intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quá trình nhận thức và bảo đảm an ninh con người của Đảng Cộng sản Việt Nam

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở giới thiệu khái quát quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh con người, tác giả trình bày những thành tựu trong bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam thời gian qua và đề xuất một số giải pháp tăng cường an ninh con người trong các chính sách của Nhà nước Việt Nam thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quá trình nhận thức và bảo đảm an ninh con người của Đảng Cộng sản Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ BẢO ĐẢM AN NINH CON NGƯỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Võ Công Khôi Học viện Chính trị khu vực III Tác giả liên hệ: Võ Công Khôi, email: vocongkhoi.nnpl@gmail.com Tóm tắt: Những năm qua, khái niệm an ninh con người đã được chấp nhận rộng rãi nhằm giải quyết nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong quan hệ quốc tế. Chính sách quản trị quốc gia của nhiều chính phủ đã chuyển trọng tâm từ an ninh của nhà nước sang an ninh của cá nhân. Sự thay đổi tư duy về an ninh con người khá tương đồng với quan điểm lấy con người làm trung tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững. Trên cơ sở giới thiệu khái quát quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh con người, tác giả trình bày những thành tựu trong bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam thời gian qua và đề xuất một số giải pháp tăng cường an ninh con người trong các chính sách của Nhà nước Việt Nam thời gian tới. Từ khóa: quyền con người; an ninh con người; chính sách; quản trị quốc gia; Đảng Cộng sản Việt Nam. 1. KHÁI NIỆM AN NINH CON NGƯỜI Khái niệm “an ninh con người” (tiếng Anh - human security) và bảo đảm an ninh con người bắt đầu được nghiên cứu một cách hệ thống từ cuối thập niên 80 - đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Việc mở rộng mục tiêu phát triển từ thuần tuý tăng trưởng kinh tế sang các vấn đề văn hoá, xã hội, môi trường, ngày càng tập trung hơn vào con người; và những tranh luận về an ninh tập thể sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc là hai nguyên nhân chính khởi nguồn cho sự quan tâm của cộng đồng quốc tế và giới nghiên cứu về chủ đề an ninh con người. Theo đó, an ninh con người chiếm một vị trí quan trọng trong bốn lĩnh vực an ninh chủ yếu cùng với an ninh quốc gia, an ninh công cộng và an ninh phi truyền thống (Đặng & Đào, 2016, 32). Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) lần đầu tiên đưa cụm từ “an ninh con người” vào Báo cáo Phát triển Con người năm 1994 gây ra một cuộc tranh 218
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” luận kéo dài và khơi nguồn cho hàng loạt các nghiên cứu mang tính lý luận về an ninh con người. Trong Báo cáo có một phần riêng về an ninh con người có tiêu đề “Xác định lại an ninh: các khía cạnh con người”. Báo cáo định nghĩa an ninh con người là “sự an toàn trước các mối đe dọa kinh niên như đói kém, bệnh tật và áp bức; bảo vệ khỏi sự gián đoạn đột ngột và gây tổn hại trong cuộc sống hàng ngày, cho dù tại nơi làm việc, ở nhà hay trong cộng đồng. Theo đó, khái niệm an ninh con người chứa đựng hai trụ cột chính: (i) con người được bảo vệ an toàn trước các mối đe dọa triền miên, chẳng hạn như tình trạng thiếu đói lương thực, tình trạng lây nhiễm và mắc các bệnh truyền nhiễm, cũng như tình trạng áp bức và bạo hành; (ii) con người được bảo vệ an toàn trước những đổ vỡ đột ngột và gây nguy hại cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, bất kể là trong phạm vi gia đình, công sở hay cộng đồng xã hội. Đến năm 2005, Tổng Thư ký Liên hiệp quốc - Kofi Annan - đã bổ sung thêm trụ cột thứ ba “tự do sống một cuộc sống có phẩm giá” nhằm nhấn mạnh vào pháp quyền, nhân quyền và dân chủ. Tiếp đó, Bogardi và Brauch đã đề xuất trụ cột thứ tư “thoát khỏi những mối nguy hiểm rình rập” nhằm hướng đến sự phát triển bền vững và bảo đảm cho thế hệ tương lai được thừa hưởng một môi trường lành mạnh. Dựa trên các cứ liệu thực tế, an ninh con người được hình thành từ bảy thành tố cơ bản, bao gồm: (i) an ninh kinh tế (một sinh kế cơ bản được đảm bảo từ việc làm, tài nguyên công cộng và môi trường, hoặc mạng lưới an toàn xã hội đáng tin cậy); (ii) an ninh lương thực (tiếp cận thuận lợi đối với thực phẩm cơ bản); (iii) an ninh y tế (tiếp cận các chế độ chăm sóc sức khỏe cá nhân và cộng đồng), (iv) an ninh môi trường (an toàn trước thiên tai và sự khan hiếm tài nguyên khi suy thoái môi trường); (v) an ninh cá nhân (an toàn thân thể khỏi xung đột bạo lực, vi phạm nhân quyền, bạo lực gia đình, tội phạm, lạm dụng trẻ em và bạo lực tự gây ra như trong lạm dụng ma túy); (vi) an ninh cộng đồng (an toàn trước các tập quán áp bức của cộng đồng và xung đột sắc tộc); (vii) an ninh chính trị (không bị nhà nước áp bức và lạm dụng quyền con người, quyền công dân).1 1Trong Báo cáo Phát triển con người (HDR) năm 2003 có tiêu đề “An ninh hiện tại: Bảo vệ và trao quyền cho người dân”, Uỷ ban về an ninh con người (CHS) của Liên hợp quốc đã sử dụng định nghĩa và bảy lĩnh vực này. 219
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Bảy thành tố cấu thành nêu trên thể hiện khá toàn diện các khía cạnh, quy mô và cấp độ của an ninh con người. Thực tế cho thấy, đây cũng chính là các lĩnh vực tập trung hầu hết các mối đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển bền vững của cá nhân con người. Theo đó, phần lớn các chính sách an ninh con người của các quốc gia đều xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển trong bối cảnh hiện nay. Điều đó cũng có nghĩa rằng mục tiêu của an ninh con người là “tất cả vì con người”, “con người làm trung tâm trong hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia”. 2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ AN NINH CON NGƯỜI Trong hơn 92 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, phát triển con người và bảo đảm quyền con người luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm. Phần lớn các đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng đều hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Xét ở góc độ này, nội hàm và thành tố của an ninh con người theo quan niệm của UNDP thì không khác biệt so với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người và bảo đảm quyền con người. Tuy nhiên, thuật ngữ “an ninh con người” lần đầu tiên được đề cập và ghi nhận trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI trình Đại hội XII đã chỉ rõ hạn chế, khuyết điểm trong quản lý phát triển xã hội: “Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người”. Trên cơ sở đó, Báo cáo Chính trị đã xác định một trong các phương hướng, nhiệm vụ cần quan tâm hướng tới là “Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông; bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người. Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 133-134). Đến Đại hội XIII, chủ đề an ninh con người được quan tâm đề cập trong nhiều nội dung của Văn kiện. Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, 220
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” an ninh con người được xác định là một nội dung quan trọng trong chính sách quản lý phát triển xã hội. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XII nhấn mạnh: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người”; “Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương”; “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 116-117 & 147-148). Có thể thấy, quan điểm nhất quán của Đảng trong việc xác định con người là chủ thể sáng tạo của phát triển xã hội và đến lượt mình, quản lý phát triển xã hội đều vì hạnh phúc của con người và phục vụ con người. Vì thế, nhiệm vụ thứ tư trong sáu nhiệm vụ trọng tâm đã được Đại hội XIII xác định là “thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 202). Điều này một lần nữa khẳng định rằng, sự gắn kết tư duy phát triển kinh tế với tư duy phát triển xã hội, phát triển con người và bảo đảm an ninh con người là chủ trương nhất quán, xuyên suốt trong quá trình đổi mới đất nước và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 3. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM AN NINH CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM 3.1. Về thành tựu - An ninh kinh tế thường được hiểu là việc bảo đảm cho cá nhân có được mức thu nhập ổn định trước các mối đe dọa chính. Trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam có nhiều chủ trương bảo đảm mức thu nhập cơ bản của con người. Mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên. Năm 2021, tổng số hộ nghèo là 609.049 hộ, tỷ lệ 2,23%; tổng số hộ cận nghèo là 850.202 hộ và tỷ lệ 3,11% (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2022). Thành tựu về xoá đói giảm nghèo của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu Thiên niên kỷ đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế công nhận. Đánh giá về phát triển kinh tế, Đại hội lần thứ XIII khẳng định: “so với nhiệm kỳ trước, kinh tế chuyển biến tích cực, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát luôn được kiềm chế ở mức thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế 221
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG cơ bản được bảo đảm; nợ công giảm, nợ xấu được kiểm soát. Mặc dù năm cuối nhiệm kỳ, đại dịch Covid-19 và thiên tai, bão lũ nghiêm trọng liên tiếp xảy ra ở các tỉnh miền Trung đã tác động nặng nề tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn đạt khoảng 6%/năm (riêng năm 2020 đạt 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới). Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 6%/năm giai đoạn 2016 - 2020 (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 65-66). - An ninh lương thực có thể hiểu là số lượng lương thực, thực phẩm có sẵn đủ để cung cấp mọi nhu cầu ở bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào, điều kiện và khả năng của người được cung cấp có thể tiếp nhận lương thực, thực phẩm mà không gặp khó khăn. Cho đến nay, Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng việc bảo đảm an ninh lương thực. Thực hiện Kết luận số 53-KL/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 63/NQ-CP của Chính phủ về Đề án An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và là quốc gia bền vững an ninh lương thực cao hơn nhiều quốc gia cùng trình độ phát triển ở châu Á. Đặc biệt, trong đại dịch Covid-19, người dân vẫn tiếp cận được nguồn cung lương thực từ Nhà nước và cộng đồng xã hội, điển hình là các mô hình cây ATM gạo, siêu thị 0 đồng, bữa cơm 0 đồng... - An ninh y tế (sức khoẻ) thường được định nghĩa là sự bảo đảm an toàn cho người dân về sức khoẻ. Trong những năm gần đây, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách và giải pháp nâng cao chất lượng và điều kiện chăm sóc y tế cho người dân. Song song với sự phát triển các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ trực tiếp, Chính phủ đã ứng dụng nhiều biện pháp nâng cao sức khoẻ và ngăn ngừa bệnh tật từ xa. Hệ thống y tế dự phòng và mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố và phát triển. Từng bước giải quyết được tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên và tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; phát triển và nhân rộng mô hình bác sĩ gia đình. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tuyến, từ xa. Tính đến hết ngày 31/12/2021, số người tham gia bảo hiểm y tế hơn 88,8 triệu người, tăng 0,9% so với năm 2020, đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số (Cổng thông tin Điện tử Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 2022). 222
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” - An ninh môi trường thường được quan niệm là việc bảo vệ con người an toàn trước các mối đe dọa từ môi trường. Trong những năm qua, nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu đã được quan tâm đáng kể, đặc biệt khi Việt Nam là một trong số ít quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Các hoạt động trong lĩnh vực này đã thu được một số kết quả bước đầu quan trọng. Tính đến hết năm 2020, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt khoảng 57 triệu người (88,5%), trong đó tỷ lệ sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn QCVN 02:2009/BYT của Bộ Y tế đạt khoảng 33 triệu người (51,7%) với 41,6% từ công trình cấp nước tập trung và 10% từ công trình cấp nước qui mô hộ gia đình (Tuấn Anh, 2021). Chính phủ Việt Nam đã thành lập được các cơ quan nghiên cứu và dự báo, quản lý rủi ro; chủ động hợp tác quốc tế về quản lý tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai. - An ninh cá nhân thường được hiểu là việc bảo vệ an toàn cho cá nhân khỏi các hành vi bạo lực về thể chất và tinh thần. Hiện tại, các quyền, tự do an ninh cá nhân và các quyền riêng tư của con người đã được ghi nhận khá đầy đủ tại Chương 2 - Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự và nhiều luật chuyên ngành khác. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ, bảo đảm người dân khỏi các mối đe dọa hoặc xâm phạm an ninh con người. - An ninh cộng đồng: Đảng và Nhà nước ta hết sức chú ý bảo vệ an ninh cộng đồng nhằm bảo đảm an toàn cho mọi người. Trên thực tế, an ninh cộng đồng có thể bị tác động bởi nhiều mối đe dọa khác nhau; đặc biệt, các hành vi tiêu cực (vi phạm pháp luật) do cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện với phương thức và thủ đoạn mới ảnh hưởng bất lợi đến cộng đồng xã hội. Nhận diện rõ những mối đe dọa này, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra định hướng “củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa vào dân, thực hiện tốt công tác vận động quần chúng tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”, “xử lý hài hoà các vấn đề dân tộc tôn giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các “điểm nóng””, “kịp thời trấn áp hiệu quả các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, các băng nhóm tội phạm ma tuý, có vũ trang…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 280-281). - An ninh chính trị: Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức và thực hiện việc bảo vệ con người không phải chịu sự đàn áp, ngược đãi, đe dọa hay xâm hại 223
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG của các chủ thể công quyền. An ninh chính trị gắn liền với sự bảo đảm tôn trọng các yếu tố cơ bản của con người; đồng thời, nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước và công chức. Trong thời gian qua, Chính phủ đã xây dựng một khuôn khổ pháp lý thúc đẩy quyền công dân, yêu cầu các cơ quan công quyền phải tuân thủ tính công khai và minh bạch trong hoạt động quản lý, điều hành và cung ứng dịch vụ công; đồng thời, xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm người dân tương tác hiệu quả với cơ quan nhà nước thông qua các kênh tiếp cận thông tin chính xác, kịp thời. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: phát huy dân chủ theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173). Đây không chỉ là sự đúc kết từ thực tiễn thực hành dân chủ, mà còn là bước tiến mới trong nhận thức về kiểm soát đối với quyền lực. 3.2. Về hạn chế, yếu kém Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam đã và đang tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít nguy cơ, thách thức trong tiến trình phát triển của quốc gia và bảo đảm an toàn của người dân. Đại hội XIII đã nhận diện: “Những vấn đề toàn cầu như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường... tiếp tục diễn biến phức tạp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 106-107). Trong khi đó, “quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa; thể chế quản lý xã hội còn nhiều hạn chế; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội. Chất lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, có mặt còn bất cập. Chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 85- 86). Những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm an ninh con người thể hiện trên một số khía cạnh cụ thể như sau: 224
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” - Về an ninh kinh tế: số người thiếu việc làm và việc làm không xác định còn nhiều. Chính sách tiền lương chậm được cải cách; tiền lương của đại bộ phận cán bộ công chức, viên chức, người lao động thấp; lương tối thiểu chưa đảm bảo đủ mức sống tối thiểu. Chất lượng việc làm còn thấp. Tỷ lệ người lao động làm các công việc không ổn định còn nhiều. Tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức còn cao, thiếu chế tài để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động ở khu vực này. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao. - Về an ninh lương thực: tác động của biến đổi khí hậu tiếp tục đe dọa đến sản xuất lương thực. Việt Nam đứng trong top đầu về xuất khẩu nông sản nhưng an ninh lương thực chỉ đứng thứ 57/113 quốc gia (H. T. Nguyễn, 2020). Một bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, kể cả một bộ phận công nhân, việc tiếp cận nguồn lương thực cơ bản còn khó khăn, chưa bảo đảm chất dinh dưỡng cho một cuộc sống hiệu quả và khỏe mạnh. - Về an ninh y tế: chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản còn có sự chênh lệch khá lớn giữa các tuyến và giữa các vùng, miền. Kết cấu hạ tầng, trang thiết bị y tế một số nơi thiếu, chưa đạt tiêu chuẩn. Công tác y tế dự phòng yếu. Công tác quản lý thuốc chữa bệnh còn lỏng lẻo, nhất là tuyến cơ sở. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm, nhất là tuyến cuối. Công tác y tế dự phòng có mặt còn bất cập. Quản lý nhà nước về hoạt động y tế tư nhân, thuốc chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 đã lột trần những yếu kém trong lĩnh vực y tế, mà đại án kit xét nghiệm Việt Á là một minh chứng khá rõ nét. - Về an ninh môi trường: tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi còn nghiêm trọng, nhất là tại một số làng nghề, lưu vực sông; ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp chậm được khắc phục, thảm họa môi trường do nhà máy Farmosa (Hà Tĩnh) gây ra vào năm 2016 đã tác động lớn đến an ninh môi trường trong khu vực miền Trung. Trong khi đó, chất lượng dự báo, nguồn lực và năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng ngập úng ở một số thành phố lớn và xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp. Thiên tai với các hiện tượng như bão lụt, lũ quét, hạn hán… liên tiếp xảy ra hàng năm trên 225
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG phạm vi cả nước, gây thiệt hại nặng nề đến đời sống dân cư và hạ tầng cơ sở. Các vụ sạt lở đất trong thời gian gần đây tại nhà máy thuỷ điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên Huế), huyện Hướng Hoá (Quảng Trị), xã Trà Leng - huyện Nam Trà My và xã Phước Lộc - huyện Phước Sơn (Quảng Nam)… đã cướp đi sinh mạng của hàng chục người dân, cán bộ, chiến sĩ. - Về an ninh cá nhân: tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội trên một số địa bàn còn phức tạp. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội vẫn còn diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm giết người, tội phạm xâm phạm sở hữu, tội phạm mua bán người, tội phạm ma tuý, tội phạm công nghệ cao… Đặc biệt, bạo lực học đường và bạo lực gia đình có xu hướng gia tăng và trở thành vấn đề gây bức xúc trong dư luận xã hội. Trong các đợt giãn cách xã hội do dịch Covid-19, số lượng các cuộc gọi phản ánh bạo lực gia đình tăng cao bất thường, trong đó phụ nữ và trẻ em bị bóc lột và bạo hành là chủ yếu. - Về an ninh cộng đồng: cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, số lượng các xung đột xã hội đang có xu hướng gia tăng một số vùng miền trong cả nước trên một vài lĩnh vực, và tính chất của các xung đột xã hội cũng phức tạp hơn. Điển hình như các xung đột diễn ra trong các lễ hội (đền Trần, đền Gióng…); những tranh chấp liên quan đến các cơ sở thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo; xung đột giữa các cộng đồng dân cư với các công ty, doanh nghiệp hủy hoại môi trường; xung đột ở cấp độ gia đình giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em… Những xung đột này góp phần tạo ra sự bất an trong cuộc sống cộng đồng dân cư. - Về an ninh chính trị: một vài địa phương trong một số thời điểm vẫn để xảy ra tình trạng xung đột và điểm nóng chính trị, chẳng hạn các vụ xung đột tại các trạm thu phí BOT ở Cai Lậy - Tiền Giang, Khánh Hoà, Quảng Ninh…; các vụ ngăn xe chở rác vào bãi rác Nam Sơn (Sóc Sơn, Hà Nội), bãi rác Khánh Sơn (Đà Nẵng), bãi rác Tam Nghĩa và Tam Xuân (Núi Thành, Quảng Nam)…; xung đột trong lĩnh vực đất đai ở Lào Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Hà Nội (vụ Đồng Tâm), Hải Phòng, Kon Tum, Sóc Trăng, An Giang... (T. T. D. Nguyễn, 2021). Bên cạnh đó, thực hành dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật vẫn còn nhiều bất cập; quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 89). 226
