Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 51, Phần C (2017): 107-115<br />
<br />
DOI:10.22144/ctu.jvn.2017.100<br />
<br />
QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIỮ GÌN VÀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG,<br />
TIẾN TỚI ĐỒNG KHỞI Ở CẦN THƠ (1954 - 1960)<br />
Thái Văn Thơ<br />
Trường Đại học Ngoại thương Cơ sở II tại Thành phố Hồ Chí Minh<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 04/05/2017<br />
Ngày nhận bài sửa: 04/07/2017<br />
Ngày duyệt đăng: 31/08/2017<br />
<br />
Title:<br />
The process of struggling to<br />
preserve and build<br />
revolutionary forces toward<br />
Dong Khoi in Can Tho (1954 1960)<br />
Từ khóa:<br />
Cần Thơ, Đồng Khởi, giữ gìn<br />
lực lượng, xây dựng lực lượng<br />
Keywords:<br />
Can Tho, Dong Khoi, to<br />
preserve forces, to build forces<br />
<br />
ABSTRACT<br />
After the Geneva Accords, against the terrorist activities and fierce<br />
crackdowns by the U.S. - Diem authorities is the process of tough<br />
struggling for preserving and strengthening the revolutionary forces of<br />
Can Tho’s military and people. Over nearly 5 years of struggling to build<br />
and develop the revolutionary forces, military and people of the land of<br />
Tay Do made a marvelous Dong Khoi, a resounding victory in 1960,<br />
which marked an important turning point for the revolutionary situation<br />
in the whole province, i.e. the transition from forces preservation to<br />
powerful offensive against enemy.<br />
TÓM TẮT<br />
Từ sau Hiệp định Genève, đối lập với những hoạt động khủng bố, đàn áp<br />
khốc liệt của chính quyền Mỹ - Diệm là quá trình quân và dân Cần Thơ<br />
kiên cường đứng lên đấu tranh giữ gìn và củng cố lực lượng cách mạng.<br />
Trải qua gần 5 năm đấu tranh xây dựng và phát triển lực lượng cách<br />
mạng, quân dân miền đất Tây Đô đã làm nên cuộc Đồng Khởi diệu kỳ,<br />
thắng lợi vang dội trong năm 1960, mở ra bước ngoặt quan trọng cho<br />
tình thế cách mạng trong toàn tỉnh, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang<br />
thế tiến công địch quân mạnh mẽ.<br />
<br />
Trích dẫn: Thái Văn Thơ, 2017. Quá trình đấu tranh giữ gìn và xây dựng lực lượng cách mạng, tiến tới Đồng<br />
Khởi ở Cần Thơ (1954 - 1960). Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 51c: 107-115.<br />
nơi ở miền Nam trong đó có Cần Thơ, với những<br />
phương cách đấu tranh rất riêng, độc đáo và sáng<br />
tạo, quân dân miền sông nước Tây Đô kiên cường<br />
đứng lên đấu tranh mạnh mẽ với quân địch để giữ<br />
gìn và củng cố lực lượng cách mạng nhưng vẫn<br />
không trái với những quy định của Hiệp định<br />
Genève, với chủ trương đấu tranh chính trị, hòa<br />
bình của Trung ương Đảng lúc bấy giờ. Chính vì<br />
thế, Cần Thơ không những giữ gìn, bảo vệ được<br />
lực lượng cách mạng trước sự tấn công khốc liệt từ<br />
chính quyền Ngô Đình Diệm mà còn tiến hành xây<br />
dựng và phát triển lực lượng cách mạng vững<br />
mạnh, tiến tới cao trào Đồng Khởi nổ ra thắng lợi<br />
trong toàn tỉnh năm 1960, góp phần chuyển phong<br />
trào cách mạng của tỉnh phát triển sang một<br />
chương mới với những tiền đề tích cực. Bài viết sẽ<br />
<br />
1 ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Hiệp định Genève ký kết chưa kịp ráo mực,<br />
chính quyền Mỹ ngay lập tức nhảy vào miền Nam<br />
với âm mưu muốn biến Nam Việt Nam thành một<br />
tiền đồn chống cộng, một “quốc gia vệ tinh” ngăn<br />
chặn làn sóng cộng sản từ phía Bắc tràn xuống<br />
