau về

mức độ, cách thức và mục đích tham gia, hoạt động của NHTW đóng vai trò rất

quan trọng bởi vì tác động của những giao dịch do NHTW thực hiện có vai trò

định hướng sự biến động của tỷ giá, các chủ thể tham gia thị trường ngoại hối

luôn chăm chú theo dõi các hoạt động của NHTW để dự đoán các chính sách

kinh tế vĩ mô trong tương lai, dự báo sự biến động của tỷ giá và đưa ra các quyết

định phù hợp trên thị trường.

Việc lựa chọn cơ chế tỷ giá sẽ xác định khung cơ bản mà trong đó NHTW

thực hiện hành động can thiệp của nó, phạm vi và phương pháp thực hiện phụ

thuộc trước hết vào cơ chế tỷ giá hối đoái của mỗi nước [54]. Đó là việc NHTW

sẽ thả nổi tỷ giá cho thị trường tự quyết định hay NHTW sẽ tác động vào tỷ giá

thông qua các hoạt động can thiệp của mình bằng cách mua vào hay bán ra ngoại

tệ trên TTNH.

Trong chế độ tỷ giá cố định, NHTW thường xuyên can thiệp với mục đích

duy trì tỷ giá trong một biên độ tỷ giá nhất định. Trong chế độ tỷ giá thả nổi có

12

điều tiết, NHTW can thiệp nhằm tác động lên tỷ giá theo hướng mà NHTW cho

là có lợi cho nền kinh tế.

Các NHTW cũng có thể tác động lên tỷ giá thông qua việc áp dụng các

chính sách làm thay đổi lãi suất trên thị trường tiền tệ như mua các chứng khoán

phát hành lần đầu của chính phủ, hoạt động trên thị trường mở hoặc thay đổi tỷ lệ

dự trữ bắt buộc.

1.1.5. Những nghiệp vụ trên TTNH

1.1.5.1. Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay

Đây nghiệp vụ cơ bản nhất và chiếm doanh số lớn nhất trên TTNH, giao

dịch ngoại hối giao ngay (forex spot transaction) là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ

dựa trên cơ sở thỏa thuận tỷ giá ngày hôm nay và việc giao hàng – thanh toán

được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc.

Giao dịch giao ngay được sử dụng với mục đích chuyển đổi từ đồng tiền

này sang đồng tiền khác để đáp ứng nhu cầu trong hoạt động ngoại thương và

đầu tư quốc tế, ngày nay các NHTM và các định chế tài chính khác còn sử dụng

với mục đích đầu cơ, kinh doanh chênh lệch tỷ giá [41].

Sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá BrettonWoods làm cho tỷ giá biến động

nhiều hơn, không còn ổn định như trước. Vì thế, những nhà kinh doanh xuất

nhập khẩu, các nhà đầu tư quốc tế, NHTM có nhu cầu bảo hiểm rủi ro ngoại hối

sẽ tìm đến các sản phẩm ngoại hối phái sinh để được đáp ứng yêu cầu đó.

1.1.5.2. Nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn(Forex Forward transaction)

Giao dịch ngoại hối kỳ hạn là giao dịch mua bán ngoại hối trong đó tỷ giá

được hai bên thỏa thuận ngày hôm nay và việc giao hàng- thanh toán được thực

hiện tại mức tỷ giá đó vào một ngày xác định trong tương lai khác với ngày giá

trị giao ngay (spot date) [41].

Trong giao dịch kỳ hạn, tỷ giá được xác định ngày hôm nay và làm cơ sở

cho việc trao đổi luồng tiền trong tương lai, vì thế tỷ giá kỳ hạn sẽ được xác định

13

dựa trên các yếu tố: tỷ giá giao ngay, lãi suất của hai đồng tiền và kỳ hạn giao

dịch.

Giao dịch ngoại hối kỳ hạn có những đặc điểm sau:

Hợp đồng có hiệu lực tại thời điểm ký kết sẽ ràng buộc trách nhiệm hai bên

mua và bán phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ qui định vào ngày đáo hạn, với tỷ giá

đã xác định cho dù tỷ giá giao ngay thời điểm đáo hạn hợp đồng có biến động

tăng cao hơn hay giảm thấp.Số lượng, loại tiền, thời điểm thực hiện hợp đồng

không được thay đổi.

Thông thường, hợp đồng ngoại hối kỳ hạn có các kỳ hạn tương thích với kỳ

hạn trên thị trường tiền tệ như 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng tới một năm.

Tuy nhiên, hai bên giao dịch có thể thỏa thuận một kỳ hạn lẻ nào đó phù hợp với

cả hai. Ngoài ra, trong thực tế cũng có thể có kỳ hạn dài hơn một năm và thậm

chí tới hai mươi năm [54].

Với những đặc điểm trên giao dịch ngoại hối kỳ hạn có những ứng dụng

sau:

Thứ nhất, sử dụng giao dịch ngoại hối kỳ hạn để phòng ngừa rủi ro tỷ giá vì

với đặc điểm của giao dịch ngoại hối kỳ hạn là luồng tiền chuyển giao trong

tương lai sẽ được xác định trên cơ sở tỷ giá kỳ hạn và sẽ không thay đổi khi đến

thời điểm thanh toán. Những nhà đầu tư, kinh doanh xuất nhập khẩu, những

người có nhu cầu giao dịch ngoại tệ trong tương lai và có nguy cơ bị thiệt hại do

sự biến động của tỷ giá gây ra, họ muốn cố định khoản phải thu và phải chi trong

tương lai, hay nói cách khác bảo hiểm rủi ro tỷ giá, sử dụng giao dịch kỳ hạn

đảm bảo hạn chế 100% rủi ro tỷ giá.

Thứ hai, sử dụng giao dịch ngoại hối kỳ hạn để đầu cơ, nhà kinh doanh tiền

tệ kỳ vọng một đồng tiền nào đó sẽ tăng giá mạnh trong tương lai, anh ta có thể

đầu cơ bằng cách ký hợp đồng mua kỳ hạn đồng tiền đó ngày hôm nay và khi

đến ngày đáo hạn nếu tỷ giá thực sự tăng anh ta sẽ bán lại trên thị trường giao

ngay và có lợi nhuận. Và ngược lại trong trường hợp dự đoán đồng tiền giảm giá

sẽ ký hợp đồng bán kỳ hạn và sẽ mua lại khi nó giảm giá.

14

Thứ ba, sử dụng giao dịch ngoại hối kỳ hạn để kinh doanh chênh lệch lãi

suất: Cơ hội kinh doanh chênh lệch lãi suất có bảo hiểm rủi ro tỷ giá (cover

interest arbitrage – CIA) sẽ phát sinh nếu trên thị trường ngoại hối có các mức tỷ

giá kỳ hạn không phù hợp với điều kiện ngang giá lãi suất.

1.1.5.3. Nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối (Forex Swap Transaction)

Giao dịch hoán đổi ngoại hối là giao dịch trong đó một bên đồng ý bán

(mua) cho bên kia một đồng tiền nhất định tại một thời điểm và đồng thời cam

kết mua (bán) lại chính đồng tiền đó vào một thời điểm khác trong tương lai với

các mức tỷ giá được thỏa thuận từ trước[54].

Giao dịch hoán đổi ngoại hối là một giao dịch kép, có các đặc điểm sau:

-Hợp đồng mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định với các mức tỷ giá

nhất định được hai bên thỏa thuận và ký kết đồng thời ngày hôm nay trong một

hợp đồng;

-Số lượng mua vào và bán ra là bằng nhau trong cả hai vế (vế mua và vế

bán) của hợp đồng hoán đổi;

-Ngày giá trị của hợp đồng mua vào và ngày giá trị của hợp đồng bán ra là

khác nhau.

Qua đặc điểm trên, giao dịch hoán đổi ngoại hối không tạo ra trạng thái

ngoại hối nhưng tạo ra trạng thái luồng tiền giống như trong trường hợp vay và

cho vay ngoại tệ. Vì thế, phạm vi ứng dụng của giao dịch hoán đổi ngoại hối

được áp dụng trong những trường hợp sau:

Giao dịch hoán đổi ngoại hối có ý nghĩa thiết thực để phòng ngừa rủi ro tỷ

giá đối với các chủ thể tham gia các hoạt động đầu tư hay đi vay bằng ngoại

tệ.Thực tế, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thường sử dụng giao dịch ngoại

hối kỳ hạn một chiều để phòng ngừa rủi do tỷ giá. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi

ngoại hối đặc biệt hữu dụng đối với các nhà xuất nhập khẩu trong một số những

tình huống nhất định vừa phòng ngừa rủi ro tỷ giá vừa xử lý các luồng tiền phát

sinh không theo kế hoạch.

15

Giao dịch hoán đổi ngoại hối cũng thường được NHTW các nước sử dụng

để thực thi chính sách tiền tệ và can thiệp vào TTNH mà không muốn áp lực tăng

khối lượng tiền trong lưu thông.

Trong một số trường hợp, giao dịch hoán đổi ngoại hối được sử dụng để các

chủ thể đạt được mục đích đi vay và cho vay trên thị trường khi mà thị trường

tiền tệ hoạt động không sôi động.

1.1.5.4. Giao dịch tiền tệ tương lai

Hợp đồng tiền tệ tương lai lần đầu được giao dịch trên thị trường Chicago

vào năm 1972, sau đó được phát triển tại các sở giao dịch chứng khoán của Mỹ

như Sở giao dịch Hàng hóa Trung Mỹ (MidAmerica Commodity Exchange -

MAC) và Sở giao dịch Chứng khoán Philadelphia, rồi ở một số quốc gia có thị

trường tài chính phát triển như Singapore (Singapore International Money

Exchange – SIMEX), Anh (London International Financial Futures Exchange –

LIFFE), New Zealand (New Zealand Futures Exchange) và Nhật (Tokyo

International Financial Futures Exchange). Các hợp đồng tiền tệ tương lai được

giao dịch sớm nhất là Bảng Anh, Đô-la Canada, Mác Đức, Yên Nhật và Franc

Thụy Sĩ. [48]

Các hợp đồng tiền tệ tương lai là các giao dịch trong đó hai bên giao dịch

thỏa thuận với nhau về việc mua bán một lượng tiền xác định theo mức tỷ giá

được thỏa thuận ngay tại thời điểm giao dịch, việc giao hàng và thanh toán được

thực hiện vào một thời điểm xác định trong tương lai. Tuy nhiên, khác với hợp

đồng kỳ hạn, các hợp đồng tương lai được tiêu chuẩn hóa về số lượng và thời hạn

giao hàng, được mua bán ở sở giao dịch, tuân thủ quy trình thanh toán lãi/lỗ mỗi

ngày. Với các đặc điểm này, các hợp đồng tiền tệ tương lai khắc phục được một

số nhược điểm nhất định của hợp đồng kỳ hạn như vấn đề tìm kiếm đối tác, rủi ro

tín dụng và khả năng tháo gỡ trách nhiệm hợp đồng thấp[54].

Giao dịch hợp đồng tiền tệ tương lai chỉ được thực hiện tại sở giao dịch, và

công ty thanh toán bù trừ đảm bảo thực hiện hợp đồng một khi giao dịch được

hai bên thống nhất, lúc đó công ty thanh toán bù trừ sẽ trở thành đối tác của

16

người bán và người mua. Khi các bên muốn tháo gỡ cam kết hợp đồng hay đóng

hợp đồng sẽ dễ dàng thực hiện thông qua công ty thanh toán bù trừ. Như vậy,

hợp đồng tương lai có tính thanh khoản cao hơn hợp đồng kỳ hạn. Bên cạnh đó,

với kỹ thuật tính toán lãi lỗ hàng ngày thông qua việc định giá lại các hợp đồng

tiền tệ theo tỷ giá thanh toán là tỷ giá đóng cửa, nếu tiền lãi cao hơn tiền ký quỹ

theo yêu cầu, thì các bên có thể rút ra hoặc nếu xuống thấp qua mức ký quỹ duy

trì sẽ phải nộp thêm vào. Như vậy, lãi hay lỗ sẽ được xác định hàng ngày, chứ

không phải đợi đến ngày đáo hạn như giao dịch kỳ hạn [43].

Qua những đặc điểm trên, hợp đồng tiền tệ tương lai có những ứng dụng

sau:

Thứ nhất, như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tiền tệ tương lai có thể được sử

dụng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Để bảo hiểm rủi ro tỷ giá tăng(giảm), người

bảo hiểm sẽ tiến hành mua(bán) hợp đồng tiền tệ tương lai. Nếu ngày thanh toán

không trùng với ngày đáo hạn của hợp đồng tương lai, người bảo hiểm sẽ tất toán

hợp đồng tương lai bằng cách thực hiện giao dịch đối ứng với vị thế của hợp

đồng tương lai. Khoản lời thu được trên thị trường tương lai sẽ bù cho khoản lỗ

khi người bảo hiểm tiến hành mua bán ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Nếu

ngày thanh toán trùng với ngày đáo hạn của hợp đồng tương lai, người bảo hiểm

sẽ thực hiện việc giao hàng như giao dịch kỳ hạn.

Tuy nhiên, khi sử dụng hợp đồng tiền tệ tương lai để phòng ngừa rủi ro tỷ

giá cần phải ý thức được rằng hiệu quả bảo hiểm có thể không đạt 100%. Có 3 lý

do chính (1) là do có sự khác nhau về thời điểm thanh toán khoản phải thu (phải

trả) và thời điểm đáo hạn hợp đồng tiền tệ tương lai; (2) là không thể mua bán

phần lẻ các hợp đồng tương lai; (3) là tồn tại rủi ro cơ bản, là rủi ro phát sinh do

mức biến động của tỷ giá giao ngay và mức biến động tỷ giá trên thị trường

tương lai không hoàn toàn như nhau mặc dù chúng biến động cùng chiều. Ngoài

ra, vấn đề chi phí giao dịch và hoa hồng trả cho nhà môi giới cũng cần phải quan

tâm khi thực hiện giao dịch tiền tệ tương lai [9].

17

Thứ hai, sử dụng hợp đồng tiền tệ tương lai để đầu cơ. Hoạt động đầu cơ

trên thị trường tiền tệ tương lai là một hoạt động mang tính mạo hiểm cao và hấp

dẫn nhiều nhà đầu cơ tham gia. Do hai đặc điểm: (1) là tính đòn bẩy, chỉ cần một

số tiền nhỏ ban đầu ứng với mức ký quỹ là nhà kinh doanh có thể mở được một

hợp đồng tương lai. Nếu dự báo đúng về sự biến động của tỷ giá thì nhà kinh

doanh sẽ thu được lợi nhuận và tỷ lệ lợi nhuận khá cao, đương nhiên, nếu dự báo

sai về sự biến động của tỷ giá thì nhà kinh doanh sẽ bị thua lỗ và mức thua lỗ

không nhỏ. (2) là tính thanh khoản cao, nhà kinh doanh có thể tháo gỡ nghĩa vụ

thực hiện hợp đồng dễ dàng khi họ phán đoán xu thế của tỷ giá biến động không

như dự đoán, họ tiến hành tất toán hợp đồng để chốt lời hay cắt lỗ, không đợi đến

ngày đáo hạn, mà điều này không thể thực hiện được nếu họ sử dụng giao dịch

kỳ hạn.

1.1.5.5. Hợp đồng quyền chọn tiền tệ

Hợp đồng trong đó người mua quyền chọn trả cho người bán một khoản

tiền gọi là phí quyền chọn để có quyền chứ không phải nghĩa vụ thực hiện hợp

đồng[53]:

-Mua hoặc bán một số lượng nhất định của một loại tiền.

-Vào một ngày xác định trong tương lai hoặc vào bất cứ thời điểm nào kể từ

sau khi ký hợp đồng cho đến một ngày xác định trong tương lai.

-Tại một mức tỷ giá nhất định được xác định và thỏa thuận ngay tại thời

điểm ký kết hợp đồng.

Như vậy, hợp đồng có được thực hiện hay sẽ tự hết hiệu lực khi đến thời

điểm đáo hạn tùy thuộc vào quyết định của người mua, người mua ở vị thế chủ

động, còn người bán quyền chọn ở vị thế bị động, khi nhận được phí quyền chọn,

người bán có nghĩa vụ đáp ứng khi người mua quyết định thực hiện hợp đồng.

Hợp đồng quyền chọn tiền tệ có các loại sau [45]

(1)Hợp đồng quyền chọn mua (Call Option): là hợp đồng trong đó người mua

quyền chọn, sau khi trả cho người bán quyền chọn một khoản phí nhất định, có

quyền mua từ người bán quyền chọn đồng tiền cơ sở với một số lượng nhất định

18

tại mức tỷ giá cố định đã được thỏa thuận từ trước trong một khoảng thời gian

nhất định hay tại một thời điểm xác định trong tương lai.

(2)Hợp đồng quyền chọn bán (Put Option): là hợp đồng trong đó người mua

quyền chọn, sau khi trả cho người bán quyền chọn một khoản phí nhất định, có

quyền bán cho người bán quyền chọn đồng tiền cơ sở với một số lượng nhất định

tại mức tỷ giá cố định đã được thỏa thuận từ trước trong một khoảng thời gian

nhất định hay tại một thời điểm xác định trong tương lai.

Nếu căn cứ vào thời điểm thực hiện hợp đồng, quyền chọn được chia làm

hai loại:

-Quyền chọn kiểu Châu Âu (European Option): Là quyền chọn chỉ cho

phép người nắm giữ quyền chọn thực hiện quyền chọn vào ngày đáo hạn.

-Quyền chọn kiểu Mỹ (American Option): là quyền chọn cho phép người nắm

giữ quyền chọn đưa ra yêu cầu thực hiện quyền chọn vào bất cứ thời điểm nào

trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, kể từ khi ký hợp đồng cho đến khi đáo hạn

hợp đồng, kể cả vào ngày đáo hạn.

Việc thanh toán sẽ thực sự xảy ra trong vòng hai ngày làm việc sau khi việc thực

hiện quyền chọn được người nắm giữ quyền chọn xác nhận.

Với những đặc điểm trên, hợp đồng quyền chọn có thể được sử dụng như sau:

Thứ nhất, sử dụng hợp đồng quyền chọn tiền tệ để bảo hiểm rủi ro tỷ giá,

nhà kinh doanh quyền chọn vừa bảo vệ trước sự thay đổi giá cả của tài sản tài

chính trong tương lai trong khi vẫn cho phép họ có thể khai thác chiều hướng

biến động thuận lợi của giá cả để thu lợi nhuận. Các hợp đồng quyền chọn đặc

biệt hữu hiệu đối với các công ty tham gia các hoạt động đấu thầu quốc tế. Trong

các hoạt động đấu thầu quốc tế, các đơn vị tham dự thầu thường có các khoản thu

bằng ngoại tệ nếu như việc đấu thầu cung cấp dịch vụ và hàng hóa thành công.

Trong khoảng thời gian từ khi tham gia đấu thầu cho đến khi nhận được kết quả

đấu thầu, sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể làm giảm hiệu quả kinh doanh,

hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể sử dụng để bảo hiểm cho các hoạt động đấu

thầu như thế.

19

Thứ hai, hợp đồng quyền chọn cũng là công cụ để thực hiện đầu cơ.Tùy vào

dự đoán sự biến động của tỷ giá, nhà đầu cơ có thể sử dụng hợp đồng quyền chọn

đơn lẻ hay kết hợp từ hai quyền chọn mua hay bán tiền tệ, để kiếm lời thông qua

sự biến động của tỷ giá. Nếu là người mua quyền chọn, họ sẽ mất phí quyền chọn

khi dự đoán sai. Nếu là người bán quyền chọn thì thiệt hai của họ sẽ là không xác

định được tùy vào mức độ biến động của tỷ giá và qui mô giao dịch.

1.2. Những nhân tố tác động đến việc phát triển thị trường ngoại hối của một quốc gia

TTNH hoạt động và phát triển dưới tác động của những nhân tố khách quan và

chủ quan, đó là

1.2.1 Tác động của qui luật thị trường

Trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, thương

mại của các chủ thể trong nền kinh tế đều phải vận hành theo qui luật khách quan

của thị trường, đó là qui luật giá trị, qui luật cung-cầu, qui luật cạnh tranh. Những

qui luật này chi phối việc lập kế hoạch, chiến lược sản xuất và kinh doanh của

các doanh nghiệp, các cá nhân, tổ chức tài chính có giao dịch liên quan đến ngoại

tệ, tác động đến nhu cầu về ngoại tệ của những chủ thể đó sẽ thay đổi dẫn đến sự

biến động của tỷ giá là giá cả của hàng hóa trên TTNH. Nếu một cơ chế tỷ giá

cứng ngắc sẽ làm triệt tiêu động lực bảo hiểm rủi ro tỷ giá và ngăn cản những

người tham gia thị trường phát triển kỷ năng quản lý rủi ro ngoại hối và làm

chậm sự phát triển của thị trường phái sinh [60]. Ngược lại, tỷ giá biến động dẫn

đến làm thay đổi lợi nhuận của các chủ thể có giao dịch liên quan đến ngoại tệ và

làm tăng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Cũng như tạo cơ hội cho nhà đầu cơ

tham gia mua bán tiền tệ để tìm kiếm lợi nhuận thông qua sự kỳ vọng về biến

động của tỷ giá.

Một TTNH được điều hành và hoạt động bằng những biện pháp hành chính,

áp đặt tỷ giá theo ý muốn chủ quan của nhà điều hành tách rời với giá thị trường

sẽ vi phạm qui luật giá trị và qui luật cung cầu. Khi đó tỷ giá chính thức chỉ

20

mang tính danh nghĩa, giao dịch trên hệ thống ngân hàng sẽ bị thu hẹp lại, tạo cơ

hội cho thị trường không chính thức hoạt động.[44]

TTNH sẽ triệt tiêu sự cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường bằng

những chính sách ưu tiên cho chủ thể kinh tế nhà nước hơn các chủ thể kinh tế

khác, khi đó sẽ dẫn tới những hành vi tiêu cực trong kinh doanh hạn chế sự phát

triển của thị trường. [44].

Tôn trọng qui luật khách quan của thị trường sẽ tạo điều kiện cho thị trường

vận hành đúng với chức năng vốn có của nó; Vấn đề đặt ra cho những nhà quản

lý là hãy lập và điều hành chính sách phù hợp với cơ chế thị trường để thông qua

qui luật thị trường đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội đã đề ra.

1.2.2. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế

Xu hướng phát triển kinh tế của các quốc gia hiện nay là hướng tới hội nhập

kinh tế, là mở cửa nền kinh tế và tùy thuộc vào mỗi quốc gia mà có mức độ mở

cửa khác nhau. Điều này nói lên rằng các quốc gia không thể tự thỏa mãn nhu

cầu của chính mình, mà phải tiến hành chuyên môn hóa sản xuất xuất khẩu

những hàng hóa và dịch vụ có lợi thế so sánh và nhập khẩu những hàng hóa và

dịch vụ không có lợi thế so sánh. Như vậy, khi quá trình toàn cầu hoá càng phát

triển, mức độ mở cửa của các nền kinh tế càng lớn thì chu chuyển hàng hóa và

dịch vụ giữa các quốc gia sẽ càng tăng, hoạt động thương mại quốc tế sẽ ngày

càng phát triển. Và một khi còn tồn tại các đồng tiền khác nhau giữa các quốc

gia, giữa các khu vực thì dẫn đến nhu cầu trao đổi tiền tệ càng nhiều để đáp ứng

với đà phát triển của thương mại và dịch vụ quốc tế từ đó tác động đến hoạt động

của TTNH.

Bên cạnh chu chuyển hàng hóa và dịch vụ phát triển, toàn cầu hóa còn đưa

đến việc mở cửa trong lĩnh vực chu chuyển vốn quốc tế. Một quốc gia mở cửa

TTTC sẽ mang lại những lợi ích nhất định, tăng nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ

tầng và phát triển sản xuất. Những nhà đầu tư, những người đi vay sẽ có cơ hội

tiếp cận với các dòng vốn có chi phí và lãi suất cạnh tranh thông qua TTTC, bên

cạnh đó trên TTTC quốc tế còn cho phép những nhà đầu tư tài chính tìm kiếm

21

khả năng sinh lời cao và giảm được rủi ro thông qua đa dạng hóa danh mục đầu

tư quốc tế. Như vậy, khi mở cửa TTTC sẽ tạo điều kiện để quá trình luân chuyển

vốn giữa các quốc gia phát triển nhu cầu chuyển đổi tiền tệ sẽ càng tăng giúp cho

hoạt động trên TTNH phát triển.

Đây là một tác động vừa mang yếu tố khách quan vừa có yếu tố chủ quan:

khách quan là bởi vì nền kinh tế thế giới hiện nay đứng trước nhu cầu về lương

thực, thực phẩm, nguyên liệu càng gia tăng mà nguồn tài nguyên càng cạn kiệt thì

sự liên kết hợp tác để tận dụng những thế mạnh của những quốc gia, khu vực

khác là sự vận động theo qui luật phát triển tự nhiên của nền kinh tế thị trường,

còn chủ quan là tùy thuộc vào chính sách mức độ hội nhập cuả từng quốc gia.

Khi một nền kinh tế mở cửa với thế giới, nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng trưởng mạnh

cùng với luồng vốn đầu tư nước ngoài để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, đặc

biệt là trong trường hợp Việt Nam khi khoảng 90% tổng giá trị nhập khẩu là hàng

tư liệu sản xuất và xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào cung cầu và giá cả trên

thị trường thế giới [4].

Những biến động của giá nguyên vật liệu cũng như cầu giảm sút do khủng hoảng

kinh tế là những nhân tố ảnh hưởng đến nhập siêu của Việt Nam và ảnh hưởng đến

nguồn cung cầu ngoại tệ.

Theo nghiên cứu của Ng Boey Kui 1998, quá trình toàn cầu hóa đã tác động

đến việc mở rộng kiểm soát ngoại hối của các nước Đông Nam Á như với

Indonesia việc mua, bán ngoại hối không còn bị hạn chế, những ngân hàng hoạt

động ngoại hối không bị bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng

Indonesia(Goverment Dcree No.1 1982). Với Philippine thì trước năm 1983,

những nhà xuất khẩu bị bắt buộc kết hối 100% nhưng sau đó đã được dỡ bỏ và hệ

thống kinh doanh ngoại hối đã được mở rộng đáng kể, những NHTM được phép

giữ lại nguồn thu ngoại tệ và giao dịch với nhau trên thị trường liên ngân hàng.

Với Malaysia, Srilanka và Thailand không hạn chế việc các NHTM nắm giữ

ngoại tệ nhưng vẫn còn yêu cầu những nhà xuất khẩu chỉ được giữ lại ngoại tệ

trong một khoảng thời gian nhất định.

22

Quá trình tự do hóa kiểm soát ngoại hối vừa thúc đẩy sự phát triển của

TTLNH vừa tạo điều kiện cho thị trường ngoại tệ phái sinh hoạt động bởi vì

trong thế giới mà chính sách tỷ giá thả nổi được toàn cầu hóa, thì rủi ro tỷ giá sẽ

gia tăng một cách mạnh mẽ và những nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà đầu tư

cũng như các ngân hàng sẽ gia tăng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá [50].

Tuy nhiên, bên cạnh những tác động thuận lợi tạo cơ hội cho TTNH phát

triển thì quá trình mở cửa sẽ làm cho nền kinh tế của một quốc gia đối mặt với

những biến động từ bên ngoài. Trong một thế giới mà ở đó các thị trường liên kết

với nhau sẽ làm cho mức tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá và tỷ lệ lạm phát …

của các quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng lẫn nhau và nếu đó là những sự kiện như

khủng hoảng kinh tế, tài chính của khu vực sẽ làm suy giảm hoạt động sản xuất

kinh doanh của các quốc gia, giảm kim ngạch xuất nhập khẩu, tác động đến

doanh số giao dịch trên TTNH sẽ sụt giảm.

Bên cạnh đó, còn có tác động của các yếu tố: sự phát triển công nghệ thông

tin, qui mô ngày càng lớn của các giao dịch tài chính và những rào cản về tài

chính thương mại bị bãi bỏ theo yêu cầu của hội nhập, đã dẫn đến sự tăng tốc độ

chu chuyển các luồng vốn và trao đổi thương mại, hình thành nên một mạng lưới

tài chính toàn cầu với sự gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các trung tâm tài

chính. Những tin tức thị trường mau chóng lan truyền giữa các châu lục và tạo ra

phản ứng dây chuyền trong việc ra quyết định của các nhà đầu tư, đầu cơ trên

toàn cầu cũng như dễ dàng gây ra hiệu ứng “domino” trên toàn cầu khi một thị

trường tài chính của khu vực nào bị khủng hoảng.

1.2.3. Chính sách quản lý ngoại hối của quốc gia

TTNH của mỗi quốc gia là nơi mà các chính sách kinh tế, tiền tệ được thực

hiện, những chính sách này sẽ tác động đến hoạt động và phát triển của TTNH

mà trực tiếp là chính sách quản lý ngoại hối. Quản lý ngoại hối hay còn được gọi

là kiểm soát ngoại hối, là một hệ thống những qui định pháp lý mà trong đó có

những hạn chế trong trao đổi, vay, mượn, những khoản thu và chi trong cán cân

thanh toán của một quốc gia. Đối với những mục tiêu đầu tư quốc tế quản lý

23

ngoại hối nhằm kiểm soát, quản lý các luồng vốn di chuyển vào và ra khỏi quốc

gia [57].

Vì thế, chính sách quản lý ngoại hối bao gồm: chính sách tỷ giá, chính sách

kết hối, chính sách lưu thông, kinh doanh và thanh toán ngoại hối vv.. Xây dựng

và thực hiện chính sách quản lý ngoại hối là nhằm đạt mục tiêu ổn định TTNH,

tạo sự cân bằng trong cán cân thanh toán quốc tế, ổn định giá trị tiền tệ, bảo tồn

nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài tạo điều kiện ổn định và phát

triển kinh tế.

1.2.3.1. Chính sách tỷ giá

Chính sách tỷ giá là những chủ trương biện pháp của chính phủ thông qua

cơ chế điều hành nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến

động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.

Trong một nền kinh tế mở, động cơ hoạch định chính sách là những mục

tiêu cân đối bên trong và cân đối bên ngoài. Tuy nhiên những mục tiêu này có

quan hệ mật thiết với nhau, những thay đổi cân đối bên trong sẽ tác động đến

những thay đổi bên ngoài và ngược lại. Hơn nữa, trong xu thế hội nhập hiện nay

những yếu tố của cân đối bên trong còn chứa đựng những yếu tố bên ngoài và

ngược lại.

Tỷ giá là một biến số kinh tế quan trọng, tác động đến nền kinh tế với mức

ảnh hưởng khác nhau ở các mặt hoạt động khác nhau, với TTNH chính sách tỷ

giá sẽ có những tác động trực tiếp và gián tiếp như sau:

(1)Một tỷ giá hối đoái phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường sẽ

có tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và phát triển sản xuất,

lưu thông hàng hoá gia tăng lượng ngoại tệ trên TTNH.

(2) Tỷ giá được xác định đúng là giá cả của thị trường sẽ tạo cơ sở cho các

giao dịch trên TTNH phát triển.

(3)Một chế độ tỷ giá phù hợp sẽ tạo điều kiện nâng cao uy tín đồng bản tệ,

tạo niềm tin cho các nhà đầu tư quốc tế thu hút luồng vốn đầu tư chảy vào gia

tăng lượng ngoại tệ tạo cơ hội cho dòng chảy ngoại tệ được thông suốt.

24

Lựa chọn một chính sách tỷ giá hợp lý phải tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế,

thể chế chính trị, phương hướng phát triển kinh tế và nhất là mục tiêu phát triển

kinh tế xã hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ.

Xuất phát từ mục tiêu đặt ra và những tác động của chính sách, chính sách

tỷ giá gồm 2 nội dung chính như sau:(i) Xác định một chế độ tỷ giá phù hợp (ii)

Xác định hệ thống các công cụ tác động đến tỷ giá.

Chế độ tỷ giá (exchange rate regime hay còn gọi là cơ chế tỷ giá (exchange

rate mechanism) phản ảnh cách thức xác định tỷ giá mà chính phủ lựa chọn và

cách thức can thiệp vào tỷ giá của NHTW, vì thế chế độ tỷ giá được phân chia

thành các chế độ tỷ giá đặc trưng là:

Chế độ tỷ giá cố định: là chế độ theo đó NHTW công bố và cam kết để duy

trì tỷ giá cố định (gọi là tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định

trước. Vai trò của NHTW buộc phải mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị

trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá cố định và chỉ biến động trong một biên độ

hẹp.

Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là chế độ tỷ giá được xác định hoàn toàn tự

do theo qui luật cung cầu trên TTNH mà không có bất kỳ sự can thiệp nào của

NHTW.Vai trò của NHTW chỉ tham gia trên TTNH với tư cách là một thành viên

bình thường, nghĩa là NHTW có thể mua hay bán một đồng tiền nhất định để

phục vụ cho mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp

lên tỷ giá hay để cố định lên tỷ giá. Trên thực tế tuy tuyên bố áp dụng chế độ tỷ

giá thả nổi nhưng chính phủ không hoàn toàn thờ ơ trước sự biến động thất

thường của tỷ giá, nên cũng có can thiệp để giảm sự biến động của tỷ giá, tuy

nhiên can thiệp của chính phủ là tùy ý không đặt ra bất cứ mục tiêu bắt buộc nào

phải đạt được.

Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: là chế độ tỷ giá, theo đó NHTW tiến hành

can thiệp tích cực trên TTNH nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất

định. NHTW không cam kết duy trì một mức tỷ giá cố định nào, nhưng cam kết

can thiệp để tỷ giá chỉ biến động trong một giới hạn. Chế độ tỷ giá thả nổi có

25

điều tiết là sự kết hợp giữa chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn và chế độ tỷ giá hối

đoái cố định.

Trong thực tế hầu như ít có một quốc gia nào áp dụng chế độ tỷ giá cố định

hoặc thả nổi thuần tuý mà thay vào đó là một chính sách tỷ giá kết hợp giữa thả

nổi và cố định với những đặc trưng đa dạng phù hợp với đặc điểm của từng quốc

gia.

Chế độ tỷ giá là công cụ của chính sách kinh tế cuả chính phủ vì vậy chế

độ tỷ giá phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chính phủ, mỗi quốc gia sẽ có nguyên

tắc xác định tỷ giá và cơ chế điều hành tỷ giá khác nhau và chính từ đó hình

thành các chính sách tỷ giá khác nhau. Nội dung chính của chính sách tỷ giá

chính là chế độ tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp. Tuỳ thuộc vào từng thời

kỳ xác định chiến lược phát triển kinh tế, dự trữ ngoại hối, đặc thù về hoàn cảnh

lịch sử của mỗi quốc gia mà có sự lựa chọn những chính sách tỷ giá khác nhau.

Các quốc gia hiện nay có thể lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái nằm trong dãy

từ mô hình chế độ tỷ giá cố định đến chế độ tỷ giá linh hoạt thuần tuý, giữa các

mô hình đó đó là những mô hình chế độ tỷ giá không thuần tuý là cố định hay

linh hoạt.

Theo phân loại của IMF, trên thế giới gồm có các chế độ tỷ giá:

Chế độ tỷ giá không có đồng tiền pháp định riêng (Exchange Rate Regimes

with no separate legal tender), đồng tiền sử dụng trong lưu thông có thể là (1)

quốc gia này sử dụng đồng tiền của quốc gia khác trong lưu thông như là một

đồng tiền pháp định duy nhất (2)quốc gia này là thành viên của liên minh tiền tệ,

trong đó các nước thành viên thống nhất sử dụng một đồng tiền pháp định chung.

Chế độ chuẩn tiền tệ (Currency board Regimes): Đây là chế độ tỷ giá có có

sự cam kết chính thức của chính phủ về chuyển đổi bản tệ sang ngoại tệ là đồng

tiền bản vị tại một mức tỷ giá cố định.

Chế độ tỷ giá neo đậu (cố định) thông thường (Conventional fixed peg

Regimes) đây là chế độ tỷ giá khi chính phủ neo đồng tiền của mình (một cách

chính thức hay ngầm định) với một đồng tiền chính hay một rổ các đồng tiền tại

26

một mức tỷ giá cố định, đồng thời cho phép tỷ giá được dao động trong một biên

độ hẹp tối đa là 1% xung quanh tỷ giá trung tâm.

Chế độ tỷ giá neo đậu (cố định) với biên độ dao động rộng (Exchange rates

Peg within horizontal bands): giống như chế độ tỷ giá trên nhưng cho phép tỷ giá

được dao động trong một biên độ rộng hơn 1% xung quanh tỷ giá trung tâm.

Chế độ tỷ giá cố định trượt (Crawling pegs): Đây là chế độ tỷ giá cố định,

nhưng định kỳ tỷ giá sẽ được điều chỉnh như sau:( 1)Hoặc theo một tỷ lệ nhất

định đã được thông báo trước, (2)Hoặc để phản ánh những thay trong một chỉ

tiêu nhất định đã được lựa chọn(lạm phát, cán cân thương mại...)

Chế độ tỷ giá trượt có biên độ (Exchange rates within crawling bands):

Đây là chế độ tỷ giá cố định với các nội dung:(1) tỷ giá dao động trong một biên

độ nhất định xoay quanh tỷ giá trung tâm.(2)Tỷ giá trung tâm được điều chỉnh

định kỳ có thể theo một tỷ lệ đã được thông báo trước, hoặc để phản ánh những

thay đổi trong một số chỉ tiêu nhất định đã được lựa chọn.

Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết không thông báo trước (Managed floating

with no preannounced path for Exchange rate): Là chế độ tỷ giá vừa giống chế

độ tỷ giá thả nổi tự do ở điểm các tỷ giá được phép dao động hàng ngày và không

có các biên độ chính thức. Nhưng nó lại giống chế độ tỷ giá cố định ở điểm các

chính phủ có thể can thiệp vào tỷ giá để tránh đồng bản tệ biến động bất lợi.

Chính phủ tác động ảnh hưởng lên xu hướng vận động của tỷ giá thông qua hành

động can thiệp tích cực trên TTNH, nhưng không có bất cứ một sự thông báo

trước hay một sự cam kết nào về hướng và mức độ can thiệp lên tỷ giá là như thế

nào. Hiện nay, trên thế giới có 42 quốc gia áp dụng chế độ tỷ giá này trong đó có

Việt nam.

Chế độ tỷ giá thả nổi độc lập (Independently Floating): Đây là chế độ tỷ

giá, trong đó tỷ giá được xác định theo thị trường mà không có bất cứ sự can

thiệp nào của NHTW. Vì thế không đòi hỏi quốc gia phải có dự trữ ngoại hối

mạnh để can thiệp vào TTNH. Bất cứ hoạt động can thiệp ngoại hối nào cũng chỉ

27

nhằm giảm sự biến động quá mức của tỷ giá, chứ không theo đuổi một hướng

vận động hay một giới hạn cụ thể nào về tỷ giá.

Trên cơ sở xác định chế độ tỷ giá, chính phủ sẽ xác định việc điều hành

chính sách tỷ giá bằng những công cụ mà có mức độ tác động khác nhau, đó là:

Lãi suất tái chiết khấu, Nghiệp vụ thị trường mở, Can thiệp vào TTNLLNH,

ngoài 3 công cụ mang tính kinh tế trên, các quốc gia còn sử dụng các biện pháp

mang tính hành chính như kết hối, qui định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ

v.v..

Trong nghiên cứu về TTNH của các nước Đông Nam Á của Ng Boey Kui,

1998 cho rằng nguyên nhân lớn nhất gây cản trở sự phát triển TTNH là sự biến

động của tỷ giá trong một biên độ quá hẹp và tỷ giá cuả đồng nội tệ bị neo với

một vài đồng tiền chính có khả năng chuyển đổi được, vì thế đã không tạo cơ hội

cho nghiệp vụ đầu cơ và bảo hiểm rủi ro tỷ giá phát triển.

Một chính sách tỷ giá nghiêm ngặt sẽ cản trở sự phát triển TTNH và một

TTNH hoạt động hiệu quả, thanh khoản cao chỉ có thể có được với một chính

sách tỷ giá hối đoái được điều hành linh hoạt [59].

Những thay đổi của cơ chế tỷ giá đã tạo nên một khuôn khổ thể chế cần

thiết cho sự hình thành và phát triển của TTNH có tổ chức[52].

Trong nghiên cứu về hệ thống luật pháp quản lý ngoại hối của Trung Quốc,

Yang Bai (2009) đã tập trung phân tích hạn chế của những qui định đối với các

giao dịch trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn chưa phù hợp với quá trình mở

cửa và hội nhập kinh tế làm ảnh hưởng đến sự phát triển của TTNH.

Vì vậy, nghiên cứu những qui định về quản lý ngoại hối của những giao

dịch liên quan đến ngoại tệ trên cán cân thanh toán là nội dung quan trọng để

đánh giá khả năng phát triển TTNH của một quốc gia.

1.2.3.2. Chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài khoản vãng

lai

Theo Nghị định 160/2006 giao dịch vãng lai là những giao dịch của người

cư trú và không cư trú không vì mục đích chuyển vốn, như vậy, những giao dịch

28

đó bao gồm các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất nhập khẩu

hàng hóa và dịch vụ, các khoản thu nhập từ đầu tư trực tiếp gián tiếp, các khoản

tiền lãi và trả lãi nước ngoài, các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu

dùng. Quản lý ngoại hối đối với giao dịch trên tài khoản vãng lai gồm những nội

dung cụ thể sau:

Theo dõi nguồn thu xuất khẩu

Mỗi quốc gia với trình độ phát triển kinh tế nhất định và với lợi ích của

nước đó sẽ có những chính sách quản lý ngoại hối đối với các giao dịch trên tài

khoản vãng lai khác nhau, qua đó sẽ có qui định về việc kiểm tra quản lý các

nguồn thu xuất khẩu, khi lượng ngoại tệ trong nước quá ít thì các nước thường có

chính sách tập trung ngoại tệ vào một đầu mối do nhà nước quản lý để tăng mức

dự trữ ngoại hối cho quốc gia và cân đối cung cầu ngoại tệ của đất nước, như có

quốc gia thực hiện chính sách buộc phải bán lại tất cả những khoản ngoại tệ từ

thu xuất khẩu cho ngân hàng hay thực hiện chính sách kết hối có tỷ lệ qui định.

Những qui định về kiểm soát ngoại hối như vậy sẽ gây bất lợi cho việc phát triển

TTNH mà những nước trong khu vực Đông Nam Á đã từng thực hiện trước đây

[50].

Giám sát việc thanh toán nhập khẩu

Là những biện pháp nhằm quản lý cầu ngoại tệ, để đảm bảo khả năng thanh

toán tiền hàng nhập khẩu, thường có những biện pháp như hạn chế nhập khẩu

những hàng hóa xa xỉ, ưu tiên cho hàng hóa là máy móc thiết bị phục vụ cho sản

xuất, áp dụng những qui định về các chứng từ bắt buộc phải xuất trình khi thanh

toán và qui trách nhiệm kiểm tra chứng từ, xuất trình chứng từ chứng minh

nguồn gốc hợp pháp, hợp lệ của khoản tiền thanh toán, nhằm quản lý chặc chẽ

việc sử dụng ngoại tệ và đáp ứng những yêu cầu của các qui định trong công ước

chống rửa tiền mà hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có tham gia.

Chính sách kiều hối

Kiều hối là ngoại tệ do người không cư trú chuyển về cho người cư trú

trong nước. Đây là nguồn cung ứng ngoại tệ cho quốc gia mà không có những rủi

29

ro hay phải trả lãi như những nguồn vốn vay của nước ngoài. Vì thế các quốc gia

thường tạo mọi điều kiện dễ dàng cho hoạt động kiều hối, từ việc sử dụng mức

phí hấp dẫn đến rút ngắn thời gian nhận tiền, cho phép nhận ngoại tệ mặt hay mở

tài khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ vv…Tuy nhiên mỗi quốc gia sẽ có những biện

pháp để quản lý nguồn ngoại tệ này, nhằm hạn chế tình trạng đola hóa và nâng

cao hiệu quả nguồn ngoại tệ này.

Chính sách mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài

Ban hành những qui định về việc được mua, chuyển ngoại tệ, hay những

qui định cụ thể về số lượng ngoại tệ mặt được phép mang theo khi xuất ngoại hay

khi nhập cảnh. Trong nước có hạn chế hay thả nổi việc thanh toán, cất giữ, định

giá bằng ngoại tệ của người cư trú.

Mở tài khoản ngoại tệ tại nước ngoài

Ngoại tệ của người cư trú nằm trong tài khoản ở nước ngoài có thể được

xem là khoản đầu tư ra nước ngoài, vì thế đối tượng này cũng phải được quản lý

bằng những qui định về việc mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, về mục đích và

cách sử dụng tài khoản của người cư trú là cá nhân hay các tổ chức.

Tóm lại, quản lý ngoại hối trên tài khoản vãng lai có thể được áp dụng theo

những chính sách thắt chặt hay tự do.

Áp dụng những chính sách quản lý ngoại hối thắt chặt như nhà nước độc

quyền trong hoạt động ngoại thương, hoạt động thanh toán quốc tế chỉ do nhà

nước thực hiện, tất cả những giao dịch chuyển ngoại tệ vào phải bán lại cho nhà

nước, nếu muốn chuyển tiền ra phải được sự cho phép của nhà nước mà đại diện

là NHNN. Hay nới lỏng hơn là những chính sách mà nhà nước không độc quyền

về hoạt động ngoại thương nhưng giám sát chặt chẽ nguồn ngoại tệ thu được

buộc phải bán cho nhà nước, hay nhà nhập khẩu chỉ được mua ngoại tệ thông qua

ngân hàng theo tỷ giá của nhà nước ấn định trong từng thời kỳ, mà tỷ giá này

thường theo ý muốn chủ quan của nhà nước chứ không phải do cung cầu trên thị

trường xác định.

30

Ngược lại, chính sách quản lý ngoại hối tự do đối với những giao dịch trên

tài khoản vãng lai, là nhà nước chỉ giám sát để đảm bảo những hoạt động thanh

toán hay những giao dịch liên quan đến ngoại tệ có hợp pháp hay không, không

cần phải xin giấy phép cho những khoản chuyển tiền một chiều ra nước ngoài,

hay được ngân hàng cung ứng ngoại tệ theo nhu cầu hợp pháp, hợp lý theo tỷ giá

thị trường.

1.2.3.3. Chính sách quản lý ngoại hối đối với tài khoản vốn

Quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư

Là những qui định đối với các giao dịch trên tài khoản vốn nhằm mục đích

thu hút, quản lý hiệu quả các luồng vốn đầu tư nước ngoài và các luồng vốn đầu

tư ra nước ngoài. Giao dịch vốn(GDV) là những giao dịch chuyển vốn giữa

người cư trú và người không cư trú trong các lĩnh vực liên quan đến đầu tư trực

tiếp, đầu tư gián tiếp, vay trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài.

Việc quản lý các giao dịch trên tài khỏan vốn có thể thực hiện theo những

biện pháp:

Một là, là quản lý chặt chẽ những luồng vốn vào và ra khỏi đất nước, chỉ có

các tổ chức nhà nước mới được thực hiện chu chuyển vốn theo đúng qui định của

nhà nước, như vậy chỉ có những khoản đầu tư tài trợ, theo đúng nghĩa viện trợ

không hoàn lại, là được nhận vốn đầu tư cũng như chuyển vốn đầu tư ra nước

ngoài và thường việc chuyển vốn này giữa các quốc gia nhằm mục đích phi lợi

nhuận.

Hai là, tự do hóa GDV là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối

với những giao dịch này. Đối với người dân, tự do hóa GDV cho phép họ thực

hiện các hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia hoạt

động đầu tư nhằm đạt lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở

hữu những công ty khác, các luồng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có tỷ suất

sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất sinh lợi cao.

