intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phê phán kinh tế học hàn lâm - Nguyễn Đôn Phước (dịch)

Chia sẻ: Tùy Tâm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

36
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhà kinh tế lỗi lạc Wassily Leontief (1906-1999) không chỉ nổi tiếng với phương pháp input-output (nhờ đó ông được giải kinh tế học của Ngân hàng Thụy Điển để tưởng nhớ Alfred Nobel năm 1973), mà còn có nhiều ảnh hưởng trong một lĩnh vực quan trọng khác trong sự nghiệp của ông nhờ những đóng góp về khoa học luận và phương pháp luận kinh tế. Cùng xem bài viết "Phê phán kinh tế học hàn lâm" để biết thêm nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phê phán kinh tế học hàn lâm - Nguyễn Đôn Phước (dịch)

Tác phẩm dịch DC-11<br /> <br /> Phê phán kinh tế học hàn lâm<br /> Wassily Leontief<br /> Nguyễn Đôn Phước dịch<br /> <br />  <br />  <br /> <br /> © 2010 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách<br /> Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội<br /> <br /> Tác phẩm dịch DC-11<br /> <br /> Phê phán kinh tế học hàn lâm<br /> Wassily Leontief(*)<br /> Nguyễn Đôn Phước dịch<br /> <br />  <br />  <br />  <br />  <br />  <br />  <br />  <br />  <br /> <br /> Quan điểm được trình bày trong bài viết này là của (các) tác giả và không nhất thiết<br /> phản ánh quan điểm của dịch giả hoặc VEPR.<br /> <br />  <br />  <br />                                                             <br /> <br /> (*) Trích tạp chị Science, vol. 217, n0 4555, July 9, 1982 Nguồn : phần I (Textes) trong Wassily Leontief, textes et<br /> itinéraires do Bernard Rosier chủ biên, nhà xuất bản La Découverte, Paris, 1986, trang 23-28. .<br /> <br />  <br /> 1 <br />  <br /> <br />  <br />  <br /> <br /> Giới thiệu của người dịch<br /> <br /> Nhà kinh tế lỗi lạc Wassily Leontief (1906-1999) không chỉ<br /> nổi tiếng với phương pháp input-output1 (nhờ đó ông được giải<br /> kinh tế học của Ngân hàng Thụy Điển để tưởng nhớ Alfred Nobel<br /> năm 1973), mà còn có nhiều ảnh hưởng trong một lĩnh vực quan<br /> trọng khác trong sự nghiệp của ông nhờ những đóng góp về khoa<br /> học luận và phương pháp luận kinh tế.<br />  <br /> <br /> Qua cụm bài dịch một số bài viết và trả lời phỏng vấn của ông, chúng tôi bước đầu giới<br /> thiệu với độc giả Việt Nam nói chung, giới nghiên cứu kinh tế nói riêng những quan điểm<br /> chính về lĩnh vực khoa học luận và phương pháp luận kinh tế, hiện chưa được biết tới nhiều ở<br /> Việt Nam. Diễn văn nổi tiếng của ông ở cương vị Chủ tịch Hội kinh tế Mĩ năm 1970 (DC-09)<br /> nay đã trở thành một bài “kinh điển”. Trả lời cuộc phỏng vấn dài (DC-10) là dịp để ông trình<br /> bày hành trình trí thức của một nhà kinh tế từng trải qua những biến động lịch sử của thế kỉ<br /> XX, với một tư duy không giáo điều, rộng mở với các ngành khoa học khác, và từ chối sự<br /> chia cắt giả tạo giữa “kinh tế học lí thuyết” và kinh tế học ứng dụng”. Mười hai năm sau bài<br /> diễn văn nổi tiếng trên, ông kiên định “phê phán kinh tế học hàn lâm” (DC-11) và tiếp tục<br /> cảnh báo “tình trạng cân bằng ổn định, dừng và sự cô lập huy hoàng hiện nay của kinh tế học<br /> kinh viện”.<br /> <br />                                                             <br /> 1<br /> <br /> Phương pháp cân đối liên ngành hoặc đầu ra-đầu vào.<br /> <br /> 2 <br />  <br /> <br />  <br />  <br /> <br /> Phê phán kinh tế học hàn lâm<br /> “ Một biểu trưng bi thảm … Những gì các nhà kinh tế bộc lộ rõ ràng nhất là sự tụt hậu trí<br /> tuệ to lớn của bộ môn họ2”. Chủ yếu, bài xã luận này của tuần san kinh tế được biết đến nhất<br /> (Business Week) – khi bình luận các công trình trình bày ở hội nghị năm 1981 của Hội kinh tế<br /> Mĩ – nói rằng “nhà vua cởi truồng”. Nhưng không ai trong số những người tham gia cuộc<br /> trình diễn long trọng và rất được mong muốn này của khoa học kinh tế của Hoa Kì có vẻ như<br /> không biết điều ấy, và những ai biết thì không dám nói.<br /> Hai trăm năm trước, các nhà sang lập kinh tế học hiện đại – Adam Smith, Ricardo,<br /> Malthus và John Stuart Mill – xây dựng một kiến trúc tri thức đồ sộ đặt cơ sở trên ý niệm về<br /> một nền kinh tế quốc gia được xem như một hệ thống tự điều tiết hợp thành bởi một số lớn<br /> những hoạt động khác nhau và nối kết với nhau và, vì thế, phụ thuộc lẫn nhau. Một quan<br /> niệm vững mạnh và phong phú đến độ đã thúc đẩy công trình sáng tạo của Charles Darwin về<br /> lí thuyết tiến hóa.