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO ĐẢM AN NINH CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ - công chức và nhân dân về an ninh con người. Việc trang bị kiến thức đầy đủ và đúng đắn về an ninh con người và bảo đảm an ninh con người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước xuất hiện nhiều vấn đề ảnh hưởng đến an ninh, an toàn con người. Với hệ thống tri thức và phương pháp tiếp cận dựa trên an ninh con người, quá trình hoạch định chính sách và thực thi pháp luật của các chủ thể công quyền sẽ toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Với các chủ thể xã hội khác, hiểu biết đúng đắn về an ninh con người sẽ giúp hạn chế hoặc tránh bị lôi kéo bởi các chiêu bài lợi dụng khoác áo “dân chủ”, “nhân quyền”; đồng thời, có thể tự bảo vệ hoặc yêu cầu các chủ thể công quyền bảo vệ khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Thứ hai, bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. An ninh con người được bảo đảm một cách tối ưu dựa trên một nền kinh tế tăng trưởng ổn định, chất lượng, năng suất, hiệu quả và gắn với phát triển văn hoá, thực hiện công bằng xã hội. Muốn vậy, tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược phát triển kinh tế, đổi mới mạnh mẽ mô hình kinh tế tổng quát, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ. Các chiến lược và chính sách phát triển kinh tế - xã hội không chỉ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà còn bảo đảm phân phối những thành quả tăng trưởng kinh tế theo hướng công bằng, hài hoà lợi ích và tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội. Thứ ba, chú trọng công tác xoá đói - giảm nghèo bền vững, tạo việc làm cho người dân, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Công cuộc Đổi mới và phát triển đất nước luôn hướng tới mục tiêu người dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Khát vọng phát triển đất nước đặt ưu tiên cao với mục tiêu phát triển con người toàn diện, lấy con người làm trung tâm của sự phát triển. Trên nền tảng tư duy này, các chính sách quốc gia cần gắn kết hài hoà giữa kinh tế, chính trị, xã hội và phát triển con người; chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói - giảm nghèo, cải thiện điều kiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Bên cạnh đó, tập trung hoàn thành sớm và có chất 227
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG lượng các mục tiêu, chương trình vì sự phát triển bền vững, vì con người; tạo mọi điều kiện và hỗ trợ người dân, nhất là các nhóm dễ bị tổn thương, tiếp cận bình đẳng các nguồn lực và các dịch vụ xã hội cơ bản. Đồng thời, triển khai đồng bộ và hiệu quả các giải pháp giảm nghèo bền vững, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu - xa. Thứ tư, đảm bảo quyền được sống trong môi trường trong lành, quyền được chăm sóc sức khỏe của người dân. Việt Nam là một trong số ít quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi “thảm họa kép” thiên tai và dịch bệnh. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 đã và đang gây ra khá nhiều hệ quả tiêu cực đối với người dân. Thực tế cho thấy, bảo đảm quyền sống và quyền được chăm sóc sức khỏe là tiền đề đối với việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, và bảo đảm an ninh con người trong giai đoạn hiện nay. Đây cũng được xác định là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ đại hội XIII của Đảng. Trước hết, cần có các giải pháp mang tính khả thi và hiệu quả nhằm ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên, khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường. Thứ đến, cần đẩy mạnh cải cách mạnh mẽ công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, đặc biệt trong phòng chống dịch bệnh. Thực tiễn phòng chống dịch Covid-19 cho thấy cần thực hiện đồng bộ quyền được chăm sóc sức khỏe với quyền về lương thực - thực phẩm, và quyền tiếp cận thông tin cho nhân dân. Thứ năm, hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội, nhất là chính sách về bảo hiểm. Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống chính sách an sinh xã hội giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của người dân, đặc biệt là các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. Hệ thống chính sách bảo hiểm do nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo ra một lưới an toàn nhiều tầng cho tất cả các thành viên và các nhóm xã hội, nhất là các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương khi bị suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập, khi gặp rủi ro, hoạn nạn, đau ốm, bệnh tật... Tuy nhiên, hệ thống chính sách bảo hiểm cũng đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập; đặc biệt là 228