Tự do hóa GDV sẽ mang lại những lợi ích sau:

31

- Hình thành sự bình đẳng trong hoạt động đầu tư tài chính, các luồng vốn luân

chuyển linh hoạt và hiệu quả, tạo điều kiện tiếp cận các luồng vốn quốc tế, tăng

vốn đầu tư trong nước, phát triển thị trường tài chính;

-Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn vốn, giúp các doanh nghiệp tiếp cận

nguồn vốn trong và ngoài nước với chi phí thấp, nâng cao tính tự chủ của nhà

đầu tư;

-Việc mở cửa thị trường tín dụng làm tăng tính linh hoạt của các doanh

nghiệp trước những biến động về hàng hóa và lợi nhuận.

Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, tự do hóa GDV cũng tạo ra sự đa dạng

hóa các rủi ro phát sinh. Nếu chính sách vĩ mô không đủ mạnh và quản lý tài

chính yếu kém, việc gia tăng luồng vốn vào quá mức sẽ gây ra những rủi ro đáng

kể đối với nền kinh tế.

Những rủi ro do quá trình tự do hóa GDV mang lại:

-Tự do hóa GDV tác động mạnh đến hệ thống ngân hàng, cả chính sách tiền

tệ của NHTW và hoạt động kinh doanh của các TCTD, các tập đoàn và ngân

hàng lớn ngày càng có ảnh hưởng mạnh đến chính sách của các quốc gia. Quá

trình tự do hóa GDV ảnh hưởng đến các NHTM – thành viên trực tiếp tham gia

các GDV quốc tế và thông qua hoạt động của những khu vực khác trong nền kinh

tế, gây khó khăn về quản lý tài sản, nhất là trong việc điều chỉnh tỉ giá, lãi suất,

phòng ngừa rủi ro nhằm cân bằng lợi ích giữa việc nắm giữ ngoại tệ và nội tệ

cũng như cơ cấu tiền gửi và cho vay.

-Trong quá trình tự do hóa GDV, các luồng vốn vào ngày càng tăng mạnh.

Khi luồng vốn vào quá mức có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế quá nóng, nếu

tiền cung ứng tăng quá mức so với tăng trưởng GDP thực tế sẽ làm tăng tổng

phương tiện thanh toán (M2), gây áp lực lạm phát và biến động về tỉ giá hối đoái,

làm tăng thâm hụt cán cân vãng lai, nhất là khi sản xuất trong nước phụ thuộc

vào nguyên liệu nhập khẩu, tiềm ẩn rủi ro cán cân thanh toán và tính thanh khoản

của hệ thống ngân hàng.

32

Trong xu thế toàn cầu hóa, chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia

tăng mạnh cả về qui mô và tốc độ, mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp

đối phó thích hợp nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững.

Quản lý ngoại hối đối với hoạt động vay trả nợ nước ngoài

Vay nợ nước ngoài là khoản vay của các NHTM, các tổ chức tín dụng nước

ngoài dành cho các chủ thể được phép. Khoản vay này thường được tính bằng

ngoại tệ mạnh, sau một thời gian các chủ thể phải hoàn trả khoản vốn vay và lãi

vay cho các tổ chức nói trên.

Các khoản vay nợ nước ngoài của một quốc gia có hai loại: vay thương mại

và các khoản vay ưu đãi.

Thường trong cơ cấu nợ vay nước ngoài của các quốc gia đang phát triển

các khoản vay ưu đãi chiếm phần lớn vì các khoản vay này có lãi suất thấp, thời

hạn dài và thường có một phần là viện trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, để có được

khoản vay này, các nước thường phải chịu ràng buộc về mặt kinh tế, chính trị

nhất định.

Việc vay nợ nước ngoài tạo nên nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi khi hợp đồng vay

vốn đến hạn. Đây là nghĩa vụ bắt buộc, dễ dẫn đến khả năng không hoàn trả được

nợ, vỡ nợ, gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, đặc biệt là ảnh hưởng đến hệ

thống tài chính, tiền tệ. Vì vậy, các nước thường giám sát và quản lý chặc chẽ

khoản vay này.

1.3. Những điều kiện để phát triển TTNH trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho sự tự do hóa chu chuyển các

luồng vốn giữa các quốc gia, mở cửa hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế, tạo

điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển thị trường. Tuy nhiên, để thị trường

phát triển bền vững, hạn chế những tổn thất trước những đợt khủng hoảng kinh tế

tài chính của khu vực và thế giới, cần phải có những điều kiện sau:

33

1.3.1. TTNTLNH đóng vai trò trung tâm

Trong TTNH toàn cầu, TTLNH (bao gồm cả giao dịch thực hiện bởi tổ

chức tài chính phi ngân hàng) phải chiếm tỷ lệ cao tổng khối lượng giao dịch trên

thị trường [48] để qua đó sẽ xác định chính xác giá trị đối ngoại của đồng bản tệ,

đảm bảo cân bằng bên ngoài để hình thành một tỷ giá phù hợp với thị trường.

Trên cơ sở vai trò trung tâm, TTNTLNH mới có thể thực hiện được vai trò định

hướng dẫn dắt thị trường cũng thông qua giao dịch trên thị trường tiền tệ liên

ngân hàng của quốc gia, NHNN mới có thể tác động đến tỷ giá thông qua hành

vi mua bán ngoại tệ trên thị trường.

Nếu giao dịch trên TTNTLNH của quốc gia chiếm tỷ trọng quá thấp so với

tổng doanh số giao dịch ngoại tệ của nền kinh tế, thì hành động mua bán ngoại tệ

của NHNN sẽ khó phát huy hiệu quả để đạt đến tỷ giá mong muốn nhằm thực thi

mục tiêu của chính sách tỷ giá, chính sách tiền tệ.

1.3.2. Doanh số giao dịch trên TTNH phải tương thích với hoạt động ngoại

thương và đầu tư quốc tế

Tốc độ tăng trưởng doanh thu kinh doanh ngoại hối phản ánh quá trình mở

cửa thông qua hoạt động ngoại thương [52]. Như vậy, quá trình hội nhập càng

sâu rộng tạo cơ hội cho các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế phát triển

dẫn tới sự gia tăng lượng cung và cầu ngoại tệ, là điều kiện cần thiết cho sự phát

triển TTNH. Ngược lại sự phát triển của TTNH sẽ có vai trò thúc đẩy hoạt động

thương mại, đầu tư quốc tế. Vì thế doanh số giao dịch trên TTNH phải phản ánh

lượng ngoại tệ vào và ra khỏi quốc gia thông qua những hoạt động trên; có như

vậy, mới phản ánh rõ tác động hai chiều của TTNH với những giao dịch có liên

quan đến ngoại tệ. Theo (Ng Beoy Kui, 1988) sự phát triển TTNH của các nước

Đông Nam Á có sự đóng góp đáng kể của việc gia tăng hoạt động ngoại thương

và luồng vốn vào khu vực này.

Nếu doanh số giao dịch trên TTNH không tương thích với doanh số của

những hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, chuyển tiền, sẽ cho thấy lượng ngoại tệ

34

đã bị phân tán chuyển ra ngoài hệ thống ngân hàng, trở thành nguồn cung ngoại

tệ cho thị trường ngoại tệ chợ đen hay được cất trữ trong tay người dân. Như vậy,

sẽ không phát huy hiệu quả của nguồn ngoại tệ, đồng thời cũng thể hiện hoạt

động yếu kém của TTNH đối với nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế.

1.3.3. Đồng nội tệ có khả năng chuyển đổi

Đồng tiền chuyển đổi được là đồng tiền được chấp nhận trong nước và trên

thế giới, khi xem xét mức độ chuyển đổi của đồng tiền người ta căn cứ vào các

giao dịch trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Với phạm vi trong nước đó là

những giao dịch hợp pháp hay là những giao dịch được cấp phép, được sử dụng

ngoại tệ để thực hiện việc thanh toán và điều cuối cùng quan trọng đó là có ngoại

tệ đáp ứng cho giao dịch. Với thế giới đó là đồng tiền được chấp nhận trong

thanh toán quốc tế, được cất trữ (trên thế giới chỉ tồn tại một số đồng tiền mạnh

mới có khả năng này).

Theo IMF, một đồng tiền được xem là có khả năng chuyển đổi khi chính

phủ cam kết thực hiện việc không hạn chế chuyển đổi tiền tệ trong các giao dịch

vãng lai, giao dịch vốn đầu tư và các chu chuyển khác, nghĩa là 3 yếu tố trên phải

được đáp ứng đầy đủ trong các giao dịch.

Như vậy, để đồng tiền có khả năng chuyển đổi cần phải có các điều kiện[15]:

- Có nền kinh tế tăng trưởng ổn định.

- Mức dự trữ ngoại tệ đủ mạnh.

- Hệ thống tài chính, ngân hàng hoạt động hoạt động lành mạnh, nghiệp vụ hiện

đại.

- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái và lãi suất phải tuân theo qui luật thị trường.

- Cơ chế quản lý ngoại hối phải năng động và sử dụng các biện pháp quản lý

kinh tế, hạn chế các biện pháp hành chánh.

- Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái phải tuân theo qui luật thị trường.

TTNH của một quốc gia nơi thực hiện chuyển hóa giá trị của đồng bản tệ

sang ngoại tệ và ngược lại, chỉ có thể phát triển một khi đồng bản tệ có khả năng

35

chuyển đổi cao. Đồng bản tệ càng được tự do chuyển đổi thì doanh số giao dịch

trên TTNH sẽ gia tăng làm tăng tính thanh khoản cho thị trường và đáp ứng nhu

cầu của các chủ thể tham gia thị trường tạo điều kiện cho thị trường phát triển.

1.3.4. Nguồn nhân lực có kiến thức về TTNH

TTNH chỉ có thể phát triển được nếu số lượng người tham gia ngày càng

tăng, mà các doanh nghiệp, người dân, những nhà kinh doanh tiền tệ, đầu cơ …

chỉ có thể tham gia TTNH khi họ biết rõ về hàng hóa, các công cụ giao dịch, các

kỹ thuật và nguyên tắc kinh doanh trên TTNH.

Bên cạnh đó, những nhân lực của các tổ chức tài chính phải có kiến thức về thị

trường, biết phân tích, tổng hợp những yếu tố tác động đến tỷ giá để có thể tự

kinh doanh cũng như tư vấn cho các khách hàng.Yếu tố quan trọng trong việc tạo

nên môi trường phù hợp với sự phát triển TTTC đó là giáo dục công chúng phải

hiểu rõ qui tắc cơ bản của thị trường là khi tham gia anh có thể có lợi nhuận

nhưng cũng có thể gặp nhiều cạm bẩy trong hệ thống tài chính [47].

Như vậy, TTNH chỉ có thể phát triển dựa trên một xã hội có trình độ dân trí cao

và có kiến thức thị trường.

1.3.5. Hệ thống tài chính có đầy đủ hạ tầng cơ sở với trang bị thiết bị kỹ

thuật hiện đại

Một nét đặc trưng quan trọng của TTNH là hệ thống giao dịch điện tử như

Reuters 2000-2 và hệ thống môi giới điện tử (EBS), những hệ thống này có thể

thực hiện những chức năng của thanh toán bù trừ và là động lực quan trọng nhằm

thực hiện các giao dịch xem như là tập trung ảo (virtual centralization) của

TTNH toàn cầu [47].

Sàn giao dịch ngoại hối là một phân khúc của TTNH, là nơi thực hiện các

giao dịch quyền chọn và tương lai, trong những giao dịch phái sinh này có sự

tham gia của công ty thanh toán bù trừ (trực thuộc sở giao dịch) có vai trò là đối

tác của của người mua hay người bán trong hợp đồng tiền tệ, tương lai, hay hợp

đồng quyền chọn. Vì thế, để một TTNH hoạt động với đầy đủ các nghiệp vụ kinh

36

doanh cần phải có sàn giao dịch tập trung, bên cạnh đó còn phát huy những ưu

điểm của giao dịch tập trung là thông tin thị trường minh bạch công khai những

người kinh doanh đều có cơ hội tiếp cận tỷ giá như nhau.

Ngoài ra, với đặc điểm là thị trường hoạt động toàn cầu 24 giờ/ ngày và

cung cầu tiền tệ lại thường xuyên biến động bởi nhiều yếu tố về kinh tế, chính trị,

xã hội, thiên tai, tâm lý con người… làm cho tỷ giá liên tục biến động nhất là

những đồng tiền mạnh như USD, EUR, GBP, CHF, JPY. Vì thế, để kinh doanh

có hiệu quả TTNH cần phải được trang bị những thiết bị thông tin hiện đại để thu

được lợi thế thời gian về tiếp cận thông tin và thực hiện hoạt động mua bán ngoại

tệ nhanh chóng hiệu quả.

1.3.6. Hệ thống quản lý giám sát thị trường tài chánh hoạt động hiệu quả

Theo Ralph, Connel và Sunsil Sharma [53] một vấn đề quan trọng trong

việc xây dựng cơ sở hạ tầng để hình thành khuôn khổ phát triển TTTC là phải có

hệ thống pháp luật đảm bảo 3 tính năng cần thiết đó là: Thứ nhất, phải đảm bảo

quyền tự do dân sự và quyền sở hữu. Thứ hai, một hệ thống tư pháp hoạt động

hiệu quả hạn chế những hành vi gian lận. Thứ ba, người dân an tâm lập kế hoạch

với những hiểu biết đầy đủ về luật pháp và không lo ngại sự thay đổi của nó.

Những qui định và nguồn luật lỗi thời là nguyên nhân làm cản trở hoạt động của

TTTC vì những công cụ phái sinh trên TTTC phát triển thường có những sản

phẩm mới được sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng trong kinh doanh của

những người tham gia thị trường.

Để tạo điều kiện cho TTNH hoạt động có hiệu quả mà vẫn đảm bảo an toàn

cho hệ thống tài chính, cần phải có hệ thống luật pháp chặc chẽ và có các văn bản

pháp lý qui định hướng dẫn cụ thể các giao dịch ngoại hối, nhằm đảm bảo quyền

lợi của các chủ thể tham gia thị trường, tạo điều kiên cho thị trường vận hành

theo khuôn khổ pháp luật. Dựa vào cơ sở đó để giám sát hoạt động của thị trường

phát hiện kịp thời những hoạt động phá hoại làm lũng đoạn gây rối thị trường.

37

1.3.7. TTNH có sự liên thông với thị trường tài chính của khu vực và quốc tế

TTNH chỉ có thể phát triển được trong điều kiện TTNH của quốc gia phải

kết nối với TTNH trên thế giới có như vậy những yếu tố tác động mới phản ánh

qua sự biến động kịp thời của tỷ giá, tính liên thông của thị trường thể hiện qua

các đặc điểm sau:

Thứ nhất, giá cả của các đồng tiền trên TTNH trong nước không xa rời với

giá cả trên TTNH trên thế giới. Khi những yếu tố tác động làm thay đổi giá trị

của các đồng tiền của những quốc gia có nền kinh tế lớn, ví dụ nếu USD bị giảm

giá do khủng hoảng kinh tế tại Mỹ, đồng thời thị trường kỳ vọng về sự phục hồi

kinh tế của khu vực Châu Âu dẫn đến EUR tăng giá so với USD, điều này phải

được thể hiện qua tỷ giá VND/USD sẽ giảm và tỷ giá VND/ EUR tăng.

Thứ hai, những giao dịch phái sinh trên TTNH quốc gia phải phù hợp

những qui định trong giao dịch phái sinh của TTNH thế giới, có như vậy các nhà

kinh doanh tiền tệ ở nước ngoài mới có thể tham gia vào thị trường trong nước

hay ngược lại các chủ thể kinh doanh tiền tệ trong nước có thể tham gia với các

TTNH trong khu vực hay toàn cầu.

1.3.8. Một cơ chế kiểm soát ngoại hối thông thoáng và một chính sách tỷ giá

linh hoạt.

Theo Ng Boey Kui [50], điều kiện tiên quyết để cho một TTNH hoạt động hiệu

quả đó là những người tham gia trên thị trường được quyền tự do kinh doanh trên

tài khoản ngoại tệ của mình mà không có giới hạn nào và chỉ có cơ chế kiểm soát

ngoại hối tự do mới tạo điều kiện để thỏa mãn điều này. Mở rộng những người

tham gia giao dịch trên thị trường ngoài NHTM còn có các công ty tài chính và

công ty phi tài chính để thu hút lượng ngoại tệ và gia tăng doanh số giao dịch.

Quản lý ngoại hối theo các biện pháp hành chánh sẽ làm cản trở hoạt động giao

dịch ngoại hối, như bắt buộc các công ty có nguồn thu ngoại tệ phải bán ngoại tệ

tại một mức tỷ giá phi thị trường hoặc không được giữ lại trên tài khoản quá một

thời gian qui định hoặc hạn mức cho phép.

38

Chính sách tỷ giá linh hoạt phản ánh minh bạch cung cầu ngoại tệ trên thị trường

sẽ giúp cho hoạt động trên thị trường thông suốt, những người tham gia sẽ không

phải tìm cách né tránh nhưng qui định về quản lý ngoại hối.

Một TTNH được đánh giá là hoạt động hiệu quả khi nào mà các yếu tố tác động

đến hàng hóa được công khai, những thành viên tham gia thị trường dễ dàng tiếp

cận các yếu tố này, qua đó dễ dàng lập kế hoạch kinh doanh, đầu tư, bảo hiểm

trên cơ sở phán đoán sự biến động của tỷ giá. Thị trường sẽ tránh được những

biến động do làn sóng tin đồn gây yếu tố tâm lý làm méo mó cung cầu ngoại tệ

trên thị trường.

1.4. Những bài học kinh nghiệm

Việt Nam xây dựng và phát triển TTNH trong bối cảnh trên thế giới đã có

những TTNH của các khu vực và thế giới vì thế Việt Nam có thể kế thừa kinh

nghiệm của các quốc gia trong khu vực mà có những yếu tố kinh tế nền tảng

tương đồng với Việt Nam. Tuy nhiên kinh nghiệm vận hành và phát triển thị

trường sẽ tùy thuộc vào những điều kiện cơ sở của mỗi quốc gia vấn đề quan

trọng là học hỏi kinh nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá cũng như quản lý

ngoại hối để vừa tạo cơ sở phát triển TTNH vừa đảm bảo an toàn hệ thống tài

chính trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.

Chọn lựa những quốc gia có cơ chế tỷ giá và độ mở cửa tương đồng với

Việt Nam, như Singapore, Philippine, Trung Quốc, HongKong để học hỏi kinh

nghiệm về phát triển TTNH. Đối với những quốc gia này, vấn đề quan trọng là

vừa quản lý được hoạt động kinh doanh ngoại hối để đảm bảo an toàn cho hệ

thống tài chính vừa có thể tạo điều kiện khơi thông các dòng luân chuyển tiền tệ

nhằm phát triển TTNH.

Kinh nghiệm Trung Quốc: Ngân hàng nhân dân Trung Quốc(PBOC) cam kết

duy trì một tỷ giá ổn định trên thị trường thị trường ngoại hối thông qua việc can

thiệp vào Hệ thống giao dịch ngoại hối(CFETS). Chính sách tỷ giá được điều

hành phù hợp với những chuyển đổi của nền kinh tế. Ngay từ đầu những năm 80,

39

Trung Quốc đã cho phép thực hiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá giảm dần để phản

ảnh đúng sức mua của đồng CNY. Chính sách tỷ giá này đã giúp Trung Quốc cải

thiện được cán cân thương mại(CCTM), giảm thâm hụt thương mại và cán cân

thanh toán(CCTT), đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế [60].

Sau đó Trung Quốc đã thực hiện việc cải cách về chính sách tỷ giá vào ngày

21/7/2005, nới lỏng tỷ giá chấp nhận cho CNY tăng giá nhằm giảm áp lực lạm

phát.

Về quản lý ngoại hối, Trung Quốc thực hiện biện pháp hạn chế tối đa các giao

dịch trong nước sử dụng bằng ngoại tệ, nghiêm cấm người cư trú thanh toán mua

bán, chuyển nhượng cho nhau bằng ngoại tệ. Cấm sử dụng ngoại tệ để niêm yết

và thanh toán giữa người cư trú với nhau. Đồng thời quan tâm đến điều hành

chính sách lãi suất và tỷ giá hợp lý, duy trì lãi suất CNY luôn lớn hơn lãi suất

ngoại tệ và tỷ giá giữa CNY/USD được duy trì ổn định nên các doanh nghiệp có

xu hướng chuyển đổi ngoại tệ sang nội tệ, góp phần giảm tình trạng đôla hóa.

Xây dựng cơ chế ngoại hối thích hợp nhằm ngăn chặn việc tích trữ ngoại tệ,

quản lý nhu cầu mua ngoại tệ, thu hút các nguồn vốn ngoại tệ vào tay nhà nước.

Trung Quốc duy trì chính sách kết hối 13 năm mới chấm dứt, khi mà quỹ dự trữ

ngoại hối của Trung Quốc đã lên tới hơn 1.500tỷ USD vào năm 2007 [58] chính

sách này được xóa bỏ khi nền kinh tế nhiều năm tăng trưởng mạnh, tỷ lệ lạm phát

thấp, CCTT, CCTM dư thừa lớn, dự trữ ngoại hối cao. Trung Quốc còn thực thi

chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối trong cho vay ngoại tệ đối với các doanh

nghiệp trong nước, đến cuối năm 2002 các doanh nghiệp trong nước mới được

phép vay ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại. Đến năm 2008, Trung Quốc mới

tự do hóa giao dịch vãng lai và nới lỏng quản lý với giao dịch vốn.

Nhờ thực hiện từng bước từng bước quá trình tự do hóa quản lý ngoại hối,

Trung Quốc đã thành công trong việc điều hành cơ chế tỷ giá, đảm bảo đáp ứng

được đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển vững chắc. Tập trung

nguồn thu ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các ngân hàng

nâng cao khả năng cạnh tranh với thị trường ngoại tệ chợ đen. Từ năm 1994 đến

40

nay đã gần 17 năm, sau khi điều chỉnh tỷ giá, Trung Quốc vẫn giữ được thị

trường ngoại tệ ổn định.

Về tổ chức thị trường, vào tháng 4/1994 Trung Quốc đã thành lập sàn giao

dịch ngoại tệ CFETS đánh dấu sự ra mắt của TTNTLNH thống nhất, phương

pháp quản lý ngoại hối của chính phủ cũng đã điều chỉnh dựa trên các biện pháp

kinh tế và hợp pháp ngược với cách điều hành theo mệnh lệnh hành chính trước

đây. Đến năm 2002, cho phép các công ty có đủ điều kiện giao dịch quốc tế và có

nguồn thu ngoại tệ từ tài khoản giao dịch hiện hành được phép mở tài khoản

ngoại tệ và duy trì trong giới hạn 20% so với doanh thu ngoại tệ của năm trước.

Năm 2005, cho phép các công ty phi tài chính và công ty tài chính phi ngân hàng

được tham gia vào TTLNH với cách thức giao dịch đấu giá và hệ thống tạo giá,

ngoài ra các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi giữa CNY với các ngoại tệ cũng được

phép thực hiện.

TTNH của Trung Quốc gồm 2 phần: TTLNH hoặc thị trường bán buôn và

thị trường bán lẻ. Trong đó có thành phần tham gia chính gồm: a) CFETS mà

chức năng là sàn giao dịch trên TTLNH chịu trách nhiệm thanh toán bù trừ và

cung cấp các cơ quan có thẩm quyền giám sát thông tin thị trường.b) PBOC và

SAFE như là người có thẩm quyền điều hành: PBOC ủy quyền cho SAFE điều

chỉnh giao dịch giao ngay và kỳ hạn trên TTLNH và điều tiết thị trường bán lẻ. c)

SAFE được chỉ định cấp phép cho những ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân

hàng và những công ty phi tài chính đủ điều kiện được phép tham gia TTNH; d)

những công ty hay cá nhân được phép mua và bán ngoại tệ trên thị trường bán lẻ.

Hệ thống tạo giá trên TTLNH (market maker) sử dụng sàn giao dịch có tổ chức

bằng hệ thống khớp lệnh sàn giao dịch điện tử, trong khi giao dịch giữa ngân

hàng và khách hàng của họ được thực hiện trên thị trường phi tập

trung(OTC)[60].

Kinh nghiệm của Singapore, theo xếp loại của IMF, chính sách tỷ giá của

Singapore là thả nổi có điều tiết, tuy nhiên theo Singapore chế độ tỷ giá của họ

có những đặc điểm rất riêng, là chế độ tỷ giá dựa trên một rổ tiền tệ, có biên độ

41

dao động rộng và điều chỉnh theo định kỳ. Tỷ trọng của các ngoại tệ trong rổ căn

cứ vào mức độ tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế của các đối tác của

Singapore, loại tiền tệ và tỷ trọng được điều chỉnh tùy thuộc vào sự thay đổi

trong hoạt động thương mại của Singapor, tuy nhiên Cơ quan quản lý tiền tệ của

Singapore(MAS) không công bố cụ thể thành phần của rổ tiền tệ cũng như tỷ

trọng của các loại tiền.Với mục tiêu theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết

MAS sẽ can thiệp nếu như tỷ giá SGD vượt quá biên độ dao động và hướng dao

động có thể tăng lên hoặc giảm xuống tùy thuộc vào sự biến động của các chỉ số

kinh tế cơ bản, Singapor được xem là quốc gia thành công nhất khi theo đuổi

chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết với các đặc điểm riêng với tên gọi là

BBC(Basket Band Crawl). Nó được xem là hình mẫu cho các chế độ tỷ giá của

Trung Quốc cũng như các quốc gia thuộc Asean.

NHTW Singapore thiết lập ủy ban theo dõi và giám sự phát triển của

TTNH gọi là Ủy ban ngoại hối (Forex Exchange Committee) bao gồm MAS và

các NHTM [1]

Một trong những chiến lược kiểm soát khu vực kinh tế đối ngoại là kiểm

soát chặc chẽ các giao dịch ngoại hối giữa người cư trú và người không cư trú

thông qua số liệu thanh toán quốc tế của các NHTM. Việc nộp muộn báo cáo

hoặc báo cáo sai sẽ chịu phạt nặng tính từ ngày đến hạn nộp báo cáo hoặc sửa sai

báo cáo. Khi biết có nhiều giao dịch không qua hệ thống NHTM, NHTW mở

rộng phạm vi kiểm soát ngoại hối bằng cách yêu cầu các công ty ngoại hối trực

thuộc các NHTM báo cáo trực tiếp tất cả các giao dịch ngoại hối cho NHTW,

ngoài ra NHTW còn điều tra các giao dịch qua biên giới hàng tháng để nắm bắt

được tất cả các giao dịch mà hệ thống NHTM không thống kê được.

Kinh nghiệm Thái Lan, Từ năm 1985 Thái Lan đã có những bước đi mạnh

mẽ trong quá trình tự do hóa giao dịch vốn nhằm thu hút dòng vốn nước ngoài,

dỡ bỏ những điều kiện đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp, tự do hóa dòng vốn gián

tiếp và vay nợ nước ngoài chỉ đăng ký với NHNN, hạn chế dòng vốn đầu tư ra

nước ngoài. Tuy nhiên việc phát triển quá nhanh TTCK với luồng vốn vào ồ ạt

42

đã gây bất ổn cho thị trường, sau khủng hoảng đã điều chỉnh quản lý chặc chẽ

dòng vốn vào đồng thời thay đổi cơ chế tỷ giá trước khủng hoảng tài chính năm

1997, Thái Lan duy trì việc thông báo tỷ giá hối đoái chính thức, tỷ giá hối đoái

chính thức cũng được neo với rổ tiền tệ, trong đó USD chiếm đến 90%. Tuy

nhiên tỷ giá hối đoái chính thức được hủy bỏ hoàn toàn vào ngày 2/7/1997, sau

đó chính sách tỷ giá được thả nổi nhưng chưa hoàn toàn, NHTW sẽ can thiệp khi

thị trường có biến động lớn.

Kinh nghiệm của Philippine

NHTW Philippine (BSP) duy trì một chính sách tỷ giá thả nổi, tỷ giá được

xác định trên cơ sở cung –cầu trên TTNH. Tuy nhiên BSP sẳn sàng can thiệp khi

tỷ giá biến động bất thường. Tỷ giá được xác định theo thị trường là phù hợp với

chính sách cải cách theo định hướng thị trường của chính phủ và chiến lược cạnh

tranh hướng ngoại với giá cả ổn định và hiệu quả [ 75 ].

BSP được giao quyền hợp pháp và toàn diện trong việc qui định và giám sát

TTNH, theo đó BSP được phép chỉ định những nhà giao dịch và đại lý ngoại hối

được ủy quyền để giao dịch trên TTNH. Các NHTM được phép tự do kinh

doanh trên tài khoản ngoại tệ của mình mà không bị bắt buộc phải bán ngoại tệ

cho NHTW như trước năm 1985 và NHTW can thiệp vào TTNH thông qua một

NHTM của nhà nước. [50]

Ở Philippine giao dịch peso-dolla được thực hiện giữa các ngân hàng là

thành viên của Hiệp hội các NH của Philippine (Bankers Association of the

Philippines-BAP) và giữa những NH này với NHTW thông qua hệ thống giao

dịch Philippine ( Philippine Dealing System-PDS), nếu những NH không phải là

thành viên của BAP sẽ giao dịch pesos-dollar thông qua màn hình Reuters

Dealing, để giao dịch với đồng tiền thứ ba hầu hết những ngân hàng đều sử dụng

Reuters Dealing và dịch vụ tài chính của Bloomberg [ 75 ].

NHTW Philippine đã thành lập Trung tâm giao dịch ngoại hối từ năm 1967,

đây là một dạng thị trường giao dịch tại một địa điểm cụ thể đã tạo điều kiện

thuận lợi đáng kể cho việc phát triển TTNH mới nổi. [50]

43

Về quản lý ngoại hối Philippine và Indonesia cho phép người cư trú và

không cư trú được mở tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ và với khu vực kinh tế đối

ngoại việc kiểm soát các giao dịch ngoại hối bằng việc yêu cầu các tổ chức và cá

nhân có giao dịch ngoại hối báo cáo kết hợp đăng ký tại NHTW Philipine. Hệ

thống quản lý này rất khác biệt so với các nước khác và nước này rất thành công

trong việc kiểm soát ngoại hối thông qua việc sử dụng hệ thống đăng ký giao

dịch.[8]

Kinh nghiệm của HongKong

TTNH HongKong là một trong những TTNH lớn nhất trên thế giới và được

những nhà nghiên cứu đánh giá rằng HongKong có hầu hết những đặc điểm cần

thiết của một TTNH thành công đó là: nền chính trị ổn định, không kiểm soát

ngoại hối và vốn, môi trường kinh doanh thân thiện và tự do, cơ sở hạ tầng hiện

đại, những chuyên gia tài chính được đào tạo tốt và là một thị trường có vai trò

như một trung tâm tài chính thế giới [58].

Kinh nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế:

Indonesia cơ chế xác định tỷ giá trên cơ sở “rổ” tiền tệ, tỷ giá hối đoái

chính thức có biên độ dao động, sau khi có khủng hoảng tài chính ở Thái Lan thì

bỏ biên độ nhưng cho phép tỷ giá dịch chuyển thông qua việc can thiệp vào thị

trường ngoại hối. [50]

Malaysia trước cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, về nguyên tắc, tỷ giá hối

đoái được xác định bởi thị trường, nhưng NHTW Malaysia vẫn can thiệp nhằm

ổn định tỷ giá. Sau khủng hoảng, NHTW Malaysia nâng tỷ giá MYR lên 10% và

gắn kết với USD, kết hợp nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ ngoại tệ khi can

thiệp vào thị trường ngoại hối chứ không hoàn toàn sử dụng chính sách tiền tệ để

ổn định tỷ giá đồng thời áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn toàn diện. [50]

Tóm lại với những kinh nghiệm của các quốc gia về phát triển TTNH, Việt

Nam có thể xem xét đó là: Thứ nhất, về chính sách tỷ giá để phát triển TTNH và

giảm những cú sốc do khủng hoảng kinh tế trong điều kiện hội nhập, là thực hiện

44

chính sách tỷ giá thả nổi không hoàn toàn, nhưng linh hoạt hơn và neo với rổ tiền

tệ chứ không neo chặt với một ngoại tệ (thường là USD). Nâng cao vai trò của

NHNN trong quá trình điều hành chính sách tỷ giá, theo xu hướng ổn định tỷ giá,

can thiệp mạnh khi cần thiết nhằm giảm bớt những tác động của khủng hoảng

kinh tế và khu vực. Thứ hai, quản lý ngoại hối nhằm mục đích đảm bảo thị

trường có thể hoạt động hiệu quả, không có những qui định hành chính gây cản

trở nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện để kiểm soát và quản lý hoạt động của thị

trường tránh bị những hoạt động của giới đầu cơ làm lũng đoạn thị trường và tác

động đến an toàn hệ thống tài chính. Muốn vậy cần giám sát luồng ngoại tệ ra,

vào khỏi quốc gia chặc chẽ nhưng vẫn đảm bảo thực hiện qui định tự do hóa giao

dịch vãng lai và mở cửa có giới hạn giao dịch vốn. Nhằm mục đích khơi thông

dòng ngoại tệ tạo điều kiện cho TTNH phát triển nhưng vẫn đảm bảo an toàn hệ

thống tài chính quốc gia. Thứ ba,quan tâm đến việc thiết lập một khung thể chế

cho hoạt động của TTNH, phải có cơ quan chuyên trách về hoạt động ngoại hối

để tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động của TTNH, mở rộng đối tượng tham

gia thị trường và trang bị cơ sở hạ tầng, hệ thống thanh toán, trao đổi thông tin

hiện đại, phát triển cả thị trường giao dịch tập trung và không tập trung.

45

Kết luận chương 1

Chương 1 đã đưa ra những lý thuyết nghiên cứu trước đây về TTNH với

đầy đủ các khái niệm, đặc điểm, phân loại thị trường, các thành viên tham gia và

kỹ thuật giao dịch trên 2 thị trường liên ngân hàng trực tiếp, gián tiếp, những

giao dịch trên thị trường ngoại hối.

Bên cạnh đó, trong chương 1 luận án cũng đã trình bày những yếu tố tác

động đến TTNH và những điều kiện cần thiết để phát triển TTNH trong bối cảnh

hội nhập, để làm cơ sở lý luận cho quá trình đánh giá và phân tích thực trạng của

TTNH.

Cuối chương 1, luận án đã giới thiệu những kinh nghiệm về điều hành

chính sách tỷ giá và chính sách quản lý ngoại hối và cách thức tổ chức và quản lý

TTNH của các nước trong khu vực để làm cơ sở thực tiển cho những nhận định

và các đề xuất nhằm phát triển TTNH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế.

46

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM

2.1. Khái quát tình hình TTNH trên thế giới

Trong bối cảnh hội nhập ngày càng phát triển sự biến động của TTNH trên

thế giới sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến TTNH Việt Nam, việc khảo sát thực trạng

hoạt động và những xu hướng phát triển của các TTNH trên thế giới để xây dựng

chiến lược phát triển TTNH ở Việt Nam.

TTNH là một thị trường lớn nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Với tổng số

lượng giao dịch trên toàn thế giới lên đến gần 4 ngàn tỉ đô la Mỹ (4,000 tỷ

USD)[60] mỗi ngày được sử dụng để thanh toán những hoạt động mậu dịch giữa

các quốc gia, luân chuyển nguồn vốn qua các biên giới, thanh toán và hoán đổi

đồng tiền giữa các chính phủ, các tổ chức tài chính và phi tài chính và các thành

phần kinh tế khác trên toàn thế giới. Số lượng giao dịch này ngày càng tăng do sự

phát triển mậu dịch và tiến trình toàn cầu hóa. Cùng với số lượng tăng cao là

những biến động trên TTNH và các biện pháp của các chính phủ hay các khu vực

kinh tế càng ngày càng trở nên quyết liệt hơn để bảo vệ cho đồng tiền và nền

kinh tế của mình.

2.1.1. Nhận định chung về thị trường ngoại hối thế giới

Ngân hàng Thanh tóan quốc tế (BIS) cứ 3 năm 1 lần tiến hành khảo sát

doanh số TTNH hoạt động trên toàn cầu, theo khu vực địa lý, loại tiền tệ, và theo

loại hình giao dịch, để phân tích đánh giá đưa ra nhận định chung về tình hình

TTNH trên thế giới. Trong lần khảo sát gần đây nhất là vào năm 2010, kết quả

khảo sát như sau:

Về doanh số giao dịch, liên tục tăng mức tăng hơn hai lần từ 1527 tỷ

USD năm 1998 lên 3981 tỷ USD năm 2010. Sau khủng hoảng tài chính khu vực

Đông Nam Á doanh số sụt giảm 200 tỷ USD vào năm 2001, tuy nhiên sau đó

doanh số liên tục tăng ấn tượng nhất là số lượng tăng của năm 2007 so với năm

47

2004 là hơn 1200tỷ USD đạt tỷ lệ 65.2%, sau đó tốc độ tăng giảm xuống còn

20% tính từ tháng 4/2007 đến tháng 4/2010 với doanh số hàng ngày vào năm

2010 là 3981 tỷ USD.

Biểu đồ 2.1: Doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu

Nguồn: Trienial Central Bank Survey BIS, April 2010 [61]

Bảng 2.1: Doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu

theo các loại hình giao dịch

Đơn vị tính: Tỷ USD

Năm 1998 2001 2004 2007 2010 Các công cụ

Tổng doanh số 1,527 1,239 1,934 3,324 3,981

Giao dịch Spot 568 386 631 1,005 1,490

Giao dịch Outright forwards 128 130 209 362 475

Giao dịch hoán đổi ngoại hối 734 656 954 1,714 1,765

Giao dịch hoán đổi tiền tệ 10 7 21 31 43

Quyền chọn và các loại khác 87 60 119 212 207

Lưu ý: doanh số được tính theo 1,705 1,505 2,040 3,370 3,981 tỷ giá của tháng 4/2010

Nguồn:Trienial Central Bank Survey BIS, April 2010 [61]

48

Về loại hình giao dịch, qua số liệu doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu

theo các loại hình giao dịch cho thấy: giao dịch giao ngay là giao dịch chiếm tỷ lệ

lớn nhất gần 50% tổng doanh số giao dịch đã từ 1000 tỷ USD năm 2007 tăng gần

1500 tỷ USD năm 2010. Các giao dịch phái sinh như giao dịch kỳ hạn tăng

31.2%, giao dịch hoán đổi ngoại tệ, hoán đổi tiền tệ, không tăng nhiều lắm so

với năm 2007. Riêng giao dịch quyền chọn và các loại khác lại sụt giảm một ít,

do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế năm 2009.

Phân bổ doanh số giao dịch theo khu vực địa lý (Phụ lục số 2), có những

điểm nổi bật như sau: vào năm 2010 Anh chiếm 37%, Mỹ 18%, Nhật 6%,

Singapore 5%, Switzerland 5%, Hong Kong 5% và Úc là 4%. Nếu tính theo số

tuyệt đối: Tại Anh doanh số là 371 tỷ USD, Mỹ là 159 tỷ USD, Nhật là 62tỷ

USD và Hong Kong là 57tỷ USD. Riêng các nước Châu Á (trừ Nhật) trước năm

2007 các nước này chỉ có doanh số rất thấp nhưng đến năm 2010 đã có sự gia

tăng số lượng như Trung Quốc 19.8 tỷ USD, Malaysia tăng lên 7.3 tỷ USD,

Thái Lan 7.4tỷ USD tuy tỷ lệ của mỗi quốc gia này không tới 1% doanh số

giao dịch ngoại hối toàn cầu nhưng đã cho thấy sự phát triển hoạt động trên

thị trường ngoại hối của các nước này. Tiềm năng này chỉ ra rằng trong

khuynh hướng dài hạn sẽ có thể có những tác động đến sự phân bổ doanh số

giao dịch ngoại hối theo địa lý, tạo ra sự chênh lệch quan trọng của các loại

tiền tệ này ở những trung tâm tài chính khác nhau[59].

Căn cứ doanh số giao dịch theo loại tiền tệ. Chiếm tỷ lệ lớn nhất vẫn

là USD hơn 80%, đứng thứ 2 là EUR gần 40%, kế tiếp là JPY gần 20% , GBP

chiếm gần 13%, chiếm tỷ lệ dưới 10% là AUD, CAD, CHF và chiếm dưới 5 %

là các đồng tiền còn lại. Vào năm 2010, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế của

năm 2009 nên có sự sụt giảm doanh số, mạnh nhất là GBP giảm 2% , USD giảm

0.7%, CHF 0.4%, HKD 0.3%, trong khi đó EURO tăng mạnh 2.1% và JPY tăng

1.8% trong doanh số giao dịch toàn cầu. Đặc biệt tổng số các đồng tiền : CNY,

MYR, THB, IDR gia tăng từ 0.5% lên 1% đã đánh dấu sự hiện diện của các nền

49

kinh tế mới nổi Châu Á trên TTNH thế giới.

Về đặc điểm của thị trường ngoại hối có hai vấn đề thật sự nổi bật,

(1) là sự gia tăng một cách mạnh mẽ về doanh số giao dịch giữa các ngân hàng

và các định chế tài chính khác, phù hợp với sự gia tăng của các họat động bảo

hiểm rủi ro tỷ giá và đa dạng hóa các danh mục đầu tư cuả các tổ chức đầu tư dài

hạn và quỹ lương hưu. (2) là sự gia tăng doanh số giao dịch có liên quan đến thị

trường tiền tệ của các nước đang phát triển. Singapore và Hongkong là những

trung tâm tài chính hải ngoại quan trọng của các đồng tiền của những thị

trường mới nổi ở Châu Á. Ngược lại những trung tâm tài chính khác, như

Australia, Japan và Thụy Sỹ thì giao dịch với các đồng tiền của những thị

trường mới nổi có doanh số thấp hơn [59].

Trước nhận định trên về trung tâm tài chính của các nước Châu Á, Việt

Nam cần tìm hiểu xu hướng phát triển thị trường ngoại hối của khu vực Châu

Á để xây dựng chiến lược hội nhập từng bước từ khu vực tiến tới thị trường

ngoại hối toàn cầu.

2.1.2. Những nét đặc trưng của TTNH Châu Á trong giai đoạn hiện nay

Hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ Châu Á có sự gia tăng mạnh

mẽ trong những năm gần đây. Doanh số của 10 đồng tiền Châu Á (không tính

Yen Nhật) tăng từ 100tỷ USD mỗi ngày trong tháng 4 năm 2004 lên 249 tỷ USD

mỗi ngày năm 2007. Tuy nhiên sự gia tăng của các đồng tiền có tỷ lệ khác nhau,

trong đó doanh số của nhân dân tệ (CNY) tăng gấp 7 lần từ 2tỷ USD năm 2004

lên 15 tỷ năm 2007, trong khi đồng Won (KRW) của Korea chỉ tăng 41% từ 22 tỷ

lên 39 tỷ. Như vậy, đôla HongKong (HKD) vẫn duy trì là đồng tiền giao dịch

năng động nhất trên TTNH Châu Á, đứng thứ hai và thứ ba là đôla

Singapore(SGD) và Won của Korea(KRW). Các đồng tiền Rupee của Ấn Độ

(INR), Ringgit của Malaysia (MYR) peso của Philippine (PHP) được giao dịch

thấp nhất mỗi loại chỉ khoảng 4 tỷ.[59]

50

Sự gia tăng mạnh mẽ của doanh số giao dịch ngoại hối được cho là do sự

gia tăng giao dịch những tài sản tài chính, được thực hiện bởi những nhà đầu tư

hướng đến mục tiêu dài hạn họ tiếp tục đa dạng hóa danh mục đầu tư của họ vào

cổ phiếu và trái phiếu ngoại tệ. Bên cạnh đó là những nhà đầu tư sử dụng nguyên

tắc đòn bẩy (Leverage invester) họ hướng đến mục tiêu đầu tư ngắn hạn với lợi

nhuận tiềm năng dựa vào kinh doanh chênh lệch lãi suất (carry trade) thực hiện

thông qua hoạt động đầu tư ủy thác, đa số các ngân hàng đầu tư cũng gia tăng

doanh số kinh doanh ngoại hối đặc biệt là trên thị trường giao ngay. Một cách

chắc chắn rằng những nhân tố trên đã làm gia tăng doanh số trên thị trường ngoại

hối Châu Á, mặc dù sự tác động đó không mạnh mẽ bằng các đồng tiền

mạnh.[59]

Dòng tiền vào thị trường cổ phiếu Châu Á góp phần làm gia tăng đáng kể

doanh số giao dịch trên thị trường ngoại hối Châu Á mà đặc biệt là doanh số đôla

Hong Kong (HKD) tăng do sự tăng tạm thời một số lượng lớn cổ phiếu qua

những giao dịch trên Thị trường chứng khoán Hong kong.

Giao dịch hàng hóa và dịch vụ cũng góp phần đáng kể vào doanh số các

đồng tiền Châu Á nhiều hơn so với vào doanh số các đồng tiền quốc tế. Bởi vì,

doanh số ngoại tệ trên TTNH theo sát luồng tiền thương mại hơn là luồng tiền

trong giao dịch vốn, tổng doanh số xuất nhập khẩu của 10 nước Châu Á tăng từ

4.3 tỷ USD năm 2004 lên 7tỷ USD năm 2007. Những nước có giao dịch ngoại

thương lớn mạnh đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ đã đóng góp đáng kể vào sự

gia tăng doanh số 2 đồng tiền CNY và INR trên TTNH thế giới.

Một nhân tố bổ sung cho sự gia tăng doanh số ngoại tệ trên thị trường Châu

Á là do tỷ giá linh hoạt hơn tạo cơ hội kinh doanh chênh lệch giá và nhu cầu bảo

hiểm tỷ giá tăng cao. Chính phủ Trung Quốc và Malaysia đã thông qua chế độ tỷ

giá linh hoạt vào tháng 7/2005, Ấn Độ và Philippine vào năm 2007, họ đã chấp

nhận để tỷ giá biến động trong ngày lớn hơn những năm trước đây. Thực vậy sau

đó, INR đã tăng giá so với USD với tốc độ kỷ lục.

51

Mặc dù tăng trưởng mạnh nhưng doanh số tổng hợp của các đồng tiền Châu

Á vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ của doanh số ngoại hối toàn cầu. Trong tháng

4/2007, tỷ lệ doanh số của các đồng tiền Châu Á trong doanh số toàn cầu là 7.5%

chỉ lớn hơn so với tỷ lệ AUD một chút là 6.6%, nhưng thấp hơn tỷ lệ của JPY

17.2%. Theo giá trị tuyệt đối, doanh số tổng cộng các đồng tiền Châu Á là 249tỷ

USD, doanh số AUD là 220tỷ USD và JPY là 573tỷ USD. Sang đến tháng

4/2010, tỷ lệ doanh số này có sự sụt giảm nhỏ do khủng hoảng kinh tế năm 2009

nhưng vẫn cao hơn so với năm 1998.

Tóm lại, qua nghiên cứu tình hình TTNH trên thế giới có thể rút ra những

vấn đề sau:

Hoạt động thị trường ngoại tệ phát triển nhưng tốc độ không cao như 3

năm trước (2007) nguyên nhân chủ yếu là ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế

thế giới năm 2008-2009.

Sự xuất hiện của một số đồng tiền cuả các quốc gia đang phát triển trong

doanh số giao dịch ngoại hối toàn cầu.

Sự phát triển doanh số giao dịch của các đồng tiền các nước Châu Á gắn

với quá trình gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu và chính sách tỷ giá linh hoạt

hơn tạo điều kiện cho những giao dịch kinh doanh chênh lệch tỷ giá và nhu cầu

bảo hiểm rủi ro tỷ giá phát triển.

Những giao dịch kinh doanh ngoại hối theo thuật toán (algorithmic), hoạt

động đầu tư ủy thác kinh doanh chênh lệch lãi suất (carry trade), đầu tư bằng đòn

bẩy(Leverage invester) càng gia tăng trên thị trường sẽ tạo nên những luồng vốn

di chuyển giữa các quốc gia mạnh mẽ hơn và đặt ra vấn đề kiểm soát những

luồng vốn này nhằm đảm bảo an toàn cho thị trường tài chính.

