An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87<br />
<br />
QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIỮ GÌN VÀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG,<br />
TIẾN TỚI ĐỒNG KHỞI Ở CÀ MAU (1954 - 1960)<br />
Thái Văn Thơ1<br />
1<br />
<br />
Trường Đại học Ngoại Thương, Cơ sở II Thành phố Hồ Chí Minh<br />
<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 29/05/2017<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt:<br />
20/06/2017<br />
Ngày chấp nhận đăng: 12/2017<br />
Title:<br />
The process of struggling to<br />
preserving and building<br />
revolutionary forces toward<br />
Dong Khoi movement in Ca<br />
Mau (1954 - 1960)<br />
Keywords:<br />
Ca Mau, forces preserve,<br />
forces building, Dong Khoi<br />
Từ khóa:<br />
Cà Mau, giữ gìn lực lượng,<br />
xây dựng lực lượng, Đồng<br />
Khởi<br />
<br />
ABSTRACT<br />
In the period 1954 - 1960, the U.S established and supported Ngo Dinh Diem’s<br />
puppet government to repress the revolutionary forces and innocent people in<br />
South Vietnam fiercely. Because of facing difficulties and challenges, many<br />
people in the Southern Vietnam, including the people of Ca Mau province,<br />
neither succumbed nor surrendered. The Provincial Party, the Provincial Party<br />
Committee and people in Ca Mau struggled for preserving, building and<br />
developing revolutionary forces towards the Dong Khoi movement throughout<br />
the province in 1960 that led to the unsuccess of the U.S - Diem.<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Trong giai đoạn 1954 - 1960, Mỹ thiết lập và hỗ trợ chính quyền tay sai Ngô<br />
Đình Diệm ra sức tiến hành đàn áp, khủng bố khốc liệt vào lực lượng cách<br />
mạng và nhân dân vô tội ở miền Nam Việt Nam. Trước tình cảnh khó khăn, thử<br />
thách đó nhiều nơi ở miền Nam trong đó có Cà Mau, nhân dân không chịu<br />
khuất phục, đầu hàng. Đảng bộ, Tỉnh ủy cùng với quân dân Cà Mau đẩy mạnh<br />
quá trình đấu tranh giữ gìn, xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng và tiến<br />
tới cao trào Đồng Khởi thắng lợi vang dội trong toàn tỉnh năm 1960, góp phần<br />
đẩy chế độ Mỹ - Diệm lâm vào tình trạng khủng hoảng triền miên sau đó.<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết<br />
thúc, nhân dân Việt Nam đã làm nên chiến thắng<br />
“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và chấm<br />
dứt quá trình 9 năm xâm lược trở lại của thực dân<br />
Pháp ở Việt Nam. Hiệp định Genève được ký<br />
kết, những tưởng chiến tranh lùi xa nhưng sau<br />
khi người Pháp đại bại rút đi thì Mỹ lại chen chân<br />
nhảy vào, với âm mưu muốn chia cắt và biến<br />
miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và<br />
lệ thuộc vào Mỹ. Hiệp định Genève có hiệu lực,<br />
chính quyền Mỹ với sự viện trợ không ngừng về<br />
kinh tế, quân sự, cố vấn đã giúp chế độ tay sai<br />
Ngô Đình Diệm thiết lập được một “chính phủ”<br />
mới của “thế giới tự do” ở miền Nam làm đối<br />
<br />
trọng với Bắc Việt. Từ cuối năm 1954, sau khi<br />
lực lượng bộ đội tập kết ra Bắc theo quy định của<br />
Hiệp định Genève, cách mạng miền Nam phải<br />
đối mặt với nhiều khó khăn và hy sinh mất mát<br />
chưa từng có trước sự đàn áp, khủng bố khốc liệt<br />
