intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan điểm của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

7
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Quan điểm của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam thời kỳ đổi mới" làm rõ tư duy, quan niệm của V.I.Lênin về khả năng phát triển rút ngắn, về con đường, phương thức “quá độ gián tiếp” lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan điểm của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ QUÁ ĐỘ GIÁN TIẾP LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI Phạm Trần Quỳnh Mai Học viện Chính trị khu vực II Tác giả liên hệ: Phạm Trần Quỳnh Mai, email: quynhmai123711@gmail.com Tóm tắt: Sự phát triển của xã hội loài người là sự chuyển tiếp của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao theo quá trình lịch sử - tự nhiên. Tính phổ biến của lịch sử không loại trừ tính đặc thù của nó, do những điều kiện lịch sử cụ thể, mỗi quốc gia - dân tộc có thể bỏ qua, rút ngắn sự phát triển của một hoặc một số các hình thái kinh tế - xã hội. Bài viết làm rõ tư duy, quan niệm của V.I.Lênin về khả năng phát triển rút ngắn, về con đường, phương thức “quá độ gián tiếp” lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới hiện nay. Từ khóa: V.I.Lênin; chủ nghĩa xã hội; quá độ gián tiếp; Đảng Cộng sản Việt Nam. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo quan điểm duy vật về lịch sử, “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2002b, 21). Cho đến ngày nay, lịch sử nhân loại đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn bao giờ cũng trải qua thời kỳ quá độ. Và, “... giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” ( C.Mác và Ph.Ăngghen, 2002a, 47). Ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển - nơi đã có đại công nghiệp và giai cấp vô sản phát triển ở trình độ cao thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ quá độ chính trị do giai cấp vô sản làm chủ thể. Để thực hiện được bước quá độ này tất yếu phải tiến hành cuộc cách mạng vô sản và thiết lập chuyên chính vô sản. Đây thực chất là sự quá độ trực tiếp 324
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” từ những nước tư bản đã phát triển hết mức trong khuôn khổ hình thái kinh tế - xã hội của nó. Đến năm 1881, khi theo dõi tình hình nước Nga, C.Mác cho rằng sự tồn tại đồng thời của nền kinh tế phương Tây đang thống trị trên thị trường thế giới, cho phép nước Nga có thể áp dụng những thành tựu mà chế độ tư bản đã đạt được mà không phải trải qua chủ nghĩa tư bản. Cùng với đó, trong tác phẩm Về vấn đề xã hội ở Nga, Ph.Ăngghen đã đề cập đến một điều kiện tiên quyết cho khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội của các nước lạc hậu như nước Nga lúc bấy giờ. Điều kiện đó chính là sự thắng lợi của giai cấp vô sản ở các nước phương Tây. Cũng chính là một thuận lợi có thể tránh được những đau khổ mà các nước phương Tây đã trải qua. Con đường sắp tới của cách mạng Nga theo dự báo của các ông là nằm trong khả năng ấy. Qua nghiên cứu di sản của C.Mác và Ph.Ăngghen cũng như khảo cứu thực tiễn nước Nga sau Cách mạng tháng Mười, một nước tiền tư bản nhưng vẫn còn tồn tại kết cấu công xã nông thôn với sở hữu công cộng về ruộng đất, V.I.Lênin nhận ra không chỉ những nước tư bản phát triển cao mới có khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong Báo cáo tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản, ông nhấn mạnh rằng: “đối với các dân tộc lạc hậu hiện nay đang trên con đường giải phóng và sau chiến tranh đã có một bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất định trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có cho như vậy là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng… mà Quốc tế cộng sản còn phải xác định và chứng minh trên lý luận cho một nguyên tắc là: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô - viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (Lênin, 2005a, 295). Thực chất, V.I.Lênin muốn đề cập đến vấn đề quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa cộng sản. Tất cả vấn đề là ở bước quá độ, “phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 2005c, 275) đối với các nước lạc hậu, tiểu nông có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong Đại hội X Đảng Cộng sản Nga, V.I.Lênin đã khẳng định lại: “hoàn toàn không còn nghi ngờ gì nữa rằng bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau, tuỳ thuộc ở chỗ quan hệ đại tư bản đã chiếm ưu 325
