intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan niệm vũ trụ và nhân sinh trong thơ ca dân gian Cao Lan

Chia sẻ: ViArtemis2711 ViArtemis2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

46
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dân tộc Cao Lan có một truyền thống thơ ca dân gian rất phong phú, nhưng đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quan niệm vũ trụ, nhân sinh của đồng bào. Quan niệm về vũ trụ, thời gian và không gian của người Cao Lan từ thuở xa xưa chất phác ngây thơ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan niệm vũ trụ và nhân sinh trong thơ ca dân gian Cao Lan

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-0066<br /> Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 10, pp. 114-121<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> QUAN NIỆM VŨ TRỤ VÀ NHÂN SINH TRONG THƠ CA DÂN GIAN CAO LAN<br /> <br /> Đặng Thị Hường<br /> Trường Trung học phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Tuyên Quang<br /> <br /> Tóm tắt. Dân tộc Cao Lan có một truyền thống thơ ca dân gian rất phong phú, nhưng đến<br /> nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quan niệm vũ trụ, nhân sinh của đồng<br /> bào. Quan niệm về vũ trụ, thời gian và không gian của người Cao Lan từ thủa xa xưa chất<br /> phác ngây thơ. Còn quan niệm nhân sinh của đồng bào lại rất đa dạng thể hiện qua các vấn<br /> đề: sống chết, tốt xấu, thiện ác, tín ngưỡng, đạo đức, lao động, âm dương... Tất cả tạo nên<br /> những đặc điểm riêng về tâm hồn tư tưởng của dân tộc Cao Lan, phản ánh trong thơ ca dân<br /> gian Cao Lan.<br /> Từ khóa: Dân tộc Cao Lan, thơ ca dân gian, quan niệm vũ trụ và nhân sinh.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Thơ ca dân gian Cao Lan mang trong mình thế giới tâm hồn, tư tưởng của dân tộc Cao Lan<br /> thể hiện bằng các quan niệm về vũ trụ, không gian thời gian; quan niệm nhân sinh và quan niệm<br /> nghệ thuật, tất cả đều thể hiện trong ý thức của người Cao Lan. Quan niệm về vũ trụ nhân sinh<br /> trong thơ ca dân gian Cao Lan thống nhất với quan niệm vũ trụ nhân sinh trong các truyện cổ dân<br /> gian Cao Lan. Truyện cổ dân gian kể về nguồn gốc vũ trụ thông qua các hình tượng “Ông Trời<br /> Bà Đất ”, những quan niệm thiện ác của đồng bào qua các nhân vật cổ tích như truyện: “Nàng ba<br /> lấy chồng rắn”, “Sằm Sừ”, “Chàng Út của người trời”, “Vì sao kiêng thịt rùa”. . . Thơ ca dân gian<br /> Cao Lan cũng phản ánh nhận thức chung đó, nhưng có sắc thái riêng thông qua cách biểu đạt bằng<br /> ngôn ngữ lời ca mang tính tạo hình và biểu cảm từ môi trường sinh hoạt văn hóa Cao Lan.<br /> Cùng nằm trong ý thức nghệ thuật của thơ ca dân gian, nhưng các quan niệm về vũ trụ,<br /> nhân sinh và nghệ thuật cũng thể hiện những bình diện nhận thức khác nhau. Các quan niệm đó<br /> hài hòa thống nhất với nhau qua nội dung và hình thức biểu hiện của thơ ca dân gian Cao Lan.<br /> <br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Quan niệm về vũ trụ, không gian thời gian<br /> Nói đến thơ ca dân gian phải kể đến thế giới quan của người xưa về vũ trụ, không gian thời<br /> gian. Gần gũi với các dân tộc khác, khi nhận thức về buổi bình minh của loài người, người Cao<br /> Lan quan niệm về vũ trụ cũng hồn nhiên, chất phác thơ ngây. Trong truyện Thần Trụ trời, đồng bào<br /> Kinh cho rằng nhờ có vị Thần đào đất đắp đá dựng cột chống trời, mới có không gian cho mặt đất,<br /> <br /> Ngày nhận bài: 15/4/2015 Ngày nhận