từ chính quyền Mỹ - Diệm. Trước tình thế này,<br />
nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho cách mạng miền<br />
Nam nói chung và ở Cà Mau nói riêng là phải<br />
làm sao vừa đấu tranh để thi hành Hiệp định<br />
Genève vừa phải bảo tồn được lực lượng và<br />
thành quả cách mạng. Thực tế lịch sử cho thấy,<br />
Cà Mau đã giải quyết được cả hai vấn đề này một<br />
cách rất sáng tạo, độc đáo và phù hợp với thực<br />
tiễn cách mạng địa phương. Quân dân Cà Mau đã<br />
vùng lên đấu tranh kiên cường, giữ gìn, xây dựng<br />
79<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87<br />
<br />
và phát triển lực lượng cách mạng vững mạnh,<br />
tiến tới làm một cuộc quật khởi lớn - một Đồng<br />
Khởi thắng lợi vang dội năm 1960 trong toàn<br />
Tỉnh. Đó cũng là những vấn đề mà bài viết này sẽ<br />
đi sâu phân tích và làm rõ.<br />
2. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIỮ GÌN VÀ<br />
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH<br />
MẠNG, TIẾN TỚI ĐỒNG KHỞI Ở CÀ<br />
MAU (1954 - 1960)<br />
2.1 Tình hình ở Cà Mau sau Hiệp định<br />
Genève<br />
Theo quy định của Hiệp định Genève, Cà Mau là<br />
vùng tập kết 200 ngày của lực lượng kháng chiến<br />
miền Tây Nam Bộ. Chấp hành nghị quyết ngày<br />
6/9/1954 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về<br />
tình hình mới và nhiệm vụ mới của cách mạng,<br />
Tỉnh ủy Cà Mau tiến hành tổ chức, sắp xếp lại<br />
lực lượng, chuyển hướng đấu tranh từ vũ trang<br />
sang chính trị cho phù hợp với thời kì mới. Đảng<br />
bộ, Tỉnh ủy và quân dân Cà Mau cũng bắt đầu<br />
xây dựng vùng giải phóng và vùng mới tiếp<br />
quản. Trong 200 ngày tập kết, chính quyền cách<br />
mạng làm nhiều việc có ích cho nhân dân như tu<br />
sửa cầu đường cho dân thuận tiện đi lại, giữ vững<br />
an ninh, trật tự xã hội, tiến hành đổi tiền cho dân<br />
thuận lợi buôn bán trao đổi, xây dựng bầu không<br />
khí hòa bình, vui vẻ, tạo niềm tin cho nhân dân<br />
sinh sống chờ ngày tổng tuyển cử thống nhất.<br />
Những cuộc mít tinh mừng hòa bình, chiến thắng<br />
diễn ra trong toàn tỉnh với niềm vui phấn khởi vô<br />
bờ. Nhưng niềm vui ấy lại sớm qua mau, ngày<br />
8/2/1955 khi chuyến tàu cuối cùng rời bến vàm<br />
sông Ông Đốc cũng là lúc nhân dân Cà Mau<br />
bước vào một cuộc đấu tranh mới đầy cam go,<br />
quyết liệt. Lực lượng tập kết vừa rút quân địch đã<br />
“tiến hành lập hệ thống đồn bót dọc theo các<br />
tuyến lộ xe, kênh xáng, sông lớn nhằm khống chế<br />
các con đường giao thông huyết mạch. Chính<br />
quyền Diệm tiến hành mua chuộc, lừa mị dân<br />
chúng; xây dựng bộ máy cai trị từ tỉnh xuống tận<br />
các xã, ấp; thành lập các tổ chức chính trị phản<br />
động như “Tự vệ hương thôn”, “Thanh niên cộng<br />
hòa”, “Phụ nữ đồng phục”, ráo riết bắt lính xây<br />
<br />
dựng quân đội (cảnh vệ binh)” (Ban Chấp hành<br />
Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 197 - 198).<br />
Mặt khác, thông qua các “Chỉ dụ” được khoác<br />
lên bằng những từ ngữ cầu kỳ, hoa mỹ nào là<br />
“cải cách điền địa”, “chỉnh trang lãnh thổ”, hay<br />
“cải thiện dân sinh” (Trần Văn Giàu, 2006, tr.<br />
850)…, chính quyền Diệm tiến hành cướp đoạt<br />
trắng trợn ruộng đất nhân dân mà cách mạng đã<br />