Xu hướng phát triển của TTNH toàn cầu nói chung và TTNH của khu vực

các nước Châu Á nói riêng sẽ có những tác động đến hoạt động kinh doanh ngoại

hối của TTNH Việt Nam.

52

2.2. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế đến sự phát triển TTNH Việt

Nam

Hội nhập kinh tế tạo điều kiện giúp các nước tham gia có thể phát huy

những tiềm năng của nền kinh tế đồng thời tận dụng được những ưu thế của các

quốc gia khác, căn cứ vào tiêu chí của quá trình hội nhập là đảm bảo sự công

bằng trong giao dịch thương mại- tài chính nhằm hướng tới mục đích hợp tác và

cùng phát triển.

Kể từ khi hội nhập kinh tế quốc tế, TTNH Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng

do sự thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô hướng đến nền kinh tế thị trường,

qua đó tác động đến cung cầu ngoại tệ, cụ thể là ảnh hưởng do: tự do hóa thương

mại, mở cửa thị trường dịch vụ, giảm dần các hạn chế trong thị trường tài chính,

là những hoạt động có liên quan đến các giao dịch bằng ngoại tệ và trực tiếp gia

tăng nguồn cung và cầu ngoại tệ.

2.2.1. Nguồn cung ngoại tệ gia tăng do hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài,

chuyển tiền kiều hối, xuất khẩu phát triển.

Khảo sát doanh số hoạt động FDI, kiều hối, xuất khẩu theo các mốc thời

gian hội nhập, đã cho thấy quá trình gia tăng lượng ngoại tệ của những hoạt động

này.

Giai đoạn bắt đầu mở cửa từ năm 1990 đến năm 1995 gia nhập Asean:

Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu

Đơn vị: Triệu USD

Năm

1990 1991 1992 1993 1994 1995

Chỉ tiêu

FDI 120 165 333 1048 2236 832

141 Kiều hối 50 41 136.5 249.5 285

Xuất khẩu 2400 2087 2580 2985 4054.3 5448.9

Nguồn: NHNN[21]

53

Từ năm 1990 đến 1995, giai đoạn đầu của thời kỳ mở cửa, lượng ngoại tệ

do hoạt động FDI và chuyển tiền kiều hối, xuất khẩu tăng theo từng năm, FDI

tăng gần 20 lần và kiều hối tăng gần 10 lần và xuất khẩu tăng hơn 2 lần. Tuy

nhiên trong giai đoạn đầu chính sách quản lý ngoại hối chưa thật sự có tác động

tích cực đến lượng ngoại tệ so với giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO

Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2006 trước khi gia nhập WTO:

Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI), kiều hối và xuất khẩu

Đơn vị tính: Triệu USD

Năm

1996 1997 1998 1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

1298

1300

1400

1450

1650

1889

2315

Chỉ tiêu FDI 2395 2220 1671 1412

469

400

950

1200

1757

1820

2154

2600

3200

3800

5200

Kiều

hối

7255 9185 9360 11541 14482.7 15027 16705 20149.3 26504.2 32447 39826

Xuất

khẩu

Nguồn: NHNN[21]

Đây là giai đoạn chuẩn bị những điều kiện tiền đề phải thực hiện những yêu

cầu của WTO để được tổ chức này xem xét kết nạp. Sau khi trở thành thành viên

của ASEAN, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam phát triển mạnh, đồng thời

cũng là giai đoạn Việt Nam ký Hiệp định Thương mại Việt_Mỹ năm 2000 thị

trường xuất khẩu mở rộng làm gia tăng kim ngạch xuất khẩu lên hơn 39tỷ USD

vào năm 2006. So với năm 1996, vào năm 2006 nguồn vốn FDI tăng gấp đôi và

kiều hối tăng hơn 10 lần. Như vậy, chỉ trong vòng 10 năm mà lượng ngoại tệ do

3 hoạt động chính nêu trên đã gia tăng đáng kể và cung cấp lượng ngoại tệ lớn

cho TTNH nước ta.

54

Giai đoạn từ khi gia nhập WTO đến nay

Bảng 2.4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, kiều hối và xuất khẩu

Đơn vị tính: Triệu USD

Năm Chỉ tiêu FDI

2007 2008 2009 2010

6550 9279 6900 7100

Kiều hối 6300 7200 6800 8540

Nguồn: FDI, kiều hối và xuất khẩu số liệu của NHNN[21]

Xuất khẩu 48561 62685 57096 71629

Giai đoạn từ khi gia nhập WTO đến nay, lượng ngoại tệ tăng giảm theo tác động

của kinh tế thế giới. Đi vào chi tiết số liệu trong các bảng 2.2; 2.3 và 2.4 có thể

thấy rõ tác động quá trình hội nhập đến lượng ngoại tệ:

Về Xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã tăng từ 2,4 tỷ USD

trong năm 1990 lên trên 5,4 tỷ USD năm 1995, lên trên 39,8 tỷ USD trong năm

2006 và ấn tượng nhất là năm 2007 năm đầu tiên gia nhập WTO, mức độ hội

nhập trong hoạt động thương mại của Việt Nam mở rộng hơn, tạo điều kiện thâm

nhập thị trường nước ngoài dễ dàng hơn vì được hưởng ưu đãi về thuế và việc bãi

bỏ hạn ngạch, làm kim ngạch xuất khẩu đã tăng gấp đôi so với năm 2005. Kể từ

đó doanh số liên tục gia tăng chỉ có năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng kinh tế thế giới nên kim ngạch xuất khẩu có sụt giảm, tuy nhiên vẫn đạt

56,6 tỷ USD và năm 2010 đã tăng trở lại hơn 71 tỷ USD.

Về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài vào Việt Nam (FDI) góp phần rất lớn cho sự tăng trưởng kinh tế, vừa bổ

sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, phát triển

nguồn nhân lực… còn đóng góp tích cực vào nguồn thu ngân sách. Trong thời

gian qua, vốn FDI tăng rất nhanh vào năm 2007 và năm 2008, theo số liệu trên

CCTT của NHNN cho thấy 2007 lượng ngoại tệ chuyển vào đầu tư trực tiếp tăng

gần gấp3 lần và năm 2008 tăng hơn 4lần so với năm 2006. Tuy nhiên, sang năm

55

2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Mỹ, lượng ngoại tệ chuyển vào

có sụt giảm nhưng vẫn đạt mức 6.9 tỷ USD và năm 2010 tăng lên 7,1tỷUSD.

Những số liệu tăng trưởng của hoạt động ngoại thương và đầu tư, đã cho

thấy quá trình hội nhập đã có những tác động đến nền kinh tế nói chung và đến

thị trường ngoại hối nói riêng. Đây là những nhân tố thuận lợi góp phần đáng kể

tạo điều kiện để TTNH phát triển.

Về kiều hối, với mức tăng năm sau cao hơn năm trước và tăng mạnh vào

những năm gần đây, sự gia tăng lượng ngoại tệ do những người Việt Nam sinh

sống và làm việc tại nước ngoài cùng với đà tăng trưởng số lượng người xuất

khẩu lao động qua các năm. Trong giai đoạn đầu mở cửa từ 1990-1995 tăng gần

10 lần, giai đoạn 2 từ năm 1996-2006 tăng hơn 11 lần và từ năm 2007 kiều hối

vẫn gia tăng trung bình mỗi năm hơn 6 tỷ và vào năm 2010 lên mức 8tỷ USD

mặc dù đây là giai đoạn nền kinh tế thế giới vẫn còn chịu tác động của khủng

hoảng tài chính.

2.2.2. Nguồn cung ngoại tệ từ những hoạt động khác gia tăng

Ngoài hoạt động đầu tư trực tiếp, kiều hối và xuất khẩu, quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế đã tạo cơ hội làm gia tăng lượng ngoại tệ, thông qua những tác

động sau:

Thứ nhất, là sự gia tăng lượng khách du lịch quốc tế

Kể từ khi mở cửa, hoạt động du lịch của Việt Nam phát triển mở rộng thị

trường, tăng cừơng quảng bá hình ảnh của Việt Nam phát huy những thế mạnh

về bản sắc dân tộc, xây dựng nhiều tour du lịch hấp dẫn, vì thế lượng khách đến

Việt Nam ngày càng tăng nhanh, nếu như năm 1998 mới đạt 1,52 triệu lượt

người, đến năm 2004 đã gần gấp 2 lần và năm 2008 tăng đến hơn 4 triệu lượt

người và đến năm 2010 vượt qua con số 5 triệu lượt. Nguồn ngoại tệ thu được từ

hoạt động xuất khẩu du lịch còn phải kể đến khoản ngoại tệ khách du lịch quốc tế

mang đến chi tiêu tại Việt Nam.

56

Biểu đồ 2.2: Khách quốc tế đến Việt nam trong thời gian từ 1995-2010

Đơn vị tính: nghìn lượt người

Biểu đồ 2.3 Lượng ngoại tệ thu được từ khách quốc tế

Đơn vị tính: triệu USD

Nguồn:Tổng cục Thống kê [79]

Thứ hai, là nguồn ngoại tệ từ vốn ODA, từ nguồn viện trợ không hoàn lại

của các tổ chức tài chính, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước

ngoài, gia tăng theo mức độ hội nhập. Nguồn:Tổng cục Thống kê [79]

Thứ ba, Tác động của hội nhập đến luồng vốn chảy vào nước ta thể hiện rõ

nét qua số liệu dòng vốn đầu tư gián tiếp tăng mạnh năm 2007 là 6243 triệu góp

phần đáng kể vào nguồn cung ngoại tệ cho TTNH, tuy nhiên đây là luồng vốn

không ổn định nên khi thị trường thế giới có biến động thì sẽ sự đảo chiều tháo

chạy nhanh chóng thể hiện qua số liệu âm của năm 2008: -578 triệu USD và

2009 : -71 triệu USD, và qua năm 2010 khi kinh tế thế giới có sự hồi phục thì

luồng vốn này cũng tăng trở lại tuy không được mạnh mẽ bằng năm 2007 nhưng

cũng đạt được : 2370 triệu USD [73].

Thứ tư, là số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống,

làm ăn, học tập... ngày càng tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền

thuê nhà và chi trả các dịch vụ khác. Việc gia nhập WTO đòi hỏi phải giảm dần

các hạn chế về sự hiện diện của các thể nhân và pháp nhân, vì thế số lượng các

57

ngân hàng, tổ chức kinh tế nước ngoài mở văn phòng, chi nhánh, công ty, nhà

máy tại Việt Nam càng tăng và kéo theo đó là số lượng các chuyên gia, người lao

động nước ngoài sang làm việc càng đông.

Thứ năm, là tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các

dự án liên doanh, dự án 100 % vốn nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước

ngoài ở Việt Nam, được trả bằng ngoại tệ.

Tổng hợp số lượng ngoại tệ này chưa có được những con số thống kê đầy

đủ, ngoại trừ những luồng chu chuyển tiền thông qua hệ thống ngân hàng, tuy

nhiên đã được các tổ chức kinh tế đánh giá không nhỏ và tạo nên nguồn cung

ngoại tệ quan trọng cho thị trường.

Ngoài những nguồn cung ngoại tệ chính nêu trên, TTNH Việt Nam còn có

đặc thù riêng trong những năm gần đây là nguồn “cung ảo” ngoại tệ do tác động

của tăng trưởng tín dụng ngoại tệ mà nguyên nhân xuất phát từ sự chênh lệch lãi

suất USD và VND, các doanh nghiệp vay USD bán ra để chuyển sang VND thay

vì vay VND lãi suất cao hơn.

2.2.3. Cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu gia tăng

Khi Việt Nam gia nhập WTO đã cam kết cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các

rào cản phi thuế quan ( như giấy phép, hạn ngạch, kiểm soát ngoại hối, các loại

phí…), đồng thời Việt Nam còn tham gia các hiệp ước tự do thương mại, song

phương và đa phương trong khuôn khổ ASEAN, với mức độ tự do hóa và mở

cửa còn cao hơn cam kết gia nhập WTO như cắt giảm thuế quan đối với các sản

phẩm công nghiệp xuống mức 0% theo lộ trình đến năm 2013. Bên cạnh đó đặc

điểm hoạt động sản xuất của nước ta sử dụng phần lớn nguyên liệu nhập khẩu,

nhu cầu nhập máy móc thiết bị rất cao, đồng thời tăng trưởng kinh tế đã dẫn đến

thị hiếu tiêu dùng thay đổi, từ hàng hóa cho đến dịch vụ hầu như đều có khuynh

hướng chuộng hàng ngoại vì thế kim ngạch nhập khẩu của nước ta luôn ở mức

cao và thường xuyên ở tình trạng nhập siêu.

Nếu như năm 2000, kim ngạch nhập khẩu của nước ta là hơn 15.6 tỷ USD

thì đến năm 2004 đã tăng gấp đôi gần 32 tỷ và 2 năm sau vào năm 2007 năm đầu

58

tiên gia nhập WTO kim ngạch này đã lên đến mức gần 63 tỷ USD và năm 2008

tăng hơn 80 tỷ USD, sang năm 2009 do khủng hoảng kinh tế giảm còn 68.9tỷ và

năm 2010 tăng trở lại đạt mức 81 tỷ USD.

Bảng 2.5: Kim ngạch nhập khẩu

Năm

2000

2001

2002

2003

2004 2005

2006

2007

2008

2009

2010

Nhập khẩu 15637 16218 19746 25256 31969 36761 44891 62765 80414 68949 81801

Đơn vị tính: triệu USD

Nguồn: Tổng cục Thống kê[79]

Ngoài ra, đặc điểm thị trường Việt Nam với tâm lý người dân rất chuộng

cất trữ vàng như là hình thức bảo toàn vốn, trong những giai đoạn thị trường

vàng biến động NHNN phải cho phép nhập khẩu vàng để bình ổn thị trường. Vì

thế nhu cầu về ngoại tệ để nhập vàng cũng đã tạo nên những đợt biến động mạnh

về nguồn cầu ngoại tệ.

2.2.4. Nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá sẽ gia tăng

Nền kinh tế Việt Nam trước khi mở cửa, chưa phải thực thi những cam kết

của những hiệp ước song phương đa phương, hoạt động ngoại thương chỉ thực

hiện trong khối Xã Hội Chủ Nghĩa vì thế những biến động của tình hình kinh tế

thế giới ít có tác động đến nền kinh tế và rủi to tỷ giá cũng hầu như không có, vì

các nước trong khối thực hiện thanh toán bù trừ và hoạt động ngoại thương thực

chất là viện trợ dưới hình thức hàng hóa.

Kể từ khi mở cửa, phải tuân thủ lộ trình mở cửa theo cam kết gia nhập

WTO đảm bảo xây dựng một nền kinh tế thị trường với đầy đủ các yếu tố cạnh

tranh vì thế những yếu tố tác động đến tỷ giá là giá cả của những hàng hóa chủ

lực như xăng dầu, vàng vvv.. Là những biến động của tình hình chính trị xã hội

của những quốc gia có giao dịch thương mại với Việt Nam sẽ góp phần gia tăng

rủi ro cho những giao dịch có liên quan đến ngoại tệ, thêm vào đó môi trường

59

kinh tế thế giới ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp và sức lan toả nhanh

chóng và mạnh mẽ hơn khi quá trình hội nhập càng sâu rộng.

Đối với thị trường tài chính và dịch vụ tài chính, việc gia nhập WTO đòi

hỏi phải dỡ bỏ dần các rào cản tài chính trong nước, giảm các hạn chế giao dịch

qua biên giới, thực hiện đối xử quốc gia đối với các thể nhân và pháp nhân nước

ngoài. Những thay đổi này làm gia tăng luồng chu chuyển thương mại hai chiều,

kéo theo sự chu chuyển luồng vốn, đặc biệt là các luồng vốn đầu tư gián tiếp và

sẽ dẫn đến sự gia tăng khả năng biến động bất thường của cán cân thanh toán, lãi

suất, tỷ giá và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác.

Ngoài ra, chính sách tỷ giá sẽ phải điều hành theo hướng linh hoạt hơn,

nghĩa là không neo giữ tỷ giá tại mức cố định quá lâu mà có sự thay đổi bám sát

giá thị trường hơn và như vậy những hoạt động thanh toán hay các giao dịch liên

quan đến ngoại tệ sẽ dễ gặp rủi ro hơn.

Xuất phát từ những lý do trên, nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá sẽ gia tăng và

làm tăng khối lượng giao dịch trên TTNH giúp thị trường sẽ hoạt động sôi nổi

hơn.

2.2.5. Tăng cường sự hợp tác hổ trợ và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho

các tổ chức kinh tế, tài chính của Việt Nam

Quá trình toàn cầu hóa giúp cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần

nhau và có những ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, trong quá trình hợp tác và phát

triển nếu một thành viên nào trong tổ chức kinh tế quốc tế gặp khó khăn hay đối

mặt với khủng hoảng kinh tế sẽ được sự giúp đỡ hỗ trợ được chia sẻ những kinh

nghiệm đối phó của các nước của tổ chức kinh tế thế giới WTO, IMF, bởi vì

trong cùng tổ chức kinh tế nếu một quốc gia nào có khủng hoảng thì không chỉ

một nước mà cả với những nước là đối tác thương mại cũng bị thiệt hại theo.

60

Đồng thời quá trình hội nhập thông qua sự tham gia vào các tổ chức kinh tế

khu vực(ASEAN) và toàn cầu (IMF) Việt Nam có thể nhận được sự hỗ trợ về đào

tạo chuyên viên tài chính, cách tổ chức TTTC, hệ thống thông tin điện tử trang

bị cho hoạt động kinh doanh ngoại hối, hợp tác chống rửa tiền và các biện pháp

bảo vệ an ninh cho hệ thống tài chính.

Sự mở cửa thị trường sẽ tiếp nhận những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực

tài chính lớn mạnh có trình độ quản lý cao và đội ngũ chuyên viên giỏi giúp cho

các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ tiếp cận với trình độ

kinh doanh chuyên nghiệp và tiếp thu những thành tựu trong hoạt động tài chính

ngân hàng để thu hẹp dần khoảng cách về trình độ của nền tài chính Việt Nam

với nền tài chính hiện đại. Đây chính là cơ sở tạo điều kiện hoạt động kinh doanh

ngoại hối cũng như cho TTNH Việt Nam phát triển.

Thị trường tài chính ngày càng mở cửa theo lộ trình thỏa thuận khi gia nhập

WTO, các ngân hàng nước ngoài ngày càng có cơ hội xâm nhập nhiều hơn vào

thị trường Việt Nam và với tiềm lực về vốn, năng lực quản lý, kinh nghiệm trong

hoạt động kinh doanh tiền tệ hơn hẳn, đã gây áp lực áp lực cạnh tranh ngày càng

tăng đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải có chiến lược nâng cao trình độ quản lý,

quản trị rủi ro, phát triển nghiệp vụ ngân hàng và xây dựng cải tiến hệ thống xử

lý thông tin và dự báo hiện đại hơn.

2.2.6. Đối mặt với những bất ổn do quá trình mở cửa thị trường tài chính

Mở cửa thị trường vừa đón nhận những thuận lợi cho quá trình phát triển

nền kinh tế và hiện đại hóa hệ thống tài chính, đồng thời cũng phải tiếp nhận cả

những bất ổn của nền kinh tế thế giới mà với năng lực quản lý còn yếu kém, trình

độ quản trị rủi ro và khả năng ngăn chặn phát hiện những mối nguy cơ của hệ

thống tài chính Việt Nam còn hạn chế. Ngay cả đối với những nước có trình độ

quản lý hiện đại có cả hệ thống quản trị rủi ro và phát hiện những rủi ro tiềm ẩn

61

rất phát triển cũng vẫn bị sự tấn công của giới đầu cơ tiền tệ làm sụp đổ ngân

hàng mà nền kinh tế thế giới đã từng chứng kiến như Ngân hàng Barings tại

Singapore (là công ty con của công ty chứng khoán Barings có trụ sở chính tại

London ) vào năm 1995 nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng của ngân hàng được

cho là sự lạm dụng quá mức giao dịch phái sinh tài chính và không quản lý nổi

trạng thái mở của những giao dịch này.

Khủng hoảng tài chính thị trường Châu Á năm 1997 đã làm cho hệ thống

tài chính của Thái Lan, Malaysia, Indonesia bị thiệt hại nặng nề là những bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình mở cửa TTTC.

Gần nhất là khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã làm tăng trưởng kinh

tế toàn cầu sụt giảm đáng kể, các nền kinh tế phát triển đều rơi vào suy thoái. Mà

nguyên nhân chính đi từ những hoạt động đầu tư quá mức vào thị trường bất

động sản và có sự tiếp tay của những giao dịch phái sinh tài chính đã làm cho giá

bất động sản nhảy vọt và những khoản vay dưới mức chuẩn của các ngân hàng

Mỹ đã kéo dây chuyền cho sự sụp đổ của một số ngân hàng lớn của Mỹ. Tình

hình kinh tế của Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể, 6 tháng đầu năm, nhập siêu

tăng mạnh do biến động giá, trong khi đó xuất khẩu lại sụt giảm do suy thoái

kinh tế toàn cầu, đe dọa sự thâm hụt nghiêm trọng cán cân thanh toán và gây áp

lực lên tỷ giá.

Trong bối cảnh kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới,

mức độ tự do hóa các giao dịch vốn tương đối cao, biến động của các luồng vốn

đầu tư, đặc biệt là luồng vốn gián tiếp đã ảnh hưởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ

và tỷ giá. Minh chứng cho thấy sự ảnh hưởng này, là tình hình TTTC Việt Nam

trong năm 2008, sau 1 năm gia nhập WTO và thực hiện tự do hóa giao dịch tài

khoản vãng lai và mở cửa một phần với các giao dịch vốn, luồng vốn đầu tư gián

tiếp đã liên tục biến động, khiến cho cung cầu ngoại tệ mất cân đối. Luồng vốn

62

này gia tăng đáng kể trong ba tháng đầu năm, gây áp lực tăng giá VND, sau đó

có dấu hiệu đảo chiều làm tăng cầu ngoại tệ khi tình hình kinh tế thế giới tiếp tục

khó khăn, kinh tế trong nước đối mặt với lạm phát, nhập siêu tăng cao. Sau khi

luồng vốn vào có dấu hiệu tăng nhẹ trở lại do kinh tế vĩ mô Việt Nam diễn biến

khả quan vào các tháng cuối năm, thì tình trạng khủng hoảng thị trường tài chính

quốc tế lại khiến cho các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn về nước để bảo đảm

thanh khoản của các tổ chức ở chính quốc.

Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới (BIS, năm 2007), khủng hoảng tài

chính là mối hiểm nguy của các quốc gia có thu nhập trung bình, vì khi các điều

kiện của thị trường vốn thay đổi, các bên cho vay có thể ngừng giải ngân, các dự

án dài hạn có thể không được hoàn thành, các dự án mới đăng ký không được

triển khai, nội tệ có thể mất giá và sự bất ổn định sẽ lan nhanh trong nền kinh tế.

Những biến động khó lường của kinh tế và thị trường tài chính thế giới cũng như

trong nước sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới cân bằng cung cầu ngoại tệ trong nước, tác

động đến TTNH một cách nhanh chóng một khi quá trình mở cửa càng lớn.

2.2.7. Sự canh tranh gay gắt hơn với những đối thủ hơn hẳn về tiềm lực và

bề dày kinh nghiệm

Trong những năm qua mặc dù hệ thống ngân hàng của Việt Nam đã có

nhiều đổi mới thế nhưng các NHTM của Việt Nam xét về năng lực vốn còn rất

khiêm tốn so với các NHTM của một số quốc gia trong khu vực

Qua số liệu ở bảng 2.6 cho thấy qui mô vốn của các NHTM của Việt Nam

lớn nhất chỉ có Agribank là hơn 1tỷ USD còn lại đều ít hơn khoảng dưới 800

triệu USD như Vietcombank, BIDV thấp hơn so với mức vốn nhỏ nhất của các

NHTM Singapore và Malaysia. Với năng lực vốn như vậy các NHTM của Việt

Nam sẽ gặp nhiều khó khăn cho việc phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối

trên TTNH khu vực cũng như trên toàn thế giới.

63

Bảng 2.6: Qui mô vốn điều lệ của một số NHTM

của các quốc gia trong khu vực

Vốn

Quốc gia

Quốc gia

Vốn

Đơn vị tính: Triệu USD

INDONESIA

MALAYSIA

Bank Mandiri

2,122

MayBank

4,102

Bank BNI

1,499

Public Bank(PBB)

2,382

Bank Cetral Asia

Commerce Asset- Holding

1,695

1,304

Bank Rakyat Indonesia

1,070

AMMB Holding

1,476

Bank Dabamon Indonesia

807

RHB Bank Berhad

1,179

Panin Bank

363

Hong Leong Bank

1,128

VIỆTNAM

THAILAND

Agribank

1062

Bangkok Bank

3,178

BIDV

724

Siam Commercial Bank

2,189

Vietcombank

621

Kasikorn Bank

1,996

Vietin Bank

577

Krung Thai Bank

1,837

ACB

401

Siam City Bank

853

Techcombank

355

Thai Military Bank

802

Sacombank

344

Bank of Ayudhya

771

PHILIPPINES

SINGAPORE

Bank of Philippines

975

DBS Bank

9,623

6,297

Metropolitan Bank Et Trst

704

United overseas Bank

Company

Equitable PCI Bank

464

Oversea- Chinese Banking

5,589

Corporation

Nguồn:www.thebanker.com/top 1000[74]

Bên cạnh đó đối với hoạt động tài trợ ngoại thương, thanh toán quốc tế,

ngân hàng ngoại có ưu thế hơn hẳn các ngân hàng Việt Nam về trình độ nghiệp

vụ và kinh nghiệm, họ còn được sự hổ trợ của ngân hàng mẹ ở nước ngoài về các

khâu thẩm định đánh giá khách hàng và các ngân hàng khác, họ mạnh dạn tài trợ

với những điều kiện hấp dẫn cho khách hàng, vì thế đây là thế mạnh của các

64

ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong nước thì được đánh giá là có thế

mạnh hơn về mảng dịch vụ bán lẻ.Tuy nhiên, để chuẩn bị cho quá trình mở cửa

hoàn toàn trong ngành ngân hàng vào năm 2011, các ngân hàng nước ngoài đã

nhanh chóng mở rộng hoạt động tại Việt Nam, đặc biệt là mảng dịch vụ bán lẻ.

Với năng lực tài chính lớn mạnh và uy tín toàn cầu, chất lượng dịch vụ cao từ

những ngân hàng ngoại sẽ là thách thức lớn đối với các NHTM Việt Nam.

Trước mắt, các NHTM Việt Nam có lợi thế hơn do có mạng lưới chi nhánh

rộng khắp có quan hệ truyền thống với khách hàng, am hiểu rõ những tập quán

văn hóa hiểu biết thấu đáo về thị trường cũng như hành vi, nếp suy nghĩ của

khách hàng Việt Nam mà các ngân hàng nước ngoài không thể có được.Tuy

nhiên, ưu thế này đang mất dần khi các ngân hàng nước ngoài đang tuyển dụng

hàng loạt nhân sự là người Việt. Các NHTM Việt Nam đã thực hiện nhiều biện

pháp như hợp tác chiến lược nhưng vẫn chưa thể cạnh tranh được về công nghệ

tiên tiến, sản phẩm toàn cầu của NH nước ngoài và với trình độ quản trị và cơ sở

hạ tầng của các NHTM Việt Nam hiện nay việc tiếp cận các công nghệ ngân

hàng hiện đại là không đơn giản. Nếu các NHTM trong nước không cải tiến dịch

vụ, hoạt động hiệu quả, thì trong tương lai không xa họ phải chia sẻ thị phần với

các doanh nghiệp khổng lồ như HSBC, ANZ, Standard Charter Bank...

Như vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện để TTNH Việt

Nam phát triển đồng thời cũng sẽ đối mặt với nhiều bất ổn, vấn đề hiện nay cần

đánh giá đúng thực trạng của TTNH Việt Nam để có sự chuẩn bị đón nhận những

cơ hội và đối phó với những thách thức nhằm tận dụng cơ hội để phát triển

TTNH nói riêng và thị trường tài chính nói chung một cách an toàn và hiệu quả.

2.3. Thực trạng hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam

2.3.1. Những văn bản pháp lý qui định hoạt động kinh doanh ngoại hối

Hiện nay, văn bản có vị trí pháp lý cao nhất về quản lý hoạt động ngoại hối

là Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 được ban hành ngày 13 tháng

65

12 năm 2005 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Pháp lệnh ngoại hối ra đời đã

thống nhất những nguyên tắc quản lý ngoại hối vào một đầu mối văn bản pháp lý

chuyên ngành, là cơ sở chi phối toàn bộ các vấn đề liên quan đến ngoại hối và

hoạt động kinh doanh ngoại hối, pháp lệnh khẳng định chính sách quản lý ngoại

hối của Việt Nam là nhằm tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm lợi ích hợp pháp cho

các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển

kinh tế; thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển

đổi của đồng Việt Nam; thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng

đồng Việt Nam; thực hiện các cam kết của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về

ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam.

Để hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh ngoại hối Chính phủ ban hành Nghị định

số 160/2006/NĐ-CP vào ngày 28 tháng 12 năm 2006.

Riêng đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối, ngày 11/04/2008, NHNN

Việt Nam đã ban hành Thông tư số 03/2008/TT-NHNN (TT 03) hướng dẫn chi

tiết về hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của Ngân hàng và Tổ chức tín dụng

phi Ngân hàng đã được quy định trong Nghị định 160/2006/NĐ-CP của Chính

phủ ban hành ngày 28/12/2006. Đề cập đến các điều kiện cũng như thủ tục xin

cấp phép hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của các Ngân hàng.

Theo quy định tại Thông tư 03, các Ngân hàng có thể được cung ứng các

dịch vụ ngoại hối trên thị trường trong nước nếu đáp ứng đủ các điều kiện về:

phương án hoạt động cung ứng dịch vụ đã được Hội đồng Quản trị thông qua; có

đầy đủ trang thiết bị, cơ sở vật chất đáp ứng được yêu cầu thực hiện dịch vụ; có

nhân sự am hiểu về hoạt động ngoại hối, được đào tạo về nghiệp vụ ngoại hối và

quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối.

Ngoài ra, để được cung ứng hoạt động dịch vụ ngoại hối trên thị trường

quốc tế thì Ngân hàng cần phải đáp ứng được các yêu cầu bổ sung, như: có hệ

thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ; tuân thủ các quy định của NHNN về

tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động và trong việc phân loại nợ, trích lập và sử

66

dụng dự phòng rủi ro tín dụng, không vi phạm các quy định hiện hành về quản lý

ngoại hối trong thời gian một năm và phải kinh doanh có lãi trong năm liền kề

năm đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế.

Việc đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường quốc tế

không được thực hiện trước việc đăng ký hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối

trên thị trường trong nước. Đối với các tổ chức tín dụng là ngân hàng liên doanh,

ngân hàng 100% vốn nước ngoài được hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối

theo quy định tại giấy phép thành lập và hoạt động. Chi nhánh ngân hàng nước

ngoài được hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối theo quy định tại giấy phép mở

chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Các tổ chức tín dụng sau khi được cấp giấy phép hoạt động phải duy trì các

điều kiện để cung ứng dịch vụ ngoại hối. Trong trường hợp, sau khi đã được cấp

giấy phép hoạt động mà không tiếp tục duy trì được các điều kiện đã quy định thì

tổ chức tín dụng phải tạm ngừng nghiệp vụ cung ứng dịch vụ ngoại hối được

phép và báo cáo cho NHNN trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày không còn

đủ điều kiện. Cụ thể, NHNN sẽ đình chỉ, thu hồi hoặc hủy bỏ một số nội dung

trong giấy phép hoạt động trong các trường hợp: bị NHNN đặt vào tình trạng

kiểm soát đặc biệt; có chứng cứ hồ sơ xin cấp giấy phép hoạt động có những

thông tin sai lệch; giấy phép thành lập và hoạt động bị thu hồi hoặc hết hiệu lực;

chia, sáp nhập, hợp nhất, phá sản; tự động chấm dứt hoạt động cung ứng dịch vụ

ngoại hối...

Như vậy theo pháp lệnh để được phép hoạt động kinh doanh ngoại hối các

NHTM phải đáp ứng những yêu cầu về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, về trình độ

quản lý và kinh doanh phải có lãi, nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính.

Đồng thời để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Tổ chức

tín dụng. NHNN qui định hạn mức trạng thái ngoại hối, hạn mức này được thực

hiện dựa vào quyết định đã ban hành từ năm 2002, đó là QĐ số 1082/2002/QĐ-

NHNN ngày 07/10/2002 quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng

được phép hoạt động ngoại hối tại Việt Nam, trừ các ngân hàng liên doanh và

67

Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, theo đó các NHTM được phép duy trì trạng

thái ngoại tệ dư thừa hay dư thiếu là 30% so với vốn tự có.

Để thống nhất cách tính trạng thái ngoại tệ, quyết định 1082 qui định tỷ giá

quy đổi trạng thái của một ngoại tệ là tỷ giá bán giao ngay chuyển khoản giữa

ngoại tệ đó với đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng vào cuối ngày làm việc và

nguyên tắc tính trạng thái của một ngoại tệ như sau:

- Trạng thái ngoại tệ cuối ngày được tính trên cơ sở trạng thái ngoại tệ ngày

hôm trước và chênh lệch giữa doanh số mua, doanh số bán phát sinh trong ngày

của ngoại tệ đó, bao gồm cả giao dịch giao ngay và kỳ hạn.

- Trạng thái ngoại tệ cuối tháng được tính trên cơ sở số dư tại thời điểm

cuối ngày làm việc cuối cùng của tháng của tài khoản mua bán ngoại tệ kinh

doanh, tài khoản ngoại tệ bán ra từ các nguồn khác, tài khoản cam kết mua ngoại

tệ giao ngay, tài khoản cam kết bán ngoại tệ giao ngay, tài khoản cam kết mua

ngoại tệ có kỳ hạn và tài khoản cam kết bán ngoại tệ có kỳ hạn.

Trạng thái ngoại tệ cuối tháng là cơ sở để đối chiếu bảo đảm tính chính xác

của trạng thái ngoại tệ cuối ngày.

Nguyên tắc tính tổng trạng thái ngoại tệ

- Quy đổi trạng thái nguyên tệ của từng ngoại tệ sang đồng Việt Nam theo

tỷ giá quy đổi trạng thái.

- Cộng các trạng thái ngoại tệ dương với nhau để tính tổng trạng thái ngoại

tệ dư thừa. Cộng các trạng thái ngoại tệ âm với nhau để tính tổng trạng thái ngoại

tệ dư thiếu.

Để hướng dẫn thực hiện các giao dịch phái sinh, NHNN cũng đã ban hành

quyết định và văn bản hướng dẫn, hiện tại, đối với giao dịch ngoại hối kỳ hạn,

thực hiện theo quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN ngày 28 tháng 05 năm 2004

[30]. Theo quyết định này, cách tính tỷ giá kỳ hạn đã có sự thay đổi căn bản,

không còn theo điểm kỳ hạn cố định như biên độ được công bố cho từng kỳ hạn

qui định mà dựa theo lãi suất cơ bản VND và lãi suất do FED công bố, cụ thể tỷ

giá kỳ hạn được xác định theo nguyên tắc sau:

68

Các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ và khách hàng thoả thuận mức

tỷ giá kỳ hạn giữa đồng Việt Nam và Đôla Mỹ nhưng tỷ giá kỳ hạn này không

được vượt quá mức tỷ giá được xác định trên cơ sở: Tỷ giá giao ngay của ngày

ký hợp đồng kỳ hạn.Chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành là lãi suất cơ

bản của đồng Việt Nam (tính theo năm) do NHNN Việt Nam công bố và lãi suất

mục tiêu của Đôla Mỹ do Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ công bố (Fed Funds Target

rate). Kỳ hạn của hợp đồng. Kỳ hạn của hợp đồng cũng được mở rộng từ 3 ngày

đến 365 ngày. Đồng thời qui định các TCTD không được thu phí giao dịch đối

với các giao dịch hối đoái kỳ hạn.

Sau đó ngày 10/11/2004 NHNN ra quyết định số 1452/2004QĐ-NHNN đã

mở rộng phạm vi đối tượng được phép tham gia giao dịch kỳ hạn ngoài các tổ

chức kinh tế, có các tổ chức khác và cá nhân có nhu cầu ngoại tệ hợp pháp cũng

được quyền tham gia mua bán ngoại tệ kỳ hạn, đây là quyết định tạo điều kiện

cho giao dịch kỳ hạn được sử dụng rộng rãi, phù hợp với những biến động ngày

càng tăng của tỷ giá trong giai đoạn hội nhập.

Trên cơ sở sau khi cho phép thực hiện thí điểm, NHNN đã chính thức cho

phép các NHTM được thực hiện giao dịch quyền chọn thông qua Quyết định số

1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10 tháng 11 năm 2004 về giao dịch hối đoái của các

tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối. Quyết định này đã giới thiệu

cho thị trường làm quen với giao dich quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, và là

bước đệm tiền đề giúp cho NHNN đưa ra thực hiện công cụ phòng ngừa rủi ro

khác là quyền chọn tiền đồng.

Những điểm đáng lưu ý của quyết định 1452/2004 là:

Thứ nhất, đồng tiền giao dịch: giao dịch quyền chọn chỉ thực hiện ngoại tệ

với ngoại tệ.

Thứ hai, đối tượng tham gia giao dịch: bao gồm các TCDT được phép, các

tổ chức kinh tế, tổ chức khác, cá nhân và NHNN. Trong đó, các TCTD được

phép không được mua quyền chọn của các tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá

69

nhân. Có nghĩa là các tổ chức tín dụng được phép là người luôn đứng ở vị thế

người bán quyền chọn với các tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân.

Thứ ba, giới hạn cung ứng hợp đồng quyền chọn của các tổ chức tín dụng

được phép: TCTD được phép được duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền lựa chọn

không có giao dịch đối ứng tối đa là 10% vốn tự có.

Thứ tư, kỳ hạn của các hợp đồng quyền chọn: do các TCTD được phép và

khách hàng tự thỏa thuận.

Kế tiếp, trước nhu cầu về bảo hiểm rủi ro tỷ giá của các doanh nghiệp xuất

nhập khẩu, ngày 18/4/2005, NHNN đã có công văn số 326/NHNN-QLNH cho

phép ACB triển khai thí điểm giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VND. Theo

công văn này, NHNN đã đưa ra những quy định cụ thể về các loại ngoại tệ được

giao dịch, cơ sở tính phí quyền chọn, thời hạn giao dịch, đối tượng giao dịch…

Ngày 29/8/2006, NHNN cũng đã ban hành công văn số 7404/NHNN-KTTC. Nội

dung chính của công văn này gồm có các hướng dẫn cụ thể, chi tiết về nguyên

tắc và nội dung kế toán đối với các nghiệp vụ hối đoái kỳ hạn, nghiệp vụ hoán

đổi tiền tệ, nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, để giải quyết vấn đề hạch toán kế toán

nghiệp vụ phái sinh tiền tệ tại các NHTM.

Tuy nhiên, qua 3 năm thực hiện quyền chọn ngoại tệ –VND, NHNN đánh

giá việc sử dụng giao dịch này của các TCTD và doanh nghiệp chỉ nhằm mục

đích lách trần tỷ giá nhiều hơn là bảo hiểm rủi ro tỷ giá và gặp khó khăn trong

việc kiểm tra thực hiện giao dịch này, vì thế vào ngày 18/3/2009 NHNN ban

hành văn bản số 1820/NHNN-QLNH chấm dứt thực hiện quyền lựa chọn tiền tệ

ngoại tệ và VND, các TCTD chỉ được cung cấp quyền lựa chọn giữa hai ngoại tệ

với nhau.

Như vậy, những văn bản pháp lý về giao dịch phái sinh đã được ban hành

nhưng còn giới hạn cách sử dụng và chưa cho phép thực hiện giao dịch tiền tệ

tương lai.

70

2.3.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng trên

TTNH Việt Nam

Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối các ngân hàng vừa là nhà tạo thị

trường, nhà môi giới, nhà chấp nhận giá, nhà đầu cơ, có nghĩa là ngân hàng có

thể tham gia kinh doanh trên TTNH với đầy đủ mục đích hay đầy đủ chức năng

của các thành viên tham gia. Nhưng kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng Việt

Nam hiện nay đa số chỉ đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ cho khách hàng nghĩa

là chỉ có chức năng là nhà tạo giá thứ cấp, nhà chấp nhận giá, chứ ít có ngân hàng

tham gia thực sự trên TTNH với vai trò nhà tạo gíá sơ cấp.

Các NHTM lớn ở Việt Nam có hoạt động kinh doanh ngoại hối đã phát

triển nghiệp vụ này qua các năm, xem đây là lĩnh vực mở rộng hoạt động kinh

doanh và tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi vì, thông qua các giao dịch ngoại

hối với khách hàng, ngân hàng đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ cho các nhà xuất

nhập khẩu góp phần phát triển giao dịch thanh tóan và tài trợ ngoại thương.

Điểm qua về tỷ lệ lợi nhuận kinh doanh ngoại hối của một số NHTM lớn

điển hình có thể thấy rõ điều này

Bảng 2.7: Tỷ lệ Lợi nhuận họat động kinh doanh

ngoại hối so với tổng lợi nhuận trước thuế

Đơn vị tính:%

2007 2008 2009 2010 Năm

11.11 31.61 18.35 Ngân hàng VCB 10.25

7.29 26.51 14.88 ACB 6.16

6.37 45.95 14.44 Sacombank -7.00

22.14 65.42 8.83 EIB 0.66

6.89 33.64 5.79 3.2 BIDV

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng[38]

Qua số liệu trên có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh ngoại hối đã mang

đến cho các ngân hàng một khoản lợi nhuận không nhỏ như EIB có lợi nhuận từ

họat động kinh doanh ngoại hối chiếm tỷ lệ đến 65.42% năm 2008 so với tổng lợi

71

nhuận trước thuế, hay Sacombank có tỷ lệ gần 50% năm 2008 so với lợi nhuận

trước thuế. Tại những ngân hàng này cho ta thấy hoạt động kinh doanh ngoại hối

không phải là một mảng kinh doanh hổ trợ cho các hoạt động khác mà còn đóng

vai trò quan trọng trong nguồn thu lợi nhuận của ngân hàng.

Tuy nhiên qua những số liệu trên có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh

ngoại hối của các ngân hàng trong 2 năm 2009, 2010 đã sụt giảm nhiều, do bị

ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2009 và biến động của thị

trường tài chính trong nước và trên thế giới. Điều này cho chúng ta thấy rõ sự tác

động mạnh mẽ những yếu tố ngoại sinh đến hoạt động kinh doanh ngoại hối nhất

là trong một nền kinh tế mở, đồng thời sự biến động của thị trường tiền tệ, tài

chính sẽ tác động đến TTNH.

Để phát triển hoạt động kinh doanh các ngân hàng như ACB,

Sacombank,VCB, Eximbank, Việt Á Bank đã đầu tư hệ thống Reuters 3000 và

cập nhật hệ thống thanh toán Corebanking với phiên bản T24, là phiên bản mới

nhất hiện nay. Những ngân hàng lớn đều quan tâm đến tổ chức bộ phận kinh

doanh ngoại hối và tìm kiếm các chuyên viên có nhiều kinh nghiệm về hoạt động

này, nhằm mục đích thành lập đội ngũ nhân viên kinh doanh ngoại hối chuyên

nghiệp có trình độ cao.

Các ngân hàng quan tâm đến việc triển khai các nghiệp vụ phái sinh theo

chuẩn mực quốc tế như BIDV bằng việc ký kết hợp đồng khung hoán đổi và phái

sinh quốc tế (ISDA) với một số định chế tài chính nước ngoài trên thế giới.

ISDA- International Swap and Derivaties Association tên viết tắt của Hiệp hội

quốc tế về hoán đổi và phái sinh, là tổ chức thương mại quốc tế lớn nhất xét về số

lượng công ty thành viên. Hợp đồng khung ISDA là một tiêu chí bắt buộc mà tất

cả các bên phải ký trước khi họ tiến hành các giao dịch phái sinh, chuẩn hóa giấy

tờ pháp lý cho các giao dịch này. Điều này giúp cho các bên trong một hợp đồng

IDSA không cần phải nghiên cứu qua nhiều văn bản giấy tờ mỗi khi có một giao

dịch phái sinh, từ đó tiết kiệm nhiều thời gian và công sức[9].

72

2.3.2.1.Quá trình hình thành và hoạt động TTNT liên ngân hàng

Có thể nói TTNH của Việt Nam gồm 3 thị trường cùng tồn tại:

Thị trường chính thức gồm: Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường

bán lẻ và thị trường không chính thức hay còn gọi là thị trường tự do, thị trường

chợ đen.

Thời kỳ trước năm 1991 nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại

hối, áp dụng chế độ tỷ giá cố định do nhà nước áp đặt, không dựa vào yếu tố thị

trường và những yếu tố cho sự hình thành TTNH là không có. Nghị định

53/HĐBT ngày 26/3/1988 ra đời tách hệ thống ngân hàng thành hai cấp: NHNN

và ngân hàng chuyên doanh, trong đó chỉ có ngân hàng Ngoại thương được phép

hoạt động kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế và mở tài khoản ở nước

ngoài.

Sau đó Nghị định 161/HĐBT ngày 18/10/1988 được ban hành thay thế

Nghị định 102(ngày 6/7/1963) của Hội đồng Chính phủ. Theo nghị định

161/HĐBT và Thông tư hướng dẫn số 33-NH-TT đã chính thức xóa bỏ thế độc

quyền trong kinh doanh ngoại hối của Nhà nước được thể hiện qua nội dung qui

định:”Nhà nước XHCN Việt Nam thông qua NHNN Việt Nam thực hiện thống

nhất quản lý nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh

doanh ngoại hối đều được thực hiện theo qui định của NHNN Việt Nam. Ngân

hàng Ngoại Thương Việt Nam được phép kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra, các

ngân hàng chuyên doanh khác, các ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi

nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn

kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN TW Việt

nam cho phép.” Như vậy các ngân hàng thương mại muốn kinh doanh ngoại hối

có thể làm thủ tục để NHNN cấp giấy phép.

Trong thực tế lúc bấy giờ trước sự phát triển cuả hoạt động thanh toán quốc

tế và kiều hối, nhiêù NHTM đã làm đơn xin phép hoạt động kinh doanh ngoại

hối, và NHNN đã cấp phép cho một loạt các NHTM có đủ điều kiện. Thời gian

73

này với chủ trương thu hút vốn nước ngoài, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

được ban hành năm 1987, luồng vốn ngoại tệ đổ vào Việt Nam càng tăng nhưng

do chúng ta vẫn duy trì tỷ giá chính thức do NHNN công bố và cách xa tỷ giá

thực, vì thế các NHTM gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh mua ngoại tệ

với TTKCT.

Những năm đầu thập niên 90 với những biến động lớn về chính trị sự tan rã

của Liên xô và hàng loạt các nước Đông Âu trong phe XHCN dẫn tới thị trường

thanh toán đa biên giữa Việt Nam và các nước XHCN bị tan rã, tất cả các nước

XHCN đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt Nam sang USD,

việc chuyển đổi này ảnh hưởng khá lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam

bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi [5].

Trong thời gian đó, NHNN đã đề xuất ý kiến thành lập Quỹ điều hòa ngoại

tệ tại NHNN để tập trung nguồn ngoại tệ hiếm hoi từ xuất khẩu nhằm đáp ứng

nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn và can thiệp TTNH

nhằm ổn định tỷ giá.