đăng: 10/9/2015<br /> Liên hệ: Đặng Thị Hường, e-mail: Dangthuhuong_tq2000@yahoo.com<br /> <br /> <br /> <br /> 114<br /> Quan niệm vũ trụ và nhân sinh trong thơ ca dân gian Cao Lan<br /> <br /> <br /> loài người mới có đủ ánh sáng cho môi trường sống. Cùng cắt nghĩa về cội nguồn trời đất, đồng<br /> bào Thái quan niệm: “Ông Chu Cún kéo trời, trời rộng mênh mông. Bà Chu Cún kéo đất, đất rộng<br /> man mác. Đồng bào Mông lại cho rằng: Ngày xửa ngày xưa, bà Chày sinh ra mặt đất. Ông Chày<br /> sinh ra bầu trời. . . [6;89]. Vũ trụ theo đó là do hai người đàn ông và đàn bà tạo lập nên. Quan niệm<br /> kết hợp nam nữ, âm dương là cội nguồn của mọi sinh thành ra trời đất, xuất hiện phổ biến trong<br /> văn học dân gian các dân tộc. Sự khác nhau chỉ thể hiện ở sản phẩm tưởng tượng đa dạng phong<br /> phú của mỗi dân tộc mà thôi. Thần thoại của người Cao Lan cho rằng: Vũ trụ có chín tầng trời với<br /> một triều đình trị vì thiên hạ gọi là thiên đình (Thin tềnh). Ông Trời (Ngọc Hoàng thượng đế) nắm<br /> trong tay các vị thần: sấm, sét, mưa, gió. . . và có bốn đại thần Đông, Tây, Nam, Bắc:<br /> Đông phương hành ôn cho khang khái/ Nam phương là khánh triện công minh.<br /> Phương Tây hành ôn lưu hựu trung/ Phương Bắc là thánh sao Thái dương [12;269].<br /> Các vị thần linh đó mang trong mình tất cả những quyền năng tác động xuống thế gian.<br /> Theo đồng bào, ban đầu có hai người: một người đàn ông và một người đàn bà đã sinh ra từ hòn đá<br /> tròn to, ấy chính là Ông Trời và Bà Đất. Ông Trời và Bà Đất là hình ảnh đầu tiên trong vũ trụ tạo<br /> lập ra trời đất và hòa hợp với nhau chi phối sự tồn tại của thiên nhiên và cuộc sống muôn loài. . .<br /> Ngoài thế giới của hiện thực, thơ ca dân gian Cao Lan mang trong mình cả một thế giới Thần Phật<br /> linh thiêng. Mỗi vị thần một chức năng riêng liên quan đến hoạt động của con người. Người Cao<br /> Lan giải thích nguồn gốc, quyền năng các vị thần bằng trí tưởng tượng kỳ thú, hồn nhiên. Ví dụ<br /> như Thần Nông (Màng Sằn Nồng), chi phối cuộc sống người lao động về sự no đói, mưa gió, mùa<br /> màng, cây cối, hoa quả. Công việc của thần Nông là “cho mưa cho nắng, cho ngày cho đêm”. Sức<br /> mạnh của Thần được diễn tả: “Tay phải cầm đèn mặt trời, giơ lên soi từ sáng đến tối. . . , Tay trái<br /> cầm đèn mặt trăng, giơ lên soi từ tối đến sáng” [9;153]. Lai lịch của vị thần này được kể như sau:<br /> ... Ta cũng phải xưng danh chứ/Cha ta là ông Trời to nhất/ Mẹ ta - bà Đất rộng thênh thang/ Ông<br /> bà gặp nhau thuở hồng hoang/ Sinh ra ta từ vạn vạn năm. . . [9;152]. Trong nhận thức của người<br /> Cao Lan xưa, thế giới thần linh rất gần gũi, can dự vào các hoạt động sinh tồn của con người, đó<br /> không phải là lực lượng quá siêu nhiên xa lạ. Tư duy thần thoại đã ăn sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ<br /> của người Cao Lan phản ánh trong thơ ca dân gian. Ví dụ bài ca kể về câu nói của thần Thiên Lôi<br /> (Màng Dừn Tạy): . . . Thiên hạ cần mưa ta cho mưa/Cấy cày điền trang lúa tốt tươi/Thiên hạ cần<br /> nắng ta cho nắng. . . [9;150]. Đây là vị thần thực thi các mệnh lệnh của thiên đình, nơi tập trung<br /> mọi uy quyền của thần thánh.