Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
lượt xem 2
download
Bài viết "Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội" tập trung làm rõ quá trình nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản bắt đầu ngay khi Đảng mới ra đời, từng bước bổ sung, điều chỉnh linh hoạt trong mỗi giai đoạn cách mạng, đặc biệt trong công cuộc đổi mới, phù hợp với những thay đổi của tình hình trong nước và thế giới. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Trần Thúy Hiền Trường Chính trị thành phố Đà Nẵng Tác giả liên hệ: Trần Thúy Hiền, email: thuyhienhoa@yahoo.com Tóm tắt: Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn đất nước. Điều này thể hiện trong nhận thức của Đảng về việc xác định nhiệm vụ, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Quá trình nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản bắt đầu ngay khi Đảng mới ra đời, từng bước bổ sung, điều chỉnh linh hoạt trong mỗi giai đoạn cách mạng, đặc biệt trong công cuộc đổi mới, phù hợp với những thay đổi của tình hình trong nước và thế giới. Sự kết hợp lý luận và thực tiễn làm cho nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Từ khóa: nhận thức của Đảng; xây dựng chủ nghĩa xã hội; mô hình chủ nghĩa xã hội; con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. 1. MỞ ĐẦU Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhiều phong trào yêu nước gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau đã liên tục diễn ra nhưng đều thất bại, nguyên nhân là do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, mục tiêu đấu tranh không rõ ràng, không tập hợp được lực lượng toàn dân, sai lầm trong phương pháp đấu tranh và thiếu một tổ chức cách mạng lãnh đạo. Yêu cầu bức thiết đặt ra là phải tìm một con đường cứu nước đúng đắn, con đường đó phải giải quyết yêu cầu cơ bản của sự nghiệp cách mạng là giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp. Trải qua gần 10 năm tìm đường cứu nước (1911 - 1920), nghiên cứu thực tiễn cách mạng ở các nước tư bản, các nước thuộc địa trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ, 2011, 30), “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế 192
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” giới” (Hồ, 2002, 416). Người đã lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam là cách mạng vô sản, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. 2. YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Sau khi lựa chọn con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều hoạt động khẩn trương, tích cực và đầy sáng tạo đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu tháng 2/1930. Ngay khi mới ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002b, 2). Lần đầu tiên, ở Việt Nam có một đảng chính trị đề ra cương lĩnh cách mạng và khoa học, bao quát được nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc với những giá trị đích thực của độc lập dân tộc và điều hết sức quan trọng là xác định được phương hướng tiến lên của dân tộc, giải quyết được cả yêu cầu phát triển của dân tộc và của xã hội Việt Nam tức là xác định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), Đảng luôn coi trọng việc tuyên truyền định hướng cách mạng xã hội chủ nghĩa trong nhân dân. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), Đảng chủ trương vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ dân chủ mới. Ở những vùng căn cứ kháng chiến, hậu phương của ta, Đảng và Chính phủ đã bước đầu thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của chế độ mới, tạo cơ sở cho chủ nghĩa xã hội như: Kiện toàn hệ thống chính quyền các cấp, chia ruộng đất công, ruộng đất của tư nhân bỏ hoang cho nông dân, phát triển thương nghiệp quốc doanh, công nghiệp quy mô lớn phục vụ kháng chiến… Sau Hiệp định Geneve (7/1954), đất nước tạm thời bị chia cắt thành 2 miền với 2 chế độ chính trị khác nhau. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, tháng 12/1957, tại Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khóa II, Đảng nhận định: “Ta đang đồng thời chấp hành hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002c, 771-772). Đến Đại hội lần thứ III của Đảng (9/1960), đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc bước đầu được hình thành, trong đó nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội 193
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG được xác định lúc này là: “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002a, 558-559). Miền Bắc thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, nên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc mang đặc điểm là chủ nghĩa xã hội thời chiến. Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ thắng lợi của cách mạng cả nước, “Xây dựng chủ nghĩa xã hội lúc này cũng là để đánh thắng Mỹ”. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập thống nhất, bước vào thời kỳ mới, Đại hội lần thứ IV của Đảng (12/1976) nhận thức sâu sắc rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, liên tục, sâu sắc và triệt để. Đó là quá trình kết hợp cải tạo với xây dựng, mà xây dựng là chủ yếu. Đó là quá trình xóa bỏ cái lạc hậu, phát huy cái tiến bộ, cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới… Đó là quá trình đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp và lâu dài giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa. Trải qua 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1975 - 1985), đất nước đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật. Tuy nhiên, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Trên bình diện quốc tế, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng xuất hiện những dấu hiệu khủng hoảng kinh tế - xã hội. Mỹ và các nước phương Tây thực hiện chính sách thù địch, bao vây, cấm vận Việt Nam. Trước tình hình trên, yêu cầu đặt ra đối với Đảng và nhân dân ta là phải làm gì và làm như thế nào để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội? Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, nhưng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đối với một nước lạc hậu như nước ta như thế nào cho phù hợp? Với bản lĩnh cách mạng vững vàng, Đại hội VI (12/1986) - Đại hội mở đường cho quá trình đổi mới ở Việt Nam tiếp tục khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh 194