Năm 1991 là năm đánh dấu sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang

nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong hoạt động quản lý ngoại

hối được thể hiện bằng việc thành lập 2 Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà nội

và T/PHCM thông qua quyết định số 107/QĐ-NH ngày 16/8/1991 của NHNN về

việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại

tệ[17].Nhằm mục đích thông qua hoạt động của Trung tâm sẽ nắm bắt được thực

tế về cung cầu ngoại tệ và xác định tỷ giá hợp lý phù hợp với sức mua của VND

đồng thời tăng cường công tác quản lý vĩ mô của nhà nước về quản lý tiền tệ.

Họat động của Trung tâm do Ban điều hành lãnh đạo gồm ba đại diện của

NHNN và bốn đại diện của các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đối

tượng tham gia gồm: NHNN với mục đích mua, bán ngoại tệ theo yêu cầu của

nhà nước, tăng quỹ dự trữ ngoại tệ và can thiệp thị trường; Các ngân hàng được

74

phép kinh doanh ngoại tệ; Các đơn vị tổ chức kinh tế. Chỉ thực hiện giao dịch

một ngoại tệ là USD, giao dịch được tổ chức theo hình thức đấu giá tỷ giá sẽ

được ấn định khi đạt được cung và cầu về ngoại tệ; Số lượng ngoại tệ cho mỗi

lần giao dịch: tối thiểu là 10000USD.

NHNN giao cho các ngân hàng được phép, tập hợp các yêu cầu mua bán

ngoại tệ của những khách hàng không được phép mua bán tại Trung tâm, những

nhu cầu mua ngoại tệ là để thanh toán trong vòng 7 ngày kể từ khi mua và việc

sử dụng ngoại tệ phải phù hợp với các qui định về quản lý ngoại hối. Như vậy là

không cho phép mua bán kỳ hạn, trong khi đó ngày giao dịch chỉ có 2 ngày trong

tuần thứ 3 và thứ 6[14].

Các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá không vượt

quá 0,5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước. Việc công bố tỷ giá

chính thức dựa trên tỷ giá hình thành trên hai trung tâm giao dịch ngoại tệ Hà nội

và T/P Hồ chí Minh đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình điều hành

chính sách tỷ giá, đó là tỷ giá được hình thành có căn cứ chính thức vào các yếu

tố thị trường.

Thông qua hoạt động của hai Trung Tâm đã tạo ra tập quán, kiến thức kinh

doanh ngoại hối cho NHNN và các NHTM và các tổ chức kinh tế, tạo nền móng

cho việc hình thành TTNH.

Kể từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động vào ngày 1/12/1994, tổng

số phiên giao dịch qua hai trung tâm là 692 phiên với tổng doanh số là 660,5

triệu USD[14].

Tuy nhiên, qua một thời gian hoạt động, Trung tâm giao dịch ngoại hối đã

thể hiện một số vấn đề tồn tại như sau:

Cung cầu ngoại tệ tại hai trung tâm không phản ánh chính xác cung cầu

ngoaị tệ của toàn bộ nền kinh tế bởi vì giao dịch bị giới hạn bởi khu vực địa lý,

không thể nào đại diện cho toàn bộ nhu cầu của cả nước được. Tỷ giá được hình

75

thành tại hai trung tâm chưa phản ánh được cung cầu ngoại tệ, tỷ giá chính thức

do NHNN công bố vẫn còn mang tính áp đặt, vì thế chênh lệch giữa hai thị

trường rất cao. Nguyên nhân của tình trạng này là do trong giai đoạn trước đó,

chính phủ áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ và tỷ giá này chênh lệch rất lớn so với tỷ

giá thanh toán, phần chênh lệch nhà nước phải bù lỗ. Bên cạnh đó tỷ giá chính

thức qui định thấp, các tổ chức kinh tế, cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không

bán ngoại tệ cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc người nước

ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản mà thường đưa hàng vào sử

dụng hay sử dụng ngoại tệ mặt trực tiếp trên thị trường[14].

Thực tế này đã gây ảnh hưởng lớn trên thị trường, làm cho tỷ giá trên thị

trường diễn biến phức tạp, chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị

trường lên đến hàng trăm điểm.

Bảng2.8 : Tỷ giá (VND/USD) từ 1990 đến 1992

Đơn vị tính: đồng

Năm

1990

1991

1992

5133

9274

11179

Tỷ giá chính thức (TGCT)

5610

9546

11334

Tỷ giá trên thị trường tự do(TGTTTD)

+477

+272

+155

Chênh lệch (TGTTTD và TGCT)

Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN[21]

Thêm vào đó, cách thức giao dịch yêu cầu phải có mặt tại Trung tâm khác

xa so với đặc điểm của TTNH thế giới chủ yếu là thị trường không tập trung,

phương thức mua bán không đáp ứng được sự biến động của tỷ giá, số lượng

người tham gia ngày càng giảm đi, nhiều phiên được tổ chức mang tính hình

thức.

Cơ chế thanh toán không khuyến khích các NHTM bán ngoại tệ tại Trung

tâm, bởi vì nếu bán một khoản lớn ngoại tệ phải chia nhỏ ra từng đơn vị mua;

trong khi đó nếu các đơn vị mua lại không có tài khoản tại ngân hàng bán, thì

việc thu hồi số tiền VND rất phức tạp và thường không đáp ứng nhu cầu cuả các

76

ngân hàng thương mại. Vì vậy, các NHTM thường bán ngoại tệ cho NHNN bên

ngoài phiên giao dịch, sau đó tại các phiên giao dịch NHNN bán lại cho các tổ

chức kinh tế. Điều này đã biến NHNN thành trung gian mua bán giữa các NHTM

và tổ chức kinh tế, làm cho vai trò điều tiết của NHNN bị mờ nhạt.[14]

Với phương thức giao dịch trực tiếp như vậy, thanh toán sẽ phức tạp và tốn

phí, nên thực sự hai trung tâm chỉ có ý nghĩa tại hai thành phố Hồ Chí Minh và

Hà Nội với vai trò cung cấp ngoại tệ để thanh toán chứ chưa phản ánh tất cả

những giao dịch của hoạt động kinh doanh ngoại hối.

Bên cạnh đó, hoạt động mua bán ngoại tệ ra thị trường của NHNN không

thể giữ bí mật về số lượng, tại Trung tâm trong các phiên giao dịch các NHTM

thường nhìn vào động thái mua bán của NHNN để thực hiện, nếu NHNN bán ra

nhiều thì NHTM mua vào nhiều,và ngược lại nếu NHNN mua vào nhiều thì các

NHTM sẽ bán ra, điều này gây rối loạn thị trường và gây khó khăn cho NHNN

trong việc điều hành lượng tiền cung ứng [14].

Trước thực trạng đó và cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng

nhu cầu giao dịch ngoại tệ của cả nước, mô hình tổ chức trung tâm không còn

phù hợp đòi hỏi phải có tầm vóc mới với qui mô quốc gia[16], NHNN đã ra QĐ

số 203/QĐ-NH vào ngày 20/9/1994 thành lập Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng

và ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH, đánh dấu bước ngoặc

quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển TTNH Việt Nam theo các

chuẩn mực quốc tế. Quyết định gồm những nội dung sau:

Thành viên tham gia trên TTNTLNH: gồm NHNN vừa là thành viên vừa

người tổ chức giám sát và điều hành và các NHTM được phép kinh doanh ngoại

hối và NHNN. Để được cấp phép các NHTM phải có hệ thống nối mạng tốt với

NHNN làm đơn xin gia nhập gửi NHNN. Nếu được chấp nhận, NHTM sẽ được

cấp Giấy chứng nhận thành viên, CODE giao dịch cho từng thành viên. Như vậy,

khác với Trung tâm giao dịch ngoại tệ, TTNTLNH không có sự tham gia của tổ

chức kinh tế. NHNN không trực tiếp mua bán ngoại tệ với các tổ chức kinh tế,

các tổ chức kinh tế và cá nhân sẽ mua ngoại tệ tại các NHTM

77

Các đồng tiền giao dịch: Hướng chủ đạo gồm 6 ngoại tệ: USD, DEM, GBP,

FRF, JPY, HKD với VND.Trong thời gian đầu trên TTNTLNH chỉ giao dịch

giữa USD và VND.

Số lượng giao dịch: tối thiểu là 50000USD cho mỗi lần giao dịch và phải

chẳn đến hàng chục nghìn.

Các loại nghiệp vụ: Ban đầu chỉ thực hiện nghiệp vụ giao ngay (Spot) và kỳ

hạn (Forward)

Về tỷ giá giao dịch: Tỷ giá giao dịch giữa các thành viên được xác định trên

cơ sở tỷ giá chính thức của NHNN và biên độ dao động do Thống đốc qui định,

sau đó giám đốc Sở giao dịch NHNN sẽ qui định tỷ giá giao dich giữa NHNN

với các thành viên.

Phương thức giao dịch: Bằng các phương tiện truyền thông: điện thoại,

telex, Fax, hay qua mạng vi tính.

Chỉ những người đã đăng ký trong đơn gia nhập TTNTLNH mới được phép

giao dịch trên điện thoại. Việc cam kết trên điện thoại được coi như không đổi,

sau khi đã cam kết trên điện thoại, trước 3g chiều cùng ngày, các bên mua bán

phải xác nhận bằng một trong các cách sau: telex, Fax, hoặc qua mạng vi tính.

Trình tự chào giá: Đầu tiên là chào giá mua vào và bán ra. Tiếp theo là

chào số lượng ngoại tệ mua bán. Sau khi thương lượng hai bên làm thủ tục thanh

toán bằng chuyển khoản thông qua các tài khoản mở tại NHNN hoặc tại NH

nước ngoài.

Thời hạn thanh toán: Thanh toán theo thông lệ quốc tế, đối với giao dịch

giao ngay thực hiện trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo; Đối với giao dịch kỳ

hạn, ngày giá trị được xác định kể từ ngày ký hợp đồng cộng với thời hạn của

hợp đồng và cộng thêm hai ngày làm việc tiếp theo. Nếu thanh toán chậm sẽ bị

phạt: mức phạt bằng 150% lãi suất LIBOR của ngoại tệ thanh toán và 150% lãi

suất tiền vay của NHNN nếu là VND tính trên số ngày chậm trả.

Về tổ chức và điều hành: NHNN vừa là thành viên vừa là người tổ chức,

giám sát và điều hành TTNTLNH. Chủ tịch TTNTLNH là một lãnh đạo của

NHNN(Phó thống đốc). Giám đốc Sở giao dịch NHNN là người điều hành trực

tiếp và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch về:

78

- Tổ chức thực hiện qui chế và nội quy giao dịch trên TTNTLNH.

- Trên cơ sở tỷ giá do NHNN công bố sẽ qui định tỷ giá mua bán của NHNN

và các thành viên.

- Tổng hợp và báo cáo với Thống đốc về tình hình hoạt động của TTNTLNH.

- Tập hợp ý kiến của các thành viên, dự thảo trình Thống đốc những nội dung

cần sửa đổi bổ sung về Qui chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH

Với mục đích là nhằm hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức,

thông qua những giao dịch trên TTNTLNH, NHNN sẽ tham gia với tư cách là

người mua bán cuối cùng để can thiệp thị trường, nhằm thực hiện chính sách

tỷ giá, chính sách tiền tệ theo đúng mục tiêu đề ra.

Sau khi quyết định QĐ số 203/QĐ-NH đi vào thực tiển từ tháng 10 năm

1994, hoạt động của thị trường ngoại hối có khởi sắc hơn.

Trong giai đoạn từ năm 1994 -1998, tỷ giá tương đối ổn định, chênh lệch

giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do được thu hẹp.

Bảng 2.9: Tỷ giá VND/USD từ 1994-1998

Đơn vị tính: đồng

1994

1995

1996

1997

1998

10978 11037 11040 11175 12998

Năm Ngân hàng Tỷ giá chính thức (TGCT)

Tỷ giá trên thị trường tự do(TGTTTD) 10984 11050 11052 11180 13020

+6

+13

+12

+5

+10

Chênh lệch (TGTTTD và TGCT)

Nguồn: BCTN NHNN [21]

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động phát sinh những bất cập đồng thời với

những thay đổi về tổ chức và hoạt động của ngân hàng nói chung và sự ra đời của

các văn bản luật như Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín dụng được ban hành

vào tháng 12/1997 nói riêng, Thống đốc NHNN đã ra quyết định số

101/1999/QĐ-NHNN13, ngày 26/3/1999 về Qui chế tổ chức và hoạt động của

TTNTLNH thay thế cho quyết định số 203/QĐ-NHNN13, ngày 20/9/1994.

QĐ 101/1999/QĐ có những nội dung thay đổi so với QĐ 203 như sau:

Qui định điều kiện và trách nhiệm của thành viên trên TTNTLNH chặc chẽ

hơn, để là thành viên của TTNTLNH thì các tổ chức kinh tế phải có giấy phép

hoạt động ngoại hối. Có quá trình kinh doanh ngoại tệ tốt, không có vi phạm về

79

các qui định quản lý ngoại hối. Có hệ thống máy móc thiết bị đảm bảo nối mạng

thông suốt, an toàn trong giao dịch giữa các thành viên khác và với NHNN. Có

đội ngũ cán bộ được đào tạo và thông thạo nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Ngoài

ra các thành viên phải có nghĩa vụ cung cấp cho NHNN văn bản chính thức phân

công người có trách nhiệm điều hành hoạt động của phòng giao dịch thị trường

của TCTD, qui chế giao dịch hối đoái của TCTD, danh sách các giao dịch viên

và hạn mức giao dịch của mỗi giao dịch viên và mã CODE của phương tiện sẽ

dùng trong giao dịch. Chịu trách nhiệm về khả năng chuyên môn của các giao

dịch viên và chấp hành chế độ báo cáo tình hình giao dịch theo qui định của

NHNN.

Mở rộng loại ngoại tệ giao dịch với qui định tự do giao dịch giữa VND và

các ngoại tệ. Giao dịch giữa ngoại tệ và ngoại tệ phải theo qui định của NHNN

trong từng thời kỳ.

Thời gian giao dịch: tất cả các ngày làm việc trong tuần, như vậy là nhiều

hơn so với giao dịch trên Trung tâm giao dịch ngoại tệ.

Ngoài giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi thêm nghiệp vụ quyền chọn.

Phương thức giao dịch: Hệ thống giao dịch tiền đồng của Telerate, Dealing

2000 của Reuters, Telex, Swift. Sau một thời gian đưa vào hoạt động hệ thống

giao dich tiền đồng của Telexrate đã bị bỏ vì không hiệu quả.

Từ sau quyết định 101/1999, NHNN đã ban hành những văn bản qui định,

và thông tư hướng dẫn thi hành, nhằm quản lý hoạt động ngoại hối và làm cơ sở

pháp lý cho hoạt động trên TTNH.

Bảng 2.10: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Năm

giao dịch giữa ngân hàng

+29

+45

+113

+58

-35.9

+4.23

và ngân hàng so với năm

liền kề

59

65

65

79

98

105

Số lượng thành viên

Chỉ tiêu Tỷ lệ tăng/giảm doanh số

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN và tính toán của tác giả [21]

80

Theo Báo cáo thường niên của NHNN, doanh số giao dịch của TTNTLNH

mỗi năm đều gia tăng như từ năm 2005 là năm bắt đầu cho thực hiện chính thức

giao dịch quyền chọn tăng 29% so với năm 2004, đặc biệt là vào năm 2007,

doanh số giao dịch giữa các ngân hàng tăng 113% so với năm 2006, do thời điểm

này nguồn cung ngoại tệ dồi dào từ luồng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào thị

trường chứng khoán rất lớn. Tuy nhiên tỷ lệ tăng của doanh số giao dịch giữa

các ngân hàng bị ảnh hưởng khá lớn của luồng ngoại tệ chảy vào, cụ thể năm

2008, trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ có nhiều diễn biến phức tạp, hoạt động

trên TTNTLNH tiếp tục tăng nhưng với tốc độ thấp hơn nhiều chỉ tăng khoảng

25% so với năm 2007, do vào năm 2008 hoạt động trên thị trường chứng khoán

có sự sụt giảm lớn so với thời kỳ phát triển mạnh mẽ của năm 2006 và 2007 đã

tác động đến doanh số hoạt động trên thị trường ngoại tệ.

Số lượng các thành viên tham gia TTNTLNH có tăng hàng năm theo sự gia

tăng về số lượng các NHTM cũng như do nhu cầu thanh toán quốc tế phát triển.

Đánh giá về hoạt động của TTNHLNH từ khi ra đời đến nay, có những

điểm đáng lưu ý sau:

- Vai trò chi phối của NHNN thể hiện qua doanh số giao dịch có liên quan

đến NHNN chiếm tỷ lệ 29%, 65%, 68%, và 60% trong 4 năm từ 1999 đến 2002

với năm 2004 là 86%, điều này cho thấy rằng các NHTM chỉ tham gia TTLNH

khi nào muốn cân bằng hoặc tái thiết lập trạng thái ngoại hối của họ [50].

- Nghiệp vụ sử dụng trên TTNTLNH phần lớn là nghiệp vụ giao ngay,

nghiệp vụ hoán đổi và kỳ hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ và thường NHTM bán kỳ

hạn cho doanh nghiệp vì vậy trạng thái ngoại tệ của NHTM luôn ở trạng thái

đoản.

- Số lượng thành viên tham gia trên thị trường còn khiêm tốn so với tổng số

lượng các tổ chức tài chính trong và ngoài nước hiện tại.

81

2.3.2.2. Thực trạng thị trường ngoại tệ khách hàng của Việt Nam

Thị trường ngoại tệ chính thức của Việt Nam chia làm hai lĩnh vực: Thị

trường ngoại tệ liên ngân hàng như được trình bày phần trên và thị trường ngoại

tệ giữa ngân hàng và khách hàng, hay còn gọi là thị trường ngoại tệ khách hàng

là thị trường bán lẻ chiếm phần lớn doanh số giao dịch trên TTNH Việt Nam.

Trên thị trường này, các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ sẽ tiến hành

mua bán ngoại tệ cho khách hàng là doanh nghiệp hay cá nhân có nhu cầu sử

dụng ngoại tệ hợp pháp. Ngân hàng được phép sẽ giao dịch trên cơ sở tỷ giá

BQLNH do NHNN công bố và với biên độ được qui định trong từng thời kỳ.

Các ngân hàng được phép sẽ có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ chứng minh

nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp và hợp lý của khách hàng theo đúng qui định về

quản lý ngoại hối do NHNN ban hành.

Bảng 2.11: Hoạt động trên thị trường ngoại tệ khách hàng

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Đơn vị tính:%

Năm Chỉ tiêu Tỷ lệ tăng/giảm doanh số

giao dịch giữa ngân hàng

+8

+26

+45

+29.41

-27.27

+5.45

và khách hàng so với năm

liền kề

Nguồn: Tổng hợp từ BCTN của NHNN và tính toán của tác giả[21]

Bên cạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng còn có hoạt động thu

mua ngoại tệ được thực hiện bởi các bàn đổi ngoại tệ do ngân hàng trực tiếp

quản lý và các đại lý đổi ngoại tệ được phép hoạt động theo quyết định số

1216/2003/QĐ-NHNN ngày 9/10/2003, kênh giao dịch này đã tạo điều kiện

thuận tiện cho những người có nhu cầu bán ngoại tệ, góp phần thu hút nguồn

ngoại tệ trên thị trường, làm gia tăng doanh số thu mua ngoại tệ của ngân hàng.

Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động nhiều quầy đại lý thu đổi đã vi phạm qui

định, thực hiện cả hoạt động mua bán ngoại tệ với tỷ giá vượt biên độ gây rối

loạn thị trường. Vì thế, ngày 11/7/2008, Thống đốc NHNN đã ký quyết định số

82

21/2008/QĐ-NHNN về việc ban hành qui chế đại lý đổi ngoại tệ thay thế cho QĐ

số 1216/2003/QĐ-NHNN, theo đó trong thời gian 3 tháng kể từ ngày quyết định

có hiệu lực, các TCTD sẽ phải ký kết lại hoặc thanh lý hợp đồng đại lý đối với

các đại lý không đáp ứng yêu cầu về điạ điểm, điều kiện làm đại lý, các điều

khoản trong hợp đồng đại lý, quyết định này được đánh giá là một bước chấn

chỉnh mạnh mẽ của NHNN đối với hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ của

NHTM với khách hàng.

TTNH Việt Nam có đặc điểm khác với TTNH thế giới, về tỷ trọng giao dịch

giữa hai thị trường TTNTLNH và thị trường ngoại tệ khách hàng thông qua bảng

số liệu dưới đây:

Bảng 2.12: Tỷ trọng doanh số giao dịch của hai thị trường ngoại tệ

Đơn vị tính:%

Thị trường ngoại tệ Năm Doanh số mua bán TTNTLNH khách hàng

100 12.7 87.3 1995

100 25.1 74.9 1996

100 36.7 63.3 1997

100 10.6 89.4 1998

100 21.1 78.9 1999

100 22.4 77.6 2000

100 19.7 80.3 2001

100 4.7 95.3 2002

100 6.0 94.0 2003

100 5.4 94.6 2004

100 5.8 94.2 2005

100 13.0 87.0 Tổng

Nguồn:Nguyễn Văn Tiến (2010) [15]

83

Qua bảng trên ta thấy tỷ trọng giao dịch trên TTNTLNH quá thấp so với thị

trường ngoại tệ khách hàng mặc dù doanh số của cả hai thị trường đều tăng

nhưng tỷ trọng của TTNTLNH chỉ đạt trung bình 13% trên tổng doanh số giao

dịch của TTNH Việt Nam. Số liệu trên thể hiện trình độ sơ khai của TTNH Việt

Nam và khi nói đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ là người ta nghĩ đến đó là thị

trường kinh doanh ngoại tệ giữa ngân hàng và khách hàng.

Sau khi gia nhập WTO, doanh số giao dịch trên TTNH có nhiều thay đổi,

do tác động trực tiếp của quá trình hội nhập đến nguồn cung cầu ngoại tệ, đồng

thời tác động của việc điều hành chính sách tỷ giá có sự linh động hơn trước,

thực thi cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa có chọn lọc tài khoản

vốn làm gia tăng luồng vốn và những giao dịch liên quan đến ngoại tệ.

Bảng 2.13: Tỷ trọng doanh số giao dịch trên

hai thị trường từ năm 2006-2010

Đơn vị tính:%

Doanh số mua bán TTNTLNH TTNT khách hàng Năm

2006 100 35.4 64.6

2007 29 71 100

2008 35.5 64.5 100

2009 48,58 51.42 100

2010 49 51 100

Nguồn: Tổng hợp các báo cáo của NHNN và tính toán của tác giả[21]

Từ năm 2006 đến nay tỷ trọng doanh số giao dịch trên TTNTLNH có gia

tăng rõ rệt chiếm trung bình khoản 40%, nhất là vào hai năm 2009 và 2010 tỷ

trọng đạt gần 50% do có sự tham gia của NHNN đã góp phần làm gia tăng tỷ

trọng này. Tuy nhiên, tỷ trọng này vẫn còn thấp so với đặc điểm của TTNH trên

thế giới là doanh số giao dịch trên TTNTLNH chiếm hơn 85% và là thị trường

đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành tỷ giá phù hợp với cung cầu ngoại tệ

trên thị trường.[47] Với một tỷ trọng thấp như vậy cho thấy giao dịch trên

84

TTLNH không phải là nơi đã thực hiện đúng sự tương tác giữa các lực lượng thị

trường để từ đó hình thành nên tỷ giá của thị trường[50]

Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ lý do lượng ngoại tệ để đáp

ứng nhu cầu giao dịch của các chủ thể còn khiêm tốn, vai trò của NHNN còn mờ

nhạt và số lượng thành viên tham gia còn hạn chế.

2.3.2.3. Thực trạng sử dụng các giao dịch ngoại hối phái sinh tại các NHTM

Việt Nam

Hoạt động kinh doanh ngoại hối tại các ngân hàng ngoài giao dịch giao

ngay còn sử dụng giao dịch ngoài hối phái sinh như kỳ hạn, hoán đổi và quyền

chọn.

Đối với giao dịch kỳ hạn: Khi khách hàng có nhu cầu mua bán kỳ hạn hoán

đổi, giao dịch viên sẽ căn cứ vào tỷ giá giao ngay, lãi suất (VND theo lãi suất cơ

bản do NHNN công bố, USD theo lãi suất FED công bố) để tính toán giá chào

mua, chào bán cho khách hàng, tỷ giá được tính không được vượt quá tỷ giá trần

qui định. Sau đó các khách hàng sẽ thực hiện ký quỹ, có thể bằng VND hay bằng

ngoại tệ, mức ký quỹ tùy theo từng thời kỳ phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh

của từng ngân hàng, phổ biến ở mức 3% đối với VND/USD và 7-10% đối với

VND và ngoại tệ khác.

Đối với giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Forex swap) chủ yếu chỉ thực hiện

giữa các ngân hàng và giữa NHTM với NHNN nhằm giải quyết vần đề về thiếu

vốn tạm thời. Tuy nhiên, việc xác định tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch kỳ hạn và

giao dịch hoán đổi là như nhau, nghĩa là không có sự phân biệt giữa một giao

dịch kỳ hạn riêng lẽ mà trong thuật ngữ kinh doanh ngoại hối gọi là Forward

Ouright với giao dịch kỳ hạn hoán đổi Forward swap. Theo lý thuyết, trong giao

dịch hoán đổi ngoại hối Forex swap là kết hợp 2 giao dịch đồng thời mua và bán

một lượng ngoại tệ, và phổ biến là loại swap kết hợp 2 giao dịch giao ngay và

giao dịch kỳ hạn. Trong vế kỳ hạn khi xác định tỷ giá kỳ hạn sẽ lấy tỷ giá giao

ngay đã thực hiện trong vế giao ngay để tính tỷ giá kỳ hạn vì thế giao dịch này

khi thực hiện sẽ có lợi hơn là thực hiện 2 giao dịch giao ngay và kỳ hạn riêng lẻ.

85

Đối với các loại giao dịch hoán đổi lãi suất(Interest rate swap/currency

swap) đa số được thực hiện bởi các ngân hàng nước ngoài, còn các ngân hàng

Việt Nam chỉ có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân

hàng Ngoại thương (VCB). Trong đó có BIDV là ngân hàng quốc doanh tiên

phong đưa ra các sản phẩm hoán đổi lãi suất, bao gồm: hoán đổi tiền tệ

chéo(cross currency swap) - phòng ngừa rủi ro tỷ giá lẫn lãi suất; Trên TTLNH,

BIDV cũng là ngân hàng Việt Nam đầu tiên thực hiện giao dịch hoán đổi tiền tệ

chéo liên ngân hàng trong giao dịch với Ngân hàng Standard Chartered Bank tại

Luân Đôn. [19]

Đối với giao dịch quyền chọn: Khi khách hàng có nhu cầu giao dịch, giao

dịch viên sẽ thu thập các dữ liệu về số lượng ngoại tệ, loại tiền, ngày ký hợp

đồng, tỷ giá thực hiện, loại quyền chọn, kiểu quyền chọn, thời hạn hiệu lực. Căn

cứ trên các yếu tố đó, giao dịch viên sẽ liên lạc với các ngân hàng nước ngoài để

tham khảo mức phí. Nếu đồng ý về mức phí này, khách hàng sẽ tiến hành ký hợp

đồng quyền chọn với ngân hàng. Trong thời gian hiệu lực, nếu khách hàng muốn

thực hiện hợp đồng thì gửi giấy đề nghị thực hiện hợp đồng cho ngân hàng,

khách hàng phải chuyển tiền cho ngân hàng hoặc cho phép ngân hàng ghi nợ vào

tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp, sau đó ngân hàng sẽ ghi có số tiền đối ứng

vào tài khoản của doanh nghiệp. Đồng thời ngân hàng sẽ gửi yêu cầu thực hiện

hợp đồng cho đối tác là ngân hàng nước ngoài. Như vậy vai trò của NHTM giống

như trung gian cho khách hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài, thực hiện

thu phí khách hàng và trả phí cho ngân hàng nước ngoài.

NHNN ngày 12/2/2003 lần đầu tiên cho phép Eximbank được thực hiện thí

điểm nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ. Tuy nhiên, sau 6 tháng thí

điểm chỉ được khoảng hơn 10 doanh nghiệp tham gia với 50 hợp đồng thực hiện

quyền chọn, tổng giá trị hơn 5 triệu USD. Sau đó, NHNN cũng lần lượt cho phép

6 ngân hàng khác là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân

hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Citibank,

Vietcombank, Ngân hàng Công thương Việt Nam (ICB) và Ngân hàng

86

Từ năm 2004 sau quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN, mặc dù không còn

giới hạn về số lượng NHTM tham gia giao dịch quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ

nhưng thực tế cho thấy các hoạt động mua bán này chưa thật sự sôi động chỉ có

chi nhánh ngân hàng nước ngoài như HSBC, Citibank và một số ít NHTM Việt

Nam như Eximbank, Techcombank, ACB… còn lại hầu như không có phát sinh

giao dịch nào.

Tháng 4/2005 NHNN đã bắt đầu cho triển khai thực hiện thí điểm giao dịch

quyền chọn giữa ngoại tệ với VND. ACB là ngân hàng đầu tiên được thí điểm

nghiệp vụ này, với mức tối đa giá trị hợp đồng là 10 triệu USD và mức tối thiểu

là 10.000 USD (quy đổi ngoại tệ khác tương đương mức này cho quyền chọn

giao dịch giữa các ngoại tệ khác và VND). ACB chia nhỏ giá trị hợp đồng nhằm

tạo điều kiện cho khách hàng dễ sử dụng. Tiếp theo ACB là ngân hàng

Techcombank, hợp đồng chỉ được thực hiện với quyền chọn Châu Âu và BIDV

được phép thí điểm từ ngày 22/8/2005 tính đến tháng 5/2008, đã có 7 ngân hàng

được phép thực hiện giao dịch quyền chọn giữa ngoại tệ và VND.

Cũng giống với giao dịch giữa quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ, quyền

chọn ngoại tệ với VND yêu cầu các NHTM muốn thực hiện nghiệp vụ này phải

có đề án chi tiết quy trình nghiệp vụ, phương án phòng ngừa rủi ro, và được

NHNN chấp nhận bằng văn bản. Quy định về tỉ giá thực hiện như sau:

- Đối với hợp đồng quyền chọn VND/USD: tỷ giá này không vượt quá tỷ giá

kỳ hạn VND/USD cùng thời hạn.

-Đối với hợp đồng quyền chọn giữa ngoại tệ khác với VND: tỷ giá do

ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận.

87

Hầu hết các giao dịch đều được tiến hành theo quyền chọn kiểu Mỹ vì điều

kiện thanh toán linh hoạt hơn. Các ngân hàng như ACB, Techcombank, BIDV,

VIB dù là những ngân hàng tham gia các nghiệp vụ này từ rất sớm nhưng họ chỉ

mới thực hiện được một số hợp đồng với doanh số không đáng kể. Từ 2007 đến

thời điểm hiện nay, số lượng giao dịch quyền chọn ngoại tệ và ngoại tệ của các

ngân hàng có tăng lên tuy nhiên tỷ trọng vẫn còn rất nhỏ.

Trên các website của các ngân hàng có hoạt động kinh doanh ngoại hối đều

quảng cáo có cung cấp tất cả giao dịch ngoại hối phái sinh được cho phép tại Việt

Nam bao gồm: Giao dịch quyền chọn ngoại tệ-ngoại tệ (Forex option), giao dịch

hoán đổi lãi suất (Interest rate swap), giao dịch hoán đổi ngoại tệ (Forex swap),

giao dịch kỳ hạn ngoại tệ (forex forward).

Tuy nhiên, giao dịch chiếm tỷ lệ cao nhất đó là giao dich giao ngay (khoảng

trên 90%) còn những giao dịch phái sinh chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn, ngoại trừ giao

dịch kỳ hạn, các giao dịch phái sinh khác thậm chí không có doanh số phát sinh.

Theo điều tra của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam(BIDV)[9],

những ngân hàng thực hiện các giao dịch phái sinh trên thị trường trong thời

gian vừa qua gồm có:

Giao dịch hoán đổi tiền tệ (Currency swap) có các ngân hàng Citibank,

Standard Chartered Bank, BIDV.

Giao dịch hoán đổi lãi suất (Interest rate swap) (kèm một số chi tiết điều

chỉnh) có các ngân hàng Vietcombank, HSBC, Calyon, Citibank, ABN AMRO.

Giao dịch Quyền chọn ngoại tệ ((Forex option) có các ngân hàng NHTMCP

Quốc tế, Vietcombank, ACB, BIDV, Techcombank, NHTMCP Quân đội,

Eximbank.

Giao dịch kỳ hạn ngoại tệ (Forex forward) hầu hết các ngân hàng có hoạt

động ngoại tệ đều thực hiện.

Thực trạng sử dụng các giao dịch phái sinh của các NHTM Việt Nam trong

thời gian qua được thể hiện qua bảng 2.14 :

88

Bảng 2.14: Tỷ lệ mua, bán giao dịch kỳ hạn và hoán đổi trong tổng giao

dịch thị trường ngoại hối Việt Nam

Đơn vị tính: %

Tỷ lệ mua bán kỳ hạn Tỷ lệ mua bán kỳ hạn, hoán đổi Năm & hoán đổi Mua Bán

2000 5.5 24 76

2001 5.6 19 81

2002 5.6 14 86

2003 4.9 17 83

2004 5.2 16 84

2005 5.5 25 75

2006 5.6 23 77

2007 7.1 26 74

2008 7.4 30 70

2009 8.2 34 66

2010 7.5 38 62

5.8 31 69 Trung bình

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của NHNN và tính toán của tác giả [21]

Qua thực trạng sử dụng giao dich ngoại hối phái sinh những năm vừa qua

có thể rút ra những nhận định sau:

Thứ nhất, doanh số giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi chỉ chiếm

khoảng gần 8% trên tổng doanh số giao dịch của các NHTM và trong doanh số

giao dịch kỳ hạn và hoán đổi có sự bất cân xứng giữa doanh số mua và bán,

doanh số bán kỳ hạn của ngân hàng chiếm tỷ lệ gần 70% so với doanh số mua

vào kỳ hạn, như vậy trong giao dịch kỳ hạn NHTM thường ở trạng thái đoản về

ngoại tệ.

Số liệu bất cân xứng về mua và bán ngoại tệ kỳ hạn cho thấy người mua

ngoại tệ nhiều hơn người bán ngoại tệ và điều này có phản ánh nhu cầu bảo hiểm

89

rủi ro ngoại tệ tăng giá hay không thì cũng chưa thể khẳng định được vì có thể

người ký hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn cần mua ngoại tệ và không thể mua

ngoại tệ dễ dàng trên thị trường giao ngay. Ít người bán ngoại tệ không hẳn là

không có ngoại tệ bán cho ngân hàng mà do họ thấy tỷ giá thường xuyên tăng

nên không cần phải bán kỳ hạn và bán cho ngân hàng khi cần sẽ khó khăn để

mua lại. Bên cạnh đó còn có nguyên nhân là do các NHTM không tích cực tạo

giá giao dịch kỳ hạn cho cả khách hàng và TTLNH, họ chỉ tạo giá khi có yêu

cầu[49].

Thứ hai là, trong giao dịch kỳ hạn yêu cầu khách hàng ký quỹ và cách tính

tỷ giá kỳ hạn như quyết định 648/2004/QĐ-NHNN sử dụng lãi suất cơ bản do

NHNN công bố đối với VND và lãi suất USD của FED là chưa phù hợp với

thông lệ quốc tế (Lãi suất của hai đồng tiền là lãi suất tiền gửi và tiền vay trên thị

trường tại thời điểm ký kết hợp đồng). Với cách tính này đã làm cho tỷ giá kỳ

hạn cao hơn so với tỷ giá giao ngay vào ngày đáo hạn của hợp đồng kỳ hạn, như

vậy tỷ giá kỳ hạn không phản ánh đúng sự kỳ vọng về tỷ giá giao ngay của thị

trường trong tương lai.

Cách tính tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch hoán đổi cũng không thực hiện đúng

với đặc điểm của loại giao dịch này và vì thế đã không khai thác được những ưu

thế của giao dịch và không hấp dẫn khách hàng sử dụng giao dịch hoán đổi.

Thứ ba là, giao dịch quyền chọn hiện nay ít được khách hàng sử dụng do

những nguyên nhân sau: (1) Quyền chọn giữa ngoại tệ với VND đã không được

phép thực hiện theo văn bản số 1820/NHNN-QLNH ngày 18/3/2009 NHNN và

chỉ còn loại quyền chọn ngoại tệ với ngoại tệ; (2) Do cách tính phí quyền chọn,

hiện tại do giao dịch quyền chọn trên TTNH Việt Nam quá ít giao dịch vì vậy đa

số các ngân hàng sau khi bán quyền chọn cho khách hàng sẽ thực hiện mua lại

quyền chọn trên TTNH quốc tế, khi phí tính cho khách hàng Việt Nam sẽ gồm

hai phần: phần phí quyền chọn của ngân hàng nước ngoài và phần phí dịch vụ

của NHTM Việt Nam, bên cạnh đó NHTM Việt Nam lại tính luôn phần thuế VAT

vào nữa, nếu không thì NHTM sẽ chiụ lỗ phần phí này, do đó phí quyền chọn sẽ

90

cao. Đây là điều làm nản lòng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam khi

muốn sử dụng giao dịch quyền chọn; (3) Do sợ trách nhiệm của các doanh

nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước vì khi bảo hiểm bằng quyền chọn phải trả

phí nhưng nếu đến thời điểm thực hiện người mua quyền chọn bỏ không thực

hiện hợp đồng do tỷ giá trên thị trường biến động thuận lợi hơn tỷ giá thực hiện,

và như vậy doanh nghiệp mất đi khoản phí sẽ bị đánh giá là sử dụng phương án

bảo hiểm không hiệu quả.

Qua đó có thể thấy rằng tình hình sử dụng các công cụ phái sinh để bảo

hiểm rủi ro tỷ giá và lãi suất đang có nguy cơ thu hẹp và thị trường phái sinh

ngoại tệ của Việt Nam vừa mới được hình thành đã trở nên èo uột không phát

triển.

Trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của thị trường Việt Nam còn có

những qui định và những nét đặc thù riêng tạo nên một bức tranh không được

sáng sủa cho sự chuẩn bị một thị trường tài chính của nền kinh tế toàn cầu hóa.

2.3.2.4. Thực trạng yết giá kinh doanh và mua bán ngoại tệ

Theo kỹ thuật kinh doanh ngoại hối, để có thể đảm bảo trạng thái ngoại hối

theo qui định các NHTM sẽ sử dụng các kỹ thuật yết giá để thực hiện trạng thái

ngoại tệ mục tiêu mình mong muốn. Nếu muốn mua nhiều hơn bán, các ngân

hàng sẽ yết tỷ giá mua vào cao hơn giá trên thị trường và khi muốn bán nhiều

hơn mua các NHTM sẽ yết giá bán thấp hơn giá trên thị trường, và nguyên tắc

kinh doanh là yết tỷ giá mua nhỏ hơn tỷ giá bán để có lời, thông qua tỷ giá được

yết có thể xác định được chiến lược kinh doanh của các ngân hàng.

Tuy nhiên, trên TTNH Việt Nam bảng yết giá của các NHTM không hoàn

toàn có ý nghĩa như vậy, thậm chí có những lúc các NHTM yết tỷ giá mua bằng

tỷ giá bán (VND/USD) và tùy từng thời điểm điều này có mục đích khác nhau:

Khi tỷ giá mua bằng tỷ giá bán và bằng tỷ giá sàn:

S b = Sa = TGLNH - % (biên độ qui định) là NHTM chỉ muốn bán chứ

không muốn mua và ngược lại

91

Tỷ giá ngày 7-09-2004 của VCB HCM. TGLNH:15,715VND/USD. Biên độ:+/-0.25%.

Ngọai tệ Giá mua Giá bán Tiền mặt Chuyển khoản

USD 15747 15754 15754

Khi tỷ giá bán bằng tỷ giá mua bằng tỷ giá trần: Sa = Sb = TGLNH + % (biên độ qui định) là các NHTM chỉ muốn mua

chứ không muốn bán và tình trạng này phổ biến hơn.

Tỷ giá ngày 13-02-2008 của VCB HCM. TGLNH 16,079VND/USD. Biên độ: +/- 0.75%

Ngọai tệ Giá mua Giá bán Tiền mặt Chuyển khoản

USD 15858 15958 15958

Trường hợp yết gía mua = giá bán và bằng giá trần là phổ biến trong thời

gian qua của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên vào năm 2008, tình hình lại diễn

biến theo một chiều hướng khác: giá mua = giá bán = giá sàn đây là trường hợp

hiếm có chỉ xảy ra vào giai đoạn đầu của năm 2008 vì đó cũng là giai đoạn

nguồn cung USD tăng vọt do lượng tiền kiều hối về nhiều và thị trường chứng

khoán của Việt Nam thu hút mạnh luồng vốn gián tiếp.

Hiện tượng yết giá như trên là do bị khống chế bởi qui định tỷ giá

VND/USD phải được mua bán theo qui định của NHNN căn cứ vào TGLNH và

biên độ qui định, TGLNH thường có khoảng cách xa so với tỷ giá thị trường nên

cho dù sử dụng hết biên độ vẫn không tương ứng với giá thị trường.

Tuy nhiên, tỷ giá thì yết như vậy nhưng trong thực tế các NHTM Việt Nam

hầu như không thực hiện mua bán theo tỷ giá niêm yết mà có nhiều biện pháp để

lách qui định trần tỷ giá, như sau:

Mua bán thông qua ngoại tệ thứ 3, vì NHNN chỉ qui định trần tỷ giá của

VND/USD còn các ngoại tệ khác là tự do thỏa thuận. Đây là hình thức mua bán

92

USD với đúng tỷ giá trần nhưng sau đó khách hàng sẽ phải trả thêm phần chênh

lệch thông qua tỷ giá của ngoại tệ thứ 3.

Sử dụng giao dịch kỳ hạn. Hình thức này lợi dụng sự chênh lệch của tỷ giá

kỳ hạn và tỷ giá giao ngay để bù đắp phần chênh lệch so với tỷ giá trần.

Thu phí: Khi NHNN phát hiện và ra quyết định cấm những cách mua bán

vượt trần tỷ giá như trên, các NHTM thêm một lần lách qui định trần bằng hình

thức mới đó là tính đủ các loại phí để hạch toán phần chênh lệch. Hình thức này

tồn tại cho đến ngày 1/7/2009 mới bị ngăn chặn bởi Công văn 4941/NHNN-

QLNH trong đó ghi rõ các tổ chức tín dụng không được phép thu phí thông qua

các hợp đồng dịch vụ và các hình thức khác như chi trả hoa hồng, phí quản lý

tiền mặt… để bán vượt trần.

Mua ngoại tệ trên thị trường tự do: Có ngân hàng lách trần tỷ giá bằng cách

dựa vào qui định cá nhân khi bán ngoại tệ cho ngân hàng không cần phải khai

báo nguồn gốc, đã môi giới cho doanh nghiệp cần mua ngoại tệ với người muốn

bán ngoại tệ, doanh nghiệp sẽ mua ngoại tệ theo tỷ giá trên thị trường tự do sau

đó, lấy danh nghĩa cá nhân bán lại cho ngân hàng theo tỷ giá mua được niêm yết

sau đó ngân hàng sẽ bán lại cho nhà nhập khẩu theo đúng tỷ giá bán niêm yết để

hợp thức hóa khoản ngoại tệ thanh toán cho đối tác. Như vậy thể hiện trên chứng

từ nhà nhập khẩu mua ngoại tệ và ngân hàng bán ngoại tệ theo đúng giá qui định

nhưng thực tế các doanh nghiệp phải trả bằng giá trên thị trường tự do. ( Trong

cuộc chất vấn tại Quốc hội có doanh nghiệp nói họ phải mua USD theo tỷ giá

chênh lệch đến 400- 500đ mỗi USD, số chênh lệch này được thanh toán ngầm

qua tài khoản cá nhân hoặc bằng tiền mặt không có chứng từ hợp lệ)

Hiện tượng yết tỷ giá một đằng mà thực hiện một nẻo đã kéo dài từ rất lâu,

cho thấy vấn đề thực thi theo pháp lệnh chưa được tuân thủ chặc chẽ, đồng thời

cơ chế tỷ giá chưa phù hợp với thị trường, gây khó khăn cho NHTM trong việc

cạnh tranh với thị trường tự do để mua được ngoại tệ.

Bên cạnh đó, khi thực hiện mua hay bán ngoại tệ, các ngân hàng xác lập

một trạng thái mở ngoại tệ là trạng thái phát sinh khi mua hoặc bán ngoại tệ

nhưng chưa có giao dịch đối ứng để cân bằng. Để quản trị rủi ro trong kinh

doanh ngoại tệ, các ngân hàng xây dựng một hạn mức trạng thái ngoại tệ phù hợp

với qui định của NHNN và với chiến lược kinh doanh của từng ngân hàng.

93

Tuy nhiên, trong thời gian qua, trên TTNH của Việt Nam các NHTM thường

đóng vai trò người bán nhiều hơn là người mua ngoại tệ, vì thế dễ dàng hình

dung trạng thái ngoại hối của các NHTM Việt Nam thường ở trạng thái dư thiếu

về ngoại tệ. Do đó, để đảm bảo hạn mức trạng thái ngoại hối theo qui định của

NHNN là 30% so với vốn tự có ( tháng 6/2011, NHNN đưa dự thảo Thông tư

quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân

hàng nước ngoài giảm còn 20% vốn tự có) các ngân hàng sẽ tìm đến TTNTLNH

để thực hiện các giao dịch đối ứng nhưng với bức tranh toàn cảnh của TTNH Việt

Nam lệnh mua nhiều hơn bán, sẽ khó khăn để thỏa mãn được nhu cầu của các

ngân hàng. Để can thiệp thị trường ngoại tệ, cần đến vai trò người mua bán cuối

cùng của NHNN, nhưng việc bán ra ngoại tệ hay không và bán ra bao nhiêu còn

tùy thuộc vào các chính sách tiền tệ và tỷ giá trong từng thời kỳ.

Tóm lại, hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ khách hàng

của Việt Nam được các NHTM sẳn sàng tham gia nhưng cơ chế quản lý và chính

sách tỷ giá chưa tương thích với cơ chế thị trường đã hạn chế sự phát triển của thị

trường ngoại tệ.

2.3.3. Thị trường ngoại tệ không chính thức

2.3.3.1 Những hình thức biểu hiện

Ngoài hoạt động của thị trường ngoại tệ chính thức, Việt Nam còn có hoạt

động của thị trường ngoại tệ không chính thức hay còn gọi là thị trường ngoại tệ

tự do.

Mặc dù, theo Pháp lệnh ngoại hối, trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch,

thanh toán, niêm yết, quảng cáo không được thực hiện bằng ngoại tệ, trừ các giao

dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm

thu hộ, ủy thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính

phủ cho phép.

Tuy nhiên hoạt động mua bán ngoại tệ ngoài thị trường chính thức vẫn diễn ra

khắp cả nước, đó là hoạt động buôn lậu chuyển tiền qua biên giới, hoạt động mua

94

Các cửa hàng kinh doanh vàng bạc đá quí, tại những tiệm vàng dù lớn hay

nhỏ đều có kèm với hoạt động kinh doanh ngoại tệ, những tiệm vàng nhỏ thì làm

chân rết cho các tiệm vàng lớn, những trùm kinh doanh ngoại tệ, có những địa

điểm nổi tiếng có thể kể đến là “chợ đôla” phố Hà Trung, Phố Trần Nhân

Tông(Hà Nội).Tại TP HCM có các tiệm vàng chợ Bến Thành, chợ Bình Tây, chợ

Bàn Cờ… là những chợ đầu mối về ngoại tệ, vào mỗi buổi sáng các tiệm vàng

nhỏ sẽ điện thoại hỏi giá cả ngoại tệ của những đầu nậu kinh doanh ngoại tệ để

yết giá mua bán ngoại tệ cho khách hàng, giá cả sẽ biến động nhiều nhất là

khoảng 9g,10 g sáng cũng trùng với giờ hoạt động mạnh nhất của thị trường

ngoại hối thế giới đó là khoảng thời gian thị trường ngoại hối cuả 3 Châu lục Mỹ,

Âu, Á đồng loạt mở cửa.