Đông Nam Á. Với sự giúp sức từ Mỹ, chính quyền<br />
tay sai Ngô Đình Diệm không từ một hành động<br />
man rợ nào nhằm biến mục tiêu ấy thành hiện thực.<br />
Trong những năm 1954 - 1959, chính quyền Sài<br />
Gòn tiến hành khủng bố, đàn áp khốc liệt vào lực<br />
lượng cách mạng và nhân dân vô tội ở Nam Việt<br />
Nam. Lực lượng cách mạng miền Nam nói chung<br />
và ở Cần Thơ nói riêng đứng trước nguy cơ bị tiêu<br />
diệt hoàn toàn. Trước tình thế nguy cấp đó, nhiều<br />
107<br />
<br />
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 51, Phần C (2017): 107-115<br />
<br />
phân tích và làm rõ quá trình đấu tranh anh dũng,<br />
bất khuất của quân và dân Cần Thơ anh hùng.<br />
<br />
tạo được cảm tình, tin yêu, sự gắn bó mật thiết từ<br />
nhân dân đối với Đảng, với cách mạng.<br />
<br />
2 QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIỮ GÌN<br />
VÀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG,<br />
TIẾN TỚI ĐỒNG KHỞI Ở CẦN THƠ1 (1954 1960)<br />
2.1 Cần Thơ sau Hiệp định Genève<br />
<br />
Đất nước vừa được giải phóng hòa cùng niềm<br />
vui chiến thắng của cả nước, các cuộc biểu tình lớn<br />
mừng hòa bình lập lại được Tỉnh ủy Cần Thơ chỉ<br />
đạo diễn ra rầm rộ trong toàn tỉnh, tiêu biểu như<br />
cuộc biểu tình mừng hòa bình ngày 11/8/1954 ở thị<br />
xã Cần Thơ, hơn 15.000 đồng bào thị xã và các<br />
vùng phụ cận mang cờ băng, khẩu hiệu, hàng ngũ<br />
chỉnh tề diễu hành qua các đường phố, hô vang các<br />
khẩu hiệu “Hoan hô hòa bình”, “Hoan hô Hiệp<br />
định Genève”, “Hoan hô đình chiến ở Đông<br />
Dương”, “Việt Nam độc lập, thống nhất muôn<br />
năm”, cuộc diễu hành đầy khí thế, sôi nổi đã khiến<br />
Đại tá Tư lệnh khu quân sự miền Tây Nam Bộ và<br />
Phó Tỉnh trưởng Cần Thơ phải ra gặp đoàn biểu<br />
tình (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,<br />
Viện Lịch sử Đảng, 2015, tr.38).<br />
<br />
Tuân thủ chặt chẽ những quy định của Hiệp<br />
định Genève và nhất là chấp hành Chỉ thị của Bộ<br />
Chính trị và Chỉ thị của Trung ương Cục miền<br />
Nam về chuyển hướng tổ chức, công tác nhằm bảo<br />
vệ cán bộ, tính mạng nhân dân trong tình hình mới,<br />
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cần Thơ tổ chức Hội nghị<br />
Tỉnh ủy mở rộng từ ngày 20/6 đến 5/7/1954, với<br />
những nội dung chính: học tập Nghị quyết, Chỉ thị<br />
Trung ương Cục, nhận thức rõ hơn về tình hình,<br />
nhiệm vụ mới cũng như tư tưởng lãnh đạo của Tỉnh<br />
ủy Cần Thơ lúc bấy giờ, thông qua kế hoạch bố trí,<br />
sắp xếp lại cán bộ cho phù hợp tình hình lãnh đạo<br />
cách mạng trong tỉnh.<br />
<br />
Nhưng niềm vui ngày giải phóng, hòa bình của<br />
nhân dân Cần Thơ lại sớm qua mau. Ngay khi lực<br />
lượng bộ đội của cách mạng vừa rút đi tập kết,<br />
hàng loạt đơn vị vũ trang của đối phương tràn vào<br />
chiếm đóng nhiều nơi trong tỉnh. Từ các đơn vị<br />
“Bảo hoàng” là những lực lượng tàn dư của thực<br />
dân Pháp cho đến quân đội Phật giáo Hòa Hảo, các<br />
tiểu đoàn quân Bảo an của chính quyền Ngô Đình<br />
Diệm cũng có mặt ở những vùng trọng yếu từ thị<br />
xã đến nông thôn của tỉnh Cần Thơ và không lâu<br />
sau đó, họ đã mở rộng phạm vi chiếm đóng ra toàn<br />
tỉnh. Quân đội đối phương ngày đêm ra sức tuyên<br />
tuyền, lừa mị dân chúng và chiêu an cán bộ cách<br />
mạng về hợp tác với họ. Hàng loạt vụ bắt bớ, thủ<br />
tiêu, khủng bố của địch quân đến các cán bộ cách<br />
mạng diễn ra trong toàn tỉnh. Tình hình an ninh trật<br />