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006a, 376). Để đảm bảo công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, Hội nghị Trung ương 6 (3/1989) của Đảng xác định một trong những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới đó là “đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006b, 664). Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, trước những diễn biến hết sức phức tạp của tình hình thế giới: chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô sụp đổ, phong trào cộng sản quốc tế khủng hoảng sâu sắc, nhiều Đảng Cộng sản đã từ bỏ lập trường giai cấp, các thế lực thù địch ráo riết tấn công chủ nghĩa Mác - Lênin, Đại hội VII của Đảng (6/1991) vẫn khẳng định phải kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, tập trung xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ cấu kinh tế và cơ cấu quản lý mới. Chuyển mạnh nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung, hành chính, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) được thông qua tại Đại hội VII của Đảng (6/1991) nêu rõ: “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”. Cương lĩnh cũng xác định “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 133-136). Với bản lĩnh vững vàng, kiên định, trước những biến động của thời cuộc, Đảng và nhân dân ta trước sau vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được lựa chọn theo tinh thần Cương lĩnh (2/1930). Sau 15 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ thực tiễn đó, Đại hội IX của Đảng (4/2001) 195
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG khẳng định: Đảng và nhân dân Việt Nam quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015b, 129-130). Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Cương lĩnh xác định, đến giữa thế kỷ XXI: “toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 71). Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát “đến giữa thế kỷ XIX, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 112). 3. NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngay trong những ngày đầu tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội III của Đảng (9/1960) xác định những nhiệm vụ cơ bản trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta đó là: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế; đồng thời phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002a, 548). Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội chỉ rõ: cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến hành ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa về kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, 2 mặt này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển, trong đó quan hệ sản xuất cần đi trước một bước để mở đường. Đại hội III chủ trương thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. 196
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Đại hội III, Đại hội IV của Đảng (12/1976) xác định nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước là “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1977, 8-9). Như vậy, cơ bản các nhiệm vụ về phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật, tư tưởng văn hóa vẫn tiếp tục được chú trọng. Tuy nhiên, Đại hội IV nhấn mạnh thêm nhiệm vụ xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới. Vấn đề xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được đề cập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội cho thấy Đảng ta nhận thức sâu sắc vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở kế thừa tư duy về cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đại hội III, kế hoạch 5 năm 1976- 1980 tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản: “Tập trung cao độ sức của cả nước, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, xây dựng nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, 656). Từ Đại hội III đến Đại IV, đẩy mạnh công nghiệp hóa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần vẫn được xem là một trong những nhiệm vụ cơ bản được Đảng xác định trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hạn chế này sẽ được khắc phục khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Do điều kiện chiến tranh, mặt khác xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cả nước là việc làm hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử nước ta, vì vậy đã dẫn đến một số hạn chế nhất định trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, đưa quy mô lên quá cao, xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần. Tuy nhiên, nhìn chung, nhận thức về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội từ Đại hội III đến Đại hội VI của Đảng là những bước khởi đầu, phản ánh một giai đoạn nhận thức nhất định của Đảng đối 197
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận thức ấy sẽ được từng bước bổ sung, hoàn chỉnh ở những giai đoạn kế tiếp. Đại hội V của Đảng (3/1982) xác định cách mạng nước ta đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; Hai là, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội V (1980) đã có một số tư duy mới: Một là, chặng đường trước mắt bao gồm những năm 1981-1985 và kéo dài đến 1990 có tầm quan trọng đặc biệt, nhiệm vụ bức thiết là tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng. Hai là, trong một thời gian nhất định ở miền Nam còn tồn tại 5 thành phần kinh tế. Như vậy, có thể thấy rằng Đại hội V đã bước đầu khắc phục những sai lầm trong nhận thức về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đại hội III và Đại hội IV. Trước đó, ta chủ trương thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần thì đến Đại hội V, trong nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất hiện tư duy mới thông qua việc coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và thừa nhận sự tồn tại của 5 thành phần kinh tế ở miền Nam. Đây là sự chuyển biến mới trong nhận thức của Đảng về lãnh đạo phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là cơ sở góp phần hình thành đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội VI. Bước vào thời kỳ đổi mới, đối với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI (1986) xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006a, 376). Để đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng sâu sắc về kinh tế - xã hội, từ thực tiễn các mô hình đổi mới ở cơ sở thông qua hiện tượng “khoán chui” (Vĩnh Phúc, Hải Phòng), “Xé rào” (Long An, Dệt Thành công, Công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh...) Đại hội VI đã đề ra đường lối toàn diện trong đó thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, thực hiện chính sách sử dụng và cải tạo đúng 198