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thế hay nền kinh tế nhỏ hơn còn chiếm ưu thế trong nước” (Lênin, 2005c, 94-95). Chính từ nhận thức này, ông đi tới phân biệt chính xác “quá độ trực tiếp” ứng với sự phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và “quá độ gián tiếp” thích hợp cho loại hình phát triển rút ngắn, bỏ qua chủ nghĩa tư bản, từ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở mỗi nước do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội khác nhau mà độ dài, ngắn của thời kỳ quá độ cũng khác nhau. Dù là trực tiếp hay gián tiếp đều phải trải qua một quá trình gay go, phức tạp và lâu dài. Cần phải có thời gian mới có thể thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản. 2. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ QUÁ ĐỘ GIÁN TIẾP LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 2.1. Nội dung tư tưởng của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội Thống nhất với quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin cho rằng: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu” (Lênin, 2005c, 309-310). Thật vậy, với nước Nga tiểu tư sản lạc hậu, thì vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ có những đặc điểm khác với các nước tiên tiến. Có thể khái quát tư duy, quan niệm của V.I.Lênin về vấn đề này thành những luận điểm cơ bản sau: Thứ nhất, phát huy vai trò của chuyên chính vô sản với tư cách là phương tiện, lực lượng cơ bản nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chuyên chính vô sản là sản phẩm của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của việc phá bỏ nhà nước tư sản và thiết lập nhà nước vô sản. Thiết lập tự do cho các giai cấp và tầng lớp nhân dân. Chuyên chính vô sản là nền chuyên chính của giai cấp vô sản được lãnh đạo thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản, 326
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nhằm đảm bảo thực hiện thành công cách mạng xã hội chủ nghĩa: “Nếu không có sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước thì cũng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được: đó cũng là một điều sơ đẳng” (Lênin, 2005b, 253) và “chừng nào mà giai cấp công nhân học biết cách giữ gìn trật tự nhà nước chống tình trạng vô chính phủ của tiểu tư hữu, chừng nào giai cấp công nhân học được cách sắp đặt tổ chức sản xuất với qui mô lớn toàn quốc, trên cơ sở chủ nghĩa tư bản - nhà nước thì khi ấy… tất cả những con chủ bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố” (Lênin, 2005b, 252). Công nhân phải học tập được cách sắp xếp, tổ chức của chủ nghĩa tư bản và đứng ra lãnh đạo, thống trị và phải biết hướng chính sách vào việc giải quyết trước tiên vấn đề cấp thiết nhất, “mấu chốt” nhất để đem lại lợi ích cho toàn thể giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tăng cường chuyên chính vô sản, thực chất là việc giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Bởi lẽ, cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng nhưng chưa phải là toàn thắng với giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải là thất bại hoàn toàn là đặc trưng chính trị cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ mà ở đó, về phương diện kinh tế có sự tồn tại đan xen giữa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Trong tác phẩm “Bàn về Thuế lương thực”, V.I.Lênin chỉ ra một cách dứt khoát đặc điểm quan trọng nhất về kinh tế của thời kỳ quá độ nước Nga lúc bấy giờ đó là nền kinh tế nhiều thành phần: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” (Lênin, 2005b, 248). Bản chất kinh tế của quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nước tư bản kém phát triển hoặc chưa kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa sự tồn tại đan xen giữa các hình thức sở hữu và do đó là sự tồn tại đan xen các thành phần kinh tế. Ứng với trường hợp của nước Nga những năm 20 của thế kỷ trước có 05 thành phần kinh tế, bao gồm: “1) kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; 2) sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó đa số nông dân bán lúa mì); 3) chủ nghĩa tư bản tư nhân; 4) chủ nghĩa tư bản nhà nước; 5) chủ nghĩa xã hội. Nước Nga rộng lớn và hỗn tạp đến mức các loại 327