tự hỗn loạn gây nên hoang mang và bất an cho dân<br />
chúng. Quân dân Cần Thơ lại tiếp tục bước vào<br />
một thời kì đấu tranh cách mạng mới với nhiệm vụ<br />
khó khăn, thử thách hơn trước gấp bội lần. Nhưng<br />
dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo linh hoạt, sáng suốt của<br />
Tỉnh ủy Cần Thơ cùng tinh thần đoàn kết, yêu<br />
nước, bất khuất, quân dân miền sông nước Tây Đô<br />
đã vùng lên đấu tranh quật khởi để giữ gìn và xây<br />
dựng lực lượng cách mạng, tiến tới cao trào Đồng<br />
Khởi nổ ra thắng lợi trong toàn tỉnh.<br />
2.2 Quá trình đấu tranh giữ gìn và xây<br />
dựng lực lượng cách mạng ở Cần Thơ (1955 1959)<br />
<br />
Song song với việc bố trí cán bộ đi và ở lại,<br />
Tỉnh ủy Cần Thơ cũng cho chôn cất một số súng<br />
đạn, vũ khí ở Ô Môn, Long Mỹ, Châu Thành đề<br />
phòng trường hợp hữu sự sau này. Tuy thời gian<br />
tập kết chuyển quân không nhiều nhưng trong quỹ<br />
thời gian ngắn ngủi này, Đảng bộ, Tỉnh ủy Cần<br />
Thơ làm được nhiều việc có ích, thiết thực cho<br />
nhân dân vùng giải phóng như cấp đất cho nông<br />
dân cày cấy, xây dựng các trạm y tế, bệnh viện,<br />
trường học ở nhiều xã, ấp, thu đổi tiền Đông<br />
Dương sang tiền Cụ Hồ cho nhân dân thuận tiện sử<br />
dụng… Tất cả những việc ích nước lợi dân đó đã<br />
<br />
1Tỉnh Cần Thơ: Sau Hiệp định Genève năm 1954, tên gọi<br />
tỉnh Cần Thơ vẫn được giữ nguyên nhưng đến tháng 10<br />
năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đã đổi tên tỉnh<br />
Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Tỉnh Phong Dinh gồm<br />
7 quận: quận Cái Răng, Phong Phú, Thuận Trung,<br />
Thuận Nhơn, Phong Điền, Phụng Hiệp và Phong Thuận;<br />
thị xã Cần Thơ là nơi đặt tỉnh lỵ Phong Dinh. (Địa bàn<br />
tỉnh Phong Dinh cũ hiện nay tương ứng với các<br />
quận Ninh Kiều, Cái Răng, Bình Thủy, Ô Môn, các<br />
huyện Phong Điền, Thới Lai, Cờ Đỏ (ngoại trừ các xã<br />
Trung Hưng, Trung An, Trung Thạnh của huyện Cờ Đỏ<br />
ngày nay) cùng thuộc thành phố Cần Thơ; thị xã Ngã<br />
Bảy, các huyện Châu Thành, Châu Thành A, Phụng<br />
Hiệp (ngoại trừ thị trấn Kinh Cùng và các xã Hòa An,<br />
Phương Bình, Phương Phú của huyện Phụng Hiệp ngày<br />
nay) cùng thuộc tỉnh Hậu Giang; các xã Xuân Hòa, An<br />
Lạc Thôn, Phong Nẫm cùng thuộc huyện Kế Sách của<br />
tỉnh Sóc Trăng ngày nay). Trong khi đó sau Hiệp định<br />
Genève, chính quyền cách mạng vẫn duy trì tên Cần Thơ<br />
như cũ. Trong giai đoạn (1954 - 1960) tên gọi tỉnh Cần<br />
Thơ là được sử dụng theo cách gọi của chính quyền cách<br />
mạng lúc bấy giờ.<br />
<br />
Đầu năm 1955, sau khi cơ bản thiết lập xong bộ<br />
máy cai trị từ Trung ương đến địa phương, nhất là<br />
thu phục và bình định xong các lực lượng và giáo<br />
phái chống đối (Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo),<br />
chính quyền Sài Gòn ngang nhiên tuyên bố không<br />
thi hành những điều khoản của Hiệp định Genève.<br />
Họ tiến hành đàn áp, khủng bố tiêu diệt những<br />
108<br />
<br />
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 51, Phần C (2017): 107-115<br />
<br />
loại C và tác động tinh thần vào loại B, làm cho<br />
loại B khuất phục.<br />
<br />
người kháng chiến cũ, người yêu nước, gia đình có<br />
người thân tập kết hoặc có cảm tình với cách mạng<br />
rất khốc liệt. Trước thực tế đó, đầu năm 1955, Tỉnh<br />
ủy Cần Thơ tổ chức cuộc họp bầu cử lại Tỉnh ủy<br />
mới để lãnh đạo cuộc đấu tranh trong tình hình<br />
mới. Cuộc họp được tổ chức tại Rạch Sung, xã<br />