<br /> Ý tưởng trung tâm của điều được gọi là kinh tế học cổ điển được hai kĩ sư đặc biệt có<br /> năng lực toán học : Léon Walras và Vilfredo Pareto thể hiện một cách vô cùng tinh tế bằng<br /> một ngôn ngữ đại số suc tích và đặt tên là “lí thuyết cân bằng chung”. Ngày nay, dưới tên gọi<br /> kinh tế học “tân cổ điển”, lí thuyết này là cốt lõi của chương trình đại học trong đất nước này.<br /> Khi mà chúng ta đã trải qua hết những sự kiện hằng ngày thì các nhà kinh tế lại có khả<br /> năng quy giản chúng thành yếu tố thông tin khó tiếp cận và có tính chuyên môn hơn dành cho<br /> các số liệu thống kê chính thức. Tuy nhiên các thống kê này – do các cơ quan hay doanh<br /> nghiệp thiết lập không vì mục đích khoa học – vẫn còn xa mới đạt đến mức cần thiết cho một<br /> sự hiểu biết cụ thể, chi tiết hơn về cấu trúc và hoạt động của một hệ thống kinh tế hiện đại.<br /> Do, ngay từ đầu, khác với những đồng nghiệp thuộc các khoa học tự nhiên và lịch sử vốn<br /> buộc phải khép mình vào và chấp nhận kỉ luật chặt chẽ của việc tìm kiếm có hệ thống các sự<br /> kiện, các nhà kinh tế phát triển một sự ưa thích không gì cưỡng nổi đối với lập luận mang<br /> tính suy luận. Trong thực tế, rất nhiều nhà kinh tế bước vào bộ môn sau khi đã là chuyên gia<br /> về toán thuần túy hay ứng dụng.<br /> Các tạp chí kinh tế chuyên nghiệp, trang này sang trang khác, đầy dẫy những công thức<br /> toán học dẫn người đọc từ một tập những giả thiết ít nhiều có thể chấp nhận nhưng hoàn toàn<br /> tùy tiện đến những kết luận được xác lập một cách chính xác nhưng thiếu tính xác đáng.<br />                                                             <br /> 2<br /> <br /> Business Week, 18 January 1982, p. 124.<br /> <br /> 3 <br />  <br /> <br />  <br />  <br /> <br /> Không gì bộc lộ rõ hơn sự kinh tởm của đa số các nhà kinh tế trong đại học ngày nay đối<br /> với những cuộc điều tra thực nghiệm có hệ thống bằng những mưu mẹo phương pháp luận<br /> được họ vận dụng để né tránh hay chặn đứng việc sử dụng thông tin về những sự kiện cụ thể.<br /> Thay vì xây dựng những mô hình lí thuyết có khả năng bảo tồn bản sắc của hàng trăm, thậm<br /> chí hàng nghìn biến cần thiết cho việc mô tả cụ thể và phân tích một nền kinh tế hiện đại, họ<br /> ưu tiên vận dụng sự “tổng gộp” (aggregation). Thông tin ban đầu, mặc dù chi tiết, bị gộp<br /> thành một số tương đối ít những gói được đặt tên là “tư bản”, “lao động”, “nguyên liệu”, “sản<br /> phẩm trung gian”, “mức giá chung”, v.v. Các gói này sau đó được đưa vào một mô hình,<br /> nghĩa là một hệ phương trình nhỏ mô tả toàn bộ nền kinh tế bằng một số ít biến “tổng gộp”<br /> tương ứng. Thông thường, việc đưa vào này được thực hiện bằng phương pháp “bình phương<br /> bé nhất” hay bằng mọi thủ tục tương tự cho phép điều chỉnh các dữ liệu trên một đường biểu diễn.<br /> Một ví dụ điển hình về một “hàm sản xuất” lí thuyết nhằm mô tả quan hệ giữa, ví dụ, giá<br /> trị sản xuất sắt y1 và những lượng của bốn đầu vào khác nhau y 2 , y 3 , y 4 , y 5 cần thiết để<br /> sản xuất sắt được mô tả, chẳng hạn, như sau3 :<br /> y1 P1 = a1 G 2<br /> <br /> P1<br /> <br /> ÷ ( 1 − a1 ) G 3<br /> <br /> P1<br /> <br /> với :<br /> − G 2 = [ a2 y2<br /> <br /> P2<br /> <br /> − G 3 = [ a3 y 4<br /> <br /> P3<br /> <br /> ÷ (1 − a2 ) y 4<br /> <br /> ÷ ( 1 − a3 ) y 5<br /> <br /> P2<br /> <br /> ] 1/ P2<br /> <br /> ]<br /> <br /> P3 1/ P3<br /> <br /> hay cách khác :<br /> ln G 2 = 1 / 2 ln y 2 ÷ 1 / 2 ln y 3<br /> <br /> ln G 3 = 1 / 2 ln y 4 ÷ 1 / 2 ln y 5<br /> hay cuối cùng là :<br /> ln y1 = a1 ln G 2 ÷ ( 1 − a1 ) ln G 3<br /> <br /> Yêu cầu một giám đốc nhà máy sản xuất sắt hay một chuyên gia luyện kim những thông<br /> tin về trị số của sáu tham số trong sáu phương trình trên là một điều vô nghĩa. Do đó, trong<br /> khi nhãn hiệu gán cho các biến và tham số tượng trưng của các phương trình lí thuyết có xu<br />                                                             <br /> 3<br /> <br /> J. R. Christensen, D. W. Jorgenson, L. J. Lau, « Transcendential Logarithmic Production Functions », Review<br /> oi Economic Studies, vol. 35, n0 28, 1972.<br /> <br /> 4 <br />  <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2