cấp phát cho họ từ trước đó và phủ định sạch<br />
thành quả to lớn của cách mạng đã đem lại cho<br />
nhân dân. Chưa dừng lại đó, chính quyền Diệm<br />
còn tiến hành đàn áp, khủng bố, bắt bớ, tù đày<br />
những người trong gia đình có người đi tập kết<br />
hoặc có liên quan, tình cảm với cách mạng. Địch<br />
quân tiến hành phân loại gia đình, gây chia rẽ, ly<br />
tán, nghi kỵ lẫn nhau trong nhân dân. Bầu không<br />
khí khủng bố, đàn áp khốc liệt bao trùm lên toàn<br />
vùng đất mũi Cà Mau - mảnh đất tận cùng của Tổ<br />
quốc. Từ đây, cuộc sống thống khổ của nhân dân<br />
đã bắt đầu và nổi đau khổ mà nhân dân phải gánh<br />
chịu nhiều hơn trước bội lần. Nhưng trước tình<br />
hình nguy cấp đó, Đảng bộ, Tỉnh ủy Cà Mau<br />
cùng với nhân dân quyết tâm vùng lên chống lại<br />
kẻ thù hung bạo và xúc tiến ngay quá trình đấu<br />
tranh nhằm giữ gìn, củng cố lực lượng cách mạng<br />
để ứng phó với tình cảnh nguy hiểm lúc bấy giờ.<br />
2.2 Quân dân Cà Mau đấu tranh giữ gìn và<br />
xây dựng lực lượng cách mạng (1955 1959)<br />
Ngày 8/1/1955, Ngô Đình Diệm ban hành đạo<br />
Dụ số 2 về cải cách điền địa, nhưng thực chất là<br />
trắng trợn tước đi ruộng đất, thành quả của cách<br />
mạng đã cấp phát cho nông dân trước đó. Dưới<br />
sự lãnh đạo của Đảng ủy, Tỉnh ủy Cà Mau, ở các<br />
huyện trong toàn Tỉnh từ huyện Ngọc Hiển, Thới<br />
Bình, Trần Văn Thời, Cái Nước… nông dân đấu<br />
tranh, biểu tình, xé khế ước, bắt giữ những người<br />
đo đạc đất đai của địch, tịch thu máy móc…<br />
Song song đó, chính quyền cách mạng còn tiến<br />
hành cảnh cáo, giáo dục những tay sai, ác ôn<br />
ngăn họ chống lại nhân dân. Theo sau Dụ số 2,<br />
các Chỉ thị 57, 58 của chính quyền Ngô Đình<br />
Diệm cũng được ban hành nhằm mục đích cướp<br />
đoạt ruộng đất nông dân nhưng dưới sự chỉ đạo,<br />
80<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87<br />
<br />
lãnh đạo của Đảng bộ, Tỉnh ủy Cà Mau, nhân<br />
dân đấu tranh làm vô hiệu hóa ít nhiều (Ban<br />
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 198 199).<br />
Ngày 20/7/1955, chính quyền của Ngô Đình<br />
Diệm phát động chiến dịch “tố cộng” trên diện<br />
rộng. Các hoạt động lừa mị, mua chuộc, bắt bớ<br />
của địch diễn ra hằng ngày trong Tỉnh. Song<br />
song đó, địch quân còn tiến hành khủng bố tinh<br />
thần những gia đình có người thân tập kết, hoặc<br />
có cảm tình với cách mạng, bắt phải ly khai khỏi<br />
Đảng, bầu không khí khủng bố tàn khốc bao trùm<br />
trong toàn tỉnh Cà Mau. Địch quân ra sức phá<br />
hoại tiến trình thực thi Hiệp định Genève. Trước<br />
tình thế đó, Tỉnh ủy lãnh đạo nhân dân đấu tranh<br />
với sách lược trước mắt là “có lý, có lợi với mức<br />
độ để đảm bảo đấu tranh giành thắng lợi” (Ban<br />
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 201).<br />
Các cuộc đấu tranh của nhân dân chống chiến<br />
dịch “tố cộng” của chính quyền Diệm diễn ra<br />
mạnh mẽ trong Tỉnh. Phụ nữ trở thành một lực<br />
lượng đấu tranh chính trị có tác dụng, ảnh hưởng<br />
lớn nhằm đòi các quyền dân sinh, dân chủ và thi<br />
hành Hiệp định Genève. Để bảo vệ một số cán<br />
bộ, đảng viên hoạt động trong quần chúng và<br />
tránh các đợt lùng sục bắt bớ của địch, nhân dân<br />
trong Tỉnh thành lập ra các “Đội dân canh chống<br />