Nhơn Nghĩa, huyện Châu Thành. Hội nghị bàn<br />
nhiều vấn đề quan trọng như chuyển hướng hoạt<br />
động của các cơ sở Đảng và cán bộ, đảng viên; tìm<br />
cách phân tán lúa gạo trong nhà dân không để đối<br />
phương tự do cướp bóc; chủ trương phát động quần<br />
chúng nhân dân đấu tranh đòi chính quyền Sài Gòn<br />
thi hành Hiệp định Genève.<br />
<br />
Song song với các chiến dịch “tố cộng, diệt<br />
cộng”, chính quyền Ngô Đình Diệm còn ban hành<br />
các đạo Dụ số 2 (8/1/1955), chỉ Dụ số 7 (7/2/1955)<br />
về cái gọi là “cải cách điền địa” mà mục đích của<br />
các đạo dụ, chỉ dụ này là sự tước đoạt ruộng đất từ<br />
tay nông dân. Họ phủ định sạch trơn những thành<br />
quả to lớn mà cách mạng mang lại cho nhân dân<br />
trước đó. Đến ngày 22/10/1956, chính quyền Sài<br />
Gòn lại ban hành đạo Dụ số 57 nhằm tư sản hóa<br />
địa chủ. Tất cả những đạo - chỉ dụ trên không nằm<br />
ngoài mục đích thiết lập trở lại lực lượng địa chủ chỗ dựa mới cho chính quyền Ngô Đình Diệm lúc<br />
bấy giờ. Hàng loạt địa chủ ác ôn đã ngóc đầu dậy<br />
và dựa hơi chính quyền ngang nhiên cướp đoạt lại<br />
ruộng đất và thu tô.<br />
<br />
Trong thời gian này, Ban Chỉ đạo đấu tranh<br />
chính trị tỉnh được thành lập và phát động nhân dân<br />
trong các huyện đấu tranh, lấy chữ ký kiến nghị gửi<br />
Ủy hội Quốc tế Sài Gòn, tố cáo chính quyền Ngô<br />
Đình Diệm vi phạm Hiệp định. Các cuộc mít-tinh,<br />
biểu tình thu hút đông đảo quần chúng nhân dân<br />
tham gia đòi chính quyền Sài Gòn thi hành Hiệp<br />
định Genève, hiệp thương tổng tuyển cử, đòi hòa<br />
bình, dân sinh, dân chủ, chống sự khủng bố của<br />
quân đội Sài Gòn diễn ra mạnh mẽ trong toàn tỉnh<br />
Cần Thơ. Tiêu biểu là các huyện Ô Môn, Châu<br />
Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ đã diễn ra các cuộc<br />
đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân. Tháng 4 năm<br />
1955, chính quyền Ngô Đình Diệm cho thành lập<br />
Bảo An đoàn. Tại các tỉnh, họ tổ chức lực lượng<br />
cảnh sát, dân vệ từ tỉnh xuống tận các huyện, xã.<br />
Tỉnh ủy Cần Thơ lợi dụng cơ hội này “cấy người”<br />
của cách mạng vào lực lượng đối phương để xây<br />
dựng lực lượng nội tuyến trong lòng địch. Tháng 5<br />
năm 1955, chính quyền Sài Gòn mở chiến dịch “tố<br />
cộng, diệt cộng” giai đoạn 1 với các khẩu hiệu “đả<br />
thực, bài phong, diệt cộng” và được chính quyền<br />
Ngô Đình Diệm xem là quốc sách hàng đầu. Mục<br />
đích của chiến dịch tố cộng được đặt ra là “gây uất<br />
hận trong dân chúng đối với Việt cộng. Để cho<br />
nhân dân tố giác Việt cộng ở lại hoạt động. Khủng<br />
bố tinh thần Việt cộng làm cho Việt cộng nghi ngờ<br />
quần chúng mà không dám hoạt động nữa… ” (Lê<br />
Hồng Lĩnh, 2006, tr.69). Bộ máy “tố cộng, diệt<br />
cộng” được chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ<br />
chức từ Trung ương đến tận các “liên gia”. Chính<br />
quyền Ngô Đình Diệm tổ chức 5 gia đình thành<br />
một liên gia, mỗi liên gia có 1 liên gia trưởng nhằm<br />
tăng cường việc giám sát, đi lại của nhân dân, tách<br />
dân khỏi cách mạng. Họ phân loại quần chúng<br />
nhân dân thành 3 loại: A, B, C để tiện kìm kẹp,<br />
giám sát. Loại A: gồm những người không có liên<br />
quan tới cách mạng. Loại B: gồm những người có<br />
người thân tham gia kháng chiến, bị chính quyền<br />
Sài Gòn liệt vào “công dân nửa hợp pháp”. Loại C:<br />
là những cán bộ, đảng viên và người kháng chiến<br />
và bị liệt vào “công dân bất hợp pháp”. Chính<br />
quyền Ngô Đình Diệm sử dụng loại A để đánh vào<br />
<br />
Trước hành động đầy dã tâm của địch, phong<br />
trào đấu tranh chống cướp đất, chống lập khế ước,<br />
đòi giữ nguyên canh, giảm tô, giảm tức, giảm thuế<br />
diễn ra mạnh mẽ trong toàn tỉnh dưới sự lãnh đạo<br />
của Đảng bộ, Tỉnh ủy Cần Thơ. Cũng trong thời<br />
gian này, lực lượng cách mạng cũng tiến hành tiêu<br />
diệt một số địa chủ ác ôn có nợ máu với nhân dân<br />
như diệt địa chủ Cả Đá (ở Vĩnh Viễn - Long Mỹ)<br />
nhằm hạn chế, phân hóa và cảnh cáo những địa chủ<br />
ác ôn khác không gây tội ác với nhân dân.<br />
Sau khi đánh bật lực lượng Bình Xuyên ra khỏi<br />
Sài Gòn - Chợ Lớn, chính quyền Ngô Đình Diệm<br />
mở 2 cuộc hành quân lớn:<br />
“1. Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng (từ tháng 5<br />
đến tháng 12 năm 1955) ở miền Tây Nam Bộ,<br />
nhằm tiêu diệt bọn tay sai của Pháp còn lại.<br />
2. Chiến dịch Nguyễn Huệ (từ tháng 1 đến<br />
tháng 5 năm 1956), tiếp tục tiêu diệt tàn dư giáo<br />
phái Hòa Hảo của Trần Văn Soái (Năm Lửa), Lê<br />
Quang Vinh (Ba Cụt) và Lâm Thành Nguyên (Hai<br />
Ngoán), kết hợp đánh vào căn cứ và lực lượng vũ<br />
trang của cách mạng” (Ban Chấp hành Đảng bộ<br />
Thành phố Cần Thơ, 2006, tr.31).<br />
Ở Cần Thơ, sau khi bị quân đội Sài Gòn đánh<br />
tan tác, lực lượng giáo phái Hòa Hảo phân hóa và<br />
được Tỉnh ủy Cần Thơ chỉ đạo nhân dân vận động,<br />
tiếp tế lương thực, thuốc men và tuyên truyền vận<br />
động cảm hóa, một bộ phận lính Hòa Hảo đã tham<br />
gia cách mạng. Chủ trương vận động và cài người<br />
của cách mạng vào lãnh đạo lực lượng giáo phái<br />
Hòa Hảo ly khai chống Diệm được Đảng bộ tỉnh<br />
Cần Thơ tiến hành và thu được những kết quả tích<br />
cực: hạn chế sự cướp bóc từ lính Hòa Hảo, lợi<br />
dụng danh nghĩa giáo phái ly khai để tiêu diệt ác<br />
ôn, tề điệp; lôi kéo được lực lượng giáo phái cùng<br />
<br />
109<br />
<br />
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 51, Phần C (2017): 107-115<br />
<br />
tảo thanh lực lượng vũ trang Phật giáo Hòa Hảo và<br />
tiêu diệt lực lượng vũ trang của cách mạng. Song<br />
song với các chiến dịch tiễu trừ các lực lượng,<br />
đảng phái đối lập, chính quyền Ngô Đình Diệm<br />
còn thúc đẩy phong trào “tranh thủ nhân tâm thôn<br />
xã” mà thực chất là sự mị dân, mua chuộc, lôi kéo<br />
dân chúng ngã về phía chính quyền thông qua đội<br />
quân tay sai ở địa phương luôn ra sức tuyên truyền,<br />
rao giảng về sự “chính nghĩa của quốc gia”, mê<br />
hoặc dân chúng rằng chính quyền sẽ luôn “hết lòng<br />
lo cho đời sống nhân dân nhất là cho giới cần lao<br />
của chính thể Cộng hòa” nhằm thu phục dân<br />
chúng đi theo. Chính quyền Ngô Đình Diệm hết<br />
sức xem trọng công tác này và “vấn đề tranh thủ<br />
nhân tâm là trọng tâm công tác của giới chính<br />
quyền về mặt chính trị và cần phải được xúc tiến<br />
mau lẹ và có ý thức” (Phông phủ Tổng thống Đệ<br />
nhất Cộng hòa (1954-1963), Hồ sơ số: 4302). Tại<br />
Cần Thơ, Ban Tranh thủ Nhân tâm Thôn xã của<br />
chính quyền Sài Gòn tiến hành hàng loạt các buổi<br />
nói chuyện, tiếp xúc quần chúng ở các quận, huyện<br />
trong tỉnh từ quận Phụng Hiệp, Ô Môn đến Châu<br />
Thành. Hàng chục buổi nói chuyện để “tranh thủ”<br />
quần chúng của chính quyền Ngô Đình Diệm nhằm<br />
tác động vào con tim khối ốc của nhân dân đã<br />
không phát huy hiệu quả. Đông đảo quần chúng<br />
nhân dân vẫn một lòng hướng về cách mạng theo<br />
Đảng và Hồ Chủ tịch kính yêu.<br />