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” mức độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm chưa thật cao, đối tượng còn hẹp.2 Hướng đến một hệ thống bảo hiểm bền vững và thích ứng kịp thời với xu hướng già hóa dân số, diễn biến khó lường của thiên tai và dịch bệnh trong tương lai, cần đẩy nhanh tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội và lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, hướng tới đảm bảo tất cả người dân được khám bệnh, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế. Bên cạnh đó, đẩy mạnh cải cách hệ thống quản lý, giám sát thu - chi và hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo sự bền vững của hệ thống và tránh nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm. Tóm lại, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm đặc biệt đến con người và sự phát triển toàn diện con người. Trong điều kiện mới của quốc tế và khu vực, Đại hội XIII một lần nữa nhất quán khẳng định nhân tố con người là trung tâm của sự phát triển và bảo đảm an ninh con người vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là động lực cho sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng. Muốn “quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh”, cần quán triệt đầy đủ định hướng của Đảng ta về bảo đảm an ninh con người để từ đó, xây dựng một hệ thống giải pháp tổng thể và đồng bộ trên nền tảng một cơ sở lý luận thống nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. (2022). Quyết định Công bố kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2021 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 (125/QĐ-LĐTBXH). [2]. Chen, L. C., Fukuda-Parr, S., & Seidensticker, E. (Eds.). (2003). Human insecurity in a global world. Harvard University Press. [3]. Cổng thông tin Điện tử Bảo hiểm xã hội Việt Nam. (2022). 10 sự kiện nổi bật năm 2021 của ngành BHXH Việt Nam. https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/hoat-dong-he-thong-bao-hiem-xa- hoi.aspx?ItemID=17885&CateID=0 2Theo Cổng thông tin Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến hết ngày 31/12/2021, số người tham gia bảo hiểm xã hội là hơn 16,5 triệu người, đạt 33,75% lực lượng lao động trong độ tuổi; số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp gần 13,4 triệu người, đạt 27,33% lực lượng lao động trong độ tuổi; số người tham gia bảo hiểm y tế hơn 88,8 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số. 229
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [6]. Đặng, X. T., & Đào, T. M. H. (2016). Đảm bảo an ninh con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế: Sách chuyên khảo. Khoa học xã hội. [7]. Kaldor, M. (2007). Human Security: Reflections on Globalization and Intervention. Polity. [8]. Nguyễn, H. T. (2020, March 26). An ninh lương thực không phải chỉ là số lượng lúa gạo. Tạp Chí Điện Tử Kinh Tế Sài Gòn. https://thesaigontimes.vn/an-ninh- luong-thuc-khong-phai-chi-la-so-luong-lua-gao/ [9]. Nguyễn, T. T. D. (2021, Tháng 1). Thực trạng xung đột đất đai vùng dân tộc thiểu số ở nước ta. Tạp Chí Lý Luận Chính Trị. http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/3396-thuc-trang- xung-dot-dat-dai-vung-dan-toc-thieu-so-o-nuoc-ta.html [10]. Tadjbakhsh, S., & Chenoy, A. M. (2007). Human security: Concepts and implications. Routledge. [11]. Tuấn Anh. (2021, August 26). Đến bao giờ 100% người dân nông thôn được dùng nước sạch? Báo Lao Động Thủ Đô. https://laodongthudo.vn/den-bao- gio-100-nguoi-dan-nong-thon-duoc-dung-nuoc-sach-128935.html 230
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2