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” đắn các thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của Lênin “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 56). Việc thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là kết quả của quá trình đổi mới nhận thức về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng qua các kỳ Đại hội III, IV, V. Đối với nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, các kỳ đại hội trước của Đảng đều xác định là căn bản hoàn thành trong nhiệm kỳ song đều không thực hiện được. Nguyên nhân là do nóng vội, chủ quan, làm trái quy luật. Đại hội VI đã sửa sai bằng nhận thức đúng đắn, trong đó xác định: “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 58). Trên cơ sở những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện đường lối Đại hội VI, Đại hội VII đã đề ra một số nhiệm vụ mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần tập trung giải quyết đó là: - Ra sức đẩy mạnh sản xuất, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. - Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới. - Về thực hiện chính sách xã hội: coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động. - Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. - Đổi mới cán bộ và công tác cán bộ. - Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở: Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991a, 147). Nhằm khắc phục những quan điểm sai lầm của các kỳ Đại hội trước đây là thường chủ trương sớm xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần để xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phủ nhận sản xuất hàng hóa, Đại hội VII đã nêu quan điểm 199
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG mới, đảm bảo định hướng trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là: Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được Đại hội VII đề cập trên quan điểm “Thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa; nó vừa là một mục tiêu vừa là một động lực của công cuộc đổi mới xã hội ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991a, 125). Từ những nội dung trên, có thể thấy rằng Đại hội VII đã tiếp tục phát triển nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta lên một bước mới, mang tính toàn diện, gắn với con người, lấy con người làm trung tâm, động lực, mục tiêu của sự phát triển. Sau mười năm đổi mới, đất nước đã cơ bản hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và chuyển sang thời kỳ phát triển mới - Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do vậy, Đại hội VIII của Đảng (6/1996) xác định mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đến năm 2020 là “Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015a, 366). Để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi đôi với việc tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ mà Đại hội VII đã đề ra như: Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước; Mở rộng quan hệ đối ngoại, nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đại hội VIII đã được tiếp tục phát triển, mang tính toàn diện với các nội dung mới: Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; Cải cách bộ máy hành chính Nhà nước và hoàn thiện nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Xây 200
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Vấn đề cải cách bộ máy hành chính Nhà nước; Công tác xây dựng Đảng được Đảng hết sức quan tâm. Điều này phản ánh tầm nhìn, sự phát triển về nhận thức của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới. Nhờ đó, bộ máy Nhà nước, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được đổi mới, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, góp phần to lớn vào những thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đại hội IX tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một quy mô mới và trình độ mới. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng xác định hai lĩnh vực trung tâm và then chốt: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Từ Đại hội IX, vấn đề hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng được chú trọng bởi lẽ, Nhà nước là trung tâm của hệ thống trị, có vai trò quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhận thức của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân là thành tựu về lý luận quan trọng của Đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên tinh thần tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ mà Đại hội IX đã đề ra về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội X của Đảng bổ sung, phát triển nhấn mạnh thêm một số nội dung nhiệm vụ mới đó là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và chiến đấu của Đảng. Đây là lần đầu tiên Đảng ta đề cập đến vai trò của kinh tế tri thức trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ mở rộng quan hệ đối ngoại cũng được nhận thức ở một tầm nhìn mới trên tinh thần “chủ động” “tích cực”. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng thể hiện qua các nội dung cấp thiết trong việc kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. 201