<br />
chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chính quyền Ngô<br />
Đình Diệm.<br />
Từ ngày 11 đến ngày 26/8/1955, Xứ ủy Nam<br />
Bộ chỉ đạo cho Liên Tỉnh ủy miền Tây phát động<br />
tổ chức đấu tranh ở các tỉnh. Thực hiện Chỉ đạo<br />
của Xứ ủy và Liên tỉnh ủy miền Tây, Tỉnh ủy Cần<br />
Thơ phát động quần chúng nhân dân đấu tranh<br />
chính trị theo đúng kế hoạch. Phong trào đấu tranh<br />
chính trị diễn ra mạnh mẽ, rầm rộ trong toàn tỉnh<br />
và thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân<br />
tham gia. Ngày 26/10/1955, Ngô Đình Diệm tổ<br />
chức “trưng cầu dân ý” phế truất Bảo Đại và chính<br />
thức lên làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Đến<br />
ngày 4/3/1956, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ<br />
chức bầu cử “Quốc hội” và ban hành hiếp pháp của<br />
Việt Nam Cộng hòa.<br />
Đầu năm 1956, chính quyền Sài Gòn thực hiện<br />
chiến dịch “tố cộng” giai đoạn 2 với sự khủng bố<br />
điên cuồng vào lực lượng cách mạng miền Nam,<br />
trong đó có Cần Thơ. Nhằm bảo toàn lực lượng, cơ<br />
quan của Tỉnh ủy Cần Thơ được di chuyển từ xã<br />
Trường Long (Ô Môn) sang vùng kênh sáng Xà No<br />
của huyện Châu Thành. Trong thời khắc khủng bố<br />
gắt gao của chính quyền Ngô Đình Diệm, các cán<br />
bộ, đảng viên sống dựa vào dân, nhờ dân che chở<br />
đùm bọc nên quân đội Sài Gòn khó lòng đánh phá<br />
được. Giữa năm 1956, bộ phận giao liên công khai,<br />
bán công khai được thành lập nhằm thực hiện<br />
nhiệm vụ “đưa tài - chuyển cán”, giao tài liệu của<br />
Tỉnh ủy xuống tận các cơ sở và đưa đón cán bộ đi<br />
công tác. Từ đó, hệ thống giao liên công khai đã<br />
phát triển thành mạng lưới đều khắp các cơ sở quan<br />
trọng trong tỉnh. Đến giữa năm 1956, sau khi cơ<br />
bản thanh toán xong lực lượng Cao Đài của Trịnh<br />
Minh Thế và quân Bình Xuyên của Bảy Viễn (Lê<br />
Văn Viễn), quân đội Việt Nam Cộng hòa được<br />
tung xuống Cần Thơ - thủ phủ của miền Tây để<br />
diệt nốt hết lực lượng vũ trang Phật giáo Hòa Hảo<br />
của Trần Văn Soái (Năm Lửa), Lê Quang Vinh (Ba<br />
Cụt) và Lâm Thành Nguyên (Hai Ngoán). Trước<br />
sức mạnh vượt trội của quân đội Sài Gòn và sự<br />
mua chuộc dụ dỗ, lôi kéo của chính quyền Ngô<br />
Đình Diệm, các lãnh tụ của Hòa Hảo kẻ đầu hàng,<br />
người bị tiêu diệt, một số khác đứng ra chống đối<br />
cũng bị đánh tan tác. Lợi dụng tình thế giáo phái<br />
chống chính quyền Sài Gòn đang diễn ra trong<br />
tỉnh, lực lượng cách mạng tranh thủ giáo dục tuyên<br />
truyền, thuyết phục một số chỉ huy và binh lính<br />
Hòa Hảo theo cách mạng và phần lớn quân lính<br />
Hòa Hảo đã gia nhập lực lượng cách mạng.<br />
<br />
Sau khi lực lượng giáo phái bị chính quyền Sài<br />
Gòn đánh tan rã, Tỉnh ủy Cần Thơ tập hợp những<br />
cán bộ quân sự ẩn mình trong lực lượng giáo phái<br />
còn lại cùng với các cán bộ quân sự của tỉnh và các<br />
cán bộ, đảng viên tăng cường từ các chi bộ xã để<br />
thành lập lực lượng vũ trang với danh nghĩa bộ đội<br />
“liên quân giáo phái chống Mỹ - Diệm” (Ban<br />
Chấp hành Đảng bộ Thành phố Cần Thơ, 2006,<br />
tr.38). Các Tiểu đoàn lần lượt ra đời gồm: Tiểu<br />
đoàn Quang Trung, Lê Lợi, Nguyễn Trung Trực và<br />
Phan Đình Phùng. Các đơn vị hoạt động trên địa<br />
bàn các huyện từ Phụng Hiệp, Ô Môn đến Châu<br />
Thành, Long Mỹ. Sự kiện này chứng tỏ, Cần Thơ<br />
là một trong những địa phương xây dựng lực lượng<br />
vũ trang tự vệ tập trung rất sớm. Chính lực lượng<br />