Các bàn đại lý thu đổi ngoại tệ, vào năm 2010 TPHCM có 78 bàn, đại lý

thu đổi ngoại tệ, tại Hà Nội con số này ít hơn, nhưng cũng không dưới 60-70 bàn

trực thuộc các ngân hàng. Tính bình quân mỗi ngân hàng có 10 đại lý, thì cả

nước đang có ít nhất 420 đại lý thu đổi ngoại tệ (42 ngân hàng nội. Các ngân

hàng ngoại không có đại lý dạng này). Mỗi đại lý được các ngân hàng khoán mức

thu đổi ngoại tệ khác nhau tùy theo từng đơn vị, tùy vị trí và quy mô. Mức khoán

cao nhất, khoảng 100.000-150.000 USD/tháng hoặc xấp xỉ 300.000- 500.000

USD/quí. Thông thường thì 50.000-60.000 USD/tháng [67]. Mức khoán có nghĩa

là hàng tháng mỗi đại lý phải bán cho ngân hàng của họ số ngoại tệ nói trên theo

tỷ giá tiền mặt niêm yết của ngân hàng. Nếu vượt quá mức khoán này họ sẽ bán

ra bên ngoài với tỷ giá cao hơn, các ngân hàng không có khả năng quản lý được

doanh số mua bán thực tế của các bàn đại lý.

Theo qui định là đại lý thu đổi ngoại tệ hộ cho các ngân hàng, tuy nhiên hầu

như các đại lý đều thực hiện cung ứng ngoại tệ cho khách hàng là cá nhân và cả

các doanh nghiệp nhập khẩu không mua được ngoại tệ tại ngân hàng với số

95

lượng lên đến con số hàng trăm ngàn USD mà họ thu gom được trên thị trường

với những phương thức rất nhanh gọn chỉ cần thỏa thuận xong giá cả, mà không

cần có chứng từ nào cả. Họ có thể lấy hàng từ khắp các tỉnh thành với giá cả

được chốt ngày hôm nay và giao hàng ngày hôm sau, điều này cho thấy giao dịch

của họ rất mạnh với chân rết rộng khắp nước. Các đại lý còn mua bán các ngoại

tệ mạnh khác ngoài USD với giá giao dịch do họ tự quyết định trên cơ sở sự biến

động của tỷ giá USD với các ngoại tệ theo sát tỷ giá trên thị trường ngoại hối thế

giới. [67]

Giá USD chợ đen, đều bắt nguồn từ các đại lý lớn mà thực chất là những

tay buôn bán lớn trên thị trường. Giá này được chính các đại lý này xác lập và áp

dụng, chỉ chậm hơn giá hàng ngày của các ngân hàng khoảng 30 phút và có thể

biến động hàng ngày. Việc trao đổi, lưu thông, thậm chí vận chuyển USD số

lượng lớn được thực hiện một cách dễ dàng dưới danh nghĩa các đại lý hợp pháp,

mà các cơ quan chức năng - với hạn chế về lực lượng và nghiệp vụ điều tra - khó

lòng phát hiện và xử lý.

Như vậy, hệ thống các đại lý đã hoạt động không còn đúng với thực chất

thu đổi hộ ngoại tệ cho ngân hàng nữa mà đã biến tướng thành thị trường chợ đen

và có khả năng tạo giá cũng như thu hút lượng ngoại tệ nhưng không vào ngân

hàng mà có thể là trung gian cho những giao dịch bên ngoài ngân hàng. Đã đến

lúc nên xem xét lại hiệu quả của hệ thống đại lý thu đổi ngoại tệ, có thực sự cần

thiết khi hệ thống giao dịch ngân hàng ngày càng dày đặc và phủ khắp nơi. Bên

cạnh đó với sự kết nối hệ thống thanh toán quốc tế rất hiện đại có nhiều hình thức

thanh toán, như thẻ quốc tế... cũng khiến cho khách du lịch không còn lệ thuộc

nhiều vào các đại lý thu đổi.

Chợ buôn tiền tại các cửa khẩu của Việt Nam: Chợ Đông Kinh ở Lạng Sơn

là một trong số các chợ có lượng buôn bán ngoại tệ lớn và ngày càng phát triển

do hoạt động giao thương buôn bán tại biên giới với hàng nhập tiểu ngạch từ

Trung Quốc rất sôi động, doanh số lên đến hàng trăm triệu nhân dân tệ, nhưng

hoạt động đổi tiền buôn bán ngoại tệ là hoàn toàn do tư nhân thực hiện , ngân

96

hàng và các cơ quan nhà nước đều không nắm được doanh số thực tại các địa bàn

này, đồng thời tại những cửa khẩu cũng là nơi cung cấp ngoại tệ cho hoạt động

buôn lậu, gây chảy máu nguồn ngoại tệ còn khan hiếm của nước ta.[64]

Biên giới phía nam với Campuchia có cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh) chợ

ngoại tệ tại đây cũng hoạt động rất mạnh mẽ và linh động trong phương thức

thanh toán, chủ yếu là lòng tin và hệ thống những người buôn bán lẻ cung cấp tận

tay ngoại tệ phục vụ kịp thời cho những người muốn đổi ngoại tệ sang biên giới

sử dụng, hoạt động này cũng công khai mà không bị cơ quan chức năng nào hỏi

thăm hay quản lý để nắm được doanh số thực tế.

Biên giới với Lào có cửa khẩu Lao Bảo( Quảng Trị), hiệu quả của khu kinh

tế cửa khẩu Lao Bảo mở ra đã làm cho thị trấn này ngày càng tấp nập lượng

người quá cảnh hai chiều và nhu cầu đổi tiền để sang biên giới sử dụng cũng gia

tăng và ở đâu có cầu thì ắt có cung, nắm bắt nhu cầu này những người buôn tiền

đã hiện diện tại cửa khẩu để kinh doanh và cũng không hề thấy tại đây bóng dáng

hoạt động của ngân hàng nào [64].

Các hoạt động mua bán có thanh toán bằng ngoại tệ trong dân cư, những

mặt hàng nhập khẩu có giá trị cao như hàng kim khí điện máy, xe hơi, xe gắn

máy, máy tính, máy ảnh.... hầu như đều được yết giá bằng ngoại tệ và việc thanh

toán cũng có thể thực hiện bằng ngoại tệ. Mua bán bất động sản, cho thuê nhà

cũng được thực hiện bằng ngoại tệ.Ngoài ra còn có những công ty du lịch với giá

vé, phí dịch vụ cũng đều quy ra USD. Tại khu vực trung tâm TP Hồ Chí Minh và

tại những khu vực tập trung khách du lịch quốc tế như trên đường Đồng Khởi,

Nguyễn Huệ, và đặc biệt khu phố được gọi là phố Tây Phạm Ngũ Lão, Bùi Viện(

T/P Hồ chí Minh) những giao dịch thanh toán trên 90% ở đây từ ăn uống, lưu trú,

đi lại, mua sắm đều được tính bằng USD, và khi lưu thông bằng đồng USD, sẽ có

người có nhu cầu đổi đô và ngược lại.

Mặc dù ngày 8-5-2009, Thủ tướng đã có Công văn số 695/TTg-KTN yêu

cầu tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về quản

lý ngoại hối, đặc biệt là các hoạt động thu đổi ngoại tệ trái phép, quảng cáo, niêm

97

yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ. Tuy nhiên, xem ra đến nay công tác thực hiện chỉ

đạo này vẫn còn lơi lỏng, chưa kiên quyết.

2.3.3.2. Những nguồn cung cấp ngoại tệ trên thị trường không chính thức

Thị trường ngoại tệ không chính thức ở Việt Nam hoạt động được là do có

nhiều nguồn cung cấp ngoại tệ như:

Nguồn kiều hối: Đây là luồng ngoại tệ chảy vào trong nước ngày càng tăng

và chiếm doanh số khá lớn trong cán cân vãng lai, theo thống kê hiện có khoảng

4 triệu người Việt Nam sống ở 103 nước và vùng lãnh thổ, trong đó gần 400.000

người có trình độ đại học trở lên. Ngoài ra, còn khoảng 500.000 lao động Việt

Nam đang làm việc ở nước ngoài. Các chuyên gia cho rằng nguồn kiều hối vẫn

chủ yếu từ Mỹ, Canada và một số thị trường có số lượng lao động xuất khẩu

nhiều như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia...Với số lượng người Việt sinh sống và

lao động ở nước ngoài nhiều như vậy cộng thêm truyền thống gia đình giúp đỡ

thân nhân của người Việt đã tạo nên một nguồn cung ngoại tệ đáng kể hàng năm

[72]

Kể từ năm 2000 thực hiện Quyết định số 170/1999/QĐ-TTg và Thông tư số

02/2000/TT-NHNN7 đã xoá bỏ việc người nhận kiều hối đóng thuế thu nhập

không thường xuyên giúp cho lượng kiều hối gia tăng mạnh mẽ.

Bảng 2.15: Lượng kiều hối chính thức chuyển về

Đơn vị: Tỷ USD

Việt Nam từ năm 1999-2010

Số lượng

Số lượng

Năm

Năm

1.2 1.76 1.82 2.1

4.29 4.7 5.5 7.2

1999 2000 2001 2002

2005 2006 2007 2008

2.7

6.8

2003

2009

3.2

8.54

2004

2010

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN [38]

98

Biểu đồ 2.3: Lượng kiều hối và Việt Nam từ năm 1999 – 2010

Đơn vị: Tỷ USD

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN [38]

Năm 1999, kiều hối mới có 1.2 tỷ USD thì năm 2002 đã tăng gần gấp đôi

và năm 2007 là 5.5 tỉ USD và năm 2008 đạt kỷ lục tăng 30% - vượt qua mức 7.2

tỉ USD. Năm 2009, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới,

kiều hối giảm còn gần 6,3 tỉ USD. Năm 2010 đạt hơn 8.5 tỷ USD tương đương

8% GDP tăng 25,6% so với năm 2009 và vượt mục tiêu dự kiến ban đầu là quanh

mức 6 tỷ USD. Tuy nhiên, các ngân hàng chỉ mua lại khoảng 10% lượng ngoại tệ

này.[67]

Tuy chưa thể thống kê chính xác lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường

này nhưng có thể thấy rằng đó là số lượng khá lớn vì nếu chỉ xét trên lượng kiều

hối gửi về và số lượng ngoại tệ mà các ngân hàng mua được có sự chênh lệch

đáng kể, điều này xảy ra vì đa số những người nhận tiền kiều hối đều rút ngoại tệ

và bán ra trên TTKCT vì tỷ giá cao hơn tỷ giá chính thức trong ngân hàng.

Đây là số lượng tính toán được chuyển qua con đường chính thức chưa kể

đến số lượng chuyển tiền thông qua con đường không chính thức, trên thực tế

lượng kiều hối phi chính thức còn cao hơn nhiều, chiếm khoảng 30-60% lượng

kiều hối chính thức, do vậy có thể nói lượng ngoại tệ từ nguồn kiều hối còn cao

99

hơn cả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo ước đoán của IMF thì lượng USD

lưu thông ở Việt Nam vào khoảng 10 tỷ USD.

Kiều hối được chuyển về Việt Nam qua các kênh như: ngân hàng, công ty

chuyển tiền nhanh, các đại lý làm dịch vụ kiều hối, chuyển tiền tự do, tự mang

vào khi nhập cảnh. Cơ chế quản lý ngoại hối hiện hành của Việt Nam không cấm

mang kiều hối vào Việt Nam, miễn là khi nhập cảnh có khai báo đủ với cơ quan

Hải Quan theo qui định. Khoản kiều hối này phần lớn không bán lại cho ngân

hàng mà chủ yếu nắm giữ ngoại tệ mặt và mua bán trên TTKCT.

Bên cạnh đó qui định với nguồn kiều hối chính thức cho phép việc chi trả

bằng ngoại tệ mặt cho người thụ hưởng trong nước cũng là nguyên nhân tạo nên

lượng lớn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường chợ đen. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với

cơ chế quản lý ngoại hối nói chung và cơ chế kiều hối nói riêng hiện nay là vừa

khuyến khích việc chuyển kiều hối về nước vừa thu hút được các nguồn kiều hối

vào hệ thống ngân hàng.

Cũng có thể thấy rằng đây chính là nguồn cung lớn nhất trên TTKCT.

Nguồn cung từ các công ty tư nhân có thu nhập ngoại tệ: khi các công ty này

được thanh toán bằng ngoại tệ họ bỏ vào tài khoản tiền gửi cá nhân và theo qui

định họ có thể rút ngoại tệ mặt trên tài khoản ngoại tệ cá nhân và khi tỷ giá chính

thức thấp hơn tỷ giá trên TTKCT, họ bán ra ngoài để kiếm lời. Đặc biệt, trong

những trường hợp thị trường khan hiếm ngoại tệ, các công ty nhập khẩu cần mua

ngoại tệ để thanh toán nhưng ngân hàng không có ngoại tệ để bán, có ngân hàng

biết được doanh nghiệp có ngoại tệ đã sẳn sàng làm trung gian cho những tổ chức

kinh tế có ngoại tệ để bán cho công ty nhập khẩu Như vậy lượng ngoại tệ này

cũng có thể được xem như là nguồn cung trên TTKCT.

Nguồn cung ngoại tệ từ những người có thu nhập bằng ngoại tệ, những

người kinh doanh có thực hiện thanh toán bằng ngoại tệ hay Việt kiều về thăm

nhà và một số những người nước ngoài vào Việt Nam đi du lịch hay học tập, làm

ăn, kinh doanh cũng mang ngoại tệ về họ không bán cho ngân hàng theo tỷ giá

100

chính thức mà bán bên ngoài ngân hàng với tỷ giá chênh lệch cao hơn tỷ giá

chính thức. Nguồn cung này chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong doanh số trên TTKCT.

2.3.4.3. Nguồn cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ không chính thức

Những người cư trú có nhu cầu về ngoại tệ: là du học sinh, những người ra

nước ngoài du lịch, thăm thân nhân, khám chữa bệnh ..vvv. Đời sống kinh tế

ngày càng phát triển, người dân càng có khuynh hướng nâng cao chất lượng cuộc

sống, từ ăn, mặc, đi lại nhu cầu vật chất lẫn tinh thần và do vậy nhu cầu ngoại tệ

đi học,đi du lịch, chữa bệnh…ở nước ngoài đều tăng lên.

Nhu cầu ngoại tệ của du học sinh: Việt Nam là một trong những quốc gia

có số lượng du học sinh mỗi năm đều gia tăng, theo số liệu thống kê của Cơ quan

Quốc tế giáo dục Úc thuộc Tổng lãnh sự quán Úc tại TPHCM, có hơn 21.000 học

sinh - sinh viên Việt Nam đang học tập tại các trường phổ thông và đại học ở Úc

chỉ tính riêng 8 tháng đầu năm 2009, tăng 58% so với cùng kỳ năm 2008. Trong

khi đó, theo thống kê của Viện Giáo dục quốc tế thuộc Viện Giáo dục quốc tế

Mỹ thì số lượng du học sinh Việt Nam học tập tại Mỹ trong năm học 2008-2009

là 12.830, tăng 46% so với năm học trước, xếp thứ 9 trong tổng sắp số du học

sinh quốc tế đang du học tại Mỹ, tăng 11 bậc so với hai năm trước đây[69]. Như

vậy chỉ tính riêng 2 nước có số du học sinh lớn nhất là Mỹ và Úc vào năm 2009

hơn 33000 du học sinh và với tỷ lệ tăng trung bình là 50% thì ước tính năm 2010

số lượng du học sinh của Việt Nam ra nước ngoài học tập 100000 người và cứ

tính chi phí cho mỗi du học sinh trung bình khoảng 20000USD/ năm thì lượng

ngoại tệ cần thiết vào khoảng 2 tỷ USD/năm, số lượng ngoại tệ này hầu như

không được ngân hàng đáp ứng đủ mà nhu cầu ra nước ngoài học tập thì tăng lên

không ngừng hàng năm.

Nhu cầu ngoại tệ của những người ra nước ngoài công tác, du lịch, chữa

bệnh…: Nhu cầu ngoại tệ của nhóm này cũng tăng lên hàng năm và họ thường

mua được ngoại tệ theo tỷ giá chính thức của ngân hàng vì thế đa số họ đều tìm

đến TTKCT với cách mua bán nhanh chóng không đòi hỏi chứng từ mà hầu như

đáp ứng đủ nhu cầu của họ.

101

Nhu cầu ngoại tệ của các công ty nhập khẩu, các doanh nghiệp nhập khẩu

tư nhân hay nhà nước, họ thường xuyên gặp phải tình huống khi cần mua ngoại

tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thì ngân hàng không có đủ ngoại tệ để đáp

ứng kịp thời việc này làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh

và có nguy cơ phải bồi thường hợp đồng, hay họ phải chịu thêm những chi phí

phát sinh khi hàng đã đến cảng như phí lưu kho, lưu bãi , …. mà không có ngoại

tệ thanh toán để nhận hàng, vì thế bằng mọi cách họ phải mua được ngoại tệ và

họ tìm đến TTKCT.

Và cuối cùng là nhu cầu ngoại tệ của giới buôn lậu, hoạt động buôn lậu

chắc chắn không thể thực hiện được nếu không có ngoại tệ do TTKCT cung cấp.

Những hàng hóa nhập lậu như vàng, ngoại tệ mặt, hàng xa xỉ phẩm, rượu, xe máy

vv..có nhu cầu ngoại tệ rất lớn và tỷ giá trên thị trường không chính thức bị ảnh

hưởng nhiều nhất từ nguồn cầu ngoại tệ này. Vào những đợt thị trường vàng

trong nước có biến động giá vàng trong nước cao hơn ở nước ngoài giới buôn lậu

sẽ thu gom ngoại tệ để đi nhập hàng ở nước ngoài về bán kiếm lời chênh lệch,

hoạt động này đã làm cho giá ngoại tệ bị tác động rõ rệt bởi vì lượng ngoại tệ cho

mỗi đợt nhập vàng cần đến hàng triệu USD. Trong bài viết trên website của

Chính phủ, Thống đốc NHNN Nguyễn văn Bình đã nhận định:”Hoạt động buôn

lậu vàng qua biên giới diễn ra rất phổ biến và với qui mô ngày càng lớn, riêng

nhập khẩu vàng lậu trung bình một năm cũng từ 20 đến 40 tấn. “ [77]

Như vậy, những yếu tố cung cầu để cho một thị trường ngoại tệ tồn tại là có

thực và thực tế thì TTKCT ở Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ từ lâu ước tính

chiếm khoảng 20% thị phần [14] và thị trường này ngày càng cạnh tranh mạnh

mẽ với thị trường chính thức.

Tóm lại, TTKCT còn tồn tại là do những nguyên nhân sau: (1) Sự chênh

lệch tỷ giá trên thị trường ngoại tệ chính thức và tỷ giá trên TTKCT, trong một

nước nếu có các tỷ giá khác nhau thì sẽ có thị trường mua bán ngoại tệ tồn tại

song song với thị trường chính thức. (2) Trong điều kiện khi nền kinh tế vĩ mô

không ổn định, tâm lý người dân chưa an tâm khi nắm giữ VND họ muốn cất trữ

102

Sự tồn tại của thị trường ngoại tệ không chính thức khiến một khối lượng

lớn đôla trôi nổi trong dân cư không được kiểm soát và làm gia tăng tình trạng

đôla hoá trong nền kinh tế. Đây cũng là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng các hoạt

động kinh tế ngầm và các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp khác. Điều đó cho

thấy sự tồn tại của thị trường ngoại tệ không chính thức không chỉ gây bất ổn cho

TTNH, gây khó khăn cho điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của NHNN, mà còn

góp phần gây trở ngại cho các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát các hoạt

động kinh tế ngầm, ngăn ngừa các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp khác.

2.4 Vai trò của NHNN đối với TTNH Việt Nam trong giai đoạn vừa qua

2.4.1 Thực hiện vai trò can thiệp TTNH và điều hành chính sách tỷ giá

Quá trình hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì TTNH càng bị tác động, có

những tác động tích cực và tiêu cực ảnh hưởng đến thị trường, NHNN với vai trò

thực thi chính sách tiền tệ thông qua hoạt động can thiệp trên TTNH và sử dụng

cơ chế điều hành tỷ giá qua đó thực thi vai trò cứu cánh cuối cùng cùa NHNN

trên TTNH, để tận dụng những tác động thuận lợi và khắc phục những tác động

xấu đến thị trường đảm bảo cho thị trường hoạt động và phát triển ổn định.

Khi bắt đầu mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đối đầu với cuộc khủng hoảng

tài chính đầu tiên là khủng hoảng tài chính-tiền tệ diễn ra ở khu vực Đông Nam

Á vào năm 1997, điểm xuất phát từ Thái Lan, sau đó lan nhanh khắp khu vực và

103

có phạm vi ảnh hưởng toàn thế giới, Việt Nam cũng không thoát khỏi ảnh hưởng

đó. Đây là những năm khó khăn và nhiều thử thách đối với nền kinh tế Việt Nam,

do ảnh hưởng của thiên tai và khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong

khu vực. Với bối cảnh nền kinh tế như vậy, NHNN đã có điều chỉnh cơ chế tỷ giá

tương đối linh động hơn so với giai đoạn trước. Cụ thể:

Trong năm 1997, thực hiện mở rộng biên độ giao dịch lên +/- 5% rồi tăng

lên +/- 10% và tăng tỷ giá chính thức 1 lần vào cuối năm. Năm 1998, có hai đợt

điều chỉnh tỷ giá chính thức quan trọng: Đợt 1 tăng tỷ giá 5.59%; đợt 2: tăng

10% và nới lỏng biên độ dao động từ +/- 5% đến +/-10% và sau đó giảm xuống

+/-7%.

Biện pháp giảm giá mạnh VND vào năm 1998 được xem là hợp lý vì USD

tăng giá mạnh và các đồng tiền trong khu vực Đông Nam Á đều mất giá do ảnh

hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và là những quốc gia có những mặt

hàng xuất khẩu tương tự như Việt Nam, vì vậy việc tăng tỷ giá sẽ làm tăng khả

năng cạnh tranh hàng xuất khẩu cho Việt Nam và được xem là nguyên nhân giúp

cho TTNH Việt Nam không có những biến động mạnh như TTNH của các nước

Đông Nam Á.

Vào ngày 25/2/1999 NHNN đã ban hành quyết định 64/1999/QĐ_NHNN7

về việc công bố tỷ giá của đồng Việt Nam, theo đó:” Hàng ngày, NHNN công bố

tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNTLNH của đồng Việt Nam với đồng đô la

Mỹ, thay cho việc công bố tỷ giá chính thức và tỷ giá bình quân liên ngân hàng

mua vào bán ra trên TTNTLNH.” Quyết định này cho thấy sự thay đổi trong điều

hành tỷ giá của NHNN trước quá trình hội nhập kinh tế việc công bố rộng rãi tỷ

giá BQLNH trên các phương tiện thông tin đại chúng tạo điều kiện cho những

chủ thể có giao dịch ngoại tệ có thể dễ dàng tiếp cận thông tin chính thức về tỷ

giá để lập chiến lược kinh doanh và thực hiện bảo hiểm rủi ro tỷ giá.

Kể từ thời điểm gia nhập WTO đến nay, việc điều hành tỷ giá có những

thay đổi đáng kể, tỷ giá BQLNH được thay đổi nhiều hơn chứ không cố định

quá lâu (như trước đây năm 2005 chỉ có 2 lần điều chỉnh tỷ giá đợt 1vào tháng

104

1/2005, đợt 2 vào tháng 12/2005). Đầu năm 2007 NHNN điều chỉnh biên độ từ

0.25% lên 0.5% và với đà tăng tỷ giá 1.38% từ cuối năm 2006 tỷ giá được kỳ

vọng sẽ tiếp tục tăng, tuy nhiên vào năm 2007 khi luồng vốn FDI, FII và kiều

hối chảy vào tăng rất mạnh gây áp lực tăng giá VND, NHNN đã đưa ra lưu thông

200,000ngàn tỷ đồng để mua ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối lên 20 tỷ USD và

khuyến khích các NHTM mua USD vào nhưng các NHTM không thể mua vào

nhiều vì bị khống chế bởi hạn mức trạng thái ngoại tệ và ảnh hưởng đến kết quả

kinh doanh. Đây là giai đoạn yêu cầu sự can thiệp của NHNN là mua vào ngoại

tệ nhưng mua bao nhiêu cho phù hợp với chính sách tiền tệ và mức tỷ giá xác

định, NHNN chưa can thiệp hợp lý với yêu cầu của thị trường và kết quả là tỷ giá

trên thị trường chính thức cao hơn thị trường tự do.

Số liệu thống kê cho thấy, từ tháng 6/2008 đến tháng 2/2011, NHNN đã 6

lần điều chỉnh tỷ giá BQLNH: Trong năm 2008 có 2 lần điều chỉnh với tỷ lệ tăng

là 1,99% và 3% , với 2 lần thay biên độ từ +/- 1% lên +/-2%. Trên cơ sở dự báo

tình hình kinh tế thế giới năm 2009, NHNN đã nâng tỷ giá bình quân trên

TTNTLNH tăng 3%. Đây là bước thay đổi bất ngờ trong điều hành tỷ giá so với

những lần trước chỉ vào khoảng dưới 1% và những năm sau điều chỉnh tỷ giá

tăng cao hơn trước, năm 2009 tăng 1 lần hơn 5% , năm 2010 tăng 2 lần hơn 3%

và hơn 2% và đầu năm 2011 NHNN sau một thời gian kiềm giữ đã giảm giá

mạnh VND xuống 9,3% so với USD[71]. Với động thái này cho thấy rằng

NHNN nhận định tỷ giá trên TTNTLNH chưa phản ảnh đúng giá thị trường, cho

nên dù biên độ có thay đổi dãn ra bao nhiêu phần trăm vẫn không giảm bớt chênh

lệch giữa tỷ giá của 2 thị trường. Vì thế, vấn đề là xem lại tỷ giá BQLNH được

xác định trên TTNTLNH nơi có doanh số chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với doanh số

ngoại tệ của toàn bộ nền kinh tế có phản ánh giá trị thực của VND hay không?.

Kết hợp đồng bộ các biện pháp để tác động vào cung cầu ngoại tệ vào

những giai đoạn tình hình cung ngoại tệ khan hiếm mà một trong những nguyên

nhân là do các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ vẫn tiếp tục găm giữ ngoại tệ

không bán cho ngân hàng. NHNN đã triển khai các biện pháp như:(1) nâng biên

105

độ tỷ giá từ +/-3% lên +/-5%, áp dụng từ ngày 24/03/2009 nhằm giảm bớt sự

chênh lệch tỷ giá giữa 2 thị trường; (2) kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh

ngoại hối của các tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm các tổ chức tín dụng thực hiện

nghiêm túc các quy định quản lý ngoại hối về thực hiện niêm yết và giao dịch;

(3) đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền ổn định tâm lý người dân và triển

khai các biện pháp tạo sự đồng thuận giữa các NHTM, thống nhất tăng lãi suất

huy động USD và giảm lãi suất cho vay ngoại tệ nhằm khắc phục tình trạng mất

cân đối cung - cầu ngoại tệ. Những biện pháp trên của NHNN đã giúp thị trường

ngoại hối trong quý 3/2009 diễn biến tương đối ổn định.

Căn cứ vào những nguyên nhân gây căng thẳng cầu ngoại tệ NHNN đã có

những biện pháp phù hợp như vào cuối năm 2009, tình hình mất cân đối cung -

cầu ngoại tệ lại xuất hiện trở lại mà nguyên nhân của hiện tượng này là do ảnh

hưởng của thông tin về mức thâm hụt cán cân thương mại ngày càng tăng và dự

trữ ngoại hối suy giảm, mà đặc biệt là dưới tác động của cơn sốt giá vàng, giá

vàng trong nước tăng cao đã khiến cầu ngoại tệ tăng đột biến do giới đầu cơ đẩy

mạnh hoạt động thu mua USD để mua vàng, trước tình hình đó NHNN đã lập tức

công bố cho nhập khẩu vàng nhằm giảm sức ép lên giá vàng và tăng tỷ giá

BQLNH lên 5,44%; thu hẹp biên độ từ mức ±5% xuống mức ±3% và tăng lãi

suất cơ bản tiền đồng lên 8%. Với các biện pháp nêu trên, TTNH Việt Nam đã

tạm thời ổn định trở lại, hiện tượng găm giữ và tích trữ ngoại tệ đã dần được khắc

phục.

Vào năm 2010, NHNN đã đồng thời thực hiện các biện pháp nhằm tác

động đến nguồn cung ngoại tệ đang căng thẳng, đó là (1)điều chỉnh tăng tỷ giá

(2) giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng

[34]. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ

hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã tạo điều kiện

cho các NHTM tăng thêm ngoại tệ cho vay trên thị trường. (3) quy định mức trần

lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là

106

1%/năm [34] nhằm giảm tình trạng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản chuyển sang

bán ngoại tệ tăng thêm nguồn cung USD.

Tóm lại, từ sau khi gia nhập WTO trước những biến động của thị trường do

những nguyên nhân từ kinh tế thế giới và tình hình trong nước, NHNN đã điều

hành chính sách tỷ giá có thay đổi tần suất tác động và điều chỉnh biên độ, kết

hợp đồng bộ với những biện pháp khác để hạn chế tình trạng căng thẳng về cung

cầu ngoại tệ như qui định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ, gỉam tỷ lệ dự trữ bắt

buộc USD, bên cạnh đó còn thực hiện những biện pháp tác động đến yếu tố tâm

lý là nguyên nhân gây căng thẳng ngoại tệ của nước ta bằng cách sử dụng

phương tiện truyền thông để công bố chính thức về định hướng can thiệp tỷ giá

để hạn chế tin đồn gây hoang mang dư luận.

2.4.2. Những biện pháp góp phần hạn chế hoạt động của thị trường ngoại tệ

không chính thức.

Ban hành pháp lệnh ngoại hối [39] làm cơ sở pháp lý để qui định những

hoạt động liên quan đến ngoại hối là bước tiến trong quá trình xây dựng một

khung thể chế để điều hành TTNH, nhưng kể từ khi ban hành việc theo dõi giám

sát và sử dụng chế tài đối những hành vi vi phạm pháp lệnh ngoại hối hầu như

không được chú trọng mà chỉ thực hiện thanh tra, kiểm tra, phạt khi thị trường

ngoại hối gặp khó khăn về cung cầu ngoại tệ, tỷ giá căng thẳng…

Trong năm 2008, sau một loạt những hành động của Nhà nước nhằm vào

TTKCT mà đỉnh điểm là khoảng giữa năm 2008, thì TTKCT thức trầm lắng một

thời gian, có lúc gần như đóng băng, nhưng rồi sau đó thị trường hoạt động sôi

nổi trở lại cùng với sự lơ là trong kiểm tra của Nhà nước.

NHNN ban hành các chỉ thị kiểm tra và xử lý những vi phạm trong mua bán

và niêm yết giá bằng ngoại tệ [17] nhằm hạn chế TTKCT và tình trạng đô la hóa.

Tuy nhiên, vào năm 2010 hoạt động mua bán ngoại tệ trên TTKCT vẫn nhộn

nhịp vì lúc này sự chênh lệch tỷ giá giữa hai thị trường rất cao có lúc lên đến

2000VND, hầu như các NHTM không mua được ngoại tệ dẫn đến tình trạng

căng thẳng ngoại tệ trong khi đó nhu cầu thanh toán hàng nhập khẩu càng tăng,

107

NHNN kết hợp với các cơ quan chức năng đã thi hành nhiều biện pháp

mạnh nhằm hạn chế cơ sở tồn tại TTKCT như: cấm triệt để việc mua bán ngoại

tệ ngoài ngân hàng và đi kèm theo đó là những chế tài như tịch thu ngoại tệ, đồng

thời đưa ra những kiến nghị sẽ hạn chế kinh doanh vàng miếng ngoài thị trường

chính thức, trong thời gian này TTKCT đã co cụm không còn hoạt động rầm rộ

như trước và ngoại tệ cũng đã chảy vào ngân hàng nhiều hơn. Tuy nhiên, lại xuất

hiện vấn đề bức xúc là nhu cầu ngoại tệ chính đáng của người dân không được

ngân hàng đáp ứng, họ phải lén lút mua trên TTKCT với giá cao hơn nhiều.

2.5. Đánh giá quá trình phát triển TTNH của Việt Nam trong thời gian qua và nguyên nhân của những tồn tại

2.5.1. Những mặt đạt được

Thứ nhất, đã xây dựng nền móng cơ sở pháp lý cho hoạt động của TTNH

TTNH hoạt động theo qui chế được ban hành [29] về căn bản phù hợp với

Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín dụng đảm bảo cho hoạt động của thị trường

phù hợp với luật pháp, đồng thời cơ sở pháp lý của hoạt động kinh doanh ngoại

hối đang dần hoàn thiện, NHNN đã xây dựng hệ thống các văn bản pháp qui về

hoạt động quản lý ngoại hối với mức độ luật hoá càng cao không còn ở dưới

dạng các nghị định mà là pháp lệnh (Pháp lệnh ngoại hối ban hành năm 2005)

tạo môi trường cho việc điều hành, thực hiện chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối

và kinh doanh ngoại hối theo khuôn khổ của pháp luật.

Những qui định quản lý ngoại hối đáp ứng yêu cầu của điều VIII của Hiệp

Định GATT 1994 các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng lai đã được tự do hóa,

các biện pháp quản lý ngoại hối chỉ áp dụng trong những trường hợp ngoại lệ để

duy trì sự ổn định tài chính và tiền tệ quốc gia.

NHNN đã từng thành lập trung tâm giao dịch ngoại hối tạo cơ sở cho hoạt

động của một sàn giao dịch ngoại tệ, tuy nhiên cơ chế thanh toán và giao dịch

108

của trung tâm không hợp lý và không tương thích với hoạt động của sàn giao

dịch ngoại hối như TTNH của các nước trong khu vực và thế giới.

Thứ hai, ảnh hưởng tích cực của quá trình hội nhập tạo động lực cho các

NHTM trong nước nâng cao trình độ mở rộng hoạt động và tăng năng lực vốn.

Theo cam kết khi gia nhập WTO đến năm 2010 các ngân hàng nước ngoài được

phép thực hiện tất cả các dịch vụ mà NHTM trong nước được thực hiện(Phụ lục

số 3), sự cạnh tranh gay gắt của những đối tác nước ngoài có kinh nghiệm có

năng lực về vốn và trình độ cao đã tạo sức ép mạnh lên các NHTM, vì thế các

NHTM ngày càng chú ý tập trung nguồn lực để nâng cao trình độ chuyên môn,

trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại và tăng năng lực vốn để tạo điều kiện kinh

doanh ngoại hối tốt hơn. Điển hình như các NHTM trong nước: VCB, Eximbank

đã có trang bị phòng kinh doanh ngoại hối với các thiết bị hiện đại và tổ chức

hoạt động kinh doanh nối mạng với thị trường thế giới, hai ngân hàng này được

xem là có thế mạnh về kinh doanh ngoại hối với các chuyên gia có trình độ cao

về nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh đó là các ngân hàng nước ngoài, ngân

hàng liên doanh có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngoại hối trên TTNH

thế giới như: Standar Chartered Bank, Deustsche Bank, HSBC, … sẽ là những

chủ thể có khả năng tham gia và phát triển TTNH sẽ làm tăng tính cạnh tranh và

thanh khoản cao cho thị trường. Hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTM

ngày càng mở rộng và năng lực kinh doanh, quản trị rủi ro của các NHTM ngày

càng được chú trọng và củng cố.

Thứ ba, mặc dù giao dịch phái sinh còn sơ khai nhưng thị trường này đã

bước đầu hình thành trên cơ sở có khung pháp lý qui định và các chủ thể trên thị

trường đã làm quen với giao dịch kỳ hạn, quyền chọn tiền tệ để bảo hiểm rủi ro

tỷ giá và rủi ro lãi suất.

Thứ tư, thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động và có thời kỳ rất phát

triển (năm 2007, 2008) đã thu hút lượng ngoại tệ đầu tư gián tiếp nước ngoài

chảy vào rất mạnh mẽ, tác động làm tăng lượng cung ngoại tệ cho TTNH giải

quyết tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại tệ.

Thứ năm, thực hiện tốt cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai, thực hiện quản

lý giao dịch ngoại hối trên tài khoản vãng lai bằng những giải pháp thị trường và

109

theo pháp lệnh, xóa bỏ tình trạng cấp phép mua bán ngoại tệ, giao quyền kiểm tra

thực hiện việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ.

Tuy nhiên đánh giá hoạt động TTNH Việt Nam có thể thấy còn rất nhiều

hạn chế trong tổ chức, quản lý và điều hành thị trường.

2.5.2. Những hạn chế của Thị trường ngoại hối Việt Nam

2.5.2.1. Hoạt động TTNTLNH còn khiêm tốn

So với số lượng ngân hàng hiện nay(102 ngân hàng gồm tất cả các hình

thức sở hữu, chưa tính đến số lượng 17 công ty tài chính ) [66] số ngân hàng

tham gia trên TTLNH còn quá ít so với tổng số lượng các tổ chức tín dụng, các

định chế tài chính phi ngân hàng của tất cả các hình thức sở hữu hiện nay, điều

này cũng dẫn đến doanh số giao dịch trên TTNTLNH chiếm tỷ trọng nhỏ trong

tổng doanh số giao dịch ngoại tệ của nền kinh tế, qua đó cho thấy sự hạn chế về

năng lực kinh doanh ngoại hối và nguồn vốn còn khiêm tốn của các ngân hàng

tham gia TTNTLNH. Doanh số giao dịch chủ yếu là của NHNN, doanh số giao

dịch của các NHTM với vai trò nhà tạo giá còn hạn chế

Chính điều này đã cho thấy hoạt động của TTNTLNH chỉ là hình thức chưa

thực sự đóng vai trò là thị trường sơ cấp nơi hình thành tỷ giá, một biến số kinh

tế quan trọng ảnh hưởng đến quá trình điều hành chính sách tỷ giá. Điều này

cũng lý giải vì sao tỷ giá BQLNH thường có sự cách biệt so với tỷ giá trên

TTKCT.

Bên cạnh đó, trong vài thời điểm NHNN chưa thực hiện đầy đủ vai trò can

thiệp thị trường, là người cuối cùng mua bán ngoại tệ theo nhu cầu cuả thị trường

khi TTNH căng thẳng về cung cầu USD.

2.5.2.2. Hàng hóa trên thị trường ngoại hối chưa đa dạng

Một TTNH chỉ hoạt động sôi nổi khi nào có sự tham gia của nhiều đồng

tiền, nhưng TTNH của Việt Nam chủ yếu chỉ có USD còn các ngoại tệ mạnh

khác như EUR, JPY, GBP, AUD, SGD chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng

doanh số giao dịch, tỷ lệ doanh số giao dịch của các ngoại tệ khác USD chưa

tương thích với cơ cấu các quốc gia có giao dịch thương mại với Việt Nam.

110

Điều này xuất phát từ những nguyên nhân sau: (1) Do USD là đồng tiền

được chấp nhận nhiều trong thanh toán quốc tế cho dù là thanh toán giữa hai

quốc gia không có Mỹ; (2) Do thói quen sử dụng USD trong thanh toán, cất trữ,

định giá của thị trường Việt Nam; (3) Do các NHTM Việt Nam không sẳn lòng

mua những ngoại tệ khác USD trừ một vài ngân hàng lớn như VCB, Eximbank,

ACB.

2.5.2.3.Sự thiếu vắng nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá và mục đích tham gia thị

trường ngoại hối cũng chưa đa dạng

Trên TTNH thế giới sự tham gia của những người bảo hiểm (Hedger) là

lực lượng lớn tạo nên sự sôi động của thị trường nhưng ở Việt Nam hoạt động

này không được phát triển vì: (1) Do tỷ giá chậm điều chỉnh theo cung cầu trên

thị trường, hoặc điều hành theo khuynh hướng tạo tâm lý kỳ vọng vào sự gia tăng

của tỷ giá, vì vậy không tạo nên sự quan tâm đến việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá. (2)

Do người sử dụng ngoại tệ còn thiếu thông tin các sản phẩm phái sinh, thiếu

hướng dẫn về định giá sản phẩm này và năng lực dự báo tỷ giá, đa số các doanh

nghiệp hoạt động xuất nhập ở Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên không

có giám đốc tài chính phụ trách về rủi ro tỷ giá, doanh nghiệp chưa nhận thức

được tác động của rủi ro tỷ giá và hiệu quả của việc sử dụng các công cụ bảo

hiểm. Cũng như doanh nghiệp chưa chấp nhận phí bảo hiểm là một khoản chi

phải được tính vào giá thành sản phẩm và mục đích bảo hiểm rủi ro tỷ giá là để

cố định khoản thu và chi không bị rủi ro do tỷ giá biến động.

Tại TTNH của các khu vực và thế giới, các NHTM là những chủ thể chính

tham gia trên TTNH với nhiều mục đích và chức năng khác nhau tác động đến

hoạt động của TTNH. Nhưng mục đích của các NHTM Việt Nam tham gia

TTNH chủ yếu để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng. Còn những mục

đích như kinh doanh chênh lệch tỷ giá, đầu cơ, môi giới rất hạn chế.

Nguyên nhân là do: Thứ nhất, các NHTM hạn chế về nguồn ngoại tệ không

đủ để thực hiện các hoạt động kinh doanh và thiếu vắng đội ngũ chuyên viên có

trình độ và kinh nghiệm để phân tích, phán đoán xu hướng biến động của tỷ giá

111

cũng như khả năng sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro ngoại hối khi duy trì

một trạng thái mở ngoại tệ.

Thứ hai, NHNN vẫn chưa xem đầu cơ trên TTNH là một giao dịch như

những nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, và chưa thấy được vai trò của nhà đầu cơ

trên TTNH là làm tăng tính thanh khoản trên thị trường.

Thứ ba, là sự liên thông giữa TTNH trong nước và các TTNH trong khu

vực như Thị trường HongKong, Singapore hay ngoài khu vực Châu Á như Thị

trường ngoại hối London, Newyork còn hạn chế.

2.5.2.4 Thị trường phái sinh còn sơ khai

Như đã phân tích trong phần thực trạng TTNH Việt Nam có doanh số giao dịch

trên thị trường phái sinh rất thấp được được ước lượng gần 10% so với tổng

doanh số giao dịch trên TTNH, đây là một tỷ lệ quá nhỏ so với tiêu chuẩn quốc

tế, cụ thể theo dữ liệu khảo sát của BIS, giao dịch giao ngay chỉ chiếm 1/3, giao

dịch hoán đổi chiếm khoảng một nửa và giao dịch kỳ hạn là 10% , tương tự các

giao dịch phái sinh chiếm 50% trên thị trường trong nền kinh tế mới nổi của các

nước Châu Á trừ trường hợp của Trung Quốc nơi TTNH chủ yếu vẫn là giao

ngay[51].

Ngoài ra các giao dịch phái sinh chủ yếu là giao dịch kỳ hạn và hoán đổi còn

giao dịch quyền chọn ngày càng vắng bóng và chưa có giao dịch tương lai tiền tệ.

2.6. Nguyên nhân của thực trạng trên

2.6.1.Cơ chế điều hành tỷ giá chưa linh động với diễn biến của thị trường

Theo cơ chế thả nổi, tỷ giá được xác định bởi lực lượng thị trường và sự chi

phối của chính phủ trên tỷ giá này chỉ được thực hiện thông qua việc mua và bán

trên TTNH[48]. Trong trường hợp của Việt Nam, chứng minh cho cơ chế thả nổi

(float) như được đề cập trong chương 1 là NHNN không thiết lập tỷ giá chính

thức mà đơn giản chỉ thông báo tỷ giá bình quân liên ngân hàng được xác định

thông qua tương tác cung và cầu trên thị trường trong ngày giao dịch hôm trước.

Cơ chế quản lý (managed) là tỷ giá chỉ dịch chuyển trong biên độ được qui

định[51].

112

Trên thực tế tỷ giá hối đoái chính thức được thông báo hầu như không thay

đổi trong suốt giai đoạn từ năm 1994-1997, tỷ giá cố định trong khoảng 10890-

11175 VND/USD, chủ yếu là sử dụng biên độ và biên độ thì quá cao +/- 10% sau

đó giảm xuống +/-5%. Tuy vậy, tỷ giá các ngân hàng yết đều kịch trần, cho thấy

tỷ giá chính thức quá thấp so với tỷ giá thị trường. Sự bất hợp lý này chỉ có thể

xem lại tỷ giá chính thức chứ không thể nới rộng biên độ thêm nữa vì biên độ quá

cao sẽ gây mất ổn định như kinh nghiệm của Thái Lan sau khi mở biên độ giao

dịch lên 25%(năm 1997) TTNH đã nhanh chóng rơi vào hoảng loạn và NHTW

Thái Lan đã phải tiêu tốn 12 tỷ USD để giữ biên độ nhưng vẫn không có kết quả.

Năm 2001 tỷ giá chính thức sau khi đã cộng hết biên độ nhưng vẫn cách xa

so với tỷ giá TTKCT hơn 200 điểm, đó là vì tỷ giá được qui định với biên độ quá

nhỏ và biến động một chiều +0.1%, đã hàm ý cho thị trường thấy rằng tỷ giá chỉ

có tăng không có giảm, như vậy đã khuyến khích sự kỳ vọng tăng giá dẫn đến

hàng loạt những hoạt động gìm giữ ngoại tệ không đưa ra thị trường, người

không có nhu cầu thanh toán ngoại tệ vẫn mua ngoại tệ gây căng thẳng giả tạo.

Sau đó, để khắc phục các hạn chế này, ngày 1 tháng 7 năm 2002, NHNN mở

rộng biên độ tỷ giá lên ±0,25%.

Khuynh hướng điều chỉnh tăng tỷ giá qua các năm, năm 2001 tỷ giá tăng

3.9% so với 2000, năm 2002 tăng 1.97% so với năm 2001và năm 2003 tỷ giá

tăng khoảng 1.8% so với 2002. Từ năm 2004 đến 2006, tỷ giá tăng trung bình 1-

2% mỗi năm, một tỷ lệ tăng không phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế và

tình hình kinh tế thế giới trong giai đoạn này.

Cụ thể vào năm 2005, kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao, GDP tăng

8.4%, mức cao nhất trong 9 năm qua, trong khi đó USD tăng giá mạnh 14.5% so

với Euro, và 15% so với JPY[23], mặc dù cán cân vãng lai của Mỹ thâm hụt và

tỷ lệ lạm phát tăng do nền kinh tế Mỹ tiếp tục tăng trưởng tốt. Trong khi đó cán

cân tổng thể của Việt Nam năm 2005 đạt thặng dư tăng mạnh so với năm 2004,

do cán cân vốn và cán cân vãng lai đều thặng dư, lần đầu tiên từ năm 2001, cán

cân vãng lai (CCVL) thặng dư chủ yếu là do cán cân thương mại (CCTM) giảm

thâm hụt do lượng xuất khẩu tăng đồng thời được lợi về giá, thêm vào đó là do

tăng chuyển tiền một chiều. Đối với cán cân vốn tăng chủ yếu do nguồn vốn FDI,

113

ODA tăng. Trước thực tế đó, VND tăng giá so với các ngoại tệ mạnh khác (EUR,

GBP, JPY, AUD..) nhưng lại được điều chỉnh giảm giá so với USD và tỷ giá

TTLNH từ đầu năm đến cuối năm 2005 tăng 0.77%[21].