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hình khác nhau của kết cấu kinh tế - xã hội đều xen kẽ với nhau ở trong nó. Đặc điểm của tình hình hiện nay chính là ở đó” (Lênin, 2005b, 248). Tại sao quá độ lên chủ nghĩa xã hội lại tồn tại thành phần kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước và liệu có thể kết hợp, liên hợp hay phối hợp với chủ nghĩa tư bản nhà nước được không? - “Tất nhiên là được” (Lênin, 2005b, 268). Việc tồn tại thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, cùng với yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hay nói cách khác là xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa xã hội bởi “xét cho cùng, thì nguồn lực lượng to lớn nhất để chiến thắng giai cấp tư sản và cái bảo đảm duy nhất cho những thắng lợi đó được bền vững và không gì phá vỡ nổi, chỉ có thể là một phương thức sản xuất xã hội mới, cao hơn, chỉ có thể là việc đem sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thay thế cho sản xuất tư bản chủ nghĩa và tiểu tư sản” (Lênin, 2005c, 20-21). Mặt khác, chủ nghĩa tư bản nhà nước gần với chủ nghĩa xã hội chứ không phải là chủ nghĩa tư bản. Chúng ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội mà “không thể không lấy từ những viên gạch lấy từ kẻ thù”, phải học cách kinh doanh buôn bán của các nhà tư bản. V.I.Lênin cũng chỉ rõ tính tất yếu khách quan của sự tồn tại các quan hệ tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ và đề ra nhiệm vụ phải hướng sự phát triển của chúng vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước rằng chính sách ngăn cấm tự do buôn bán “là một sự dại dột và tự sát” (Lênin, 2005b, 267) mà phải “không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước” (Lênin, 2005b, 267-268). Chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần, mà còn là một “cầu nối”, “khoản học phí cần thiết” trong các quan hệ kinh tế đối ngoại, là nơi chuyển giao các công nghệ tiên tiến, kể cả các công nghệ quản lý. Chủ nghĩa tư bản nhà nước cho phép sử dụng kinh nghiệm tổ chức quản lý của các nhà tư bản “... những nhà tư bản chấp nhận “chủ nghĩa tư bản nhà nước”… tỏ ra có ích đối với giai cấp vô sản về phương diện họ là những người tổ chức thông minh và có kinh nghiệm trong các xí nghiệp hết sức to lớn thực sự đảm nhận được việc cung cấp sản phẩm cho hàng chục triệu người” (Lênin, 2005b, 259). Xét trên ý nghĩa vật chất, kinh tế, thì chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là “phòng chờ” để đi đến chủ 328
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nghĩa xã hội, và nếu không đi qua phòng chờ ấy thì cũng không thể bước vào ngưỡng cửa của chủ nghĩa xã hội. Do đó, nhiệm vụ của chính quyền Xô - viết là áp dụng các biện pháp kinh tế nhằm khai thác, thúc đẩy thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa tiến lên thành khuynh hướng chủ đạo; đồng thời, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của các thành phần kinh tế khác để tạo đầy đủ điều kiện về kinh tế cho chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần kế thừa, tiếp thu những tinh hoa, những giá trị quý báu của nhân loại, nhất là những thành tựu đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. Sự phát triển của lịch sử là một quá trình phủ định biện chứng, không có chế độ nô lệ cổ đại thì không có chủ nghĩa tư bản hiện đại và không có chủ nghĩa tư bản hiện đại thì chủ nghĩa xã hội cũng không có. Chủ nghĩa xã hội là kết quả phát sinh ra từ trong tổng số những kiến thức mà loài người đã đạt được, đã tích luỹ từ mọi thời đại lịch sử. Mặt khác, chủ nghĩa tư bản với những “đỉnh cao” về văn hoá, khoa học, kỹ thuật và công nghệ,... đã tạo tiền đề quan trọng, cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. Do vậy, những người cộng sản là phải biết “biến toàn bộ cái vốn vô cùng phong phú về văn hoá, về tri thức và về kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản đã tích luỹ lại, cái vốn mà về mặt lịch sử tất phải cần thiết cho chúng ta, - biến tất cả cái đó từ chỗ là công cụ của chủ nghĩa tư bản thành công cụ của chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 2005c, 472), coi đó là những “viên gạch”, những “vật liệu” quý báu mà những người cộng sản phải biết sử dụng nó vào quá trình phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Những thành tựu khoa học, kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản đạt được cũng chính là sản phẩm của lịch sử để lại và kế thừa, do đó “không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại… thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được” (Lênin, 2005c, 368). Với điểm xuất phát thấp, lạc hậu cùng những hạn chế về tri thức lý luận, khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý,... tức là thiếu những cái cơ sở cần thiết cho chủ nghĩa xã hội, mà nếu không lấp đầy sự thiếu hụt ấy, chủ nghĩa xã hội sẽ chỉ là ước muốn chứ không thể thành hiện thực, V.I.Lênin yêu cầu phải “dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô - viết + trật 329
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG tự đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc.etc. + + = ∑ = chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 2005c, 684). Thứ tư, xây dựng văn hoá vô sản, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển của xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội không nằm ngoài việc xây dựng một nền văn hoá phát triển cao, xây dựng được nền văn hóa vô sản. Văn hoá vô sản không phải là những tư tưởng đặc biệt nào “mà là chủ nghĩa Mác” và không phải là chế tạo một nền vô sản mới mà là “phát triển những kiểu mẫu ưu tú, những truyền thống ưu tú, những kết quả tốt nhất của nền văn hóa hiện tồn, xét theo quan điểm thế giới quan của chủ nghĩa Mác và những điều kiện của đời sống và cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trong thời đại chuyên chính vô sản” (Lênin, 2005a, 548). Đó là nền văn hóa chân chính, văn hóa dựa trên sự công bằng xã hội và mang đến tự do, hạnh phúc cho con người. V.I.Lênin chỉ rõ: “thế giới quan Mác - Xít là biểu hiện duy nhất đúng của những lợi ích, của những quan điểm và nền văn hoá của giai cấp vô sản cách mạng” do ở chỗ “chủ nghĩa Mác không những đã không vứt bỏ những thành tựu hết sức vĩ đại của thời đại tư sản, mà trái lại, còn tiếp thu có phê phán tất cả những gì là quý báu trong tư tưởng và văn hoá của loài người từ hơn hai nghìn năm nay, nên chủ nghĩa Mác, về mặt là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản cách mạng, đã có một tầm quan trọng lịch sử. Chỉ có lao động tiến hành trên cơ sở đó và theo hướng đó, được cổ vũ bằng kinh nghiệm của chuyên chính của giai cấp vô sản, là giai đoạn cuối cùng của cuộc đấu tranh của nó chống mọi sự bóc lột, mới có thể coi là sự phát triển của nền văn hoá thực sự vô sản” (Lênin, 2005a, 400). Và chỉ có xây dựng được nền văn hoá vô sản mới có thể thể giải quyết được mọi vấn đề trong đời sống từ kinh tế đến chính trị, xã hội và con người. Để xây dựng văn hoá vô sản, “phải thấm nhuần tinh thần đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu của nền chuyên chính vô sản, tức là nhằm lật đổ giai cấp tư sản, xoá bỏ các giai cấp, xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột người” (Lênin, 2005a, 339). Bên cạnh đó, quá trình xây dựng nền văn hoá mới - xã hội chủ nghĩa phải biết tiếp thu, kế thừa các giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại một cách 330
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” có chọn lọc, bởi V.I.Lênin cho rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa “người Cộng sản phải biết tiếp thu những di sản văn hóa của nhân loại, phải tiếp thu toàn bộ khoa học kỹ thuật, tất cả những kiến thức, tất cả những nghệ thuật, nếu không có những cái đó chúng ta không thể xây dựng được xã hội Cộng sản” (Lênin, 2005b, 149). Và “người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra” (Lênin, 2005a, 362). Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, - một thời kỳ đặc biệt với “những cơn đau đẻ kéo dài”...; “... toàn bộ thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, các bậc thầy của chủ nghĩa xã hội không phải đã nói một cách vu vơ và không phải đã nhấn mạnh một cách uổng công về “những cơn đau đẻ kéo dài” khi sinh một xã hội mới; hơn nữa, xã hội mới ấy cũng lại là một cái trừu tượng chỉ có thể thể hiện trong đời sống bằng cách trải qua hàng loạt hoạt động cụ thể, muôn vẻ, không hoàn bị, nhằm sáng tạo một nhà nước xã hội chủ nghĩa thế này hay thế khác” (Lênin, 2005c, 255). Bằng thực tế lịch sử của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên trên thế giới ở nước Nga Xô - viết những năm sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đã làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề quan trọng trong lý luận “phát triển rút ngắn” với các phương thức “quá độ gián tiếp” áp dụng cho nước Nga và các nước lạc hậu, tiền tư bản ở phương Đông. Có thể thấy quá độ gián tiếp là một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt, là tìm tòi và áp dụng những mắt xích trung gian, những giải pháp quá độ, bắc những nhịp cầu nhỏ, thích hợp, vừa tầm với khối quần chúng tiểu nông đông đảo, từ từ, từng bước tới chủ nghĩa xã hội. 2.2. Ý nghĩa tư tưởng của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội Tư tưởng của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội đã kế tục, bổ sung, phát triển, làm sâu sắc và phong phú hơn học thuyết Mác, nhờ vận dụng nó vào phân tích chế độ xã hội của nước Nga đầu thế kỷ XX trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử thế giới đương đại. Tư tưởng của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tư bản kém phát triển hoặc chưa kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn không chỉ trong phạm vi nước Nga, mà còn có ý nghĩa đối với các đảng cộng sản trên toàn thế giới. Nó cung cấp những tri thức khoa học và kinh nghiệm hữu ích trong việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở những nước lạc hậu, tiền tư bản. Chính vì vậy, nó cũng có ý nghĩa 331
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thời đại và thời sự đối với phong trào cộng sản quốc tế, là kim chỉ nam cho các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong việc xây dựng những bước quá độ phù hợp với thực tiễn mỗi nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản vẫn đang tồn tại, còn khả năng phát triển và ảnh hưởng, chi phối không nhỏ trong đời sống quốc tế. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã lâm vào khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội không còn tồn tại với tư cách là một hệ thống. Việt Nam là một số rất ít trong số các quốc gia dân tộc trên thế giới kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Dù như vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn là xu hướng tất yếu của lịch sử, phù hợp xu thế phát triển của thời đại, ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Khẳng định lý luận của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện và bối cảnh hiện nay là khẳng định tinh thần khoan dung giá trị của V.I.Lênin, trong đó bao hàm sự kế thừa di sản của lịch sử, trực tiếp nhất là từ trình độ phát triển và những thành tựu của chủ nghĩa tư bản đã đạt được nhờ tích luỹ tri thức và kinh nghiệm trong suốt mấy thế kỷ cho tới ngày nay. Đó là sự khẳng định quan điểm Mác - xít về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản với điểm xuất phát thấp; là một quá trình lâu dài với nhiều quanh co và phức tạp, do đó phải đi qua những khâu trung gian, áp dụng nhiều hình thức quá độ nhỏ, những giải pháp trung gian, quá độ, từng bước để chủ nghĩa xã hội trưởng thành dần dần cho đến khi đạt được trình độ phát triển điển hình cho phép chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản trên tất cả các lĩnh vực. 3. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ QUÁ ĐỘ GIÁN TIẾP LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI Sự phát triển của xã hội Việt Nam là một bộ phận trong dòng chảy chung của thời đại. Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường phát triển cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là quy luật phát triển xã hội vừa phổ biến vừa đặc thù ở Việt Nam - quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội - quá độ từ một xã 332
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” hội thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam một tất yếu khách quan, là khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi ách bóc lột, áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư bản, để bảo đảm độc lập cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho tất cả mọi thành viên trong xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam là “sự lựa chọn của chính sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 10) và chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất giải phóng dân tộc Việt Nam, là sự khẳng định trong hiện thực giá trị của một mô hình “cách mạng đến nơi”. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một sự nghiệp lâu dài, khó khăn, phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xuất phát điểm đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất thấp, trải qua giai đoạn chiến tranh ác liệt; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại; cùng với những tư tưởng chủ quan, nóng vội chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội,… Quán triệt quan điểm của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ và xuất phát từ tình hình thực tiễn Việt Nam, tại Đại hội VI (1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là bước nhảy mang tính chất đột phá, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, nóng vội. Trên cơ sở đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự “quá độ gián tiếp”. Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 84). Như vậy, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, song phải kế thừa, chắt lọc 333