vũ trang được thành lập từ sớm đã tạo nên khí thế<br />
đấu tranh mạnh mẽ cho quân dân trong tỉnh Cần<br />
Thơ và hỗ trợ có hiệu quả phong trào đấu tranh<br />
chính trị trong tỉnh lúc bấy giờ. Thường vụ Tỉnh ủy<br />
Cần Thơ chỉ thị các tiểu đoàn giáo phái có nhiệm<br />
vụ sau:<br />
“1. Tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, tác chiến<br />
với điều kiện chắc thắng, tránh những cuộc đánh<br />
lớn, đánh với điều kiện phải tương quan lực lượng.<br />
<br />
Khi chính quyền Sài Gòn tiến hành giai đoạn 2<br />
của chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” thì các trung<br />
đoàn chủ lực, trung đoàn độc lập, hải đoàn “Xung<br />
phong”, đoàn “Chỉ đạo” tố cộng cùng với quân địa<br />
phương mở chiến dịch Thoại Ngọc Hầu tiến hành<br />
<br />
2.Tuyên truyền trong quần chúng, nhất là tuyên<br />
truyền trong tín đồ Hòa Hảo và võ trang tuyên<br />
<br />
110<br />
<br />
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 51, Phần C (2017): 107-115<br />
<br />
trào chống trộm cướp cũng diễn ra mạnh mẽ trong<br />
tỉnh với gậy gộc, mõ, đuốc được vang lên thắp<br />
sáng phố phường truy đuổi “trộm cướp”- những tên<br />
tay sai, chỉ điểm, hoặc biệt kích do thám của chính<br />
quyền Sài Gòn trong làng, xã.<br />
<br />
truyền, xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng cận địch,<br />
vùng có đông đảo nhân dân.<br />
3.Cất giấu súng, ăn ở phân tán, khi cần thiết lấy<br />
súng lên, tập hợp lực lượng đi công tác, lúc về<br />
cũng cất giấu súng.<br />
<br />
Tháng 8 năm 1956, bản “Đề cương cách mạng<br />
miền Nam” do đồng chí Lê Duẩn soạn thảo ra đời.<br />
Đề cương khẳng định: “Để chống lại Mỹ - Diệm,<br />
nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và<br />
tự cứu mình, là con đường cách mạng. Ngoài con<br />
đường cách mạng không có một con đường khác”<br />
(Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Nam Bộ kháng<br />
chiến, 2010, tr.1113). Đến tháng 12 năm 1956, Hội<br />
nghị Xứ ủy Nam Bộ xác định: “Đấu tranh chính trị<br />
đơn thuần thì không được, đấu tranh vũ trang thì<br />
thời cơ chưa cho phép. Đấu tranh chính trị phải có<br />
vũ trang tự vệ: phải có lực lượng vũ trang thích<br />
hợp để làm công tác vũ trang tuyên truyền, phát<br />
động quần chúng diệt ác, phá kìm, hỗ trợ lực lượng<br />
đấu tranh chính trị”. Sau Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ,<br />
Tỉnh ủy Cần Thơ tăng cường phong trào đấu tranh<br />
chính trị, kết hợp với vũ trang tuyên truyền, từng<br />
bước xây dựng lực lượng vũ trang trong tỉnh.<br />
Những hoạt động trừ gian diệt ác, trừng trị những<br />
tên ác ôn, ngoan cố diễn ra đều đặn trong tỉnh và<br />
tạo tác động tích cực hạn chế quân đội Sài Gòn đàn<br />
áp, tạo ác đối với nhân dân. Trong 3 năm 1956,<br />
1957, 1958, nhiều tên địa chủ ác ôn có nợ máu với<br />
cách mạng bị tiêu trừ như: tên Hoàng Hậu Thạch,<br />
cảnh sát Tồn ở Long Trị, tên Đường Lương trưởng<br />
Chi công an Long Mỹ, Ngô Văn Mạnh quận trưởng<br />
Long Mỹ; ở Vị Thanh diệt tên cảnh sát Hội, tên<br />
Xứng; ở Ô Môn diệt tên quận trưởng Minh, tên Lê<br />
Nhất Hiểu, cảnh sát Như, Chinh Ty, tên Dệt; ở<br />
Châu Thành diệt tên Thầy Mười cảnh sát ác ôn ở<br />
Phong Điền, tên cảnh sát Thanh, Nguyễn Văn<br />
Tốt… (Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Cần<br />
Thơ, 2006, tr.47-48). Nhờ tiêu diệt được nhiều tên<br />
ác ôn đã mang lại tác dụng to lớn cảnh cáo những<br />
tên khác không dám hành động. Từ đó tạo đều kiện<br />
cho phong trào đấu tranh chính trị, binh vận được<br />
duy trì và các cơ sở binh vận trong tỉnh được củng<br />
cố, phát triển.<br />
<br />
4.Tuyên truyền giáo dục, tranh thủ phân hóa<br />
những tên ác ôn. Nếu không hối cải thì diệt trừ”<br />
(Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Cần Thơ,<br />
2002, tr.39-40). Với chủ trương, nhiệm vụ này,<br />
công tác tranh thủ, lôi kéo và phân hóa lực lượng<br />
giáo phái ly khai chống Diệm của tỉnh đã đạt được<br />
những kết quả khả quan, góp phần củng cố và giữ<br />
gìn được lực lượng cách mạng ngay trong thời<br />
điểm khó khăn, thử thách trước sự đàn áp, khủng<br />
bố của chính quyền Ngô Đình Diệm.<br />
Trong một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang<br />
tỉnh đã tiến hành một số trận đánh lớn và tiêu diệt<br />
nhiều quân số đối phương: tháng 10 năm 1956,<br />
chống càn quét lớn của quân đội Sài Gòn tại Đập<br />
Đá, xã Hòa An diệt và làm bị thương gần 50 tên<br />
địch, thu 20 súng các loại (Ban Chấp hành Đảng bộ<br />
Thành phố Cần Thơ, 2006, tr.39). Song song với<br />
các hình thức đấu tranh vũ trang mạnh mẽ, công<br />
tác binh vận được Tỉnh ủy Cần Thơ chủ trương đẩy<br />
mạnh phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh. Thực tế<br />
là trong 2 năm 1954 - 1956, trong các đồn bót của<br />
đối phương đều có cơ sở nội tuyến của cách mạng.<br />
Chính các cơ sở cách mạng “ẩn mình” trong lòng<br />
địch đó đã hỗ trợ tích cực các cuộc đấu tranh chính<br />
trị, bảo vệ được lực lượng cách mạng, đồng thời<br />
hạn chế các hành động gây tội ác của quân đội Sài<br />
Gòn. Các cán bộ, đảng viên có thể hoạt động an<br />
toàn và tránh được sự tổn thất tối thiểu nhất có thể<br />
từ chính sách đàn áp, khủng bố điên cuồng của<br />
chính quyền Ngô Đình Diệm.<br />
Ngày 22/10/1956, Ngô Đình Diệm cho tiến<br />
hành phân chia ranh giới các huyện và đổi tên tỉnh<br />
Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Đồng thời tăng<br />
cường chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” lên mức độ<br />
cao. Phong trào đấu tranh chống “tố cộng, diệt<br />
cộng” được Tỉnh ủy Cần Thơ lãnh đạo nhân dân<br />
đấu tranh với nhiều hình thức sinh động. Hàng loạt<br />
cuộc đấu tranh chống “tố cộng, diệt cộng” diễn ra<br />
rầm rộ với sự tham gia của hàng ngàn quần chúng<br />
nhân dân ở Long Mỹ, Ô Môn, thị xã Cần Thơ…<br />
Mặc dù bị đàn áp, nhưng dưới sự đấu tranh linh<br />
hoạt, sáng tạo với các hình thức và phương pháp<br />
đấu tranh thích hợp vừa kết hợp đấu tranh chính trị<br />
với binh vận, kết hợp với nhân dân đô thị buộc đối<br />
phương chấp nhận các yêu sách của từng cuộc đấu<br />
tranh. Các phong trào đấu tranh đòi cải thiện đời<br />
sống, giải quyết việc làm, cứu tế xã hội, chống thuế<br />
khóa, chống đuổi nhà… ở đô thị diễn ra mạnh mẽ<br />
được đông đảo nhân dân tích cực ủng hộ. Phong<br />
<br />
Đầu năm 1957, Tỉnh ủy Cần Thơ tiến hành<br />
củng cố lại các Huyện ủy, các Chi bộ xã, ấp theo<br />
hướng nâng cao chất lượng và năng lực lãnh đạo.<br />
Công tác xây dựng Đảng tại cơ sở cũng được quan<br />
tâm phát triển. Năm 1958, Tỉnh thành lập Ban Địch<br />
tình (sau đổi thành Ban Quân báo). Tháng 12 năm<br />
1959, Tỉnh thành lập công trường sửa chữa, chế tạo<br />
vũ khí thô sơ: làm chông gài, lựu đạn gài, súng<br />
trường, súng ngựa trời… phục vụ chiến đấu. Mặt<br />
khác, Tỉnh ủy Cần Thơ còn lãnh đạo nhân dân đấu<br />
tranh chống Chỉ dụ 57 về cải cách điền địa của<br />
<br />
111<br />
<br />