<br /> Cách giải thích về nguồn gốc loài người của đồng bào Cao Lan cũng có mô típ tương đồng<br /> với các dân tộc khác, con người đều được sinh ra từ một vật thiêng nào đó, nhưng vẫn có những<br /> nét riêng. Với dân tộc Kinh, con người được sinh ra từ một bọc trứng trong Truyện đẻ trăm trứng,<br /> đồng bào Mông cho rằng con người sinh ra từ một bọc thịt theo truyền thuyết Chử Lầu, người Dao<br /> cho con người sinh ra từ quả bầu, nhưng người Cao Lan lại cho rằng dân tộc mình sinh ra từ đá:<br /> Thuở trời đất mới sinh/ Nước dâng tràn ngập đất. . . Cuối cùng nước cạn rút/ Mặt đất nổi núi đồi/Từ<br /> hòn đá tròn to/ Vỡ ra hai con người/Họ dựng cây chọc lỗ/ Trồng hạt nhỏ chín vàng/ . . . Sinh ra rất<br /> nhiều người/ Chia thành bản sinh sống. . . [1;27]<br /> Và theo đồng bào, để cai quản được cuộc sống vô cùng phức tạp của các con cháu, Ông Trời<br /> đó lên chín tầng trời tạo lập thiên đình, Bà Đất ở lại cai quản việc làm ăn của con cháu ở mặt đất. . .<br /> Điều đó cho ta càng hiểu thêm ý kiến rất hay của Mác bàn về văn học thời cổ đại: Thần thoại là thi<br /> ca của người nguyên thủy. Quan niệm về vũ trụ và loài người của các dân tộc nói chung và người<br /> Cao Lan nói riêng, đều phản ánh cái nhìn ngây thơ của người xưa trước thế giới thiên nhiên nhiều<br /> bí ẩn, nhưng được lồng vào đó ý thức cội nguồn của giống nòi và sự hòa hợp dân tộc.<br /> Trong thơ ca dân gian Cao Lan, vấn đề thời gian không gian thường gắn với các họat động<br /> của con người và tạo vật qua các trạng huống nhân sinh và trạng thái vận động muôn màu muôn<br /> <br /> 115<br /> Đặng Thị Hường<br /> <br /> <br /> vẻ của thiên nhiên. Trong bài ca dài tương truyền của nàng Lau Slam (Lưu Ba) sáng tác, có nhiều<br /> khúc ca nói về cuộc hành trình đêm ngày của chàng trai đi tìm hạnh phúc với bao gian nan thử<br /> thách phải vượt núi, băng sông, qua rừng và tuyết giá:<br /> Anh lại đi qua núi tuyết đầu<br /> Qua núi qua sông chảy dòng dòng<br /> Qua suối rừng nhiều sinh bệnh<br /> Chết đi sống lại mới phong lưu [12;99].<br /> Con người phải vượt qua tận cùng gian khổ mới tìm ra hạnh phúc, không gian ở đây là hình<br /> tượng những trở lực khắc nghiệt của thiên nhiên xuất hiện trong hành trình cuộc sống của con<br /> người.<br /> Cũng như cảm quan của các dân tộc khác, thơ ca dân gian Cao Lan hay nói tới thời gian,<br /> không gian bằng hình tượng nghệ thuật. Trong Sình ca 12 đêm hát, cho thấy sự tồn tại và vận động<br /> không ngừng của tạo vật và con người ở mọi lúc mọi nơi. Thời gian, không gian cũng được biểu<br /> hiện bằng những hình ảnh gần gũi, trực cảm của con người. Đó là hình ảnh của núi non, sông biển,<br /> trời mây, đồng ruộng, bản làng, gia đình, lễ hội, gần xa, sáng tối, ngày đêm, năm tháng, mùa màng,<br /> sinh nở, trẻ già. Thời gian với không gian hài hòa thống nhất với nhau trong sự xoay vần của mưa<br /> nắng, bão lụt, núi sông cùng sự đổi thay của cuộc sống muôn màu muôn vẻ trước sự cảm nhận qua<br /> giác quan con người. Đó là tiền đề tạo nên những bức tranh nghệ thuật sinh động của thơ ca dân<br /> gian Cao Lan.<br /> <br /> 2.2. Quan niệm về nhân sinh<br /> Người Cao Lan có hẳn một hệ thống quan niệm về sống chết, thiện ác, giàu nghèo, tốt xấu,<br /> sang hèn, sướng khổ, vinh nhục, số phận. . . Đó là những quan niệm giàu chất triết lí được rút ra từ<br /> đời sống xã hội rất đa dạng, phong phú thể hiện rõ trong tục ngữ ca dao, Sình ca, ca lễ... mang dấu<br /> ấn về phong tục tập quán, tín ngưỡng và cảm quan nhận thức riêng. Đồng bào cho rằng chết chưa<br /> phải là hết mà là bước vào một thế giới khác. Trong thờ cúng gia tiên, người Cao Lan quan niệm<br /> “Âm dương nhị lộ” nghĩa là: Âm dương song hành, vì vậy họ coi sống chết như qui luật tuần hoàn<br /> của tạo hóa, con người và tạo vật trong cuộc sống không ngừng biến đổi:<br /> Đời người trăm tuổi có mấy ai<br /> Hoa nở núi cao khó tươi được trăm ngày<br /> Từng thấy mặt đất cánh hoa rụng<br /> Muốn xem hoa tàn lên núi theo mây [8;45]<br /> Người Cao Lan quan niệm khi còn sống, con người ta phải tu nhân tích đức, chết đi mới<br /> được thờ cúng và được lên thiên đàng. Con người sống thác có mối quan hệ nhân quả, âm dương.