cướp”, một tổ chức đấu tranh hợp pháp nhằm bảo<br />
vệ, che chở cho cán bộ cách mạng khi bị địch bắt<br />
hoặc khủng bố. Các “Đội dân canh chống cướp”<br />
phát huy được hiệu quả tích cực và được xem<br />
như là “sự tập dượt của quần chúng đặt nền móng<br />
cho khởi nghĩa đồng loạt sau này” (Ban Chấp<br />
hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 204). Đây<br />
thật sự là một sáng tạo lớn của quân dân Cà Mau<br />
trong quá trình đấu tranh giữ gìn lực lượng cách<br />
mạng trước các đợt tấn công, khủng bố, đàn áp<br />
của địch. Song song với hoạt động của các “Đội<br />
dân canh chống cướp”, Tỉnh ủy cũng tiến hành<br />
cài người của cách mạng vào các vị trí, đơn vị<br />
của chính quyền địch ở cơ sở. Từ cuối năm 1955<br />
đầu năm 1956, phần lớn người của cách mạng đã<br />
vào nắm giữ các chức vụ trong chính quyền xã,<br />
ấp của địch. Những năm tiếp sau đó, chính quyền<br />
Diệm đưa hàng vạn đồng bào theo đạo Thiên<br />
<br />
Chúa và di dân từ các tỉnh miền Trung vào Cà<br />
Mau, với mục đích chính là “lợi dụng cấy dân<br />
Công giáo xây dựng lực lượng chính trị làm hậu<br />
thuẫn cho chính quyền ngụy, đẩy quần chúng<br />
cách mạng ra khỏi vùng căn cứ để tiêu diệt cơ sở<br />
cách mạng” (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà<br />
Mau, 2004, tr. 206). Chiến lược “tách dân” ra<br />
khỏi lực lượng cách mạng đang ẩn trong dân<br />
chúng của Diệm ít nhiều đã có tác dụng bước<br />
đầu. Nhưng chính quyền cách mạng lãnh đạo<br />
nhân dân đấu tranh không vào ở khu dinh điền,<br />
các tổ vũ trang tuyên truyền thường xuyên vào<br />
các khu dinh điền vận động, tuyên truyền đồng<br />
bào bỏ khu về địa phương, quê quán sinh sống.<br />
Tháng 8/1955, theo chủ trương của Xứ ủy Nam<br />
Bộ, đồng chí Lê Duẩn giao nhiệm vụ cho các<br />
Tỉnh ủy viên của tỉnh Cà Mau tổ chức, xây dựng<br />
lực lượng vũ trang bí mật trong Tỉnh. Các lớp<br />
học cho cán bộ quân sự trong Tỉnh được mở, đến<br />
tháng 10/1955, cán bộ của các lớp học này thành<br />
lập hai đại đội và được phân về địa phương xây<br />
dựng các đơn vị và núp dưới danh “Đội bảo vệ<br />
hòa bình”, với nhiệm vụ hỗ trợ cho phong trào<br />
đấu tranh của địa phương. Ngày 20/7/1956, Tỉnh<br />
ủy Cà Mau phát động một đợt đấu tranh chính trị<br />
với quy mô rộng lớn trong toàn thị xã Cà Mau,<br />
các đợt tuần hành, biểu tình của hàng ngàn đồng<br />
bào từ các địa phương kéo đến dinh Tỉnh trưởng<br />
đòi chính quyền Diệm hiệp thương tổng tuyển<br />
cử, với khí thế dâng cao gây nên tiếng vang lớn<br />
làm cho địch khiếp sợ.<br />
Tháng 8/1956, bản “Đề cương cách mạng miền<br />
Nam” do đồng chí Lê Duẩn soạn thảo ra đời,<br />
trong đó xác định rõ con đường đấu tranh của<br />
cách mạng miền Nam lúc bấy giờ là “đánh đổ<br />
chính quyền độc tài, phát xít Mỹ - Diệm, thực<br />
hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính<br />
chất dân tộc độc lập, để giải phóng nhân dân<br />
miền Nam ra khỏi ách đế quốc, phong kiến độc<br />
tài phát xít Mỹ - Diệm” (Nhiều tác giả, 2010, tr.<br />
402). Đầu năm 1956, chính quyền Diệm cơ bản<br />
dẹp xong các lực lượng giáo phái chống đối ở<br />
Tây Nam Bộ và rảnh tay quay sang tiêu diệt, đàn<br />
áp lực lượng cách mạng. Trước tình hình đó, Xứ<br />
ủy Nam Bộ đưa ra chủ trương đấu tranh lúc này<br />
81<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87<br />
<br />
là “tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, tranh<br />
thủ vận động cải tạo lực lượng “giáo phái” bị Mỹ<br />
- Diệm đánh tan rã, đưa họ đứng vào hàng ngũ<br />
cách mạng, lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai<br />
để diệt ác ôn” (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà<br />
Mau, 2004, tr. 210). Thực hiện chủ trương của<br />
Xứ ủy, Tỉnh ủy Cà Mau tranh thủ được lực lượng<br />
“tàn binh” của các giáo phái bị chính quyền<br />
Diệm đánh trôi dạt về Cà Mau trú ẩn như Trung<br />
đoàn Lê Quang (Hòa Hảo) chạy dạt về xã Trí<br />
Phải và được Huyện ủy Thới Bình chỉ đạo nhân<br />
dân cưu mang, bao bọc, vận động giao nộp vũ<br />
khí và đi theo cách mạng.<br />
Cuối năm 1956, chính quyền Diệm tăng cường<br />
chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, đánh phá ác liệt<br />
vào các cơ sở cách mạng. Họ tiến hành thanh lọc<br />
lại nội bộ, nhiều cơ sở nội tuyến của cách mạng<br />
bị địch đánh bật ra, lực lượng cách mạng thiệt hại<br />
nặng nề. Để ứng phó hiệu quả với những hành<br />
động đàn áp, thanh trừng đó của địch, Tỉnh ủy<br />
chuyển hướng hoạt động, điều các cán bộ bị địch<br />
nhận diện sang vùng khác hoạt động, củng cố lại<br />
lực lượng, cơ sở, đồng thời tiến hành tiêu diệt ác<br />
ôn, tề điệp, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị<br />
của quần chúng. Công tác binh vận được Tỉnh ủy<br />
chú trọng làm phân hóa hàng ngũ kẻ thù. Sau một<br />
thời gian ngắn, các cơ sở, tổ chức Đảng được<br />
phục hồi và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống<br />
chế độ Mỹ - Diệm.<br />
Đầu năm 1957, chính quyền Mỹ - Diệm cho tiến<br />
hành xây dựng “biệt khu” Bình Hưng (Hải Yến),<br />
nơi mà Bộ Chỉ huy xâm lược Mỹ gọi với một cái<br />
tên mỹ miều là “biểu tượng của thế giới tự do”<br />
(Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr.<br />
214) nhưng thực chất đây là căn cứ quân sự, lò<br />
sát sinh hàng trăm cán bộ, chiến sĩ cách mạng và<br />
nhân dân vô tội ở Cà Mau. Sự thảm sát khốc liệt<br />
liên tiếp sau đó của chính quyền Diệm tại đây đã<br />
gây căm phẫn trong toàn Tỉnh. Tháng 7/1957,<br />
chính quyền Diệm tăng cường một sư đoàn quân<br />
chủ lực xuống Cà Mau hòng đàn áp, dập tắt<br />
phong trào đấu tranh đang lên cao của nhân dân.<br />
Chính sách “dinh điền” của chính quyền Ngô<br />
Đình Diệm tại Cà Mau gây khó khăn cho cách<br />
mạng. Việc cho tiến hành thành lập các khu dinh<br />
<br />
điền là nhằm biến những nơi này thành “những<br />
trại tập trung trá hình”, “những pháo đài tiễu<br />
cộng, nơi tăng cường quân sự, bóc lột kinh tế và<br />
đàn áp về chính trị” (Học viện Chính trị Quốc gia<br />
Hồ Chí Minh, 2015, tr. 82) của chính quyền<br />
Diệm. Có thể thấy, âm mưu “tách dân ra khỏi<br />
Đảng” của chính quyền Diệm bước đầu phát huy<br />
hiệu quả nhưng Tỉnh ủy Cà Mau đã tiến hành<br />
một số biện pháp nhằm phá hoại chính sách dinh<br />
điền của địch. Các tổ vũ trang tuyên truyền của<br />
Tỉnh xâm nhập vào các khu dinh điền và vận<br />
động đồng bào đấu tranh rời khỏi các khu dinh<br />
điền của địch và bước đầu tạo được tác dụng tích<br />
cực.<br />
Từ cuối năm 1955 đầu năm 1957, chính quyền<br />
Diệm liên tục khủng bố, tấn công đàn áp tiêu diệt<br />
lực lượng cách mạng ở Cà Mau. Quân địch dùng<br />
vũ lực, súng đạn bắn giết, bắt bớ, khủng bố lực<br />
lượng cách mạng và nhân dân trong khi chính<br />
quyền cách mạng lại chỉ đấu tranh hòa bình và<br />
nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của<br />
Hiệp định Genève. Vì thế lực lượng cách mạng<br />
bị thiệt hại nặng nề, tổn thất gần như hoàn toàn.<br />
Tình thế cách mạng đòi hỏi phải tiến hành bạo<br />
lực cách mạng, đấu tranh vũ trang mới có thể<br />
kháng cự lại được khủng bố, đàn áp khốc liệt của<br />
địch. Nhưng trong thời gian này chủ trương đấu<br />
tranh chính trị, hòa bình là chủ đạo, việc dùng vũ<br />
lực là không được phép. Trước tình cảnh sống<br />
còn đó, ở nhiều địa phương của Nam Bộ trong đó<br />
có Cà Mau xuất hiện những hình thức đấu tranh<br />
rất độc đáo, sáng tạo, phù hợp với thế và lực<br />
cũng như đặc điểm cách mạng của địa phương<br />
nhằm giữ gìn, củng cố và phát triển lực lượng<br />
cách mạng nhưng không trái với chủ trương đấu<br />
tranh “bất vũ trang” của Trung ương Đảng và đến<br />
tháng 1/1958, Tỉnh ủy Cà Mau cho thành lập các<br />
lực lượng vũ trang bí mật. Các Tiểu đoàn Đinh<br />
Tiên Hoàng và Ngô Văn Sở lần lượt ra đời và<br />
hoạt động trên danh nghĩa “bộ đội giáo phái” tiến<br />
hành các hoạt động vũ trang tuyên truyền, phối<br />
hợp với các phong trào đấu tranh của quần chúng<br />
nhân dân trong Tỉnh và đạt được những kết quả<br />
quan trọng. Tiêu biểu như trận đánh chiếm đồn<br />
Cái Tàu của Đại đội vũ trang Đinh Tiên Hoàng<br />
82<br />
<br />
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 18 (6), 79 – 87<br />
<br />
đã phá trại giam, giải thoát cho một số đồng bào<br />
bị bắt giam giữ và đưa hàng trăm gia đình ra khỏi<br />
khu tập trung của địch. Đây cũng là trận đánh<br />
bằng lực lượng vũ trang đầu tiên trong Tỉnh.<br />
Trong năm 1958, chính quyền Ngô Đình Diệm<br />
liên tiếp thực hiện gom dân vào các khu dinh<br />
điền, mở các cuộc càn quét khủng bố lực lượng<br />
cách mạng. Bên cạnh đó, chính quyền Diệm còn<br />
lập ra các đội “Bảo vệ hương thôn” nhằm mục<br />
đích là “tranh thủ nhân tâm”, giành dân với chính<br />
quyền cách mạng. Các hành động khủng bố man<br />
rợ về tinh thần và thể xác từ chính quyền địch<br />
đến các cán bộ, đảng viên cách mạng chẳng<br />
những không làm cho quần chúng sợ hãi mà càng<br />
làm tăng thêm tinh thần yêu nước, sự căm thù<br />
dâng cao tới tột đỉnh trong dân chúng.<br />
Là nơi có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng<br />
của miền Tây Nam Bộ, Cà Mau trở thành trọng<br />
điểm đánh phá và là nơi thiết lập các căn cứ trọng<br />
yếu của địch. Cuối năm 1958, chính quyền Mỹ Diệm liên tục tấn công khủng bố dã man vào lực<br />
lượng cách mạng và nhân dân vô tội. Mặc dù<br />
không thể sống nổi dưới chính sách tàn bạo của<br />
địch nhưng nhân dân và cán bộ chiến sĩ cách<br />
mạng không khuất phục, đầu hàng. Để tránh địch<br />
tiêu diệt, hàng ngàn quần chúng nhân dân bỏ làng<br />
quê kéo nhau vào rừng U Minh và rừng đước tiến<br />
hành lập các “làng rừng” sinh sống và hoạt động<br />
cách mạng. Các “làng rừng” từ đó ra đời. Đến<br />
năm 1959, “làng rừng” ngày càng mở rộng, hàng<br />
ngàn thanh niên trốn địch bắt đi lính, người<br />
chống đối chính quyền lánh vào các làng được<br />
xây dựng trong rừng hoạt động cách mạng.<br />
Trước thực tế đó, Tỉnh ủy Cà Mau quyết định<br />
thành lập các “làng rừng” để bảo toàn và xây<br />
dựng lực lượng cách mạng chờ đợi thời cơ nổi<br />
dậy. Dưới sự lãnh đạo, tổ chức của Tỉnh ủy Cà<br />
Mau có khoảng “15 làng rừng với khoảng 20<br />
ngàn dân và nhiều làng rừng khác được lập nên ở<br />
bên trong và ven rừng U Minh kéo dài xuống<br />
phía Nam, Đông Nam rừng đước” (Ban Chấp<br />
hành Đảng bộ tỉnh Cà Mau, 2004, tr. 224).<br />
Các “làng rừng” được tổ chức chẳng khác mô<br />
hình một chính quyền, một xã hội thu nhỏ nằm<br />
ẩn khuất giữa rừng U Minh, rừng đước bạt ngàn.<br />
<br />
“Làng rừng” được bố trí phòng vệ chặt chẽ, có<br />
kiểm soát, canh gác, có Ban quản trị hoặc Ban tự<br />
quản do chi bộ “làng rừng” lãnh đạo. Việc trồng<br />
trọt, chăn nuôi, sản xuất diễn ra bình thường, các<br />
hoạt động vui chơi, sinh hoạt văn nghệ, giải trí<br />
diễn ra thường xuyên, cuộc sống yên vui, no ấm.<br />
Đồng thời, “làng rừng” cũng trở thành nơi sản<br />
xuất, rèn đúc vũ khí phục vụ cho cách mạng. Các<br />
hoạt động vũ trang tuyên truyền của cán bộ cách<br />
mạng phát huy được hiệu quả và phổ biến nhanh<br />
đến toàn dân trong khu vực sinh sống các “làng<br />
rừng”. Các “làng rừng” vẫn có liên hệ, trao đổi<br />
với bên ngoài. Các làng cũ thường xuyên tiếp tế,<br />
lương thực, nhu yếu phẩm vào bên trong. Mặc dù<br />
địch thường xuyên đốt phá rừng, tiến hành tấn<br />
công càn quét nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng<br />
bộ, Tỉnh ủy Cà Mau và được sự che chở, bảo vệ<br />
của nhân dân các tổ chức Đảng, các chi bộ, lực<br />
lượng cách mạng được bảo tồn, giữ vững và ngày<br />
càng phát triển, tạo tiền đề thuận lợi cho Đồng<br />
Khởi sau này thắng lợi ở Cà Mau. Như vậy, đến<br />
cuối năm 1958, ở Cà Mau xuất hiện “các hình<br />
thức nổi dậy của quần chúng, tách hẳn khỏi chính<br />
quyền địch, xây dựng một chính quyền nhân dân<br />
tự quản, lập căn cứ chống giặc” (Bộ Tư lệnh<br />
Quân khu 9, 1996, tr. 267), đó là các “làng rừng”<br />
- một phương thức đấu tranh cách mạng vô cùng<br />
sáng tạo, độc đáo của quân dân sông nước Cà<br />
Mau anh hùng. Quân dân Cà Mau vô cùng phấn<br />
khởi, tự hào như xây dựng được “những vùng đất<br />
xã hội chủ nghĩa đầu tiên tại miền Nam khói lửa”<br />
(Trần Văn Trà, 2005, tr. 355). Có thể nói, việc tổ<br />
chức thành lập các “làng rừng” “là cách đánh<br />
giặc độc đáo của nhân dân Cà Mau trong điều<br />
kiện tay không đối đầu với bạo lực của địch.<br />
“Làng rừng” kiên cường tồn tại và phát triển, là<br />
hạt nhân cho phong trào nổi dậy của nhân dân<br />
giành quyền làm chủ. “Làng rừng” không chỉ là<br />
căn cứ địa cách mạng mà còn chứa đựng tư<br />
tưởng tiến công lớn, là một hình thái tiến công và<br />
nổi dậy của quân dân Cà Mau trong những ngày<br />
trước Đồng Khởi” (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh<br />
Cà Mau, 2004, tr. 226).<br />
Tháng 1/1959, Tỉnh ủy Cà Mau tiến hành các đợt<br />
chỉnh huấn cho các tổ chức Đảng, chi bộ, đảng<br />
83<br />
<br />