Vào năm 2006 khi USD giảm giá mạnh trên TTNH thế giới, tỷ giá

USD/EUR đã vượt quá giá trị 1.33USD=EUR vào trung tuần tháng 12/2006, cao

nhất kể từ khi EUR ra đời. So với GBP có lúc 1GBP xấp xỉ bằng 2 USD; tuy

nhiên tỷ giá VND/USD trên thị trường liên ngân hàng vẫn lại tăng 1.36%, tỷ giá

trên thị trường giao dịch giữa các NHTM và khách hàng tăng ít hơn khoảng

0.88%; trên thị trường tự do là 1.0% trong cả năm 2006.

Bảng 2.16: Diễn biến Tỷ giá BQLNH và

Tỷ giá bình quân thị trường tự do từ năm 1999- 2006

Đơn vị tính: đồng

Tỷ giá bình Tỷ giá bình Tỷ giá trần Chênh Năm quân liên quân thị có cộng biên độ lệch (1) ngân trường tự do (3) (5=4-3) hàng(2) (4)

13935 13949 13965 + 30 1999

14173 14187 14260 +93 2000

14488 14502 14728 +226 2001

15106 - 15278

15240 (Biên độ từ 0.1%lên 15288 +10 2002

0.25%)

15536 15530 15526 -4 2003

15724 15764 15777 +17 2004

15820 15859 15873 +14 2005

15966 16006 16030 +24 2006

Nguồn : Tổng hợp từ báo cáo của NHNN[21]

114

Biểu đồ 2.4: Sự biến động của tỷ giá trên thị trường chính thức

và thị trường tự do giai đoạn 1999-2006

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN[21]

Đầu năm 2007, NHNN đã mở rộng biên độ thêm +/-0.25% lên mức +/-

0.5% với đà tăng tỷ giá ở năm 2006 việc nới rộng biên độ ở đầu năm được kỳ

vọng là sẽ làm cho tỷ giá tiếp tục tăng. Tuy nhiên năm 2007, luồng ngoại tệ vào

nước ta tăng đột biến, tăng gấp 5 lần so với năm 2006, cùng với lượng kiều hối

chuyển về lớn đã gây áp lực tăng giá VND và lúc này tỷ giá trên TTLNH công

bố thấp hơn tỷ giá trên TTNT không chính thức và các NHTM yết tỷ giá mua

bằng tỷ giá bán ngoại tệ trên cơ sở trừ hết biên độ chứ không phải cộng như

thường lệ. Biến động tỷ giá trong năm 2007 ngược với thực trạng phổ biến từ

trước đó là: tỷ giá do NHNN công bố đã tăng khoảng 0.25%, trong khi đó trên thị

trường tự do vào cuối năm 2007 so với đầu năm thì tỷ giá không tăng thậm chí

còn giảm nhẹ. Vào cuối năm 2007, NHNN nới rộng biên độ lên +/- 0.75%(theo

QĐ số 3039/QĐ- NHNN ngày 24/12/2007). Tình hình trên kéo dài qua những

tháng đầu năm 2008, trong quý 1/2008, trên TTLNH, hầu hết các ngân hàng đều

yết giá trừ hết biên độ 0.75%, nhưng vẫn không bán ra được vì lúc này, các ngân

hàng đều thiếu hụt VND.

Diễn biến cung cầu ngoại tệ của năm 2007-2008 là tác động đầu tiên của

hội nhập kinh tế sau khi Việt Nam gia nhập WTO, phải ứng phó với luồng ngoại

tệ chảy mạnh vào trong nước và phản ứng của NHNN được cho là chưa kịp thời,

115

Bảng 2.17: Tỷ giá BQLNH và tỷ giá bình quân

trên thị trường tự do từ năm 2007-2010

Đơn vị: đồng

Năm TGBQLNH TG trần BQLNH Tỷ giá trên thị trường Chênh lệch

(1) (2) (3) tự do (4) (5=4-3)

2007 16,127 16,248 16,110 -138

2008 16,327 16,817 16,650 -167

2009 17133 17,880 18,334 +454

2010 18,710 19,272 19,630 +358

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN[21]

Biểu đồ 2.5: Tỷ giá VND/USD từ năm 2007 đến năm 2010

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của NHNN[21]

116

2.6.2. Sự tồn tại và ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính

thức

Như trong khung lý thuyết có trình bày khi nào trong nền kinh tế còn tồn tại

các tỷ giá khác nhau và tình trạng cầu vượt cung ngoại tệ thì sẽ tồn tại một thị

trường song song với thị trường ngoại tệ chính thức. Giao dịch trên thị trường

không chính thức(TTKCT) hiện nay vẫn còn sôi nổi và thanh khoản cao hơn

giao dịch trên TTNH chính thức. Bởi vì, những yếu tố của nền kinh tế tạo nên sự

tồn tại và phát triển của TTKCT vẫn còn như: tình trạng đôla hóa hiện diện trong

hầu hết các chức năng của tiền tệ, giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ vẫn còn

trong họat động của đời sống kinh tế, sự lo ngại về tình trạng mất giá của VND

đã tạo nên tâm lý thích tích trữ USD. Chênh lệch tỷ giá giữa TTNH chính thức và

TTKCT, là nguyên nhân gây khó khăn cho việc cạnh tranh thu mua ngoại tệ của

các ngân hàng với TTKCT, vì thế ngoại tệ không được tập trung vào ngân hàng,

đã làm cho tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại tệ của nước ta càng lớn. Thị

trường chính thức không đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của

doanh nghiệp của người dân, vì thế họ phải tìm đến TTKCT tạo điều kiện cho thị

trường này tồn tại và phát triển.

Ngoài ra, tình trạng bất ổn trên thị trường vàng trong nước theo những

chuyên gia tài chính cho là do giới đầu cơ đang thao túng, làm cho giá vàng trong

nước cao hơn giá thế giới, lượng vàng nhập lậu gia tăng dẫn đến tăng cầu về

ngoại tệ trên TTKCT, tác động tăng tỷ giá VND/USD, ảnh hưởng đến việc điều

hành chính sách tỷ giá của chính phủ.

2.6.3. Tính chuyển đổi của VND chưa cao

Theo quỹ tiền tệ quốc tế(IMF) một đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền

được sử dụng rộng rãi để thanh toán các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng

rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt. Có nghĩa là đồng tiền đó phải được chấp

nhận ở trong nước và trên quốc tế, để tự do chuyển đổi đồng tiền đó phải chuyển

đổi được sang ngoại tệ mà không có bất kỳ sự hạn chế nào.[15]

117

Để phát triển TTNH điều cần thiết là hàng hoá phải được lưu chuyển dễ

dàng, có nghĩa là VND phải được chuyển đổi dễ dàng sang ngoại tệ và ngược lại

khi có ngoại tệ có thể dễ dàng mua VND. Tuy nhiên, trong thời gian qua nhu cầu

ngoại tệ chính đáng của cá nhân và tổ chức kinh tế chưa được ngân hàng đáp ứng

đầy đủ, ngay cả những nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển ngoại tệ vào đầu tư

phải bán ngoại tệ sang VND để đầu tư trong nước và khi chuyển lợi nhuận về

nước họ cũng gặp khó khăn trong việc mua ngoại tệ, qua thực tế đó có thể đánh

giá mức độ tự hóa tài khoản vãng lai chưa được thực hiện đầy đủ hay tính chuyển

đổi của VND chưa cao.

Bên cạnh đó, để đánh giá một đồng tiền có khả năng chuyển đổi được phải

là đồng tiền được chấp nhận trong thanh toán quốc tế, nhưng VND chưa được sử

dụng nhiều trong hoạt động ngoại thương chỉ có một số quốc gia lân cận như

Lào, Campuchia, Trung Quốc trong thanh toán biên mậu là có sử dụng VND để

thanh toán.

Tính chuyển đổi VND thấp là do: (1) Nền kinh tế Việt Nam phát triển chưa

ổn định, tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng chất lượng tăng trưởng chưa cao,

năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn rất thấp so với các nước trong khu vực

và trên thế giới. Nền kinh tế còn nhiều bất ổn, mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu

tư, nợ công đang là vấn đề đáng báo động và nguy cơ lạm phát tăng cao.

(2) Thị trường tài chính còn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, thị trường chứng

khoán sụt giảm trầm trọng so với sự phát triển quá nóng cuả những năm 2006-

2007, hoạt động của thị trường chứng khoán ảm đạm dẫn đến đầu tư nước ngoài

sụt giảm ảnh hưởng mạnh đến luồng ngoại tệ chảy vào.Thị trường tiền tệ đang

trong giai đoạn các ngân hàng nhỏ thiếu thanh khoản đã cạnh tranh bằng việc

tăng lãi suất, gây ra cảnh tiền tệ chảy từ ngân hàng này sang ngân hàng khác có

lãi cao hơn, NHNN phải thực hiện biện pháp hành chính không chế trần lãi suất

tiền gửi, các ngân hàng nhỏ thiếu thanh khoản tìm mọi cách lách trần lãi suất

bằng nhiều hình thức khuyến mãi khen thưởng gây rối loạn thị trường và làm

giảm tính nghiêm minh của luật pháp.

118

(3) Chính phủ phải thực thi những biện pháp chống suy giảm kinh tế và chủ

trương kìm chế lạm phát, những hệ lụy của các biện pháp này đã gây sức ép

giảm giá trị VND, gây khan hiếm ngoại tệ và hạn chế tính chuyển đổi của VND.

(4) Tất cả những yếu tố trên đã dẫn tới tâm lý không muốn nắm giữ VND

của đại bộ phận người dân và để bảo toàn tài sản người dân thường chuyển từ

VND sang USD hay vàng, vì vậy thường tạo nên những cơn sốt vàng và ngoại tệ,

càng làm giảm khả năng chuyển đổi của VND.

2.6.4. Dự trữ ngoại hối thấp

Bảng 2.18: Dự trữ ngoại hối Việt Nam giai đoạn 2001–2010

Đơn vị tính: tỷ USD

Năm

2001

2002

2003

2004 2005 2006 2007 2008 2009

2010

6,314

8,6

11,5 21,0 23,0 14.1

12.4

Dự trữ ngoại hối 3,387 3,692 5,619

Nguồn: ADB, IMF Country Report No.09/110, the case of Vietnam [62]

Theo báo cáo của IMF dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt mức cao nhất là

vào 2 năm 2007, 2008 đạt mức 15 tuần nhập khẩu, vượt mức an toàn của IMF là

12-14 tuần nhập khẩu, đó là do trong 2 năm này kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh,

kiều hối chuyển về nước tăng và cán cân vốn cũng tăng mạnh. Tuy nhiên, so

sánh với luồng vốn ngắn hạn chảy mạnh vào trong 2 năm này, thì dự trữ ngoại

hối như vậy là còn thấp.

Đến năm 2009 mức dự trữ ngoại hối càng giảm mạnh chỉ còn tương đương

10 tuần nhập khẩu, đó là do những nguyên nhân khách quan của khủng hoảng tài

chính và suy thoái kinh tế thế giới đã làm cho kim ngạch xuất khẩu nước ta giảm

mạnh, chuyển tiền kiều hối giảm từ 1-1,2 tỷ USD và nhất là nguồn vốn đầu tư

vào Việt Nam FDI giảm mạnh vốn thực hiện dự báo giảm 16,5% [21], FII

chuyển ra ròng khoảng 560 triệu USD. Năm 2010, dự trữ ngoại hối sụt giảm chỉ

còn hơn 7 tuần nhập khẩu, giảm 12% so với năm 2009, một trong những yếu tố

chính làm sụt giảm dự trữ ngoại hối là do thâm hụt cán cân thanh toán, do nhập

siêu liên tục, trong năm 2009 nước ta nhập khẩu lên tới 84-85 tỷ USD, như vậy

cần phải dự trữ 20 tỷ USD mới đảm bảo nhập khẩu. Mức dự trữ như hiện nay là

119

quá thấp so với các nước trong khu vực như Philippine 62.4 tỷ USD, Malaysia

106.5 tỷ USD năm 2010 (theo báo cáo của ADB năm 2011).

Như vậy, tình hình dự trữ ngoại tệ của Việt Nam thấp chủ yếu là do: (1)

Cán cân thương mại thường xuyên thâm hụt, thặng dư của cán cân vốn lại giảm

dần từ năm 2008 đến nay đến nay, (2) Lỗi và sai sót trên cán cân thanh toán

quốc tế của Việt Nam quá cao năm 2009 hơn 1,3 tỷ USD, năm 2010 gần 1,1 tỷ

USD, điều này cho thấy lượng ngoại tệ vào có tăng nhưng không được tập trung

vào hệ thống ngân hàng và nguồn thu ngoại tệ còn nằm tản mạn trong dân cư,

trong các công ty. (3) Việc phối hợp chưa được chặc chẽ giữa Bộ Tài chính và

NHNN về quản lý nguồn thu ngoại tệ do xuất khẩu dầu thô làm hạn chế khai thác

hiệu quả nguồn thu ngoại tệ còn khan hiếm của đất nước.(4) Định hướng chiến

lược quản lý dự trữ ngoại hối chủ yếu mới chỉ đặt ra mặt cơ cấu đảm bảo an toàn

tài sản, hình thức đầu tư còn đơn giản chủ yếu dưới hình thức tiền gửi tại các

ngân hàng, các công cụ tài chính như trái phiếu chính phủ, chưa áp dụng các hình

thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao như đầu tư vào cổ phiếu hay uỷ thác đầu tư

vào các quỹ.

2.6.5. Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện

Pháp lệnh ngoại hối và Nghị định 160 đã được ban hành để quản lý hoạt

động kinh doanh ngoại hối theo khuôn khổ pháp luật, nhưng Thông tư hướng dẫn

thực hiện chế tài xử phạt do vi phạm pháp lệnh ngoại hối trong việc sử dụng

ngoại tệ thanh toán, yết giá hàng hóa trong nước gây trở ngại cho việc kiểm tra,

giám sát và xử phạt không đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp và giảm hiệu

quả của pháp lệnh và nghị định.

Các văn bản pháp lý qui định giao dịch phái sinh đã có nhưng chưa đầy đủ :

(1) Hạn chế về kỳ hạn đối với giao dịch kỳ hạn, (2) Không có những văn bản

hướng dẫn cụ thể thực hiện giao dịch quyền chọn, trong khi đó quyền chọn là

một sản phẩm phái sinh phức tạp về cách thực hiện cũng như cách tính phí.

120

Kết luận chương 2

Chương 2 đã trình bày những nét chung của TTNH thế giới và khu vực

ngày nay, những yếu tố thuận lợi và bất lợi đã tác động đến sự phát triển TTNH,

đồng thời phân tích thực trạng của TTNH Việt Nam. Nêu những hạn chế của

TTNH đó là: Thứ nhất, hoạt động của TTNTLNH chiếm tỷ lệ quá thấp so với

tổng doanh số giao dịch ngoại tệ trên thị trường, thứ hai là vai trò của NHNN

chưa phát huy hiệu quả đối với sự phát triển TTNH trong giai đoạn hội nhập, thứ

ba là sự tồn tại và hoạt động mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính thức,

thứ tư là thị trường ngoại tệ phái sinh còn sơ khai chưa được phát triển.

Trên cơ sở đó Luận án đã tóm tắt những mặt đạt được và những hạn trong

quá trình phát triển TTNH của Việt Nam thời gian qua, đồng thời đưa ra nguyên

nhân mà chủ yếu những thiếu sót trong quá trình điều hành chính sách tỷ giá và

thực thi những biện pháp quản lý ngoại hối là những nhân tố tác động trực tiếp

đến quá trình hoạt động và phát triển của TTNH nói riêng và nền kinh tế nói

chung để làm cơ sở cho những giải pháp trong chương 3.

121

CHƯƠNG 3

NHỮNG BIỆN PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG

NGOẠI HỐI VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP

3.1. Cơ sở và định hướng phát triển TTNH

3.1.1. Cơ sở phát triển thị trường ngoại hối

3.1.1.1. Căn cứ vào thành quả đạt được trong quản lý kinh tế của Việt Nam

trong những năm gần đây

TTNH là thị trường cấp cao trong hệ thống tài chính của một quốc gia, thị

trường chỉ có thể phát triển được cùng với sự phát triển của nền kinh tế với

những thành quả nhất định để làm cơ sở vật chất và trình độ nghiệp vụ cho hoạt

động của TTNH và ngược lại sự phát triển TTNH sẽ là nhân tố thúc đẩy sự phát

triển của nền kinh tế thông qua vai trò là cầu nối khơi thông dòng chảy vốn ngoại

tệ thu hút và khai thác hiệu quả nguồn vốn ngoại tệ. Chính vì thế, dựa vào thành

quả đạt được trong nền kinh tế để xem xét khả năng của nền kinh tế trong việc

phát triển TTNH là cần thiết.

Cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam vừa hoàn thành chiến lược phát triển kinh

tế xã hội 2001 – 2010 với những kết quả đáng khích lệ. Trong 10 năm, kinh tế

đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7,26%/năm với cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển

biến tích cực, thể chế kinh tế thị trường tiếp tục được hoàn thiện, quy mô nền

kinh tế tăng gấp 3,3 lần năm 2000. [20]

Điểm qua những thành tựu đạt được trong 3 năm gần đây, để thấy được sự

linh hoạt trong điều hành nền kinh tế trong bối cảnh mở cửa chịu nhiều tác động

của những yếu tố ngoại sinh.

Khủng hoảng tài chính trong năm 2008, 2009 đã đẩy kinh tế thế giới vào

tình trạng suy thoái, đồng thời làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị

trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế -

122

xã hội khác của nước ta. Cùng với đó là bão lũ xảy ra liên tiếp, dịch bệnh bùng

phát ở nhiều địa phương. Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam vẫn đạt được

những thành quả nhất định, kiềm chế lạm phát, chỉ số tăng giá tiêu dùng tháng

12/2009 so với tháng 12/2008 tăng 6,52%, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu tăng

dưới 10% Quốc hội đề ra; chỉ số tăng giá bình quân năm 2009 là 6,88%, thấp

nhất trong 6 năm gần đây.

Năm 2010, với diễn biến kinh tế thế giới thuận lợi hơn, cùng với sự năng

động của nền kinh tế, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,8%. Trong bối cảnh

gần như cả thế giới, kể cả những nền kinh tế phát triển tiếp tục lâm vào tình trạng

khủng hoảng nợ và chưa khắc phục xong cuộc khủng hoảng tài chính và suy

thoái kinh tế toàn cầu xuất phát từ Mỹ năm 2008, thì nền kinh tế Việt Nam vẫn

kiểm soát được hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô ở mức chấp nhận được. Tốc độ

tăng tín dụng tổng quát xung quanh 25%, đạt mức kỳ vọng; Thị trường bất động

sản khá ổn định ở mức không bị trồi, sụt quá lớn; Vốn đăng ký đầu tư trực tiếp

nước ngoài đạt 17,2 tỉ USD, vốn giải ngân tăng 10% so với 2009 và gần mức kỷ

lục 11,5 tỉ USD năm 2008; Xuất khẩu đạt 71,6 tỉ USD; Nhập siêu chỉ còn 17,3%

tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu; Tăng trưởng GDP khá, ở mức 6,78%.

[20].Việt Nam vẫn đứng trong số các nước tăng trưởng khá trong khu vực châu

Á.

Trên cơ sở những thành tựu đạt được của giai đoạn 2000-2010, chính phủ

đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011 - 2020, với mục tiêu

của Việt Nam là bảo đảm kinh tế vĩ mô, đạt được tốc độ tăng trưởng bền vững,

nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, duy trì xã hội

ổn định, đồng thuận, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tăng

cường công tác bảo vệ môi trường, chủ động đối phó với biến đổi khí hậu, nâng

cao hiệu quả của công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế, bảo đảm quốc phòng an

ninh, tạo nền tảng để đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại.

123

Cụ thể, năm 2011 mục tiêu chính phủ đặt ra là tốc độ tăng trưởng GDP sẽ

từ 7-7.5%, đảm bảo môi trường vĩ mô ổn định, đồng thời từng bước khắc phục

những tồn tại vốn có của nền kinh tế là cơ sở hạ tầng, thể chế và nguồn nhân lực

thì với nội lực sẵn có, nền kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 7% một cách

ổn định và bền vững.

Bên cạnh đó, những tổ chức quốc tế đã đánh giá khá tốt về môi trường đầu

tư của Việt Nam, cho thấy Việt Nam là một thị trường đầy hứa hẹn cho đầu tư,

kinh doanh quốc tế phát triển.

Xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam trong Báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn

cầu của Diễn đàn kinh tế Thế giới đã tăng lên vị trí 59 trong 139 nước trong năm

2010( từ vị trí 75 trong năm 2009) về môi trường đầu tư của Việt Nam, và xếp

hạng trong Chỉ số thuận lợi thương mại cũng diễn đàn này tăng lên vị trí 71 trong

125 quốc gia( từ vị trí 89 trong năm 2009).

Điều tra triển vọng đầu tư thế giới (WIPS) 2009 – 2011 của Diễn đàn

thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) cho thấy: Việt Nam là một

trong 15 nền kinh tế hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Những yếu

tố được các nhà đầu tư đánh giá là hấp dẫn ở Việt Nam vẫn là tốc độ phát triển

thị trường, khả năng thâm nhập và thị trường khu vực, nhân công rẻ và ưu đãi

đầu tư.

Theo báo cáo về môi trường kinh doanh 2011 do Ngân hàng Thế giới và

Công ty tài chính quốc tế IFC vừa thực hiện, Việt Nam xếp thứ 4 trong số 10 nền

kinh tế có mức độ cải cách nhất trong năm 2010 trên 3 lĩnh vực là thành lập

doanh nghiệp, cấp giấy phép xây dựng và vay vốn tín dụng.

3.1.1.2.Căn cứ vào sự tăng trưởng của hệ thống ngân hàng

Để tham gia TTNH thì các chủ thể tham gia thị trường phải có năng lực về

cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu, trong những chủ thể tham gia TTNH thì

ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất vì vậy xem xét đến sự phát triển hệ thống

ngân hàng của một quốc gia sẽ cho biết khả năng phát triển TTNH nói riêng và

thị trường tài chính nói chung của quốc gia đó.

124

Theo số liệu của IMF ngành ngân hàng ở Việt Nam đã mở rộng đáng kể

những năm gần đây, tổng tài sản của ngành đã tăng gấp 2 lần trong giai đoạn

2007-2010 từ 1057 tỷ đồng( 52,4tỷ USD) lên 2669 nghìn tỷ đồng(128 tỷ USD),

con số này được dự báo sẽ tăng lên 3667 nghìn tỷ đồng(175,4tỷ USD) vào cuối

năm 2012. Việt Nam cũng nằm trong danh sách 10 quốc gia có tốc độ tăng

trưởng tài sản ngân hàng nhanh nhất theo thống kê của The Banker, đứng vị trí

thứ hai chỉ sau Trung quốc. Trong đó Eximbank là ngân hàng duy nhất của Việt

Nam nằm trong tốp 25 ngân hàng có tốc độ tăng nhanh nhất về tài sản trong năm

2010, đứng ở vị trí thứ 13[74]. Thứ hai, hệ thống ngân hàng liên tục duy trì tăng

trưởng lợi nhuận và khả năng sinh lời khá tốt bất chấp khủng hoảng tài chính

trong nước, khu vực và thế giới, mức trung bình tăng trưởng lợi nhuận của 8

NHTM hàng đầu của Việt Nam là 46% trong năm 2008, 59% trong năm 2009 và

31% trong năm 2010, kết quả kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài không

được công bố rộng rãi, tuy nhiên đại diện của khối này là HSBC Việt Nam đã đạt

mức tăng trưởng 40% lợi nhuận sau thuế năm 2010.

Hệ thống ngân hàng lớn mạnh về vốn, lợi nhuận gia tăng chứng tỏ năng lực

kinh doanh của các ngân hàng đã có sự phát triển nhất định về trình độ kỹ thuật,

nghiệp vụ và quản trị rủi ro, đây là cơ sở điều kiện để các NHTM có thể tham gia

với TTNH khu vực và thế giới.

3.1.1.3. Căn cứ mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Tuy Việt Nam mới gia nhập WTO được hơn 3 năm nhưng tiến trình hội

nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã trải qua gần 20 năm, từ đầu thập niên 1990

đã bắt đầu tiếp nhận luồng vốn FDI và trở thành thành viên ASEAN vào năm

1995. Từ năm 1996, nước ta bắt đầu thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có

hiệu lực chung(CEPT), nhằm thiết lập khu vực thương mại tự do trong khối

ASEAN(AFTA). Một cột mốc quan trong trong quá trình hội nhập là vào năm

2000 Việt Nam ký và thực hiện năm 2001 Hiệp định thương mại song phương

với Hoa Kỳ với những nội dung và chuẩn mực cam kết sát với nội dung WTO.

Tiếp đến là Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Trung Quốc

125

được ký kết vào năm 2002, nội dung chính của Hiệp định là xây dựng một khu

vực thương mại tự do ASEAN-Trung quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm. Lĩnh

vực tự do hóa bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư cũng

như các hợp tác khác về tài chính, ngân hàng. Vào năm 2007, Việt Nam gia nhập

WTO, phải thực hiện một số nội dung liên quan đến thị trường tài chính như sau:

cam kết mở cửa thị trường thông qua cắt giảm thuế quan; chính sách giá cả minh

bạch, không phân biệt đối xử và phù hợp với các qui định của WTO, các doanh

nghiệp nhà nước hoạt động theo tiêu chí thương mại, nhà nước không can thiệp

trực tiếp hay gián tiếp vào họat động của doanh nghiệp, chấp nhận điều khoản

phi thị trường trong khoảng thời gian tối đa là 12 năm, cam kết mở cửa thị trường

dịch vụ tài chính, kiểm toán, kế toán, bảo hiểm…

Tháng 12/2008 khu vực thương mại tự do ASEAN-Nhật Bản ( AJFTA)

được thiết lập và có hiệu lực ngay với một số cam kết. Vào đầu năm 2009, khu

vực thương mại tự do ASEAN-Úc-Newzealand( ACERFTA) được ký kết. Các

Hiệp định tự do thương mại khu vực song phương có mức độ mở cửa còn cao

hơn cam kết trong WTO.

Qua những mốc lịch sử trên, có thể thấy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,

tự do hoá thương mại, đầu tư và chuyển sang thể chế kinh tế thị trường của Việt

Nam đang diễn ra ngày càng sâu rộng và không thể đảo ngược. Hội nhập kinh tế

chúng ta sẽ có điều kiện tốt hơn để mở rộng họat động ra nước ngoài và thâm

nhập thị trường nước ngoài dễ dàng hơn vì được đối xử bình đẳng tốt hơn

Thực tế cho thấy, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải cách đáng kể theo hướng

thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính – ngân hàng trước yêu cầu phát

triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời xây dựng

cơ sở tài chính hạ tầng để sẳn sàng tiếp nhận những cơ hội cũng như chuẩn bị

ứng phó với những thách thức của quá trình mở cửa mang đến. TTNH Việt Nam

là một trong những cơ sở hạ tầng tài chính chịu nhiều tác động của quá trình hội

nhập đó, đánh giá những yếu tố thuận lợi cũng như bất lợi do quá trình hội nhập

126

tài chính mang đến để từ đó có thể tận dụng những cơ hội nhằm thúc đẩy TTNH

phát triển đồng thời hạn chế những rủi ro do quá trình mở cửa mang đến.

3.1.2. Định hướng phát triển TTNH

3.1.2.1. Phát triển TTNH là bước đi tất yếu trong quá trình hoàn thiện và phát

triển thị trường tài chính của Việt Nam

Hội nhập kinh tế song hành với quá trình hội nhập về tài chính, vì thế Việt

Nam phải có những bước chuẩn bị để đón nhận những thời cơ lẫn những thách

thức của quá trình hội nhập đối với hệ thống tài chính. Thực tế, Việt Nam chưa

có một TTTC hoàn thiện mà đang trong quá trình xây dựng và phát triển, nhưng

muốn có TTTC phát triển thì phải phát triển đồng thời thị trường vốn và TTNH.

TTNH hoạt động hiệu quả sẽ làm tăng thanh khoản tạo điều kiện cho thị

trường vốn hoạt động sôi nổi, TTNH không chỉ hỗ trợ cho các nhu cầu thanh

toán ngoại tệ cho các giao dịch vãng lai và các giao dịch vốn, thị trường còn cung

cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, và là một kênh hỗ trợ cho Chính phủ

điều tiết thị trường tiền tệ. Một TTNH phát triển sâu rộng sẽ hỗ trợ cho tất cả các

mục tiêu của chính sách ngoại hối, từ đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán, nâng

cao khả năng tự do chuyển đổi của VND, đến việc điều hành chính sách tỷ giá

mục tiêu có hiệu quả. Ngược lại, thị trường vốn, thị trường tiền tệ phát triển sẽ

tạo điều kiện cho TTNH hoạt động hiệu quả hơn.

Vì thế, chiến lược phát triển TTNH phải nằm trong chiến lược tổng thể của

thị trường tài chính.

Dự báo đến năm 2020 TTTC Việt Nam sẽ phát triển mạnh, ổn định và hội

nhập sâu vào TTTC quốc tế. Hệ thống ngân hàng sẽ có những cải cách mạnh mẽ

sau khủng hoảng, có thể sẽ đưa đến việc thành lập các tập đoàn tài chính mới hội

nhập sâu rộng vào thị trường tài chính quốc tế, có qui mô vốn lớn, hoạt động đa

năng.

Trong dài hạn, với điều kiện kinh tế tăng trưởng bền vững, khu vực tài

chính Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện tốt để tăng trưởng, mở rộng hoạt động,

127

tăng cường sức cạnh tranh và mở rộng ra thị trường quốc tế. Sự hội nhập của nền

kinh tế Việt Nam vào kinh tế khu vực và quốc tế, và việc tiến hành tự do hóa tài

chính từng bước cũng yêu cầu hệ thống tài chính trong nước phải có sự điều

chỉnh trong cơ cấu hoạt động, năng lực quản trị rủi ro, tăng cường khả năng

chống đỡ đối với các cú sốc từ bên trong và bên ngoài, để có thể phát triển bền

vững.

3.1.2.2. Xây dựng hệ thống tài chính an toàn và hội nhập

Trong quá trình phát triển TTNH cần chú trọng đến nền tài chính còn sơ

khai doanh số còn thấp, kiến thức và kinh nghiệm của ngân hàng về công cụ giao

dịch phái sinh phức tạp như quyền chọn, giao dịch tiền tệ tương lai cũng như

trình độ kiến thức kinh tế thị trường của doanh nghiệp, cá nhân còn hạn chế. Vì

thế, phản ứng của nền kinh tế trước những chính sách vĩ mô, trước sự tác động

của khủng hoảng kinh tế sẽ có những diễn biến khó lường. Những nhà kinh

doanh, đầu tư, người dân thường bị yếu tố tâm lý chi phối mạnh, dẫn dắt và ứng

xử theo bầy đàn. Điều này cũng do môi trường có yếu tố thông tin bất đối xứng,

nguồn dữ liệu chưa được kiểm định, không thống nhất nhau giữa các cơ quan

thông tin ảnh hưởng mạnh đến việc phân tích và dự báo về diễn biến thị trường.

Để phát triển TTTC Việt Nam hoạt động an toàn và hiệu quả, đảm bảo an

ninh tài chính quốc gia; giám sát các luồng vốn; mở cửa khu vực tài chính theo

các cam kết quốc tế, cần có những giải pháp cơ bản về cơ chế và giám sát thị

trường tài chính nhằm hạn chế rủi ro.

Căn cứ vào những điểm tương đồng về thể chế chính trị và cơ sở hạ tầng

của nền kinh tế, và cùng xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị

trường, nước ta có thể dựa vào kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá trình mở

cửa và phát triển TTNH. Đáp ứng yêu cầu hội nhập nhưng vẫn đảm bảo độc lập

trong thực thi chính sách theo mục tiêu đề ra.

Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, mức độ tự do hóa các giao dịch ngoại

hối của Việt Nam hiện nay đã ngang với các nước có dự trữ ngoại hối lớn, đủ sức

can thiệp và đáp ứng cho thị trường. Pháp lệnh Ngoại hối của Việt Nam ban hành

128

năm 2005 được đánh giá là có độ mở lớn hơn điều lệ quản lý ngoại hối của Trung

Quốc ban hành năm 2008, các quy định về giao dịch vãng lai có độ mở ngang

nhau, các giao dịch vốn được thực hiện tự do hơn và rất thông thoáng.

Tuy nhiên, Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển chưa thực sự bền

vững, lạm phát cao, dự trữ ngoại hối của nhà nước còn mỏng, nhập siêu tăng qua

các năm, nếu hoạt động ngoại hối được tự do quá, sẽ gây khó khăn cho cơ quan

quản lý nhà nước, gây sức ép lên tỷ giá và ngăn cản việc tăng dự trữ ngoại hối.

Dựa vào cơ sở và định hướng trên, để phát triển TTNH Việt Nam trong tiến

trình mở cửa và hội nhập kinh tế, luận án đưa ra những biện pháp sau

3.2. Những biện pháp phát triển TTNH trong hội nhập kinh tế

3.2.1. Hoàn thiện TTNH theo hướng hiện đại và hội nhập

3.2.1.1. Minh bạch hóa thông tin trên thị trường

Phát triển TTNH theo hướng ngày càng hoàn thiện dần những đặc điểm cơ

bản vốn có của một TTNH là thị trường hoạt động hiệu quả, mà theo đó những

thông tin tác động đến tỷ giá được những nhà kinh doanh tiền tệ, những người có

những giao dịch liên quan đến ngoại tệ có thể tiếp cận dễ dàng. Muốn vậy, cần

thực hiện minh bạch hóa thông tin trên TTNH, thông qua các hình thức:

(1)NHNN phải là nơi cung cấp thông tin chính thống làm cơ sở dữ liệu để

hoạch định kế hoạch, chiến lược kinh doanh. Đồng thời những cơ quan chức

năng khác cũng phải xác định cập nhật và cung cấp thông tin thuộc trách nhiệm

của cơ quan và nêu rõ cách tính toán và sai số thống kê (nếu có). Ngoại trừ

những thông tin ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, còn những thông tin liên quan

đến hoạt động thị trường cần phải được công khai tạo điều kiện cho những người

có liên quan tiếp cận dễ dàng nhằm đảm bảo sự cạnh tranh hoàn hảo cho thị

trường.

Cụ thể với giải pháp này NHNN nên thường xuyên cập nhật thông tin trên

trang Web của NHNN, công khai các thông tin cần thiết về chính sách tiền tệ, về

mục tiêu tăng trưởng, lạm phát, để giúp doanh nghiệp và người dân hiểu đúng,

129

hiểu đầy đủ bản chất của mọi diễn biến trong nền kinh tế nói chung và thị trường

ngoại tệ nói riêng và trên cơ sở đó có ứng xử phù hợp.

Trên TTNH Việt Nam còn thiếu vắng vai trò của các công ty tư vấn tài

chính chuyên nghiệp, vì thế đồng thời với quá trình minh bạch hóa thông tin nên

khuyến khích thành lập các công ty phân tích và dự báo tỷ giá chuyên cung cấp

thông tin liên quan đến sự thay đổi của tiền tệ, đây cũng là một biện pháp hổ trợ

những nhà đầu tư có vốn nhưng không có kinh nghiệm kinh doanh.

(2)NHNN khi xây dựng chính sách về tỷ giá, nên có những cuộc tranh luận

để xác định mức tỷ giá thích hợp cho từng thời điểm. Bởi vì, khi đưa ra bất cứ

mức tỷ giá nào mà không có lý do chính đáng, không mang tính thuyết phục cao

và giải thích rõ ràng sẽ tạo ra sự hoài nghi và bị tâm lý đám đông chi phối làm thị

trường hỗn loạn, mục tiêu chính sách có thể bị phá sản.Trong những trường hợp

có những luồng dư luận gây tâm lý xáo trộn làm thị trường biến động bất thường,

NHNN phải kịp thời thông tin rộng rãi trên những phương tiện truyền thông và

trong những trường hợp hợp cần thiết phải công khai mức dự trữ ngoại hối để

người dân, doanh nghiệp an tâm về sự nhất quán trong quá trình thực thi chính

sách của nhà nước.

3.2.1.2. Mở rộng các chủ thể kiến tạo thị trường

Để TTNH là thị trường có hiệu quả phải có đầy đủ các chủ thể với các chức

năng khác nhau tham gia thị trường ngoại hối. Mỗi chủ thể với chức năng là nhà

tạo lập thị trường, nhà môi giới, tư vấn, đầu cơ và chức năng can thiệp thị trường

của NHNN sẽ làm cho thị trường hoạt động sôi nổi, tính thanh khoản cao, đáp

ứng nhu cầu đa dạng của những thành viên tham gia và tác động ngược lại làm

cho thị trường hoạt động hiệu quả hơn.

Muốn vậy, NHNN mở rộng số lượng các thành viên tham gia TTNH, nới

lỏng các qui định và thủ tục rườm rà để lôi kéo nhiều tổ chức tài chính tham gia

thị trường. Đồng thời, để TTNH phát triển phù hợp với tiến trình hội nhập quốc

tế, ngoài thành viên là các tổ chức tín dụng cần phải mở rộng thêm cho những tổ

chức kinh tế, cá nhân có thể tham gia thông qua các tổ chức môi giới. Việc đầu tư

130

vào ngoại tệ cũng tương tự như việc đầu tư vào các loại tài sản khác, nhà đầu tư

có thể mở tài khoản giao dịch ngoại tệ tại các công ty môi giới tương tự như tài

khoản chứng khoán rồi nạp VND hoặc USD vào tài khoản và giao dịch mua bán

ngoại tệ. Khi muốn rút tiền, họ sẽ phải bán ngoại tệ ra thị trường để lấy VND.

Bằng cách này, tuy họ có tài khoản đầu tư bằng ngoại tệ nhưng trên thực tế ngoại

tệ không chảy ra khỏi hệ thống ngân hàng.[65]

Ngoài ra, NHNN nên nhìn nhận chính xác hơn về khái niệm đầu cơ trên

TTNH, theo lý thuyết hoạt động cơ ngoại tệ là tạo trạng thái ngoại tệ mở với mục

đích để kiếm lời thông qua sự biến động của tỷ giá và chấp nhận rủi ro nếu tỷ giá

biến động ngược với dự đoán, có thể ví von hành động của họ là tấm đệm để

thẩm thấu những rủi ro mà những người bảo hiểm rủi ro tỷ giá bán lại trên thị

trường. Một thị trường có người bán sẽ có người mua thì thị trường mới hoạt

động sôi nổi và tính thanh khoản mới cao.

Tuy nhiên, để thị trường hoạt động theo khuôn khổ pháp luật, đảm bảo an

toàn hệ thống tài chính cần phải có hệ thống giám sát, theo dõi phát hiện kịp thời

những hành động đầu cơ gây rối loạn thị trường, đây là điều không thể tránh khỏi

khi mở cửa thị trường chúng ta phải chuẩn bị đón nhận tất cả những cơ hội lẫn

thách thức do quá trình mở cửa mang đến. Vấn đề là nên chủ động để đối phó,

trên cơ sở học tập kinh nghiệm trong quản lý và điều hành TTNH của những

quốc gia tiên tiến trên thế giới.

3.2.1.3. Hoàn thiện các sản phẩm ngoại hối phái sinh

Giao dịch ngoại hối phái sinh đã xuất hiện ở Việt Nam khoảng 10 năm, tuy

nhiên như đã nhận xét trong chương 2, TTNH phái sinh hầu như dậm chân tại

chỗ chưa phát triển, ngoài những nguyên nhân khách quan còn do yếu tố chủ

quan là những giao dịch phái sinh được thực hiện chưa hoàn toàn phù hợp với

những tập quán quốc tế, chưa phát huy hết những tiện ích cho người sử dụng. Vì

thế để phát triển TTNH phái sinh, cần phải hoàn thiện các sản phẩm này với

những biện pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, mở rộng kỳ hạn đối với giao dịch kỳ hạn

131

Theo quyết định 648/2004/QĐ-NHNN, giao dịch kỳ hạn có kỳ hạn tối thiểu

là 3 ngày và thời hạn tối đa là 365 ngày. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có những

khoản đầu tư, thanh toán bằng ngoại tệ có thời hạn dài hơn 365 ngày, nếu khách

hàng có nhu cầu sử dụng hợp đồng kỳ hạn để bảo hiểm rủi ro tỷ giá trong những

trường hợp này thì họ không thể thực hiện được. Trong khi trên thế giới kỳ hạn

trong các giao dịch kỳ hạn này đều do hai bên tham gia tự thỏa thuận. Như vậy,

để tránh tình trạng khách hàng có nhu cầu sử dụng hợp đồng kỳ hạn nhưng lại

không thực hiện được do hạn chế về quy định kỳ hạn tối đa là 365 ngày, NHNN

cần xem xét việc dỡ bỏ kỳ hạn tối đa của giao dịch kỳ hạn để các chủ thể tham

gia giao dịch chủ động hơn trong việc sử dụng các hợp đồng kỳ hạn. Điều này

không những tạo thuận lợi cho các chủ thể tham gia thị trường với mục đích kinh

doanh, đầu tư hay bảo hiểm có nhiều kỳ hạn để lựa chọn và đáp ứng nhu cầu đa

dạng trong kinh doanh có như vậy các NHTM mới có thể phát triển sản phẩm và

tăng cường doanh số giao dịch.

Thứ hai, để các NHTM được chủ động tính toán tỷ giá kỳ hạn

Trong các giao dịch ngoại hối phái sinh được cho phép sử dụng tại Việt

Nam giao dịch ngoại hối kỳ hạn có khung pháp lý quy định khá rõ ràng, và trong

những năm gần đây đã được hoàn thiện, cách tính tỷ giá kỳ hạn đã dần phù hợp

hơn với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, để tỷ giá này phù hợp với ý nghĩa là tỷ giá

giao ngay kỳ vọng trong tương lai thì các yếu tố hình thành nên tỷ giá phải là

những yếu tố thị trường tác động trực tiếp lên tỷ giá, đó là: tỷ giá giao ngay, lãi

suất thị trường của 2 đồng tiền liên quan và kỳ hạn tương ứng. Nhưng theo cách

xác định hiện tại thì lãi suất được sử dụng là lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam

do NHNN Việt Nam công bố và lãi suất mục tiêu của USD do Cục Dự Trữ Liên

Bang Mỹ (FED) công bố. Dù cách tính này tiến bộ hơn so với cách quy định mức

gia tăng cho phép đối với mỗi kỳ hạn cố định được áp dụng từ trước năm 2004

tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp.

Đó là, lãi suất để tính tỷ giá kỳ hạn không phải là lãi suất tiền gửi và lãi suất

cho vay của VND và USD, nghĩa là không do cung cầu của thị trường tiền tệ

132

quyết định mà là do sự điều chỉnh của Chính phủ Việt Nam và Mỹ nên chưa

phản ánh đúng thị trường, có khi không phản ánh đúng chênh lệch lãi suất tiền

gửi và lãi suất cho vay tương ứng của VND và USD trên thị trường ngoại hối

Việt Nam. Do đó có thể làm cho tỷ giá kỳ hạn không sát với thực tế, đặc biệt với

những kỳ hạn dài thì điểm kỳ hạn được tính quá rộng trong khi thực tế thì tỷ giá

có thể không biến động mạnh đến vậy. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng tỷ giá kỳ

hạn bán ra của ngân hàng thường cao hơn tỷ giá giao ngay tại thời điểm hợp

đồng đến hạn, làm cho các doanh nghiệp bảo hiểm rủi ro đều thấy bất lợi nếu sử

dụng giao dịch kỳ hạn so với mua ngoại tệ giao ngay tại thời điểm thanh toán.

Vì vậy, để cách tính tỷ giá kỳ hạn phản ánh đúng những diễn biến của thị

trường và để giảm bớt những bất hợp lý giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay

của kỳ hạn đó thì nên để các NHTM tự xác định tỷ giá kỳ hạn dựa trên các mức

lãi suất tiền gửi và cho vay của thị trường. Việc xác định tỷ giá kỳ hạn do mỗi

ngân hàng thực hiện đòi hỏi ngân hàng phải tính toán kỹ lưỡng khi đưa ra tỷ giá

kỳ hạn, bởi vì lúc này các ngân hàng phải cạnh tranh nhau để đưa ra tỷ giá phù

hợp nhất, và nếu tỷ giá kỳ hạn được xác định vượt mức khách hàng chấp nhận thì

khách hàng sẽ mua bán trên thị trường giao ngay hoặc giao dịch với các ngân

hàng khác có mức giá cạnh tranh hơn và ngân hàng sẽ mất đi cơ hội kinh doanh.

Thứ ba, xóa bỏ việc ký quỹ trong giao dịch kỳ hạn

Một vấn đề nữa trong việc sử dụng giao dịch kỳ hạn đó là các NHTM nên

bỏ qui định ký quỹ khi thực hiện hợp đồng[14] Tuy là một biện pháp nhằm hạn

chế rủi ro trong trường hợp khách hàng hủy bỏ hợp đồng khi đến hạn. Trường

hợp này xảy ra khi đến hạn thanh toán hợp đồng, tỷ giá lại có sự biến động quá

lớn so với tỷ giá thực hiện, gây nguy cơ thua lỗ cao cho khách hàng.

Trong giai đoạn hiện nay, khi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được

phép thâm nhập ngày càng sâu rộng vào TTTC nước ta, thì những biện pháp

không phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ làm giảm tính cạnh tranh của các NHTM

Việt Nam so với các ngân hàng quốc tế.

Thứ tư, xem lại cách tính tỷ giá trong giao dịch hoán đổi ngoại tệ

133

Thay đổi cách tính tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch hoán đổi ( nên sử dụng tỷ

giá giao ngay đã áp dụng trong vế giao ngay để tính tỷ giá kỳ hạn) như vậy sẽ có

lợi cho khách hàng hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế, đây là giai đoạn ban

đầu hội nhập việc sử dụng phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo cơ hội cho TTNH

Việt Nam có thể liên thông dễ dàng với TTNH thế giới, đồng thời khuyến khích

khách hàng sử dụng đa dạng các công cụ phái sinh bảo hiểm rủi ro tỷ giá.

Thứ năm, mở rộng thực hiện giao dịch quyền chọn

Để khuyến khích sử dụng giao dịch quyền chọn, NHNN nên cho phép thực

hiện trở lại việc sử dụng quyền chọn ngoại tệ với VND, thay vì chỉ cho phép thực

hiện ngoại tệ với ngoại tệ, vì hiện nay ở Việt Nam mục đích sử dụng giao dịch

quyền chọn chủ yếu là bảo hiểm rủi ro tỷ giá, nếu các doanh nghiệp xuất nhập

khẩu không thể mua quyền chọn bằng VND mà phải thông qua một ngoại tệ

khác, thì việc bảo hiểm sẽ không còn ý nghĩa vì nếu ngoại tệ được chọn làm

trung gian để bảo hiểm không biến động cùng chiều ( tăng cùng tăng, giảm cùng

giảm) và không tương thích về độ tăng giảm của tỷ giá với ngoại tệ cần bảo hiểm

kết quả sẽ ngược lại. Thực tế cũng đã chứng minh điều này, khi NHNN ra quyết

định không cho thực hiện giao dịch quyền chọn ngoại tệ và VND thì doanh số

giao dịch quyền chọn sụt giảm trầm trọng.