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Đại hội XI của Đảng chủ trương tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ về xây dựng chủ nghĩa xã hội mà các kỳ đại hội trước đó đã đề ra về kinh tế, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng… Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2011 - 2015, Đại hội XI đã đặc biệt nhấn mạnh vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng Đảng thực sự mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được xác định là “nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta hiện nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 56). Đại hội XII của Đảng bổ sung, phát triển các nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng tổ chức bộ máy toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu quả; Nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng xuất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế; Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội… Có thể nói Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò quyết định của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vai trò của nhân tố con người đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới. Sau 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vì vậy Đại hội XIII (2021) tiếp tục khẳng định mục tiêu: “phấn đấu đến giữa thế kỷ XIX, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 326). Để đạt được các mục tiêu này, những nhiệm vụ trọng tâm trên các lĩnh vực được Đảng xác định trong nhiệm kỳ là: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh; Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19; Giữ vững độc lập tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội 202
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 334-337). Có thể thấy rằng nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được đặt lên hàng đầu cùng với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị. Nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt là nhiệm vụ mới mẻ được bổ sung trở thành một trong nhiệm vụ trọng tâm trong công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội toàn diện. Đại hội XIII đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy, tùy theo mỗi giai đoạn cách mạng, nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội có sự điều chỉnh, bổ sung phù hợp với điều kiện thực tiễn. 4. NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Sau hiệp định Geneve (20/7/1954), miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bước vào thời kỳ thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới đối với cách mạng miền Bắc, Đại hội III của Đảng (9/1960) xác định những biện pháp để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội là: 1) Sử dụng chính quyền nhân dân làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản; 2) Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; 3) Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; 4) Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật. Từ kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hòa bình thống nhất và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đại hội IV của Đảng tiếp tục áp dụng những biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đại hội III vào quá trình xây dựng chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, đặc biệt việc tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách 203
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung, thời kỳ trước đổi mới, Đảng coi đẩy mạnh công nghiệp hóa, phát triển công nghiệp nặng là nhiệm vụ trung tâm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế tức là xóa bỏ các hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, với hai hình thức là sở hữu tập thể và toàn dân. Hai kỳ đại hội Đại hội IV, Đại hội V của Đảng đều xác định nhiệm vụ căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa song đều chưa thể thực hiện được. Bước vào thời kỳ đổi mới, với tinh thần thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, yếu kém của mô hình cũ, cách làm cũ và sẵn sàng sửa sai, Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã đề ra những phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế, xã hội trong đó có những biện pháp mạnh mẽ, dứt khoát đó là: 1) Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư: tập trung thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; 2) Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; 3) Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 47-58). Những chủ trương, giải pháp đúng đắn của Đại hội VI đã đem lại hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội, từ năm 1989, Việt Nam đã giải quyết thành công vấn đề lương thực và trở thành nước xuất khẩu gạo thứ ba thế giới, lạm phát được kềm chế, chính trị xã hội ổn định, vượt qua thách thức do tác động của khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu. Những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới đã tiếp thêm sức mạnh trí tuệ, tinh thần để Đại hội VII của Đảng (6/1991) tiếp tục thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định bảy phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta. 204
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng xuất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. 205
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991b, 9-11). Trên cơ sở yêu cầu thực tiễn đất nước, Đại hội IX và X của Đảng tiếp tục bổ sung một số vấn đề mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) do Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định tám phương hướng cơ bản sau đây: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người mới, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh (Phạm & Nguyễn, 2011, 40-41). Đại hội XII của Đảng (1/2016) nhấn mạnh các giải pháp nhằm sớm đưa nước ta “cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” đó là: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng xuất, hiệu quả và sức cạnh tranh; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và đô thị; Nâng cao chất lượng nguồn 206