<br /> Người Cao Lan có bài ca:<br /> Vợ chết đất Bắc vẫn có tiếng<br /> Người chết được tổ lưu<br /> Người tốt chết đi được thờ tổ<br /> Người tốt chết đi được lên thiên đàng [12;104].<br /> Tuy nhiên, bên cạnh thế giới “lí tưởng” sau khi chết, đồng bào vẫn rất coi trọng cuộc sống<br /> hiện thực trần gian và luôn có ý thức hành động hữu ích về mọi điều diễn ra trong cuộc sống hiện<br /> tại. Quan niệm sống hữu ích được thể hiện bằng những câu ca giàu triết lí nhân sinh:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 116<br /> Quan niệm vũ trụ và nhân sinh trong thơ ca dân gian Cao Lan<br /> <br /> <br /> Đã chót sinh ra đúng cõi đời<br /> Thế gian phải sống hỡi ai ơi<br /> Sao cho xứng đáng ông trời đúc<br /> Mà khỏi hoài công đất dưỡng nuôi [1;38].<br /> Cách ứng xử và đạo lí làm người của đồng bào Cao Lan được thế hiện rất rõ trong thơ ca<br /> dân gian ý thức về cội nguồn. Người Cao Lan có câu ca “nhập tâm” mượn hình ảnh dây bầu dây<br /> bí để thức tỉnh con cháu, sống phải luôn nhớ về nguồn cội, như: “Hau luàn lươn lây láy vật cơ”.<br /> Nghĩa: Dây bò đến đâu, ngọn cũng quay lại nhìn gốc [9;206].<br /> Có bài ca thể hiện rõ quan niệm về mối ràng buộc giữa con người với con người, con người<br /> với thiên nhiên trong cuộc sống và cách ứng sử của người Cao Lan:<br /> Ai nuôi con mới biết lòng cha mẹ<br /> Ai làm quan thời phải nhớ đất làng<br /> Ai làm ruộng thì phải nhớ đến nước<br /> Ai lên núi thì phải nhớ Sơn thần [11;139].<br /> Theo quan niệm của người Cao Lan, vũ trụ có qui luật vận hành riêng: “Lục giáp tuần hoàn”<br /> nghĩa là cứ 60 năm hàng can và hàng chi lại quay trở lại, và trong 60 năm ấy có hòa hợp và có xung<br /> khắc, chia li. Qui luật vận động âm dương ngũ hành trong vũ trụ theo quan niệm của Kinh dịch,<br /> một hệ thống triết học cổ đại ở phương Đông đã chi phối nhiều hoạt động của con người trong đó<br /> có quan niệm về hôn và hạnh phúc gia đình, phản ánh rõ nét trong thơ ca dân gian Cao Lan:<br /> Phu thê là mệnh thuỷ với hoả/ Vợ chồng cãi cọ suốt ngày đêm. . . Phu thê là mệnh hoả với<br /> thổ/ Quyền cao chức trọng như quan đương thời... [1;55]<br /> Xuất phát từ quan niệm này, mặc dù người Cao Lan đề cao tình yêu tự do của nam nữ thanh<br /> niên, hàng năm xuân về các bản làng tổ chức cho thanh niên hát giao duyên nhưng việc hôn nhân<br /> cuối cùng vẫn do cha mẹ quyết định. Họ tin vào số mệnh, nên không ít lứa đôi mang tâm lí an phận<br /> trong đời sống. Có lẽ vậy thơ ca dân gian Cao Lan ít nói đến những xung đột trong gia đình như<br /> thơ ca dân gian dân tộc Kinh. Đồng bào Kinh có những bài ca dao thật phiền não, khôi hài, chẳng<br /> hạn như:<br /> Cái cò là cái cò quăm<br /> Mày hay đánh vợ mày nằm với ai<br /> Có đánh thì đánh sớm mai<br /> Đừng đánh chập tối, không ai cho nằm?<br /> Người Cao Lan từ xa xưa đã có quan niệm hạnh phúc gia đình là một vợ một chồng nên có<br /> câu ca:<br /> Nhà muốn giàu có thì phải dùng hai cày<br /> Nhà muốn bại ngay thì dùng hai vợ [2;176].<br /> Người Cao Lan quan niệm về cái thiện và cái ác theo phương thức: Thiện ác song tồn, phản<br /> ánh trong thơ ca dân gian, có tác dụng thức tỉnh con người nên biết yêu thương đồng loại nhưng<br /> cũng biết cảnh giác với mặt trái từ trong đồng loại vì thế có câu ca:<br /> Cái tốt đẹp chẳng ra khỏi cửa,<br /> Cái ác cái xấu thì truyền lửa muôn nơi [2;173].<br /> Người Cao Lan tin vào thuyết “thiên mệnh” con người sống phụ thuộc vào mệnh trời, ông<br /> Trời là đấng thiêng liêng tối cao ngự trị ở Thiên đình có khả năng nhìn thấu thế gian và hiểu lẽ<br /> sinh tồn, có thể thực hiện sự công bằng trong cõi nhân gian, nên có câu ca truyền lại:<br /> <br /> <br /> <br /> 117<br /> Đặng Thị Hường<br /> <br /> <br /> Kẻ ác người sợ giời không sợ,<br /> Người thiện khinh hiền giời có khinh đâu [2;174].<br /> Tính chân thực là phẩm chất từ lâu vốn được đồng bào miền núi rất đề cao. Với đồng bào<br /> Cao Lan cũng vậy, sống chân thành và đồng tâm hợp ý là lẽ sống niềm tin và hạnh phúc, nên có<br /> câu:<br /> Một người ăn ở hai lòng, có tiền không mua được cái kim,<br /> Hai người mà một lòng, không tiền mua được vàng [4;152].<br /> Người Cao Lan đề cao sự chân thành trong đời sống và tình yêu. Có khi quan niệm ấy được<br /> bộc bạch qua cảm nghĩ của người thiếu nữ:<br /> Muốn ăn quả thì trèo lên cây<br /> Gió thổi xuống đất ăn không ngon<br /> Muốn tìm hiểu em, giáp mặt nói<br /> Lấy người làm mối rồi họ biết [12;332].<br /> Theo đồng bào lời nói hay đẹp có thể làm đổi thay cái nhìn cuộc sống:<br /> Một lời hay quả ớt cay cũng ngọt<br /> Một lời dở quả vả chát thành chua. [6;22]<br /> Trong đời sống, lời nói “ngoa” cũng đưa đến những hậu quả khôn lường, đồng bào đã chỉ<br /> ra sai phạm đó bằng lối so sánh trực cảm, hồn nhiên: Cây chết vì tham lắm quả/ Người chết vì cái<br /> miệng nói ngoa [9;205].<br /> Quan niệm đó có điểm tương đồng với ca dao của đồng bào Kinh khi bàn về văn hóa giao<br /> tiếp giữa người với người: Lời nói không mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.<br /> Đồng bào Cao Lan cũng có cả hệ thống quan niệm về giàu - nghèo và phép ứng xử phải đạo<br /> của con người với con người trong cuộc sống và quan niệm: cuộc sống của tạo vật và con người<br /> luôn biến đổi, con người cần có ý thức về sự đổi thay đó để biết sống cho có ý nghĩa: Giàu sang<br /> rồi có ngày hết của/ Hoa đẹp cũng có ngày héo khô [7;48].<br /> Có những câu ca cho thấy: giàu, nghèo tạo nên tính cách con người: Có tiền người chân<br /> thật,/ Không tiền người thật hóa hư [2;172].<br /> Có những câu ca mang màu sắc thực, hư theo quan niệm định số như sau: Sống còn là do<br /> bản mệnh/ Giàu sang định ở trời cho [2;174].<br /> Nhưng cũng có câu là sự chiêm nghiệm từ thực tế: Người giàu có tính kế lâu dài,/ Người<br /> khó kế ngắn sơ sài việc ngay [2;174].<br /> Trái lại, có những câu ca thể hiện sự an phận thủ thường: Người bần khó cũng một đời,/<br /> Người sang quý cả đời thêm lo [2;173].<br /> Một dân tộc thiểu số đã trải nghiệm nhiều gian nan trong cuộc thiên di đi tìm đất sống qua<br /> những cuộc xung đột về quyền lợi và sắc tộc để tồn tại, người Cao Lan rất quan tâm đến đức tính<br /> kiên nhẫn, khiêm nhường của con người và để lại nhiều bài học trong các câu ca giàu triết lí nhân<br /> sinh: Nhẫn tâm được một giờ tri kỷ/ Miễn được trăm ngày khỏi năn nỉ lo âu [2;173].<br /> Có khi là kinh nghiệm tích lũy được khắc sâu: Nuôi con phòng về già,/ Giữ thóc đầy nhà<br /> phòng khi mất mùa [2;174].<br /> Con người biết nhẫn nại sẽ tránh được rủi ro và những điều đáng tiếc. Quan niệm đó có sắc<br /> màu Phật giáo: Được nhẫn mà là nhẫn, được nại mà nhẫn nại./ Chẳng nhẫn chẳng biết nại, việc<br /> bé thành việc to [2;175].<br /> Người Cao Lan rất coi trọng ngày sinh tháng đẻ, họ đặt thành những bài ca niên lịch thời<br /> <br /> <br /> 118<br /> Quan niệm vũ trụ và nhân sinh trong thơ ca dân gian Cao Lan<br /> <br /> <br /> sinh để đoán vận may, vận rủi của con người từ lúc sinh ra (tiền vận) cho đến khi trưởng thành<br /> (trung vận) và khi về già (hậu vận). Đơn cử bài ca sau về thời sinh hợp vận cầm tinh con rồng:<br /> Tháng ba thìn sinh người thuộc rồng. . . / Thực là con rồng đã ngập nước [12;240].<br /> Đồng thời cũng có người thời sinh được xem là “nghịch vận” cầm tinh con khỉ nên nghèo<br /> khó lận đận, đồng bào có bài ca sau: Tháng bảy thân sinh nhân thuộc khỉ.../ Đêm đến ngủ ở trong<br /> hốc cây [12;241].<br /> Người Cao Lan luôn có ý thức về sự ràng buộc con người với con người về tình cảm, nghĩa<br /> vụ và quyền lợi mang tính triết lý nhân quả sâu xa, hài hòa trong lời ca tiếng hát: . . . Nước không<br /> chờ nước thì suối cạn/ Mây không chờ mây thì mây tan [12;244].<br /> Người Cao Lan đề cao ý nghĩa của việc giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ, trong đó có<br /> những câu ca như:<br /> Đẻ con trai không dạy được, không bằng nuôi con lừa,<br /> Đẻ con gái không dạy được, không bằng nuôi con lợn [4;168].<br /> Người Cao Lan cũng hay nói đến tình cảm và đạo lí gia đình của con cái với cha mẹ một<br /> cách tự nhiên: Làm người không được chê mẹ xấu,/ Chó nuôi không được cắn gấu chủ nhà [2;176].<br /> Người Cao Lan có nhiều bài ca đề cao công sức sinh thành của cha mẹ, trong đó có những<br /> câu như: Ca thời phụng chúc cho cha mẹ/ Bố mẹ sinh con ra đẹp như hoa. . . [12;156]<br /> Người Cao Lan quan niệm về hạnh phúc trong hôn nhân và gia đình có liên quan đến lao<br /> động, đồng bào có câu ca:<br /> Muốn có nhà cao, phải đào từng hòn đất.<br /> Muốn có vợ đẹp con khôn, phải tài giỏi hơn vợ [5;155].<br /> Song, hoạt động của con người phải thể hiện qua giới tính, hạnh phúc mỗi gia đình là ở sự<br /> phân công lao động, đồng bào có những câu ca về thiên chức của vợ chồng trong cuộc sống: Đàn<br /> ông làm nhà, đàn bà làm vải/ Nhà rách chê chồng, quần áo rách chê vợ [1;11].<br /> Trong hệ thống quan niệm nhân sinh, người Cao Lan xem con người là cái đẹp và cao quý<br /> nhất trong thế giới này, Cho nên các cô gái được ví với các loài hoa đẹp, các chàng trai được ví với<br /> núi non như núi Thái Dương, núi Pô Tô; các cụ già được ví như cây đa cổ thụ, cây thông...<br /> Con người phải biết yêu cái đẹp và trân trọng cái đẹp của thế gian này: Tay được nâng hoa<br /> không được hái/ Để mắt nhìn thôi đừng đánh rơi [1;29].<br /> Người Cao Lan đồng thời quan niệm, con người sống phải tin vào thế giới linh thiêng, và<br /> biết ơn Thần, Phật. Cầu chúc cho con người và thần linh là quan niệm sống có đạo lý của người<br /> Cao Lan thể hiện rõ trong thơ ca dân gian. Người Cao Lan mang tín ngưỡng đa thần giáo, tiêu biểu<br /> như Thần Nông và Thổ Công là những vị thần gần gũi nhất trong tâm thức của người Cao Lan. Bài<br /> ca “Phụng Thần Nông” nói lên công sức của thần và lòng biết ơn của người dân: . . . Thần Nông<br /> tạo thóc cho dân ăn/ Nuôi được nhân dân người người đẹp [12;36].<br /> Người Cao Lan coi trọng và đề cao Thổ Công bởi đây là vị Thần cai quản đất đai bản làng<br /> và nhà cửa của người dân:<br /> Ngày nay chúc cho ông Thổ Công<br /> Chúc cho Thổ Công muôn đời thịnh<br /> Thờ phụng Thổ Công được yên đẹp<br /> Bao nhiêu tai họa bị diệt trừ [12;37].<br /> Sống phải biết ơn tổ tiên, những người có công với dân với nước là quan niêm của người<br /> Cao Lan. Một số ngôi đình làng Cao Lan thờ các vị anh hùng thần thoại thời Hùng Vương và các vị<br /> <br /> <br /> 119<br /> Đặng Thị Hường<br /> <br /> <br /> thủ lĩnh chống Pháp xâm lược như đình làng Ngọc Tân huyện Đoan Hùng (Phú Thọ) thờ Cao Sơn,<br /> Cao Đạo, Cao Đào, đình Minh Cầm huyện Yên Sơn (Tuyên Quang) thờ Thần Cao Sơn, Ất Sơn,<br /> Quý Minh giúp vua Hùng đánh tan giặc, được vua cha ban thưởng nhiều bổng lộc nhưng không<br /> màng danh lợi, họ đã hiến dâng hết tiền của cho dân; đình Giếng Tanh huyện Yên Sơn (Tuyên<br /> Quang) thờ ông Lãnh Châu thủ lĩnh chống Pháp của nhân dân xứ Tuyên. . . Đồng thời những nơi<br /> những nhân vật có công với nước với dân về dạy nghề và xây dựng văn hóa cũng được tôn làm<br /> Thành Hoàng làng và được phụng thờ nơi đình miếu. Theo quan niệm của đồng bào, các anh hùng<br /> cứu nước trợ dân khi hóa đều trở thành thần linh đi vào cõi trường tồn bất tử. Quan niệm đó rất<br /> gần gũi với tín ngưỡng của đồng bào Kinh. Vì thế mỗi nơi thờ tự đều có các danh thần được nhân<br /> dân tế lễ:<br /> Trăm năm chúc ông cho Thành Hoàng<br /> Chúc Thành Hoàng trấn bốn phương<br /> Thờ phụng Thành Hoàng được yên đẹp<br /> Bao nhiêu tai họa bị diệt trừ [12;38].<br /> Người Cao Lan quan niệm việc cầu chúc, tế lễ sẽ đem đến hạnh phúc cho con người nên<br /> đồng bào có cả hệ thống bài ca cầu chúc: Chúc các bậc thần thánh, chúc gia chủ, chúc làng bản<br /> quê hương, chúc người già, chúc cây đa cổ thụ, chúc tướng quân, chúc thầy cúng. Người Cao Lan<br /> có một loại hình văn hóa cầu chúc phản ánh trong thơ ca dân gian. Trong bài ca chúc gia chủ bao<br /> gồm: Nhà giàu, không có tang, con cái hạnh phúc, kim ngân nhiều, gầm sàn lắm gia súc. . . cho<br /> thấy rõ tính hiện thực xã hội của thơ ca dân gian. Ước vọng ấm no hạnh phúc nằm ngay trong hiện<br /> thực đời sống.<br /> Người Cao Lan rất tin vào phong thủy, họ cho rằng vị thế ngôi mộ người quá cố có liên<br /> quan đến vận mệnh và sự phát triển của con cháu về sau ở thế gian, đặt mộ ở vị trí tốt thì tương lai<br /> tốt, nên trong bài ca chúc phúc có câu: Phần mộ táng vào mạch long đẹp/ Con cháu cũng sẽ thành<br /> anh tài [12;146].<br /> Tập quán đó xuất phát từ quan niệm “sống thác song hành, âm dương nhị lộ”, đã chi phối<br /> đời sống tinh thần xã hội của dân tộc Cao Lan cũng như nhiều dân tộc Đông Nam Á. Đó là quan<br /> niệm về mối liên quan giữa sự sống và cái chết, linh hồn và thể xác, những tương tác âm dương,<br /> quá khứ với hiện tại, hiện tại với tương lai. . .<br /> Người Cao Lan cũng có quan niệm sống “có thờ có thiêng”. Đồng bào có nhiều bài ca tôn<br /> kính thần linh có lịch biểu tế thần, trong đó có câu: Ngày rằm mùng một đèn nhang sáng/ Cầu thần<br /> phù hộ được dân an [8;57].<br /> Người Cao Lan rất đề cao văn hóa, con người cần phải có học hành và học hành có kết quả<br /> để cuộc sống được hạnh phúc. Trong Sình ca đêm hát thứ nhất, các bài ca chúc mừng gia chủ đều<br /> đề cao chữ nghĩa văn chương, nhưng người xưa chưa thoát khỏi quan niệm “nam tôn nữ ti”, việc<br /> học hành chỉ nói đến con trai: Đầu tiên nói ra lời quý tử/ Sinh con trai nói có văn chương/Biết chữ<br /> không cần làm ruộng/ Thông minh nói gì cũng văn chương [12;147].<br /> Đồng bào rất đề cao tri thức văn hóa nhưng cũng rất coi trọng thực tiễn. Người Cao Lan có<br /> câu “Sách biết không hết, đường đi không cùng” [9;208], để nói khát vọng hiểu biết cuộc sống của<br /> con người là vô hạn, con người phải “học, học nữa, học mãi” như Lênin từng dạy.<br /> <br /> 3. Kết luận<br /> Quan niệm vũ trụ với nhân sinh của người Cao Lan thể hiện trong thơ ca dân gian phản ánh<br /> thế giới quan của một cộng đồng dân tộc thiểu số có truyền thống văn hóa, phong tục tập quán lâu<br /> <br /> <br /> 120<br /> Quan niệm vũ trụ và nhân sinh trong thơ ca dân gian Cao Lan<br /> <br /> <br /> đời và chịu chi phối của tín ngưỡng và các tôn giáo phương Đông. Sống gần gũi với cộng đồng<br /> dân tộc Kinh, Tày, người Cao Lan cũng ảnh hưởng tín ngưỡng thần thoại và tục thờ Mẫu trong dân<br /> gian của người Việt Cổ. Trong những bài ca cầu chúc thể hiện rõ ước muốn sinh con nối dõi tông<br /> đường theo quan niệm Nho giáo; các yếu tố về thời sinh tháng đẻ; quan niệm âm dương ngũ hành<br /> của triết học cổ đại phương Đông. Tín ngưỡng của người Cao Lan mang tính đa thần giáo. Quan<br /> niệm nhân sinh của đồng bào Cao Lan thể hiện tính tổng hòa của các loại hình ý thức xã hội về<br /> tín ngưỡng, đạo đức, văn hóa giáo dục vừa có bản sắc riêng vừa có sự tương đồng với các dân tộc<br /> khác.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> <br /> [1] Ninh Văn Độ (chủ nhiệm đề tài), 2003. Bảo tồn hát sình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.<br /> Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Tuyên Quang.<br /> [2] Đặng Thị Hường, 2008-2014. Tập tài liệu sưu tầm và dịch thuật văn hóa, nghệ thuật Cao Lan<br /> (Phụ lục)<br /> [3] Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, 1972. Văn học dân gian học, tập 1. Nxb Đại học và Trung<br /> học chuyên nghiệp Hà Nội.<br /> [4] Phù Ninh, Nguyễn Thịnh, 1999. Văn hóa truyền thống Cao Lan. Nxb Văn hóa dân tộc.<br /> [5] Hoàng Việt Quân, 2001. Lâm Quý hoa của núi. Nxb Văn hóa dân tộc.<br /> [6] Hùng Đình Quý, 2001, 2002, 2003. Dân ca Mông Hà Giang (Tập I, II, III). Sở Văn hóa Thông<br /> tin Hà Giang.<br /> [7] Lâm Quý, 1991. Kó Lau Slam, Truyện thơ. Sở Văn hóa Thông tin Vĩnh Phúc.<br /> [8] Lâm Quý, 2003. Xình ca Cao Lan – Đêm hát thứ nhất. Nxb Văn hóa dân tộc.<br /> [9] Lâm Quý, 2004. Văn hóa Cao Lan. Nxb Khoa học Xã hội.<br /> [10] Đặng Chí Thông, 2006. Về nghi lễ một vòng đời của người Cao Lan. Tạp chí Văn hoá Nghệ<br /> thuật, (Số 5).<br /> [11] Đặng Đình Thuận, 2005. Văn hoá dân gian của dân tộc Cao Lan làng Ngọc Tân, xã Ngọc<br /> Quan, huyện Đoan Hùng. Nxb Khoa học Xã hội.<br /> [12] Ngô Văn Trụ, 2006. Dân ca Cao Lan. Nxb Văn hoá dân tộc.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> The cosmic and human conception in Cao Lan folk poetry<br /> Cao Lan ethnic have a folk poetry is very rich, but so far no project yet to depth study of<br /> cosmic conception and conception of life of the people. The conception of the universe, Cao Lan<br /> people’s time and space are from ancient times very naive. But human conception of the very rich<br /> people expressed through the problem: life and death, good and bad, good and evil, religion, ethics,<br /> labor, yin and yang ... All these characteristics make the ideological soul of the Cao Lan ethnic,<br /> reflected in folk poetry of Cao Lan.<br /> Keywords:Cao Lan ethnic, folk poetry, the cosmic and human conception.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 121<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
19=>1