Bên cạnh đó, với ý kiến lo ngại việc các NHTM sử dụng giao dịch quyền

chọn như một hình thức để mua bán ngoại tệ lách trần tỷ giá qui định, NHNN có

thể kiểm tra thông qua việc lựa chọn mẫu vài hợp đồng quyền chọn, nếu hợp

đồng quyền chọn mua ngoại tệ có tỷ giá thực hiện cao hơn tỷ giá giao ngay ( E

>S) tại thời điểm thực hiện hợp đồng mà khách hàng vẫn quyết định thực hiện

hợp đồng mua ngoại tệ là điều phi lý và có thể thấy ngay đây là một hợp đồng

quyền chọn núp bóng để né trần tỷ giá. Mặt khác, có thể hạn chế về kiểu quyền

chọn chỉ cho phép thực hiện quyền chọn kiểu Châu Âu vào ngày đáo hạn mới

được phép thực hiện

Thứ sáu, nên đưa dần giao dịch tương lai tiền tệ vào thực hiện

134

Trên cơ sở giao dịch tương lai hàng hóa thép, coffee, gạo, đã được các ngân

hàng triển khai thực hiện. Như vậy bước đầu thị trường cũng đã làm quen dần

với một công cụ phái sinh được sử dụng để bảo hiểm rủi ro về giá cả. Có thể tổ

chức các buổi hội thảo đúc kết kinh nghiệm và giới thiệu về giao dịch này.Chuẩn

bị những điều kiện cần thiết để đưa giao dịch tiền tệ tương lai vào thực hiện trước

tiên cần phải có sàn giao dịch tập trung.

Ngoài những biện pháp cụ thể nêu trên, NHNN cần thay đổi nhận thức rằng

các sản phẩm phái sinh là mang tính đầu cơ, cờ bạc. Sản phẩm phái sinh vừa là

công cụ phòng ngừa rủi ro vừa là công cụ để đầu cơ. Nhà đầu cơ chính là nhà đầu

tư rủi ro, họ sử dụng các phân tích đánh giá thị trường và chấp nhận rủi ro để ra

quyết định mua bán những giá trị trong tương lai, nếu những dự đoán của họ

đúng thì họ lời, ngược lại phải gánh chịu thua lỗ.

Tuy nhiên, thị trường các sản phẩm phái sinh là một loại thị trường cao cấp,

rất phức tạp, dễ bị lợi dụng để đầu cơ lũng đoạn thị trường nên rất cần các nhà

quản lý tài giỏi nhiều kinh nghiệm và phải được quản lý chặt chẽ, thường xuyên

cập nhập số liệu để quản lý và phát hiện các biểu hiện không bình thường của thị

trường để có chính sách can thiệp cần thiết, không để nó hoạt động và phát triển

theo hướng tiêu cực.

3.2.1.4. Khuyến khích thành lập các công ty môi giới, công ty tư vấn

Các công ty môi giới đóng vai trò là cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ trên

TTNH, tăng tính thanh khoản cho thị trường. Các doanh nghiệp cũng như ngân

hàng dễ dàng hơn khi muốn mua hoặc bán ngoại tệ, sẽ kích thích hoạt động của

thị trường trở nên sôi động hơn.

Giao dịch thông qua môi giới có ưu điểm là nhu cầu mua bán được lan

truyền nhanh, nhà đầu tư có thể giữ bí mật chiến lược kinh doanh khi đặt lệnh

thông qua môi giới và giá mà môi giới cung cấp là giá cạnh tranh nhất. Do đó,

vai trò của nhà môi giới là cần thiết cho TTNH, nước ta chưa có tổ chức môi giới

chuyên nghiệp vì vậy trong quá trình phát triển TTNH cần chú ý đến yếu tố này.

135

Trước tiên, để thành lập các công ty môi giới ngoại hối nên dựa trên những

cơ sở sẳn có của các NHTM từ việc thành lập công ty con với chức năng môi

giới ngoại hối, bởi vì ngân hàng là tổ chức kinh tế có những chuyên gia về lĩnh

vực tài chính- ngân hàng, có sẳn khách hàng có nhu cầu về mua bán ngoại tệ. Sau

đó từng bước thành lập các công ty môi giới hoạt động độc lập, mà những công

ty này có thể là những người kinh doanh vàng và ngoại tệ trên thị trường tự do

hiện nay, việc đưa họ vào kinh doanh trên thị trường chính thức vừa đưa dần hoạt

động ngoại tệ vào khuôn khổ luật pháp vừa phát huy được những kinh nghiệm về

kinh doanh ngoại tệ đồng thời cũng là biện pháp thu hẹp hoạt động của thị trường

ngoại tệ không chính thức.

Hoạt động tư vấn ở Việt Nam còn chưa được chú trọng, trong khi kiến thức

về kinh doanh ngoại hối, khả năng phân tích thị trường của những nhà đầu tư,

kinh doanh ngoại tệ chưa đủ để tiếp cận thị trường, mà thị trường thế giới ngày

càng biến động phức tạp, việc nắm bắt thông tin kịp thời để đưa ra quyết định

đúng đắn là một trong những yếu tố thành công của hoạt động kinh doanh ngoại

hối. Dịch vụ tư vấn này có thể do chính các ngân hàng có hoạt động kinh doanh

ngoại hối cung cấp, hay là công ty độc lập bởi các tổ chức truyền thông có sự

hợp tác của các chuyên gia về hoạt động đầu tư kinh doanh ngoại hối.

Các công ty môi giới và tư vấn phải được thành lập và hoạt động trong

khuôn khổ pháp luật và phải được cấp phép của NHNN để tham gia trên TTNH

Việt Nam với chức năng trên được xem như là một thành viên chính thức của

TTNH.

3.2.1.5. Xây dựng lộ trình thành lập sàn giao dịch ngoại tệ

Theo mô hình TTNH của Trung Quốc có những điểm phù hợp về bộ máy tổ

chức với hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, theo đó sự phân công quản lý về

hoạt động ngoại hối là Vụ Quản lý ngoại hối, có trách nhiệm tham mưu giúp

Thống đốc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động quản lý ngoại hối,

trong đó bao gồm quản lý quản lý TTNH, TTNTLNH, quản lý trạng thái ngoại

hối của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối. Như vậy là Vụ

136

quản lý ngoại hối có trách nhiệm giống như ban quản lý ngoại hối của Trung

Quốc (SAFE) cũng quản lý cả hai thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường

bán lẻ.

Tuy nhiên, Việt Nam chưa có Hệ thống giao dịch ngoại tệ (CFETS) được hoạt

động như sàn giao dịch ngoại tệ, trên thị trường ngoại hối Trung Quốc, CFETS là

sàn giao dịch hoạt động trên cơ sở các thành viên với một hệ thống giao dịch điện

tử toàn quốc, được tổ chức trên thị trường liên ngân hàng. Với một cơ chế giao

dịch đấu giá mở tương tự như một nhà môi giới điện tử, giao dịch với nhau trên

sàn hoặc qua hệ thống giao dịch từ xa, sàn giao dịch điện tử sẽ ngay lập tức khớp

các lệnh[60].

Nhưng mô hình xây dựng sàn giao dịch của Việt Nam không hoàn toàn giống

như của Trung Quốc vì CFETS phải chịu sự kiểm soát quá chặt chẽ của PBOC và

theo định hướng của nền kinh tế độc quyền phi thị trường, làm cho các thành viên

trên CFETS giao dịch không mang tính cạnh tranh sàn giao dịch ngoại hối của

Việt Nam khi xây dựng sẽ định hướng theo cơ chế thị trường chế thị trường, và

chịu sự quản lý của Sở giao dịch ngoại hối (The Foreign Exchange) được tổ chức

như hình thức Sở giao dịch chứng khoán hiện nay.

Để TTNH Việt Nam phát triển có thể thực hiện đa dạng các loại giao dịch

ngoại hối phái sinh cần phải có Sở giao dịch tổ chức thực hiện vì giao dịch tương

lai tiền tệ chỉ có thể thực hiện được khi có Công ty thanh toán bù trừ là đại diện

của Sở giao dịch đứng ra thực hiện quá trình thanh toán và bù trừ cho các bên.

Sở giao dịch chịu trách nhiệm xây dựng các qui chế hoạt động, ban hành các

qui định để là thành viên của Sở giao dịch, thành lập sàn giao dịch ,các trung

tâm thanh toán bù trừ, các công ty thanh khoản thành viên để theo dõi tài khoản

của các nhà kinh doanh.

3.2.1.6. Đa dạng hóa các ngoại tệ trong giao dịch

Hiện nay, TTNH nước ta vẫn giao dịch chủ yếu bằng USD, điều này cũng

do tác động của thị trường trong thời gian qua của nước ta. Tuy nhiên, với xu

hướng đa dạng hóa ngoại tệ trong thanh toán quốc tế thì cần thiết đòi hỏi phải đa

137

dạng hóa ngoại tệ giao dịch trên TTNH để hỗ trợ cho hoạt động thanh toán quốc

tế góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương và đầu tư quốc tế phát triển.

Việc nhiều ngoại tệ được giao dịch trên thị trường cũng giúp đa dạng hóa

cơ cấu ngoại tệ của quốc gia cũng như cơ cấu dự trữ ngoại hối. Bên cạnh đó, đây

cũng là một yếu tố làm tăng tính mở của TTNH, hỗ trợ cho việc tăng khả năng

chuyển đổi của VND.

Đa dạng các ngoại tệ làm cho lượng ngoại tệ được giao dịch sẽ nhiều hơn,

hàng hóa trên thị trường sẽ phong phú hơn như vậy doanh số giao dịch sẽ gia

tăng và TTNH sẽ hoạt động hiệu quả hơn.

3.2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối

3.2.2.1. Về điều hành tỷ giá

Khi nền kinh tế ngày càng hội nhập, dù chưa hoàn toàn tự do hóa tài khoản

vốn nhưng dưới yêu cầu của những cam kết khi gia nhập WTO luồng vốn sẽ

di chuyển dễ dàng hơn đã đặt ra thách thức mới đối với việc kiểm soát luồng

vốn, điều hành chính sách tiền tệ và cơ chế tỷ giá mà những nhà nghiên

cứu gọi là "bộ ba bất khả thi": (i) tỉ giá hối đoái cố định; (ii) tự do hóa tài

khoản vốn và (iii) sự độc lập của chính sách tiền tệ. Các nhà làm chính sách

hiểu rằng chỉ có thể đạt được 2 trong 3 mục tiêu trên cùng một lúc, vì nếu tự do

hóa luồng vốn mà thực thi chính sách tỷ giá cố định cần phải mua ngoại tệ vào

đưa nội tệ ra làm tăng lượng cung tiền ảnh hưởng đến việc thực hiên mục tiêu

của chính sách tiền tệ, vì thế nếu muốn tự do hóa dòng vốn và ổn định tiền tệ

thì phải thả nổi tỷ giá. Tương tự để có thể vừa thực hiện chính sách tỷ giá cố

định vừa đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ thì cần phải kiểm soát

dòng vốn không thể tự do hóa

Điều này đã được chứng minh trong giai đoạn năm 2007-2009, khi lượng

ngoại tệ chảy vào gia tăng mạnh mẽ, NHNN đã phải mua USD để ổn định tỷ

giá và không thực hiện trung hòa kịp thời cùng với giá nguyên liệu thế giới gia

tăng đã làm tăng mức lạm phát, ngay cả khi trung hòa kịp thời thì lãi suất vẫn

138

bị tác động ảnh hưởng mục tiêu của chính sách tiền tệ. Như vậy, việc hội nhập

kinh tế đã đặt ra cho NHNN những thách thức về điều hành chính sách vĩ mô

nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng.

Để thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt cần phải xác định:

Thứ nhất, nên xây dựng một cơ chế điều hành tỷ giá linh động vừa hoạt

động trong điều kiện bình thường vừa sử dụng khi có các cú sốc từ bên ngoài hay

khi khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Vì vậy, chính sách tỷ giá nên được xây dựng theo

hướng thiên về thả nổi nhằm phản ánh đúng những biến động của thị trường

nhưng NHNN sẽ có những hành động can thiệp kịp thời đúng thời điểm thông

qua việc mua vào và bán ra ngoại tệ khi tỷ giá biến động quá mức, kết hợp với

việc kiểm soát luồng vốn. Tuy nhiên, để tỷ giá của TTLNH là tỷ giá phù hợp với

giá trị thực của VND thì hoạt động trên TTLNH phải hiệu quả sự tham gia đặt

lệnh mua bán của các chủ thể trên thị trường phải sôi nổi doanh số chiếm tỷ trọng

lớn và vai trò tham gia của NHNN chỉ là thành viên của thị trường và đóng vai

trò can thiệp.

Như vậy, tỷ giá hàng ngày được công bố phải theo tín hiệu thị trường,

trong một ngày tỷ giá cũng có thể tăng và giảm chứ không chỉ có một tỷ giá cố

định trong suốt ngày và thậm chí là suốt tuần như trước hay cố định một thời

gian lâu rồi sau đó lại tăng mạnh như cách điều hành tỷ giá từ trước nay, mà nên

thay đổi có tăng có giảm hàng ngày vì: (1) Chính sự tăng giảm đó mới tạo cơ hội

cho hoạt động kinh doanh ngoại hối phát triển, vì nếu giá cả của thị trường(tỷ

giá) cứ cố định thì sẽ không có rủi ro tỷ giá và không cần thực hiện bảo hiểm rủi

ro, như vậy sẽ không có các chủ thể muốn bảo hiểm rủi ro hạn chế lượng thành

viên tham gia thị trường.

(2) Việc điều hành tỷ giá tạo ra tâm lý kỳ vọng sự tăng giá USD như bao

lâu nay cũng không phù hợp với xu thế vận động của thị trường mà nên linh hoạt

hơn phù hợp với diễn biến của cung cầu tiền tệ trên thị trường.

Để có thể xác định tỷ giá phù hợp với cơ chế thị trường vấn đề cần phải đặt

ra là NHNN phải có đội ngũ chuyên viên giỏi, kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh

139

doanh ngoại hối phải được giao quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm và về tỷ giá

đã tính toán, nhằm thực hiện được mục tiêu chính sách tỷ giá đưa ra.

Cơ chế tỷ giá linh hoạt phù hợp với sự biến động cung cầu trên thị trường

sẽ giúp cho TTNH hoạt động hiệu quả.

Thứ hai, xóa bỏ cơ chế neo tỷ giá vào USD mà nên xác định tỷ giá trên cơ

sở neo tỷ giá vào một rổ tiền với cơ cấu các tiền tệ theo tỷ trọng thương mại của

những quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam. Tỷ giá VND được phản

ánh chính xác hơn và ít bị phụ thuộc riêng vào sự mạnh yếu của USD, tình trạng

Đô la hóa thị trường cũng sẽ giảm. Tỷ giá đó phải được tính toán để thực hiện

mục tiêu của chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng nội

tệ .

Một cơ chế quản lý phù hợp phải đi kèm với việc xây dựng một hệ thống

giám sát tài chính hiệu quả, thường xuyên giám sát các hoạt động trên TTNH để

kịp thời ngăn chặn các hành vi lũng đoạn thị trường, đầu cơ… và cảnh báo nguy

cơ xảy ra khủng hoảng tiền tệ để kịp thời ứng phó.

NHNN cần xây dựng qui chế thông tin, thống kê, hệ thống hóa kịp thời số

liệu luồng ngoại tệ ra vào trong nước, từ đó dự báo quan hệ cung cầu trên thị

trường để làm căn cứ điều hành chính sách tỷ giá và quản lý TTNH hiệu quả hơn.

TTTT và TTNH có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Do

đó, lãi suất với bản chất là giá cả trên TTTT và tỷ giá với bản chất là giá cả trên

TTNH cũng có tác động lẫn nhau. Đối với những quốc gia duy trì cơ chế tỷ giá

thả nổi và lãi suất thả nổi, thì khi chênh lệch lãi suất của một cặp đồng tiền không

tương thích với sự biến động của tỷ giá thì theo qui luật ngang giá lãi suất với tác

động của các lực lượng thị trường thông qua những hoạt động kinh doanh chênh

lệch giá sẽ đưa tỷ giá đến vị trí cân bằng mới.

Ở Việt Nam, với chính sách lãi suất chưa thả nổi hoàn toàn và tỷ giá theo cơ

chế thả nổi có quản lý để tránh hiện tượng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản,

NHNN bằng các nghiệp vụ của mình tác động để giảm lãi suất huy động USD

xuống làm tăng chênh lệch lãi suất giữa VND và USD, tăng tính hấp dẫn của tiền

140

đồng lên, từ đó hạn chế hiện tượng găm giữ ngoại tệ giảm bớt tình trạng căng

thẳng về ngoại tệ.

3.2.2.2. Về tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hóa tài khoản vốn theo lộ

trình

Việt Nam đã cam kết thực hiện tự do hoá tài khoản vãng lai theo pháp lệnh

ngoại hối không hạn chế nhu cầu mua ngoại tệ hợp lý hợp pháp của những cá thể

và các tổ chức kinh tế nhưng trong thực tế nhu cầu chính đáng về ngoại tệ của

người dân, doanh nghiệp chưa được đáp ứng kịp thời, đầy đủ. Những nhà đầu tư

nước ngoài khi chuyển ngoại tệ vào đầu tư, họ có nhu cầu chính đáng khi có lợi

nhuận sẽ bán VND mua ngoại tệ để chuyển về nước, nhưng TTNH Việt Nam

thường xuyên ở trong tình trạng cầu lớn hơn cung và ngân hàng gặp khó khăn

cho việc thỏa mãn nhu cầu mua ngoại tệ của nhà đầu tư, chính điều này là một

trong những nguyên nhân làm giảm sức thu hút của thị trường Việt Nam đối với

các nhà đầu tư nước ngoài, làm hạn chế nguồn ngoại tệ chảy vào ảnh hưởng đến

nguồn cung ngoại tệ trên thị trường, vì thế cần phải hoàn thiện tốt những cam kết

về tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai. Muốn vậy NHNN cần có

những biện pháp tăng cường thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, đảm bảo

cân bằng cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện thực hiện tốt thanh toán quốc tế, thúc

đẩy hoạt động ngoại thương phát triển.

Giao dịch quan trọng trong tài khoản vãng lai của nước ta đó là kiều hối, là

khoản chuyển tiền một chiều không có rủi ro với số lượng lớn góp phần bù đáng

kể vào tình trạng thâm hụt cán cân thương mại, cần tạo mọi điều kiện tốt nhất để

gia tăng nguồn kiều hối, đồng thời áp dụng các biện pháp kinh tế có kết hợp biện

pháp hành chính để khoản ngoại tệ này sẽ được thu hút vào hệ thống ngân hàng

nhằm phát huy lợi thế của nguồn ngoại tệ này.

Tuy chính sách cơ chế quản lý ngoại hối của nước ta trong thời kỳ hội nhập

phải đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế, hướng đến tự do hóa thị trường tài

chính- tiền tệ-ngoại hối. Nhưng không có nghĩa là buộc chúng ta phải ngay lập

141

tức phải thực thi các chính sách quản lý tự do hóa hoàn toàn như các nền kinh tế

phát triển, mà cần dựa vào thực tiễn, hoàn cảnh của nước ta hiện nay.

Trong giai đoạn này và trong vài thập niên tới, nhu cầu xây dựng cơ sở hạ

tầng, cũng như thực hiện các chương trình kinh tế xã hội lớn của nhà nước rất

cần vốn vì thế, chúng ta cần phải tập trung quản lý ngoại tệ từ mọi nguồn về một

đầu mối là NHNN, từ nguồn thu xuất khẩu dầu thô, đến tất cả các nguồn thu xuất

khẩu khác, nhằm sử dụng tốt nguồn ngoại tệ của nước ta trên phương châm phát

huy hết sức mạnh nội lực rồi mới đến huy động nguồn vốn từ bên ngoài, bởi vì

chúng ta đều hiểu rằng vốn đầu tư của nước ngoài vào làm cho cán cân vốn thặng

dư, trong ngắn hạn sẽ giúp cải thiện cán cân vãng lai thâm hụt, nhưng trong

tương lai luồng vốn này sẽ được chuyển ra dưới hình thức lợi nhuận hay chuyển

vốn về nước.

Nói như vậy, để thấy rằng việc tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài

là rất cần thiết nhưng việc quản lý nguồn vốn vào và ra nhằm phát huy hiệu quả

của vốn đầu tư vừa có những biện pháp ứng phó kịp thời khi có những bất ổn của

việc đảo chiều luồng vốn xảy ra là hết sức quan trọng. Theo tiến trình hội nhập,

Việt Nam đã và đang thực thi cam kết tự do hóa tài khoản vãng lai và tự do hoá

tài khoản vốn có giới hạn. Tiếp tục phát huy theo định hướng trên, Việt Nam nên

tự do hóa giao dịch theo một lộ trình tự do hoá dòng vốn vào và chưa nên tự do

hóa luồng vốn chảy ra, vì những lý do sau:

- Việt Nam không đưa ra cam kết cụ thể về mặt thời gian đối với việc tự

do hóa giao dịch vốn.

- Việt Nam đang trong giai đoạn thâm hụt cán cân thương mại lớn, đang

rất cần vốn để xây dựng, vì vậy ưu tiên cho các luồng vốn vào là điều cần quan

tâm.

- Tự do hóa giao dịch vốn là vấn đề quan trọng nhưng rất phức tạp và cần

được tiến hành một cách có trật tự và thận trọng, tùy thuộc và điều kiện của mỗi

nước, những lợi ích tiềm năng và khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính.

142

Để có thể thực hiện nới lỏng quản lý giao dịch vốn phải tăng cường kỷ luật

tài chính, minh bạch hóa hệ thống kế toán, kiểm toán, tăng cường thanh tra, giám

sát và phòng ngừa rủi ro, trong đó việc thực hiện minh bạch hóa thông tin đóng

vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực của các quyết định chính sách và

biện pháp điều chỉnh.

Đối với luồng vốn vào, tự do hóa vốn đi dần từng bước, trước tiên với

nguồn vốn dài hạn, như luồng vốn FDI, vì luồng vốn này ít bị những biến động

về tài chính như các luồng vốn khác, nếu có hiện tượng đảo chiều luồng vốn ra

nước ngoài thì cũng không gây ra khủng hoảng tài chính như luồng vốn ngắn

hạn, từng bước mở cửa thị trường vốn trong nước theo phạm vi và trình tự hợp

lý, phù hợp dần với thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh.

Luồng vốn ngắn hạn nên giám sát chặt chẽ, có biện pháp điều chỉnh cơ cấu luồng

vốn nước ngoài theo hướng hạn chế rủi ro của các luồng vốn ngắn hạn thông qua

các chính sách kinh tế vĩ mô và kiểm soát các luồng vốn, phù hợp với yêu cầu

của nền kinh tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, nhằm ổn

định thị trường và tỉ giá hối đoái.

Đối với dòng vốn đầu tư ra nước ngoài, NHNN cần nhanh chóng ban hành

các Thông tư hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với hoạt động ĐTRNN nhằm tạo

khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho công tác quản lý, theo dõi, giám sát của các cơ

quan chức năng và tạo điều kiện cho nhà đầu tư mua và chuyển ngoại tệ ra đầu tư

nước ngoài trong giai đoạn tiền khả thi, điều tra thăm dò khảo sát, trước khi có

Giấy chứng nhận đầu tư. Ngoài ra, để đối phó với tình trạng doanh nghiệp sử

dụng nguồn ngoại tệ không đúng với mục đích, NHNN cần có chế tài cụ thể để

cảnh cáo, trừng phạt. Đối với những dự án đã đi vào hoạt động và có nguồn thu

nhập ổn định, doanh nghiệp đã mở tài khoản ngoại tệ tại nước đầu tư để hoạt

động. NHNN cần phải giám sát hoạt động thu chi trên tài khoản đó, đồng thời

yêu cầu thực thi việc báo cáo theo đúng Nghị định 78/2006-NHNN.

143

3.2.3. Phát huy vai trò của NHNN- phát triển TTNT liên ngân hàng

3.2.3.1. Phát huy vai trò của NHNN

Phát triển TTNH theo định hướng để thực thi chính sách tiền tệ của NHNN

đề ra trong từng giai đoạn, thì chức năng can thiệp TTNH của NHNN rất quan

trọng nhằm tác động lên cung cầu ngoại tệ, theo đó NHNN phải thực thi đúng vai

trò là người mua bán cuối cùng trên TTNTLNH. Khi các NHTM cần mua ngoại

tệ NHNN phải bán và ngược lại khi các NHTM dư ngoại tệ bán thì NHNN phải

mua vào có như vậy tạo tính thanh khoản cho thị trường để tránh găm giữ ngoại

tệ cũng như tâm lý kỳ vọng sự tăng tỷ giá. Nếu NHNN không bán ngoại tệ khi

cầu lớn hơn cung sẽ tạo cơ hội cho giới đầu cơ tung tin đồn về sự sụt giảm dự trữ

ngoại hối, làm người dân hoang mang và sẽ tăng cường cất giữ ngoại tệ càng

trầm trọng thêm tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại tệ đồng thời làm giảm

hiệu quả về sử dụng ngoại tệ.

Với chức năng can thiệp TTNH, động thái mua bán ngoại tệ của NHNN

như phát tín hiệu cho thị trường về sự thay đổi của tỷ giá, thông qua đó NHNH sẽ

điều hành tỷ giá theo mục tiêu đề ra. Vì thế, khi nào nên mua và nên bán NHNN

phải có phương án cụ thể để thực hiện đúng thời điểm mới phát huy tác dụng,

tránh tình trạng thực hiện biện pháp tình thế, chịu sự dẫn dắt của TTKCT, làm

mất đi vai trò định hướng thị trường của NHNN. Khi đó tỷ giá hình thành trên

TTLNH sẽ tác động đến tỷ giá giao dịch trên TTNH khách hàng qua đó NHNN

đã gián tiếp tác động đến hoạt động của TTNH cả nước.

Để có thể tác động kịp thời lên TTNH điều quan trọng là NHNN phải có

lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh, vì thế vấn đề quản lý, sử dụng quỹ dự trữ ngoại

hối cần đặc biệt chú trọng thông qua các biện pháp sau: (1)Xác định mức dự trữ

ngoại hối hợp lý phù hợp với qui mô của nền kinh tế, của tình hình tự do hóa cán

cân vãng lai và cán cân vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo vệ

giá trị đồng tiền, cân bằng giữa lợi ích điều hành chính sách tiền tệ và chi phí của

việc nắm giữ dự trữ ngoại hối. Theo thông lệ quốc tế phải dự trữ lượng ngoại tệ

đủ để đáp ứng các nhu cầu nhập khẩu, Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ quốc tế

144

(IMF) tại Việt Nam Il Houng Lee cho rằng: ” Trong điều kiện thị trường vốn, thị

trường tài chính chưa thực sự phát triển, tôi cho rằng, nguồn dự trữ ngoại tệ

tương đương 12 tuần nhập khẩu là đủ với Việt Nam trong thời điểm hiện nay, bởi

nguồn dự trữ này vừa đủ để Việt Nam thanh toán 100% khoản nợ ngắn hạn”.Tuy

nhiên, ông cũng khuyến cáo, Việt Nam nên tăng nhanh mức dự trữ ngoại tệ cần

nâng cao dự trữ lên mức hợp lý đảm bảo đủ can thiệp duy trì sự ổn định trên thị

trường ngoại hối cũng như của cả hệ thống tài chính và toàn bộ nền kinh tế, có

thể chống đỡ cú sốc từ bên ngoài và duy trì sức mạnh kinh tế của quốc gia.

(2)Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời

gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của

mình nhưng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị

mất giá, có thể xem xét sử dụng thêm vàng vào cơ cấu dự trữ ngoại hối, vì theo

xu hướng hiện nay của các NHTW trên thế giới, khi nền kinh tế thế giới có

những bất ổn thì vàng là nơi trú ẩn an toàn hơn. Đồng thời để tăng hiệu quả đồng

vốn dự trữ có thể xem xét đầu tư với phương châm an toàn và có tính thanh

khoản cao như mua trái phiếu của những quốc gia được xếp hạng có uy tín.

(3)Phải tập trung nguồn ngoại tệ vào một đầu mối do NHNN quản lý, có

như vậy mới phát huy hết hiệu quả của vốn ngoại tệ cũng như tạo điều kiện cho

NHNN có đủ ngoại tệ dự trữ để tham gia can thiệp trên thị trường ngoại tệ khi

cần thiết. Nên chuyển nguồn thu ngoại tệ từ dầu thô mà Bộ Tài chính quản lý về

NHNN và khi Bộ Tài Chính cần ngoại tệ sẽ yêu cầu bán lại trên cơ sở bằng với

tỷ giá NHNN đã mua của Bộ Tài chính, có như vậy sẽ sử dụng hợp lý nguồn

ngoại tệ của quốc gia vừa đáp ứng nhu cầu ngọai tệ cần thiết của NSNN.

Ngoài ra, NHNN cần kết nối thị trường tiền tệ trong nước với thị trường

tiền tệ quốc tế nhằm tiếp cận các thông lệ quốc tế trong kinh doanh tiền tệ.

NHNN phải thực sự là đầu tàu dẫn dắt và khuyến khích TTLNH phát triển phù

hợp với môi trường quốc tế, có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt

động kinh doanh ngoại hối phát triển.

145

3.2.3.2. Phát triển TTNTLNH về khối lượng giao dịch và số lượng thành viên

Đặc điểm của TTNH trên thế giới là giao dịch trên TTNTLNH chiếm tỷ

trọng lớn trong tổng doanh số giao dịch ngoại hối của quốc gia, mà trong đó

NHNN đóng vai trò là người tạo lập và điều tiết TTNH.

TTNTLNH là nơi để NHNN thực thi và điều hành chính sách tỷ giá tương

ứng với từng thời kỳ của nền kinh tế thông qua việc can thiệp vào cung cầu tiền

tệ trên thị trường. Đây cũng được coi là cơ sở để phát triển giao dịch giữa các

ngân hàng, là nơi các NHTM tham gia thực hiện kinh doanh cho chính mình và

mua bán ngoại tệ đáp ứng nhu cầu cho khách hàng. Do đó để hoạt động kinh

doanh ngoại hối phát triển, điều cần thiết cần thu hút nhiều ngân hàng tham gia

để tăng doanh số giao dịch giúp cho thị trường hoạt động sôi nổi. Bởi vì, từ khi

ra đời vào năm 1994 đến nay, doanh số giao dịch trên TTNTLNH vẫn chiếm tỷ lệ

thấp so với doanh số giao dịch và nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế, tính thanh

khoản của thị trường không cao thường chỉ giao dịch một phía, các NHTM đặt

lệnh mua nhiều hơn.

Doanh số giao dịch gia tăng sẽ có điều kiện thực hiện nhiều loại hình giao

dịch phái sinh giữa các ngân hàng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn, trên cơ sở

đó các NHTM mới phát triển được các giao dịch ngoại hối phái sinh trên thị

trường bán lẻ cho khách hàng, bởi vì các NHTM khi thực hiện các giao dịch phái

sinh cho khách hàng sẽ tìm kiếm giao dịch đối ứng trên TTNTLNH để bảo hiểm

cân bằng trạng thái ngoại hối.

Để tăng số lượng các thành viên trên TTNTLNH nên mở rộng đối tượng

được phép tham gia bao gồm các NHTM trong nước, liên doanh, nước ngoài và

cả các tổ chức kinh tế có vốn lớn nếu đáp ứng đủ các điều kiện do NHNN qui

định. Một TTNH phát triển phải có một TTLNH hoạt động hiệu quả có doanh số

chiếm tỷ trọng lớn và giao dịch chủ yếu trên TTLNH là giữa những NHTM và

các tổ chức phi ngân hàng, vai trò của NHNN chỉ đóng vai trò là người mua bán

cuối cùng chứ không phải đóng vai trò chủ yếu trong giao dịch.

146

Điều cần thiết là các NHTM phải có vốn ngoại tệ đủ lớn để trở thành nhà

tạo thị trường(maket makers) thực hiện chiến lược kinh doanh tiền tệ trên

TTNTLNH, muốn vậy phải có biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào hệ thống

ngân hàng.

3.2.3.3. Biện pháp thu hút lượng ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng

Thứ nhất, kết hợp những biện pháp vừa kinh tế vừa hành chánh, trong giai

đoạn này để đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ có thể học tập kinh nghiệm cuả

Trung Quốc về quản lý nguồn ngoại tệ, theo cách thức nới lỏng dần tỷ lệ kết hối:

trong các năm từ 1994 đến 1996, kết hối ngoại tệ 100%, đến năm 1997, các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp sản xuất được phép kinh

doanh xuất nhập khẩu được tự giữ một phần ngoại tệ trên tài khoản với mức

không quá 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm. Năm 2002, Trung

Quốc tiếp tục cho phép các doanh nghiệp trên được tự giữ ngoại tệ trên tài khoản

với mức không quá 20% nguồn thu ngoại tệ từ giao dịch vãng lai. Năm 2007, dự

trữ ngoại hối Trung Quốc đạt 1.528,249 tỷ USD, cán cân vãng lai thặng dư

371,832 tỷ USD, cán cân vốn thặng dư 73,454 tỷ USD, khi đó Trung Quốc mới

xóa bỏ chính sách kết hối ngoại tệ.

Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày

11/12/2001 trước Việt Nam 5 năm và Trung Quốc cũng phải thực hiện điều kiện

phải cam kết mở cửa lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán. Tuy nhiên,

việc yêu cầu các tổ chức kinh tế bán ngoại tệ cho ngân hàng không cản trở việc

thực hiện cam kết này.

Giao dịch vốn luôn là lĩnh vực nóng được quản lý chặt chẽ, cho đến nay

Trung Quốc vẫn chưa thực hiện tự do hóa giao dịch vốn. Nhờ thực hiện các

chính sách quản lý ngoại hối đồng bộ và linh hoạt, Trung Quốc đã thành công

trong việc điều hành tỷ giá, giải quyết được các khó khăn về cung cầu ngoại tệ,

đảm bảo cung ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển[60].

Như vậy so với Trung Quốc, Việt Nam chỉ mới yêu cầu những Tập đoàn,

Tổng công ty của nhà nước như Dầu khí, Than - Khoáng sản, Công nghiệp Hóa

147

chất, Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam, Tổng công ty Lương thực Miền

Bắc, Tổng công ty Lắp máy … bán ngoại tệ, chưa thực hiện biện pháp kết hối đối

với tất cả những tổ chức có nguồn thu ngoại tệ không phân biệt sở hữu. Trong

những trường hợp cần thiết có thể thực hiện biện pháp kết hối, vì cam kết tham

gia vào WTO có cho phép thực hiện những biện pháp phi thị trường trong một

thời gian tối đa là 12 năm [Phụ lục số 3]. Cụ thể Pháp lệnh Ngoại hối, tại khoản

2, điều 41 pháp lệnh này đã ghi: “Khi xét thấy cần thiết, để bảo đảm an ninh tài

chính, tiền tệ quốc gia, Chính phủ được áp dụng các quy định về nghĩa vụ bán

ngoại tệ của người cư trú là tổ chức”.

Thứ hai, cần phải kết hợp với biện pháp kinh tế để các tổ chức kinh tế tự

nguyện bán ngoại tệ cho ngân hàng, các ngân hàng có thể sử dụng các công cụ

ngoại hối phái sinh như mua ngoại tệ kỳ hạn với tỷ giá kỳ hạn được tính toán phù

hợp với cơ chế thị trường giảm bớt chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá

trên thị trường tự do nhưng vẫn tuân thủ đúng qui định về nguyên tắc xác định tỷ

giá do NHNN qui định. Để khuyến khích các đơn vị bán ngoại tệ NHTM sẽ tính

giá mua kỳ hạn cao, bằng cách lấy tỷ giá giao ngay là giá trần, lãi suất VND là lãi

suất tiền gửi và lãi suất USD là lãi suất tiền vay của thị trường ở Việt Nam chứ

không sử dụng theo lãi suất cơ bản VND và lãi suất USD do FED công bố.

Ngoài ra, nếu doanh nghiệp xác định được thời điểm cần ngoại tệ, NHTM

và doanh nghiệp có thể sử dụng hợp đồng hoán đổi ngoại hối, bán giao ngay và

mua kỳ hạn với cách xác định tỷ giá kỳ hạn bằng cách sử dụng tỷ giá giao ngay

đã áp dụng trong vế giao ngay như vậy sẽ có lợi cho doanh nghiệp hơn là sử

dụng hai giao dịch riêng lẻ. Thông qua việc ký hợp đồng hoán đổi như vậy doanh

nghiệp sẽ yên tâm có ngoại tệ để thanh toán tiền hàng trong tương lai, còn ngân

hàng mua được ngoại tệ để kinh doanh, hạn chế tình trạng NHTM dư ngoại tệ

trên tài khoản tiền gửi của khách hàng nhưng thiếu ngoại tệ để bán và xét ở góc

độ vĩ mô ngoại tệ được sử dụng hiệu quả.

Thứ ba, Chính phủ cần mở rộng nhiều dự án đầu tư hấp dẫn để thu hút

nguồn ngoại tệ trong dân cư vừa tăng cung ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng vừa

148

đáp ứng được nhu cầu đầu tư của người dân, hạn chế tình trạng cất trữ ngoại tệ

trong két sắt khi mà người dân thừa vốn nhưng không yên tâm với việc nắm giữ

VND.

Sự phát triển thị trường ngoại tệ chính thức còn là kết quả của sự thu hẹp thị

trường ngoại tệ không chính thức và ngược lại.

3.2.4. Tăng cường kiểm soát, hạn chế và tiến tới loại bỏ dần hoạt động của thị

trường ngoại tệ không chính thức

Việc tồn tại thị trường ngoại tệ không chính thức đã ảnh hưởng nhiều đến

hoạt động kiểm soát và quản lý ngoại hối của NHNN. Một lượng lớn cung cầu

ngoại tệ nằm ngoài khả năng kiểm soát của Chính phủ làm cho việc xác định giá

trị bản tệ và hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia gặp nhiều khó khăn, đặc biệt

trong tình hình tài chính bất ổn và bị tác động bởi biến động của thị trường tài

chính toàn cầu.

Ở Việt Nam, những yếu tố để thị trường ngoại tệ không chính thức tồn tại

và phát triển xuất phát từ thực trạng kinh tế và cơ chế quản lý ngoại hối của Việt

Nam, nội dung chi tiết đã được liệt kê trong chương 2. Vấn đề hiện nay, để thu

hẹp và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn thị trường bày cần phải áp dụng những biện

pháp mạnh tay hơn đồng thời phải kết hợp với các cơ quan chức năng để đạt

được hiệu quả tốt nhất.

Thứ nhất, cần triệt để nghiêm cấm việc mua bán ngoại tệ ngoài các TCTD

được phép. Để tăng cường hiệu lực của pháp lệnh ngoại hối cần phảỉ có những

chế tài về mặt kinh tế như xử phạt, tịch thu ngoại tệ, để có tác dụng răn đe gây

ảnh hưởng mạnh đến ý định thực hiện việc mua bán ngoại tệ ngoài thị trường.

NHNN phối hợp với các cơ quan chức năng công an, quản lý thị trường mới có

kết quả tốt, đồng thời nên có những biện pháp hổ trợ như tuyên truyền, thông tin

về pháp lệnh ngoại hối trên các phương tiện truyền thông báo, đài, để người dân

có thể biết và thực hiện tốt, đây là một khâu quan trọng đối với thực trạng của

nước ta, vì trãi qua một thời gian khá lâu mặc dù pháp lệnh đã ra đời từ năm

2006 nhưng rất ít người dân nắm được vì thế họ vô tình phạm luật, cũng như

149

chưa thấy ai bị phạt, bị tịch thu ngoại tệ, nên họ không sợ. Bên cạnh đó, còn do

sự tiện lợi do mua bán ngoại tệ trên thị trường không chính thức khi nào cần

ngoại tệ có thể đến tiệm vàng để mua dễ dàng và nhanh chóng trong khi đó nếu

đến NHTM sẽ phải xuất trình đầy đủ các loại chứng từ, mà nhiều khi không được

đáp ứng nhu cầu. Để cạnh tranh với thị trường ngoại tệ không chính thức NHNN

nên cho phép các NHTM thực hiện mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận như

đã triển khai thí điểm tại Eximbank.

Thứ hai, các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ phải đáp ứng đủ nguồn

ngoại tệ cho cá nhân và tổ chức có nhu cầu chính đáng, hợp lệ và hợp pháp. Mặc

dù kinh doanh là việc của mỗi ngân hàng nhưng NHNN có thể có những biện

pháp quản lý hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM thông qua việc kiểm

tra đột xuất, khi khách hàng cần ngoại tệ nhưng do tình trạng khan hiếm ngoại tệ,

các ngân hàng găm giữ và không chịu bán, NHNN có thể xử phạt bằng những

biện pháp kinh tế như khi ngân hàng cần mua ngoại tệ trên TTNTLNH, NHNN

sẽ không ưu tiên bán cho những ngân hàng đó.

Bên cạnh đó, các NHTM cũng nên hợp tác với NHNN trong việc tạo điều

kiện dễ dàng thuận lợi cho cá nhân cần mua ngoại tệ và tư vấn cho người dân có

thể thay thế sử dụng ngoại tệ mặt bằng các phương tiện thanh toán khác vừa an

toàn vừa hiện đại. Ngoài ra, các NHTM có thể bán ngoại tệ theo đúng loại ngoại

tệ của nước mà cá nhân đến nhằm giảm căng thẳng cầu USD, cũng như các

NHTM có kinh doanh ngoại tệ cũng phải mua cả những loại ngoại tệ khác

USD.[65]

Để giảm bớt tình trạng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản, các NHTM nên có

những chính sách khuyến khích các tổ chức kinh tế khi có thu ngoại tệ nếu bán

cho ngân hàng sẽ được ưu tiên bán lại ngoại tệ khi doanh nghiệp cần, hay có thể

thỏa thuận mua ngoại tệ theo tỷ giá có kỳ hạn. Về phía NHNN nên kết hợp chính

sách lãi suất và chính sách tỷ giá một cách hợp lý để khuyến khích nhà đầu tư

bán ngoại tệ chuyển sang VND nhằm tăng cường nguồn cung ngoại tệ đáp ứng

cho nhu cầu ngoại tệ cuả thị trường.

150

Thứ ba, rà soát và rút giấy phép các đại lý thu đổi ngoại tệ vi phạm pháp

lệnh ngoại hối, đồng thời củng cố và phát triển hoạt động thu đổi ngoại tệ do

ngân hàng thực hiện, vì hiện nay số lượng các phòng giao dịch của các ngân hàng

đã gia tăng đáng kể và có thể thực hiện thu đổi ngoại tệ mà không cần phải ký

hợp đồng với các đại lý. NHNN nên hổ trợ các ngân hàng mở phòng giao dịch

thu đổi ngoại tệ tại các cửa khẩu vùng biên để thay thế các hoạt động buôn tiền

của tư nhân vừa đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của cá nhân vừa thu mua lượng ngoại

tệ mặt trong dân cư. Thông qua đó, NHNN sẽ quản lý được hoạt động kinh

doanh ngoại tệ và thu hẹp dần hoạt động của thị trường ngoại tệ không chính

thức.

3.2.5. Hạn chế tình trạng đôla hóa và tạo khả năng chuyển đổi dần cho đồng Việt Nam

3.2.5.1. Hạn chế tình trạng đôla hóa một cách triệt để hơn

Để hạn chế những nguyên nhân gây nên tình trạng đôla hóa và làm giảm

khả năng chuyển đổi của VND, NHNN cần phải thực thi đồng thời các biện pháp

sau:

(1)Thiết lập hệ thống luật có chế tài phạt nặng việc thực hiện niêm yết và

thanh toán bằng ngoại tệ ở trong nước. Để chế tài trên có hiệu quả phải có sự

phối hợp với cơ quan chức năng để tăng cường kiểm tra kiểm soát việc thực hiện

pháp lệnh ngoại hối, triệt để kiên quyết thực hiện trong nước chỉ được thanh toán

bằng Việt Nam đồng.

(2) NHNN nên xây dựng lộ trình hạn chế cho phép cá nhân mở tài khoản

tiết kiệm ngoại tệ mà không xuất trình nguồn gốc hợp pháp của ngoại tệ. Để tập

trung nguồn ngoại tệ còn trôi nổi bên ngoài hệ thống ngân hàng, cũng như để thu

hút nguồn kiều hối, tạm thời trong giai đoạn này, chúng ta vẫn duy trì cho phép

cá nhân được mở tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ tại ngân hàng được

phép, nếu nguồn ngoại tệ này có nguồn gốc hợp pháp.

Theo qui định, các tổ chức kinh tế khi nhập ngoại tệ vào tài khoản phải

chứng minh nguồn gốc hợp pháp của nguồn ngoại tệ đó, nhưng cá nhân thì lại

151

không bị yêu cầu. Đây chính là kẻ hở trong quản lý ngoại hối gây ra nhiều hệ lụy

như: các tổ chức kinh tế giữ ngoại tệ trên tài khoản tiết kiệm cá nhân, khoản tiền

này có thể xuất phát từ những thu nhập bất hợp pháp hoặc của tội phạm. Tuy

nhiên, do pháp lệnh ngoại hối cho phép người dân có quyền giữ, gửi tiết kiệm và

bán ngoại tệ cho ngân hàng nên trong ngắn hạn chưa thể chấm dứt việc cá nhân

gửi tài khoản tiết kiệm bằng ngoại tệ nhưng trong trung hạn, dài hạn sẽ tiến tới

xóa bỏ việc này.

Hạn chế việc rút ngoại tệ mặt sẽ giải quyết được vấn đề căng thẳng về cung

cầu ngoại tệ và sử dụng có hiệu quả lượng ngoại tệ trong nền kinh tế. Bên cạnh

đó việc hạn chế nắm giữ tiền mặt đôla Mỹ sẽ cắt đứt công cụ tiếp tay cho hoạt

động buôn lậu và TTKCT.

(3) Trong những thời điểm quan trọng có thể thi hành biện pháp hạn chế

cho vay bằng ngoại tệ, chỉ cho doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ vay,

nhằm giảm bớt sự căng thẳng về cung cầu ngoại tệ. Tuy nhiên đây chỉ là biện

pháp hành chính chỉ được áp dụng như một giải pháp tình thế, trong cơ chế hoạt

động của nền kinh tế thị trường thì việc chọn vay ngoại tệ hay nội tệ tùy thuộc

vào doanh nghiệp lựa chọn phương án vay nào khả thi hơn khi so sánh giữa lãi

suất của hai đồng tiền và có bảo hiểm rủi ro tỷ giá bằng công cụ phái sinh kỳ hạn.

Đối với các cá nhân vay vốn nước ngoài cho phép cá nhân được nhận tiền vay

bằng ngoại tệ trên tài khoản mở tại ngân hàng nhưng chỉ được rút VND để thực

hiện việc đầu tư, kinh doanh.

3.2.5.2. Nâng cao tính chuyển đổi của VND

Điều 3 Pháp lệnh ngoại hối có ghi rõ: “Thực hiện mục tiêu chính sách tiền

tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam”, nhưng cho đến nay

tính chuyển đổi của VND vẫn chưa được thực hiện hoàn toàn.

Để thực hiện được điều này, cần thực hiện các biện pháp đồng bộ và phải

có sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng. có lộ trình, bởi vì điều này không

phải muốn là được như Trung Quốc có dự trữ ngoại hối lớn nhất, là nền kinh tế

152

vươn lên thứ hai thế giới nhưng CNYvẫn chưa phải là đồng tiền có khả năng

chuyển đổi cao.

Để nâng cao tính chuyển đổi của VND cần phải tiến hành từng bước theo lộ

trình:

Thứ nhất, thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của VND cho những giao dịch

trên tài khoản vãng lai, về mặt lý thuyết Việt Nam đã tự do hóa tài khoản vãng

lai, bằng pháp lệnh ngoại hối nhưng thực tế, có những giao dịch hợp pháp, được

phép thanh toán nhưng không mua được ngoại tệ vì ngân hàng không đủ ngoại tệ

để cung cấp cho nhu cầu chính đáng của người dân, của doanh nghiệp.

Thứ hai, xây dựng cơ chế từng bước đưa VND tham gia vào thanh toán

xuất nhập khẩu.Theo ý kiến của ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Ngân

hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) nói: “Ở một mức độ nào đó, việc

chuyển đổi đồng tiền bản địa trong thanh toán quốc tế ở thời điểm hiện nay có

thể làm được”. Theo ông, năm 2010, kim ngạch nhập khẩu cả nước là 84 tỷ USD,

nếu 10% trong số này (8,4 tỷ USD) được thanh toán cho đối tác bằng VND thì áp

lực tỷ giá sẽ giảm đi rất nhiều.[70]

Thứ ba, từng bước thực hiện tính chuyển đổi của VND đối với các giao

dịch trên tài khoản vốn thông qua việc cho phép sử dụng VND trong quan hệ

vay, trả nợ nước ngoài và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.

Các biện pháp trên chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở:

(1) Phát triển nền kinh tế bền vững, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị

VND, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện cán cân thanh toán.

(3) Nâng cao dự trữ ngoại tệ là điều kiện đảm bảo thực hiện tính chuyển

đổi của VND.

(4)Nâng cao chất lượng dich vụ của hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo đáp

ứng kịp thời nhanh chóng việc chuyển đổi đồng tiền phục vụ nhu cầu ngoại tệ

hợp pháp của người dân và tổ chức kinh tế.

153

(5) Nâng cao năng lực kinh doanh đàm phán ký kết hợp đồng của những

nhà kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm dành quyền lựa chọn VND trong thanh

toán.

Như vậy, có thể thấy rằng việc nâng cao tính chuyển đổi VND là vấn đề có

tầm vĩ mô đòi hỏi sự phát triển của nền kinh tế và sự hoàn thiện của hệ thống tài

chính.

3.2.6. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong hoạt

động kinh doanh ngoại hối

Trước tiên là tăng năng lực tài chính, hiện nay có 20/39 ngân hàng chưa

đáp ứng được yêu cầu vốn tối thiểu là 3000tỷ đồng (11 ngân hàng có vốn điều lệ

từ 1000 tỷ đồng trở xuống)[66] đang nỗ lực tìm vốn từ cổ đông hiện hữu, nhà đầu

tư chiến lược, phát hành cổ phần gọi vốn, chào bán cổ phần cho nhà đầu tư nước

ngoài. Con số 3000tỷ đồng( theo tỷ giá hiện nay tương đương 150 triệu USD) đối

với những ngân hàng nhỏ của Việt Nam là con số đáng kể nhưng so với các ngân

hàng khu vực thì còn khiêm tốn, nhất là để tham gia hoạt động kinh doanh ngoại

hối trên TTNH khu vực và thế giới; vì thế các ngân hàng thương mại của Việt

Nam cần tập trung nâng cao năng lực về vốn, để có thể phát triển các nghiệp vụ

kinh doanh ngoại hối, vốn lớn là điều kiện cần thiết để thực hiện hoạt động này

và tiềm lực vốn càng lớn khả năng cạnh tranh sẽ cao hơn.

Kế tiếp là nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ chuyên viên, vì kinh

doanh ngoại hối với đầy đủ hoạt động của nó là một lĩnh vực đòi hỏi trình độ

nghiệp vụ chuyên môn cao và bộ máy tổ chức phải khoa học. Cho nên những

ngân hàng muốn phát triển nghiệp vụ này cần phải: Tuyển chọn những chuyên

viên có trình độ cao có hiểu biết tốt về các loại sản phẩm phái sinh, có kinh

nghiệm trên thị trường kinh doanh tiền tệ quốc tế để lãnh đạo phòng ban này, làm

đầu tàu hướng dẫn và huấn luyện các nhân viên giao dịch, thường xuyên mở lớp

tập huấn đào tạo để cập nhật những kiến thức mới cũng như học hỏi rút kinh

nghiệm để nâng cao trình độ.

154

Tổ chức hoạt động của phòng kinh doanh theo mô hình chuyên môn hóa

cao có đủ ba phòng ban chức năng với đội ngũ chuyên nghiệp:

Đối với phòng kinh doanh giao dịch trực tiếp với khách hàng phải là những

giao dịch viên(Dealer) có sự nhạy bén trong kinh doanh có năng lực phân tích,

tổng hợp các yếu tố tác động đến tỷ giá để yết tỷ giá phù hợp, đồng thời phải xác

định chiến lược kinh doanh để thiết lập trạng thái ngoại tệ vừa phù hợp với thị

trường để đảm bảo nâng cao lợi nhuận vừa đảm bảo an toàn, tránh rủi ro cao.

Đối với phòng hỗ trợ (back office) cần có những nhân viên có tính chu đáo

cẩn thận hạn chế sai sót về mặt nghiệp vụ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh .

Đối với phòng kiểm soát(Mid office): phải độc lập với 2 phòng trên và có

trách nhiệm theo dõi giám sát những giao dịch do các giao dịch viên ký kết, để

đảm bảo các giao dịch viên này tuân thủ những qui định kinh doanh ngoại hối về

hạn mức trạng thái ngoại tệ, về tỷ giá giao dịch, nhằm phát hiện sớm những giao

dịch có dấu hiệu vi phạm để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong kinh doanh.

Bởi vì, như chúng ta đã biết các giao dịch ngoại hối phái sinh như giao dịch

quyền chọn hay tương lai có tính đòn bẩy tài chính rất cao, vì thế có thể có những

giao dịch viên liều lĩnh chạy theo lợi nhuận cao mà rủi ro lớn, đặt ngân hàng vào

nguy cơ phá sản.

Hiện đại hóa hệ thống máy tính nối mạng, quản lý bằng hệ thống cơ sở dữ

liệu, trang bị các phần mềm tính phí quyền chọn và hệ thống EBS để có thể tham

chiếu giá cả và lượng giao dịch trên thị trường thế giới. Electronic Brokerage

System (EBS) là hệ thống môi giới cho các nhà kinh doanh, làm nghiệp vụ môi

giới dựa trên cơ sở kỹ thuật và dịch vụ thanh toán. EBS là thành viên của thị

trường chứng khoán Bắc Mỹ thông qua EBS, các nhà kinh doanh ngoại hối có

thể thấy được các luồng tiền di chuyển trên thị trường thế giới; các ngân hàng có

thể thấy được các lệnh trên thị trường mua và thị trường bán đang ở mức nào.

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối, song song

với những biện pháp phát triển hoạt động kinh doanh ngoại hối, các ngân hàng

155

cần phải quan tâm đến việc quản trị rủi ro do hoạt động kinh doanh này mang

đến.

Để hạn chế rủi ro và tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh, ngân hàng

cần chú ý đến các biện pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng hạn mức trạng thái ngoại tệ một cách linh hoạt và hợp

lý. Hạn mức (hay giới hạn trạng thái ngoại hối mở)là một công cụ quản trị rủi ro

hữu hiệu trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hạn mức này ngân hàng nên phân

định và giới hạn mức thua lỗ tối đa cho mỗi giao dịch ngoại hối tùy thuộc vào

năng lực kinh doanh, kinh nghiệm, trình độ của mỗi giao dịch viên. Đồng thời

phải ban hành các chế tài đối với những hành vi vi phạm, giao quyền đầy đủ và

tự chủ cho bộ phận giám sát, để chủ động xử lý kịp thời những trường hợp vi

phạm nhằm tăng tính kỷ luật trong kinh doanh và đảm bảo an toàn vốn cho ngân

hàng.

Thứ hai, quan tâm đến hoạt động phân tích và dự báo, trong giai đoạn hội

nhập kinh tế ngày càng sâu và rộng của thế giới ngày nay, sự tăng giảm giá của

bất cứ loại ngoại tệ mạnh nào, sự thay đổi chính sách kinh tế của những nước có

quan hệ thương mại với nước ta, giá cả của những sản phẩm thiết yếu như xăng,

dầu, vàng đều ngay lập tức ảnh hưởng đến tỷ giá, ảnh hưởng đến lãi lỗ trên trạng

thái ngoại hối của ngân hàng đó.

Đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối công tác phân tích và dự báo đóng

vai trò hết sức quan trọng, độ chính xác của hoạt động này sẽ giúp cho ngân hàng

lập chiến lược kinh doanh xác định hạn mức trạng thái, mức biến động tỷ giá đối

với ngoại tệ, để yết giá phù hợp nhằm thực hiện được chiến lược đã đề ra, cũng

như định giá và phí của các giao dịch một cách hợp lý vừa mang tính cạnh tranh

cao vừa phòng ngừa rủi ro.

3.2.7. Hoàn chỉnh khung pháp lý

Để phát triển TTNH an toàn và có hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc

gia, cần có cơ chể giám sát họat động thị trường, đồng thời với quan điểm nhà

nước không trực tiếp can thiệp vào thị trường nhưng phải giám sát chặc chẽ thị

156

trường tài chính nói chung và TTNH nói riêng thông qua khuôn khổ luật pháp.

Vì thế vấn đề cần quan tâm nhất hiện nay NHNN phải hoàn thiện và bổ sung các

quy định về luật pháp, tạo môi trường pháp lý đồng bộ thông thoáng về hoạt

động tài chính tiền tệ cho hoạt động của thị trường tài chính

Hoạt động kinh doanh ngoại hối muốn phát triển được cần phải có khung

pháp lý đầy đủ, rõ ràng; vừa tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia dễ dàng hiểu

rõ và thực thi theo đúng pháp luật, vừa tạo điều kiện cho NHNN có thể kiểm tra

giám sát nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhà kinh doanh vừa bảo đảm hệ thống tài

chính được an toàn. Các biện pháp phải thực hiện là:

(1) Rà soát lại các văn bản pháp lý đã ban hành nhằm tránh sự mâu thuẫn

tránh những qui định còn chồng chéo gây rối cho các chủ thể tham gia kinh

doanh ngoại hối.

(2) Cần mau chóng ban hành các thông tư, quyết định hướng dẫn cụ thể và

kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả của các văn bản pháp lý. Hoàn thiện qui chế,

chế độ kế toán về việc hạch toán các sản phẩm phái sinh như đối với quyền chọn

tiền tệ khi không thực hiện hợp đồng thì phí quyền chọn được hạch toán như là

chi phí vào giá thành sản phẩm. Để chuẩn bị cho việc thực hiện giao dịch tương

tiền tệ Bộ Tài chính cũng nên nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu về hạch toán và

tính thuế, việc tính thuế của giao dịch này cần phải xác định trên số lợi nhuận

ròng (là lợi nhuận thu trên thị trường tương lai trừ đi mức lỗ trên thị trường giao

ngay).

(3)Các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh là những nghiệp vụ mang tính kỹ

thuật cao và phức tạp cả trong thực hiện và kiểm soát vì thế các văn bản cần phải

đầy đủ cả những chế tài nghiêm minh về dân sự và hình sự để phòng ngừa và xử

lý những hành vi phá hoại gây rối loạn thị trường, hay vi phạm những thỏa thuận

trong hợp đồng kinh doanh ngoại hối.

157

Kết luận chương 3

Trong chương 3 Luận án trình bày cơ sở để phát triển TTNH Việt Nam là dựa

trên những thành quả đạt được trong quản lý, trong điều hành nền kinh tế vượt

qua được những cú sốc khủng hoảng kinh tế trong những năm vừa qua, sự phát

triển hệ thống ngân hàng, đồng thời căn cứ vào mức độ mở cửa nền kinh tế để

đưa ra định hướng phát triển TTNH cho phù hợp chủ trương chính sách phát

triển kinh tế trong từng giai đoạn.

Xác định (1) Phát triển TTNH là bước đi tất yếu không thể tránh khỏi trong quá

trình hội nhập nền kinh tế, phải xác định đây là mục tiêu để hoàn thiện thị trường

tài chính tiến tới đón nhận những thời cơ cũng như những thách thức do quá trình

mở cửa mang đến. Bước chuẩn bị càng chu đáo bao nhiêu thì càng tận dụng được

cơ hội cũng như hóa giải được những rủi ro bất trắc do qua trình mở cửa mang

đến vì thế (2) định hướng xây dựng TTNH phải đảm bảo an tòan nhưng cần phải

chú ý đến yếu tố hội nhập vì có liên thông với TTNH thế giới thì TTNH Việt

Nam mới phát triển.

Trên cơ sở định hướng đó, Luận án đã đưa ra các biện pháp nhằm phát triển

TTNH Việt Nam trong tiến trình hội nhập, giải pháp trọng tâm là hoàn thiện

TTNH theo hướng hiện đại và hội nhập với những biện pháp cụ thể nhằm xây

dựng TTNH có đầy đủ đặc điểm của một TTNH trên thế giới cần phải có để phát

huy hết hiệu quả của thị trường này mang đến cho nền kinh tế. Nhóm biện pháp

còn lại là những biện pháp hổ trợ cho sự hoàn thiện và phát triển thị trường như

phát triển TTNTLNH, hạn chế và thu hẹp thị trường ngoại tệ không chính thức,

hạn chế tình trạng đôla hóa, nâng cao tính chuyển đổi của VND và có những

biện pháp cần thiết khác là hoàn thiện thị trường tài chính để tạo điều kiện tương

tác với TTNH cùng phát triển, và biện pháp cuối cần phải có đó là hoàn thiện

khung pháp lý làm cơ sở cho các hoạt động kinh doanh ngoại hối và công tác

giám sát quản lý TTNH hoạt động nhằm đạt được mục đích đảm bảo an toàn hệ

thống tài chính.

158

KẾT LUẬN Toàn cầu hóa đang là xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới vì thế tác

động của khủng hoảng tài chính, khủng hoảng kinh tế của quốc gia hay khu vực

và cả những thành tựu phát triển kinh tế đã lan truyền mạnh mẽ đến các nền kinh

tế khác trên thế giới và Việt Nam cũng không đứng ngoài ảnh hưởng đó. Nhận

thức được ảnh hưởng trên sẽ thấy rằng việc phát triển và hoàn thiện thị trường tài

chính là một vấn đề quan trọng nhằm phát huy hiệu quả cũng như giám sát dòng

vốn do quá trình mở cửa mang lại để đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính của

đất nước.

Để có thể có những biện pháp khả thi nhằm phát triển TTTC, cần phải đánh

giá thực trạng của TTNH Việt Nam đã đáp ứng được những yêu cầu gì cho hoạt

động của thị trường và những ảnh hưởng của chính sách điều hành vĩ mô của nhà

nước.

Dựa vào khung lý thuyết về nghiên cứu hoạt động và phát triển TTNH,

Luận án đã giải quyết được nhưng mục tiêu đã đề ra, đó là:

Xác định chính sách quản lý ngoại hối tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến

TTNH nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế phát triển.

TTNH Việt Nam doanh số thấp, còn sơ khai về các giao dịch phái sinh,

nghèo nàn về mục đích tham gia thị trường cũng như hạn chế về các chủ thể thị

trường. Bên cạnh đó TTNH Việt Nam có những đặc thù riêng đó là sự tồn tại và

cạnh tranh mạnh mẽ của thị trường ngoại tệ không chính thức, thái độ của người

dân đối với ngoại tệ, sự chấp hành những qui định pháp luật về quản lý ngoại hối,

trình độ kiến thức về kinh tế thị trường nói chung và nghiệp vụ kinh doanh ngoại

hối nói riêng của đại bộ phận các chủ thể của nền kinh tế còn hạn chế.

Luận án đã đưa ra nhóm biện pháp để hoàn thiện TTNH theo hướng hiện

đại và hội nhập dựa trên những xuất phát điểm là một nền kinh tế mới mở cửa

với cơ chế quản lý ngoại hối còn nhiều thiếu sót đồng thời luận án cũng đưa ra

các biện pháp hổ trợ để phát triển năng lực vốn của thị trường như tập trung

nguồn ngoại tệ, hạn chế tình trạng đôla hóa, nâng dần tính chuyển đổi của VND,

159

đồng thời không thể bỏ qua biện pháp hòan thiện khung pháp lý là nền tảng cho

hoạt động của TTNH được diễn ra trôi chảy mà vẫn đảm bảo an ninh tài chính.

Những biện pháp để phát triển TTNH cần phải thực hiện đồng bộ và

nghiêm túc, từ những vấn đề về chính sách đến điều hành, tổ chức thực hiện và

thanh tra giám sát.

Mặc dù, hiện nay nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong quá

trình kiềm chế lạm phát và ưu tiên mục tiêu ổn định nền kinh tế hơn mục tiêu

phát triển mà thực trạng TTNH Việt Nam còn quá sơ khai về cơ chế hoạt động,

về trình độ quản lý điều hành nhưng xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế,

việc xây dựng hoàn thiện và phát triển TTNH là những bước đi cần thiết phải

được quan tâm chú trọng để có thể tận dụng các cơ hội và hóa giải các thách thức

trở ngại của quá trình hội nhập trở thành những yếu tố, những động lực để phát

triển nền kinh tế; đưa TTTC Việt Nam nói chung và TTNH nói riêng dần dần hội

nhập với TTTC thế giới.

Tác giả đã cố gắng để kết quả nghiên cứu được hoàn thiện, nhưng do quá

trình thu thập dữ liệu về TTNH Việt Nam quá khó khăn, tác giả gặp rất nhiều trở

ngại trong việc tiếp cận thông tin một cách chính thức để dữ liệu được đầy đủ và

đồng bộ. Tác giả rất mong nhận được những đóng góp quý báu của các nhà khoa

học và những người quan tâm đến đề tài để tác giả có điều kiện học hỏi và hoàn

thiện công trình nghiên cứu.

Xin chân thành cám ơn!

160

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN

ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Tham gia biên soạn sách Thị trường ngoại hối và các giao dịch ngoại hối, in lần

đầu năm 2007, tái bản lần 2 năm 2009 và lần 3 sửa chữa và bổ sung năm 2010.

2. Tham gia biên soạn giáo trình thực hành Thanh toán quốc tế in lần đầu năm 2010

tái bản sửa chữa và bổ sung vào năm 2011.

3. Bài báo” Tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay ở nước ta”, Tạp chí Ngân

hàng số 11/2004.

4. Bài báo:”Chiến lược quyền chọn trong kinh doanh tiền tệ”. Tạp chí Thị trường Tài

chính Tiền tệ số 21/2004.

5. Bài báo: “Tác động của hội nhập kinh tế đến thị trường ngoại hối Việt Nam”. Tạp

chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 17/ 2011.

161

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Phạm thị Hoàng Anh (2009), “Chế độ tỷ giá của Singapore và Trung Quốc-Lý

thuyết thực tế và những gợi ý cho Việt Nam”- Tạp chí Ngân Hàng tháng 9/2009.

2. Nguyễn văn Dũng (2007), “Thị trường phái sinh ở Việt Nam: Thực trạng và giải

pháp phát triển”. NHNN, Chi nhánh TPHCM.

3. HaruhiKo Koroda (2011), “Tương lai Châu á: Thách thức khu vực- Trách nhiệm

toàn cầu”, Hội Nghị thường niên lần thứ 44 của Hội Đồng Thống đốc ADB,

ngày 5/5/2011.

4. Nguyễn Thị Thu Hằng và nhóm nghiên cứu(2010), ” Lựa chọn chính sách tỷ giá

trong bối cảnh phục hồi nền kinh tế” Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia

Hà Nội.

5. Lê Quốc Lý (2004), “Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam”,

NXB Thống Kê, Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Mùi và nhóm nghiên cứu (2007), “Phát triển thị trường phái sinh ở

Việt Nam hiện nay- Giải pháp từ nhiều phía” Học viện Tài chính, Bộ Tài chính.

7. Trần Nguyên Nam (2009), “Giải pháp phát triển TTNH Việt Nam”, Luận án Tiến

sỹ Kinh Tế. Học viện tài chánh, Hà Nội.

8. Nguyễn Thị Nhung (2005),”Cơ chế quản lý ngoại hối của Việt Nam hướng tới hội

nhập kinh tế quốc tế”, NHNH Việt Nam, NXB Thống Kê, Hà Nội.

9. Nguyễn Trần Phúc (2009), “Thị trường ngoại hối và các giao dịch ngoại hối”,

NXB Phương Đông, TP HCM.

10. Lê Phan Thị Diệu Thảo (2002), “Các biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả

công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Bộ Giáo dục và

Đào tạo, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.

11. Lê Phan Thị Diệu Thảo (2011), “Giải bài toán đôla hóa tại Việt Nam”, Hội thảo

khoa học Chính sách tài khóa-tiền tệ và phát triển thị trường tài chính Việt Nam,

NXB Đại học Quốc gia TP.HCM.

162

12. TS Lê Đình Thu (2009), “Về tiền đề “cần” và “đủ” và bước đi để đưa đồng Việt

Nam trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi trong bối cảnh hội nhập kinh tế và thị

trường tài chính quốc tế”. Kỷ yếu các công trình NCKH, NXB Thống kê.

13. Nguyễn Văn Tiến (2004), “Phát triển và hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt

Nam”. Kỷ yếu các công trình NCKH, NXB Thống Kê, Hà Nội

14. Nguyễn Văn Tiến (2002), “TTNH Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”,

NXB Thống kê, Hà Nội.

15. Nguyễn Văn Tiến (2010), “Thị trường ngoại hối và các nghiệp vụ phái sinh”.

NXB Thống Kê, Hà Nội.

16. Chính phủ, Nghị định 160/2006/NĐ-CP, Quy định chi tiết hướng dẫn thi hành

pháp lệnh ngoại hối, ngày 28/12/2006.

17. Chính phủ, Nghị định số 107/2008/NĐ-CP ban hành ngày 22/9/2008, Quy định

xử phạt hành chính các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá quá mức, đưa tin

thất thiệt, buôn lậu và gian lận thương mại.

18. Chính phủ, Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg ngày 4/7/2007 của Thủ tướng chính

phủ về Đề án” Nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, khắc phục đôla hóa

trong nền kinh tế”.

19. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2007), “Giao dịch hoán đổi lãi suất,

giao dịch hàng hóa tương lai-Công cụ phái sinh phòng ngừa rủi ro hiệu quả tại

ngân hàng đầu tư và phát triển” Hội thảo khoa học, NXB Văn hóa-Thông tin.

20. Ngân hàng Nhà nước, Báo cáo tại Hội nghị cấp cao về kinh doanh tại Việt Nam,

Hà nội, ngày 3/5/2011.

21. Ngân hàng Nhà nước, Báo cáo thường niên các năm 1990 -2010.

22. Ngân hàng Nhà nước, Công văn số 2878, công văn số 2879, công văn số 2880,

công văn số 2880, công văn số 2882/NHNN-QLNH tháng 4 năm 2009.

23. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), “Giải pháp phát triển thị trường phái

sinh ở Việt Nam”, NXB Văn hóa-Thông tin Hà Nội.

24. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định 207/QĐ-NH ngày 16/08/1991 về:” Thành lập

trung tâm giao dịch ngoại tệ”.

163

25. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định 203/1991/NH-QĐ của Thống đốc Ngân hàng

Nhà nước về: “Thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng”.

26. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định 17/1998/QĐ-NHNN ngày 10/11/1998: “Quy

chế giao dịch hối đoái”.

27. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN ngày 28 tháng 05 năm

2004 về: “Giao dịch kỳ hạn”.

28. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10/11/2004 về:

“Giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối”.

29. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 21/2008/QĐ-NHNN ngày 11/7/2008 Quy

chế về đại lý thu đổi ngoại tế thay thế cho Quyết định 1216 năm 2003

30. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 74/QĐ-NHNN ngày18/1/2010 của NHNN,

Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng.

31. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định 230/QĐ-NHNN ngày 11/2/2011 về: “Ban hành

một số qui định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các TCTD được phép giao

dịch hối đoái”.

32. Ngân hàng Nhà nước, Tài liệu họp báo Về Hội nghị Thống đốc và Hội nghị Phó

Thống đốc Ngân hàng Trung ương ASEAN 29/3 - 3/4/2008, Đà Nẵng, Việt Nam.

33. Ngân hàng Nhà nước, Thông báo số 74/TB-NHNN ngày 11/02/2011, Thông báo

tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành.

34. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 03/2008/TT-NHNN, ngày 11/4/2008, Hướng

dẫn và hoạt động cung ứng dich vụ ngoại hối của tổ chức tín dụng.

35. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 03/2010/TT-NHNN, Về quy định mức lãi suất

tiền gửi tối đa bằng Đô la Mỹ của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng.

36. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo thường niên các năm 2005, 2006, 2007, 2008,

2009, 2010.

37. Ngân hàng Thế giới (2008), “Cập nhật về tình hình khu vực Đông Á Thái Bình

Dương”

38. Ngân hàng VCB, BIDV, Eximbank, Sacombank, ACB, Báo cáo thường niên các

năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010.

164

39. Quốc Hội, Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH 11 ban hành vào ngày

13/12/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/6/2006.

40. Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng (2003), “Xây dựng cơ chế quản lý ngoại

hối phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới”, NXB Thống Kê.

TIẾNG NƯỚC NGOÀI

41. Bob Steiner (2002), “Foreign Exchange And Money Markets”, Butterworth-

Heinemann Finance, Securities Institute.

42. Ding Jianding (1998), “China’s Foreign Exchange Black Market and Exchange

Flight: Analysis of Exchange Rate Policy”.The Developing Economies.XXXVI-

1:24

43. Jake Bernstein (1989), “How The Futures Markets Work”, Newyork Institute of

Finance.

44. Janvier D. Nkurunziza (2002), “Exchange rate policy and the parallel market for

foreign currency in Burundi” AERC Research Paper 123, Nairobi.

45. Joseph A. Walker (1991), “How The Options Markets Work”, Newyork Institute

Of Finance.

46. Laurence S. Copeland (2000), “Exchange Rates And International Finance,

Financial Time”, Prentice Hall.

47. Lucio Sarno and Mark P.Talor (2001), “The Microstructure of the foreign-

Exchange Market: A selective Survey of the Literature”. Princeton, New Jersey.

48. Mossa, I.A (2004), “International Finance: an analytical approach” , 2 edn, The

McGraw-Hill, Sydney.

49. Ngoc Luu Minh (2008), “Interview through Yahoo! Messenger regarding the

operation of the current forex market of Vietnam”

50. Ng Beoy Kui (1988), “The Development and Growth of Foreign Exchange

Market in the SEACEN countries”. SEACEN, Research and Traning

Centre.Kuala Lumpur Malaysia.

165

51. Phuc Nguyen Tran (2910), “Vietnam’s’s Exchange rate Policy and implications

for its Foreign Exchange Market, 1986-2009”. Griffith Business School(AFE),

Griffith University, Australia.

52. Phuc Nguyen Tran (2009b), “The Foreign Exchange Market in Vietnam:

Evolution,Current Structure, and Operational Characteristics”, Working paper,

Griffith University, Brisbane.

53. Ralph, Connel và Sunsil Sharma (2009), “A Framework for Financial Market

Development” IMF Working paper. WP/09/156.

54. Sam Y.Cross (1998),”The Foreign Exchange Market in the United State”.

Federal Reserve Bank of NY.

55. Simon T Gray & Nick Talbot(2006)”Developing Financial Markets”

Handbooks in for Central Banking No.26. Bank of England

56. Thanh Nguyen Duc (2002), “Determinants of VietNam Informal Market

Exchange Rates. The asset Market approach”. Vietnam-Netherlands MDE

Progam, Hanoi.Vietnam.

57. Yang Bai (2009),”Research of Foreign Exchange Management Legal System”.

Polytechnic University, China.

58. Yin-Wong Cheung (1998), “The Hong Kong Foreign Exchange Market”.

HKCER Letters,Vol. 50.

59. Yosuke Tsuyuguchi and Philip Wooldridge (2008), “The evolution of trading

activity in Asean Foreign Exchange markets”, BIS Working Papers 252.

60. Zhang Jikang And Liang Yuanyuan (2006), “The Institutional and Structural

Problems of China’s Foreign Exchange Market & Implication for the New

Exchange Rate Regime”. China: an International Journal, Vol.4,No.1,p.26.

61. BIS (2010), “Triennual Central Bank Servey of Foreign Exchange and OTC

Derivaties Market Activity”, Preliminary global results – Turnover.1.

62. IMF (2009), Country Report No.09/110, “The case of Vietnam”

63. IMF (2010), Country Report No. 10/281.

WEBSITE

166

64. Báo điện tử Công an nhân dân: http/ca.cand.com.vn/vi-vn/anninhkinhte/

phongsuđieutra. Lấy về lúc 03:59, Thứ Sáu, 03/04/2009.

65. Báo điện tử Sài gòn tiếp thị : http://sgtt.vn/Goc-nhin/141626/Cai-cach-thi-truong-

ngoai-hoi-chính-thúc-de-xoa-bỏ-cho-den.html. Lấy về lúc 11:00, Thứ Hai

14/3/2011.

66. GAFIN http://gafin.vn/20120117113756569p0c34/von-dieu-le-ngan-hang-tang-

hon-46000-ty-dong-trong-2011.htm. Lấy về lúc 12g30. Thứ Ba, 24/1/2911.

67. Báo điện tử Thời báo kinh tế Sài gòn

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/29217/ E ngại kiều hối

chảy khỏi ngân hàng. Lấy về lúc 22:23.Thứ Tư, 27/1/2010

điện tử Thời báo kinh tế Sài 68. Báo Gòn:

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/tiente/49431/Dai-ly-thu-doi-ngoai-

te-Tay-dai-den-dau?.html Lưu Hảo. Lấy về 18:28 Thứ bảy, 12/3/2011.

69. Báo điện tử Thời báo kinh tế Sài Gòn: http://www.thesaigontimes.vn/

Home/thoisu/doisong/27436/ . Úc lựa chọn hàng đầu của du học sinh Việt Nam

Lấy về lúc 13:46 , Thứ Ba, 18/9/2009.

70. Báo điện tử Việt báo: http://vietbao.vn/Kinh-te/VND-huong-ngoai-Khong-

de/20454053/90/. Lấy về lúc 9:40. Thứ tư, 17/6/2008

đồng kinh tế Việt 71. Cộng Nam

http://vneconomy.vn/20110331035017899P0C6/binh-on-ty-gia-chia-khoa-nam-

o-can-bang-quyen-so-huu.htm. Lấy về lúc 10:23 Thứ 2 13/2/2011

72. http://vietstock.vn/ChannelID/759/Tin-tuc/176401-kieu-hoi-tang-manh.aspx. Lấy

về lúc 11:20.Thứ ba 14/2/2011

73. Quỹ tiền tệ Quốc tế: http://elibrary data.imf.org/FindDataReports. aspx?d

=33061&e=169393. Lấy về lúc 10:00, Thứ Năm, 13/09/2012.

74. Tạp chí The Banker: http://www.thebanker.com/top 1000

75. http://www.tradechakra.com/economy/philippines/banking-and-finance-in-

philippines-243.php.

76. Website của Hải Quan Việt Nam: http://www.customs.gov.vn.

167

77. Website Ngân hàng nhà nước: http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!

nhap-wto-cua-viet-nam-trong-linh-vuc-thuong-mai-dich-vu/cam-ket-mo-

cua-thi-truong-d-6. Lấy về lúc 12:24, Thứ Tư, 06/07/2011.

78. Website Trung tâm WTO của VCCI: http://trungtamwto.vn/wto/cam-ket-gia-

79. Website Tổng cục Thống kê: http://www.gso.gov.vn/

168

PHỤ LỤC

Phụ lục số 1

Phân bổ doanh số giao dịch

̀ng Tư, Đơn vị tính tỷ USD và %

Doanh số trung bình ngày vào thá

ngoại hối toàn cầu theo khu vực địa lý

Quốc gia

Australia

Canada

China

France

HongKong

Indonesia

Japan

Malaysia

Philipine

Singapore

2007 Số lượng % 22.7 20.6 9.3

Thailand United Kingdom 685.2 383.4

United State

2010 Số lượng % 1.5 40.6 1.5 41.7 0.4 19.8 7.3 193.3 0.7 18.5 0.1 3.4 6.2 312.3 0.1 7.3 0.1 5 5.3 266 0.1 7.4 36.7 17.9

2001 1998 2004 Số lượng % Số lượng % Số lượng % 1.5 9.8 0.8 2.8 12.8 1.5 9.9 1.9 6.4 12.1 0.0 0 0.2 0.0 0.6 9.6 11.8 65.1 40.6 151.3 0.4 2.8 0.7 2.4 11.3 0.2 3.9 0.1 1.8 2.3 9 152.7 7 146.3 207.4 0.1 1.4 0.1 1.1 1.7 0.1 1.1 0 0.8 0.7 6.1 103.7 6.9 144.9 133.6 0.1 0.1 1.9 3.1 3.1 835.3 32 32.6 541.7 16.1 498.8 18.3 272.6 1 0.9 0.0 11.4 176.1 17.3 0.8 3 0.1 250.2 8 3.5 0.1 2.3 0 241.8 5.1 6.3 0.1 1483.2 32 19.1 745.2 1 0.9 0.2 8.1 0.9 0.1 5.8 0.1 0.1 5.6 0.1 34.6 1853.3 17.4 904.4

Nguồn:Trích Bảng 9, Triennial Central Bank Survey 2010 , BIS.

169

Phụ lục số 2

Phân bổ doanh số theo các loại tiền tệ

Doanh số trung bình ngày của tháng 4

Đơn vị : %

US dollar

86.8

89.9

88.0

85.6

84.9

Euro

37.9

37.4

37.0

39.1

JPY

21.7

23.5

20.0

17.2

19.0

GBP

11.0

13.0

16.5

14.9

12.9

AUD

3.0

4.3

6.0

6.6

7.6

CAD

3.5

4.5

4.2

4.3

5.3

CHF

7.1

6.0

6.0

6.8

6.4

HKD

1.0

2.2

1.8

2.7

2.4

SGD

1.1

1.1

0.9

1.2

1.4

CNY

0.0

0.0

0.1

0.5

0.3

MYR

0.0

0.1

0.1

0.1

0.3

THB

0,1

0.2

0.2

0.2

0.2

IDR

0.1

0.0

0.1

0.1

0.2

Tiền tệ 1998 2001 2004 2007 2010

Nguồn : Trích Bảng số 3,Triennial Central Bank Survey 2010,BIS

170

Phụ lục số 3

Cam Kết Mở Cửa Thị Trường Dịch Vụ Ngân Hàng

Và Các Dịch Vụ Tài Chính

Việt Nam có cam kết mở cửa những dịch vụ ngân hàng nào khi gia

nhập WTO?

Về dịch vụ ngân hàng, trong WTO, Việt Nam đã đưa ra cam kết mở cửa trong

1. Dịch vụ nhận tiền gửi (nhận tiền gửi và các khoản phải trả khác từ công

chúng);

2. Dịch vụ cho vay (cho vay dưới tất cả các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu

dùng, tín dụng cầm cố thế chấp, bao thanh toán và tài trợ giao dịch thương

mại);

3. Dịch vụ thuê mua tài chính;

4. Dịch vụ thanh toán (tất cả các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao gồm

thẻ tín dụng, thẻ thanh toán và thẻ nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng);

5. Bảo lãnh và cam kết;

6. Kinh doanh trên tài khoản của mình hoặc của khách hàng, tại sở giao dịch,

trên thị trường giao dịch thoả thuận hoặc bằng cách khác, các loại:

o Công cụ thị trường tiền tệ (bao gồm séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi);

o Ngoại hối;

o Các công cụ tỷ giá và lãi suất, bao gồm các sản phẩm như hợp đồng hoán

đổi, hợp đồng kỳ hạn;

các ngành sau:

o Vàng khối.

7. Môi giới tiền tệ;

8. Quản lý tài sản (quản lý tiền mặt hoặc danh mục đầu tư, mọi hình thức

quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác);

9. Các dịch vụ thanh toán và bù trừ tài sản tài chính (bao gồm chứng khoán,

các sản phẩm phái sinh và các công cụ chuyển nhượng khác);

10. Cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính cũng

như các phần mềm liên quan của các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính

khác

Các nhóm dịch vụ mà Việt Nam có cam kết này được xác định theo phân

loại tại Phụ lục về dịch vụ tài chính của WTO.

171

Các ngân hàng nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt

Nam có được cung cấp dịch vụ cho khách hàng tại Việt Nam không?

Theo cam kết, Việt Nam cho phép các ngân hàng nước ngoài không có hiện

diện thương mại tại Việt Nam (công ty con, chi nhánh, văn phòng đại diện,

hợp đồng hợp tác kinh doanh) cung cấp cho khách hàng tại Việt Nam

nhưng chỉ giới hạn ở các dịch vụ sau:

- Cung cấp thông tin tài chính;

- Xử lý dữ liệu tài chính;

- Cung cấp phần mềm tài chính;

- Tư vấn, môi giới, phân tích tín dụng;

- Nghiên cứu và tư vấn về đầu tư, danh mục đầu tư, mua lại, tái cơ cấu và

chiến lược doanh nghiệp.

172

Điều kiện thành lập ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước

ngoài tại Việt Nam?

Về việc thành lập liên doanh

Việt Nam cam kết cho phép thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam

ngay từ thời điểm gia nhập WTO (11/1/2007) với điều kiện:

- Phía nước ngoài tham gia liên doanh phải là ngân hàng thương mại có

tổng tài sản có trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm liền trước thời điểm nộp

đơn xin thành lập liên doanh tại Việt Nam; và

- Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không vượt quá 50%

vốn điều lệ.

Về việc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài

Việt Nam cam kết cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài kể

từ ngày 1/4/2007 với điều kiện ngân hàng nước ngoài là chủ đầu tư phải là

ngân hàng thương mại có tổng tài sản có trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm

liền trước thời điểm nộp đơn xin thành lập ngân hàng tại Việt Nam.

Ngoài điều kiện theo cam kết, việc thành lập ngân hàng tại Việt Nam phải

tuân thủ các điều kiện kỹ thuật áp dụng chung theo quy định của pháp luật

Việt Nam.

Hộp 1 - Pháp luật Việt Nam quy định gì về việc thành lập ngân hàng FDI?

Nghị định 22/2006/NĐ-CP của Chính phủ là văn bản chính quy định về tổ

chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên

doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài và văn phòng đại diện của các tổ

chức

tín

dụng

nước

ngoài

tại

Việt

Nam.

Tất cả các điều kiện về việc thành lập ngân hàng FDI trong cam kết WTO

của Việt Nam đã được đưa vào nội dung Nghị định này.

173

Điều kiện thành lập các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính có

vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam?

Điều kiện chung

Việt Nam cam kết cho phép thành lập các công ty tài chính, công ty cho

thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam với điều kiện:

- Công ty mẹ phải có tổng tài sản trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước

thời điểm nộp đơn xin thành lập công ty tại Việt Nam;

- Tuân thủ các điều kiện kỹ thuật áp dụng chung theo quy định của pháp

luật Việt Nam.

Ngoài các điều kiện chung, việc thành lập công ty tài chính, công ty cho

thuê tài chính còn phải đáp ứng điều kiện riêng đối với từng loại như sau:

Đối với công ty tài chính

Việt Nam cam kết cho phép thành lập công ty tài chính liên doanh, công ty

tài chính 100% vốn nước ngoài với điều kiện phía nước ngoài phải là các

ngân hàng thương mại nước ngoài hoặc công ty tài chính nước ngoài.

Đối với công ty cho thuê tài chính

Việt Nam cam kết cho phép thành lập công ty cho thuê tài chính liên

doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài với điều kiện phía

nước ngoài phải là các ngân hàng thương mại nước ngoài, công ty tài chính

nước ngoài hoặc công ty cho thuê tài chính nước ngoài.

174

Điều kiện thành lập chi nhánh của tổ chức tài chính nước ngoài tại

Việt Nam?

Đối với Chi nhánh Ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam

Việt Nam cam kết cho phép các ngân hàng thương mại nước ngoài được

thành lập chi nhánh của họ tại Việt Nam với điều kiện:

1. Ngân hàng mẹ có tổng tài sản trên 20 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm liền trước

thời điểm nộp đơn xin lập chi nhánh ở Việt Nam;

2. Chi nhánh được thành lập phải chịu các hạn chế trong hoạt động của

mình.

Ngoài các điều kiện nêu trong cam kết nói trên, các ngân hàng nước ngoài

muốn thành lập chi nhánh tại Việt Nam phải tuân thủ các điều kiện khác về

mặt kỹ thuật theo quy định của pháp luật Việt Nam (áp dụng chung cho cả

ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài).

Hộp 2 - Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định như thế nào về việc thành

lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam?

Những nội dung về điều kiện đối với việc mở chi nhánh của ngân hàng

nước ngoài tại Việt Nam trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam đã

được đưa vào Công văn số 1210/NHNN-CNH của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam. Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện hành có mức mở cửa như

mức cam kết.

Trên thực tế, trước khi gia nhập WTO, một số chi nhánh ngân hàng nước

ngoài đã được cấp phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam (37 chi nhánh

tính đến 4/2007) mà không phải chịu các điều kiện tương tự.

Tuy nhiên, kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, việc thành lập chi nhánh

của ngân hàng nước ngoài sẽ phải các điều kiện tuân thủ quy định tại Công

văn nói trên (tức là phù hợp với cam kết).

Hộp 3 - Những hạn chế trong hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước

ngoài tại Việt Nam

Không được phép mở các điểm giao dịch khác ngoài trụ sở giao dịch

chính của mình

Ví dụ Ngân hàng A mở chi nhánh X1 tại Việt Nam thì chi nhánh X1 này

không được tự mình mở các điểm giao dịch, chi nhánh khác. Nếu muốn mở

rộng mạng lưới hoạt động, Ngân hàng A phải tự mình xin phép mở các chi

nhánh X2, X3, v.v hoặc thông qua các hình thức đầu tư khác.

Việt Nam cam kết không hạn chế số chi nhánh trực tiếp của các ngân hàng

nước ngoài;

Bị hạn chế trong việc nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể

nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng (chưa cung cấp

các khoản vay, cho vay, chưa nhận tiền gửi, v.v) theo % mức vốn mà ngân

hàng mẹ cấp cho chi nhánh như sau:

175

Từ 1/1/2007: 650% vốn pháp định được cấp;

Từ 1/1/2008: 800% vốn pháp định được cấp

Từ 1/1/2009: 900% vốn pháp định được cấp;

Từ 1/1/2010: 1000% vốn pháp định được cấp;

Từ 1/1/2011: được nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam ở mức tương

tự các ngân hàng Việt Nam.

Đối với Chi nhánh Công ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính tại Việt

Nam

Việt Nam chưa cam kết gì về việc thành lập chi nhánh công ty tài chính,

công ty cho thuê tài chính nước ngoài tại Việt Nam. Vì vậy, việc cho phép

thành lập chi nhánh các công ty này tại Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào

chính sách và pháp luật liên quan của Việt Nam trong từng thời kỳ.

176

Điều kiện thành lập văn phòng đại diện của ngân hàng thương mại,

công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính nước ngoài tại Việt Nam?

Việt Nam cam kết cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài (ngân hàng

thương mại nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính) được

mở Văn phòng đại diện tại Việt Nam với điều kiện Văn phòng đại diện

không được phép tiến hành các hoạt động thương mại sinh lời trực tiếp.

Thời hạn hoạt động tối đa của các loại hình tổ chức tín dụng FDI ở

Việt Nam là bao lâu?

Trong WTO, Việt Nam không cam kết về thời hạn hoạt động của các loại

hình tổ chức tín dụng này. Như vậy, Việt Nam có quyền tự do quy định về

thời hạn này.

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành thì thời hạn hoạt động tối đa của các tổ

chức tín dụng này được quy định như sau:

- Đối với ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài: không

quá 99 năm;

- Đối với chi nhánh của ngân hàng nước ngoài: không vượt quá thời hạn

hoạt động của ngân hàng mẹ và không quá 99 năm;

- Đối với văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài: không vượt quá

thời hạn hoạt động của ngân hàng mẹ;

- Công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài,

công ty cho thuê tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100%

vốn nước ngoài: 50 năm

Thời hạn hoạt động cụ thể được quy định trong giấy phép được cấp và có

thể được gia hạn theo yêu cầu (thời hạn gia hạn không vượt quá thời hạn

hoạt động trước đó được quy định trong giấy phép).

177

Ngân hàng nước ngoài có được thiết lập các máy rút tiền tự động, phát

hành thẻ tín dụng không?

Theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài

được hưởng đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia đầy đủ, tức là các ngân

hàng này có quyền thiết lập và vận hành các máy rút tiền tự động (ATM)

như các ngân hàng Việt Nam. Hiện nay đối với các ngân hàng Việt Nam,

không có hạn chế số lượng các máy rút tiền tự động mà các ngân hàng này

được phép lắp đặt.

Các tổ chức tín dụng nước ngoài cũng được phép phát hành thẻ tín dụng tại

Việt Nam như các ngân hàng Việt Nam.

178

Việt Nam có thể áp dụng các biện pháp khác ngoài cam kết đối với việc

thành lập, tham gia, hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài trong

lĩnh vực ngân hàng và dịch vụ tài chính không?

Do tính đặc thù và tầm quan trọng của dịch vụ tài chính (đối với toàn bộ

nền kinh tế quốc dân, đối với các nhà đầu tư, những người gửi tiền…),

WTO cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp khác vì lý

do thận trọng, đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính.

Do đó, ngoài các hạn chế về hình thức pháp nhân, yêu cầu về vốn, các hạn

chế về hoạt động đối với chi nhánh… đối với nhà đầu tư nước ngoài được

phép áp dụng theo cam kết, Việt Nam có thể xem xét áp dụng bổ sung các

biện pháp mang tính hạn chế, kiểm soát chặt chẽ nhằm mục tiêu thận trọng.

Hộp 4 – Ví dụ về các yêu cầu bổ sung có thể có đối với tổ chức tài chính

nước ngoài (ngoài cam kết)

Yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc;

Yêu cầu về vốn đối với việc thành lập chi nhánh, ngân hàng liên

doanh;

Yêu cầu về điều kiện vật chất, kỹ thuật, nhân lực, v.v đối với các tổ

chức tín dụng.

Các yêu cầu này, nếu có, phải được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối

xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài (các ngân hàng thương mại nước ngoài,

công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính).

179

Những hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại các

ngân hàng Việt Nam?

Việt Nam cam kết về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần của các nhà

đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam như sau:

- Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh được cổ phần hóa (ví dụ

VCB, BIDV…): Tỷ lệ cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài trong

các ngân hàng cổ phần hóa này có thể bị hạn chế như mức tỷ lệ cổ phần của

các ngân hàng dân doanh Việt Nam trong các ngân hàng cổ phần hóa này;

- Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần thuộc khu vực dân doanh:

tổng số cổ phần do các cá nhân, tổ chức nước ngoài nắm giữ tại mỗi ngân

hàng thương mại cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn

điều lệ của ngân hàng đó, trừ khi luật pháp Việt Nam có qui định khác hoặc

được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

Việt Nam có đưa ra cam kết nào về ngoại hối hay không?

Về ngoại hối, Việt Nam cam kết như sau:

- Về giao dịch vãng lai: dỡ bỏ tất cả các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng

lai (và trên thực tế Việt Nam đã thực hiện cam kết này);

- Về giao dịch vốn: Việt Nam đã nới lỏng các giao dịch chuyển vốn của các

nhà đầu tư nước ngoài và việc vay nước ngoài của các tổ chức cư trú;

- Về các biện pháp quản lý ngoại hối: chỉ được áp dụng trong những trường

hợp ngoại lệ, do Chính phủ quyết định, để duy trì an ninh tài chính và tiền

tệ quốc gia phù hợp với điều lệ của Quỹ Tiền tệ quốc tế;

Về cân đối ngoại tệ: Chính phủ cam kết bảo đảm cân đối nhu cầu ngoại tệ

cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án đặc biệt quan trọng

trong các chương trình của Chính phủ và hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các dự

án cơ sở hạ tầng và một số dự án quan trọng khác trong trường hợp các

ngân hàng được phép giao dịch ngoại hối không thể đáp ứng được tất cả

các yêu cầu về ngoại tệ.

Nguồn:

http://trungtamwto.vn/wto/cam-ket-gia-nhap-wto-cua-viet-nam-

trong-linh-vuc-thuong-mai-dich-vu/cam-ket-mo-cua-thi-truong-d-6 lấy về

12:24’ ngày 06/07/2011

180