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG những thành tựu, tinh hoa văn minh mà nhân loại đã đạt được ngay cả trong thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 35 năm đổi mới (1986 - 2022), di sản của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội được Đảng ta tiếp tục vận dụng trên những khía cạnh sau: Thứ nhất, củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản đối với quá trình quá độ gián tiếp đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là nhân tố chủ quan quan trọng nhất quyết định sự thành bại của cách mạng xã hội chủ nghĩa khi tiếp cận từ góc độ chủ thể. Không phải ngẫu nhiên, trong sự nghiệp đổi mới cần không ngừng “nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 26-27). Đồng thời, phát huy hơn nữa vai trò quản lý xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước không những là nhân tố quan trọng, công cụ hữu hiệu thúc đẩy các quá trình kinh tế - xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước, do đó cần được xây dựng và tổ chức theo hướng “... trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 27). Thứ hai, phát triển kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là thành tựu lý luận cơ bản của Đảng ta qua 35 đổi mới (1986-2022), là sự bổ sung và phát triển tư duy, quan niệm của V.I.Lênin về các biện pháp kinh tế trong thời kỳ quá độ từ nước tiền tư bản, hoặc chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với 334
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 128-129). Trong đó, cần tổ chức và vận hành kinh tế tư bản nhà nước một cách hiệu quả, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế khác, tạo động lực để các chủ thể tham gia vào đời sống kinh tế một cách có hiệu quả; giải quyết tốt, hài hòa mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; đẩy mạnh hợp tác, hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới bởi toàn cầu hoá giờ đây là xu thế tất yếu. Thứ ba, kế thừa, tiếp thu tinh hoa dân tộc và trí tuệ của thời đại trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội theo cách hiểu của V.I.Lênin là tổng số giá trị phổ biến của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp giải phóng con người. Do đó, thành quả văn minh nhân loại trên mọi lĩnh vực cần được tiếp thu, sử dụng với tinh thần “phủ định biện chứng” góp phần xây dựng cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa,... vững chắc cho chủ nghĩa xã hội. Văn kiện XIII chỉ rõ: “Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 147), để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, là nguồn lực nội sinh và là động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Thứ tư, tập trung phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, động lực của sự phát triển. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 47). Xây dựng và phát triển hệ giá trị con người Việt Nam với chuẩn mực tốt đẹp là điều kiện, tiền đề để góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững. 335
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 4. KẾT LUẬN Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chủ nghĩa tư bản được dự báo như một khả năng thời C.Mác và Ph.Ăngghen, được thực hiện và trở thành hiện thực thời V.I.Lênin. Cống hiến của V.I.Lênin là ở chỗ làm sáng tỏ trên những vấn đề lý luận căn bản nhất của con đường “phát triển rút ngắn”, của phương thức “quá độ gián tiếp” lên chủ nghĩa xã hội mà trước đó C.Mác và Ph.Ăngghen mới chỉ đưa ra những phác thảo có ý nghĩa dự báo. Đồng thời, lý luận đó được V.I.Lênin và những người cộng sản Xô - viết trong buổi đầu sinh thành chủ nghĩa xã hội đã áp dụng thành công và có hiệu quả, tạo ra sức sống mới của chủ nghĩa xã hội, khẳng định một xu thế phát triển tích cực đầy triển vọng của chủ nghĩa xã hội đầu thế kỷ XX. Vận dụng sáng tạo những quan điểm của V.I.Lênin cùng với những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng khẳng định, Việt Nam hiện nay đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Để đạt được điều đó Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để vận dụng sáng tạo, phát triển vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2002a). Toàn tập (Vol. 19). Chính trị quốc gia. [2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2002b). Toàn tập (Vol. 23). Chính trị quốc gia. 336
  14. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [6]. Lênin, V. I. (2005a). Toàn tập (Vol. 41). Chính trị quốc gia Sự thật. [7]. Lênin, V. I. (2005b). Toàn tập (Vol. 43). Chính trị quốc gia Sự thật. [8]. Lênin, V. I. (2005c). Toàn tập (Vol. 39). Chính trị quốc gia Sự thật. [9]. Lênin, V. I. (2005d). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia Sự thật. [10]. Lênin, V. I. (2005e). Toàn tập (Vol. 40). Chính trị quốc gia Sự thật. 337
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0