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ; Phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tuân thủ luật pháp; Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015b, 273- 313). Đây là những giải pháp mang tính toàn diện, tổng thể, thể hiện tầm nhìn mới của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập sâu với thế giới. Với thế và lực mới của một quốc gia đang trên đà phát triển và hội nhập sâu với thế giới, Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và định hướng đến 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Mục tiêu ấy được xây dựng trên cơ sở những thành tựu to lớn của 35 năm đổi mới đất nước đồng thời cũng thể hiện tầm nhìn, khát vọng của Đảng và nhân dân ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 do Đại hội XIII thông qua xác định các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội: Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế; Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển; Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện đồng bộ và công bằng xã hội. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; Củng cố, tăng cường quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; Kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc 207
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG gia; Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế; Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đồng bộ, hiện đại… (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 222-284). Để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng khẳng định “tiếp tục đổi mới tư duy; có quyết tâm chính trị cao… chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống; nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được; đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 323). Nhờ không ngừng bổ sung lý luận đổi mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội không ngừng được đổi mới, hoàn thiện phù hợp với xu thế vận động của thế giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thành tựu về lý luận có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần đưa đất nước ngày càng phát triển, có được “cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín” chưa từng thấy sau 35 năm đổi mới. Những thành tựu đạt được của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội là không gì có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội” (Nguyễn, 2022, 36).Vì vậy, cùng với việc luôn luôn kiên định lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, “chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống” (Nguyễn, 2022, 37). Với tinh thần đó, nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục ngày càng sáng tỏ hơn. 208
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1977). Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Sự thật. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Chính trị Quốc gia - Sự thật. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991b). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự thật. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002a). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 21). Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2004). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 37). Chính trị quốc gia. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006a). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 47). Chính trị quốc gia. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006b). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 49). Chính trị quốc gia. [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 51). Chính trị quốc gia. [10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [11]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015a). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 55). Chính trị quốc gia. [12]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015b). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 60). Chính trị quốc gia. [13]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [14]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật. 209
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG [15]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002b). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia. [16]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002c). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 18). Chính trị quốc gia. [17]. Hồ, C. M. (2002). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia. [18]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia. [19]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật. [20]. Phạm, V. L., & Nguyễn, T. H. (2011). Những nội dung chủ yếu và mới trong các văn kiện đại hội XI của Đảng. Chính trị quốc gia. 210
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Câu 2: Phân tích quá trình nhận thức của Đảng cách mạng dân tộc dân ch ủ nhân dân của Đảng ta từ năm 1930 – 1954.
8 p | 1091 | 125
-
Bài giảng Lý luận Giáo dục - Quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội
31 p | 419 | 72
-
Một số đặc điểm tâm lý của phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại trại giam - Chu Văn Đức
5 p | 419 | 32
-
Sự phát triển của đảng đến nay
10 p | 94 | 16
-
TÓM TẮT BÀI GIẢNG NHẬN THỨC VÀ MÔ HÌNH THÔNG TIN CỦA TƯ DUY VÀ HỌC TẬP
41 p | 114 | 14
-
Nhìn lại quá trình phát triển nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa trong thời kỳ đổi mới
10 p | 168 | 14
-
Sự nghiệp cách mạng và cương lĩnh chính trị ngọn cờ lý tưởng lý luận chỉ đạo của chúng ta
94 p | 94 | 9
-
Bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Bài 7 (TS. Nguyễn Hữu Công)
18 p | 41 | 6
-
Nhìn lại quá trình nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý” và kết quả thực hiện trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua
10 p | 29 | 5
-
Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn lực tôn giáo và phát huy nguồn lực tôn giáo
17 p | 15 | 4
-
Sự đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường
11 p | 63 | 4
-
Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý xã hội trong thời kỳ đổi mới
8 p | 7 | 4
-
Xây dựng, phát triển con người Việt Nam từ di sản Hồ Chí Minh đến quá trình nhận thức của Đảng ta
6 p | 11 | 4
-
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
13 p | 8 | 4
-
Góp phần tìm hiểu quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đối ngoại trong 35 năm đổi mới (1986 - 2021)
13 p | 4 | 2
-
Nhận thức của sinh viên khoa Địa lí trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trong hoạt động đăng kí học phần tự chọn
10 p | 94 | 2
-
Quá trình nhận thức và bảo đảm an ninh con người của Đảng Cộng sản Việt Nam
13 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn