NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
QuY ước Vä MỐI
QU8N HỆ CỘNG ĐÔNG củ NGƯỜI CƠ L&O,

NGUYÊN NGỌC THANHỈ)
1. Vài nét về dân tộc Cơ Lao ở Hà Giang
Hiện nay ở nước ta người Cơ Lao chỉ cư trú ở tính Hà Giang, với ð nhóm: Cơ Lao Đỏ. Cơ Lao Trắng, Cơ Lao Xanh `”,
Nhóm Cơ Lao Trắng cư trú tập trung phần lớn ở xã Sính Lủng, xã Cá Ha, huyện Đồng Văn. Ngoài ra, họ còn cư trú rải rác ở các xã Phú Lũng, Phó Là, Thắng Mố, Phó Bảng (huyện Đồng Văn). Nhóm Cơ Lao Đo cư trú tập trung ở xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì và một số ít phân bố rải rác ở các xã Phó Là (huyện Đồng Văn), Na Khê (huyện Yên Minh), Cân Tỉ (huyện Mào Vạc). Riêng nhóm Cơ Lao Xanh có dân số ít nhất sống ở đội 3. làng Cá Ha. xã Sính Lủng, huyện Đồng Văn.
Theo kết qua Tổng điều tra dân số năm 1999 dân tộc Cơ Lao có 1822 người (932 nam. 890 nữ), trong đó Hoàng Su Phì (711 người), Đồng Văn (451 người), Yên Minh (316 người, Bác Quang (151 người), Vị Xuyên (112 người), Mèo Vạc (67 ngươ)), Quản Bạ (9 người), thị xã Hà Giang (5 người)”.
Dân tộc Cơ Lao cư trú ở hai vùng cảnh quan khác nhau, vùng cao núi đã (huyện
Đồng Văn) và vùng núi đất (huyện Hoàng
*) ` tA ^ ^ -TS, Viện Dân tộc học.
TÍNH Hã GI8NG
si
Su Phì). Tuỳ theo điều kiện cư trú mà ngươi Cơ Lao có những hình thức canh tác khác nhau. Ở vùng núi đá họ chủ yếu làm nương xếp đá, dùng đã kè giữ đất trồng ngô, và các loại hoa màu. Ngoài ra, người Cơ Lao còn trồng trọt trong những hốc đá hoặc những manh đất nhỏ ở sườn núi đá. Ngược lại, ở vùng núi đất người Cơ Lao canh tác chủ yếu trên đất đốc và ruộng bậc thang và cũng chỉ canh tác được một vụ lúa. Nhìn chung, năng suất, sản lượng lúa hàng năm đạt rât thấp. >
Bên cạnh việc canh tác nương rãy, làm ruộng bậc thang người Cơ Lao ở hai vùng còn chăn nuôi, săn bắn và hái lượm nhằm bổ trợ cho hoạt động trồng trọt.
Đâu sống ở vùng núi đá hay vùng núi đất từ lâu người Cơ Lao đã hình thành nên những quy ước, với mục đích bao vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên nơi con người sinh sông, những quy ước đó hiện đang vận hành có hiệu quả buộc mỗi thành viên trong cộng đồng Cơ Lao phải chấp hành.
2. Các quy ước của người Cơ Lao
2.1. Quy ước uề sử dụng đất đai
Ở người Cơ Lao có hai hình thức quản lí đất đai: đất đai do làng quan lí (đất rừng, bãi chăn tha gia súc, nghĩa địa, đường sá, nơi thờ cúng chung) và đất đai giao cho từng gia đình (đất ruộng bậc thang, đất nương rẫy, đất thô cư).
Theo quy ước của nhóm Cơ Lao Đo, các sa đình được chia đất đến đâu thì sử dụng đến đó, ai vi phạm phải trả lại đất. Các mảnh đất trồng ngô được chuyển quyền thừa kế cho các con trai. Con gái không được hưởng quyền thừa kế vì đi lấy chồng đã được hưởng đất của nhà chồng. Trong xã hội truyền thống, nếu gia đình nào không có con trai thì phải tra lại đất cho làng. Khi thực hiện phân chia tài sản, nếu anh em 35
không tự giải quyết được thì mời trưởng họ, sià làng đến giải quyết. Gia đình nào có nhiều đất, nếu làm không hết có thể cho nhà khác làm theo thể thức: Chủ nhà bỏ tiền mua giống và phân bón, người làm bỏ sức lao động, đến vụ thu hoạch sản phẩm được chia đôi. Ở người Cơ Lao Trắng lại có quy ước: Từng gia đình tự quan lí đất của nhà mình. nếu làm vào đất của nhà khác thì bị phạt 30.000đ: số tiền này sung vào quỹ của làng. Cũng theo quy ước, đất của các gia đình chỉ được chuyên nhượng cho anh em, họ hàng và ngươi trong làng: không bán cho ngươi làng khác; trương hợp sịa đình không có con trai, nêu con gái lấy chồng ở rể thì chàng rể đó được quyền thừa kế đất của bố mẹ vợ,
Nếu đất để hoang hoá từ 1 đến 3 năm, người khác muốn làm thì phải hỏi chủ cũ.
Đối với đất nương định canh được đào rành thoát nước ở xung quanh, đó cũng là hình thức đánh dâu đất đã có chủ, nếu al vì phạm lần đầu sẽ được nhắc nhở, vị phạm lần thứ 3 bị phạt 50.000đ.
Những khu vực đất công: đường làng, nghĩa địa, dân làng phải có ý thức bảo vệ. Hàng năm vào dịp tháng 8, tất ca moi thành viên trong làng ở độ tuổi lao động có nghĩa vụ đi sưa đường. AI trốn tránh nghĩa vụ sẽ được dành lại một đoan đường để đến
làm vào ngày khác.
2.2. Quy ước 0uế bdo UỆ mùa màng,
chăn nuối 0a các nguôn lợi thiên nhiên
Ở nhóm Cơ lưao Trắng có quy ước: hàng năm, vào ngày 15 tháng giêng các gia đình phai nhốt trầu, bò, lợn, gà, đê. Nếu gia đình nào đề trâu, bò, gà phá hoại hoa màu, chủ ruộng có quyền bắt con vật đó, lần thứ nhất phạt 5000đ, lần thứ hai phạt 10.000đ, lần thứ ba phạt 15.000d. Đối với lơn, đê là những con vật khó bắt nên mức phạt đối
với chủ chăn nuôi tăng gấp đôi, lần thứ
NGUYÊN NGỌC THANH
nhất phạt 10.000d, lần thứ hai phạt 20.000đ, lần thứ ba phạt 30.000d. Sau ba lần. nếu chủ vật nuôi vẫn để trâu, bò, lợn, đê phá hoại mùa màng thì chủ ruộng được phép bắn chết và rạch bụng con vật ra đề dân làng chứng kiến có hoa màu trong bụng con vật. Sau đó con vật được làm thịt, môi bên hưởng một nửa. Nếu rạch bụng vật nuôi mà không có hoa màu thì người bắn phải đến vật nuôi khác có giá trị tương đương. Ngoài ra, chủ vật nuôi còn phải đền bù toàn bộ chỗ hoa màu đã bị thiệt hai. Nếu trâu, bò thả rông ăn phải ruộng mạ của bất cứ nhà nào thì chủ chăn nuôi phải có trách nhiệm đến lại mạ cho gia đình đó cây. Nếu trâu, bò ăn dưới 30 cây ngô, chủ vật nuôi chỉ bị nhắc nhỏ để lần sau chăn đắt trâu, bò cân thân hơn; nếu trâu. bò ăn trên 90 cây ngô trở lên, vật nuôi bị bắt giữ, lúc đó chủ ruộng sẽ mời trưởng bản, già làng tới ruộng chứng kiến đồng thời định mức đền bù để đến vụ thu hoạch chủ vât
nuôi có trách nhiệm đến lại cho chủ ruộng.

Thiếu nữ Cơ Lao. Ảnh: NGỌC THANH NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
29


Nhóm Cơ Lao Đo xã Sính Luũng, huyện Đồng Văn quy ước trâu bò của nhà nào vào nương ngô ăn hoa màu. nếu bắt được thì chủ nương sẽ tính cụ thê xem số thiệt hai là bao nhiêu cân giống, đến vụ thu hoạch chủ chăn nuôi mang sản phâm đã thu hoạch được sang đến chủ nương.
Trước đây các nguồn lợi thiên nhiên thường không có quy ước cụ thể trong việc quan lí và sử dụng, lúc đó do người ít, nguồn lợi từ thiên nhiên còn nhiều. Những năm gản đâyv nguồn lợi này dân cạn kiệt nên trong quy ước của người Cơ Lao đề cập đến việc bảo vệ thú rừng, đánh bắt cá. Theo đó, trong các khu rừng câm không dược đặt bây đề bắt thú rừng, chỉ được phép đặt bẫy xung quanh nương nhà mình. Câm dân làng vào rừng săn bắn, ai cố tình vi pham bị phạt cải tạo băng hình thức lao động công ích.
lĐịa bàn cư trú của nhóm ơ Lao Đo có sông, suối chav quai. Trong phạm vI cư trú của làng các đoạn sông, suối chay qua thuộc quyền quản lí của làng, các gia đình không có quyển chiếm hữu mà chỉ có quyền khai thác, sư dụng và có nghĩa vụ bảo vệ chung. Cấm ruốc cá, nỗ mìn, đắp chắn, đánh chài. lưới vét ở suối. Nếu ai đó căng lưới đánh cá bắt được phạt từ 50.000đ - 100.000đ. Nổ mìn đánh cá bắt được phạt 100.000đ, trường hợp nhiều người chung nhau nổ mìn đánh cá thì phạt mỗi người 100.000d. Nếu không có tiền
ngươi đó
nộp phạt phai dị lao động công ích (100.000đ = 10 công lao động). Ruốc cá được tính theo mˆ mặt nước. mỗi mˆ phạt 5000đ dù có cá hay không có ca.
2.3. Quy ước 0é bao UÊ rừng 0d HØUHÓOH HƯỚC
Môi làng của người Cơ Lao thường có một khu rừng cấm, là nơi cúng thân thô địa
thư fÙ vào dịu đầu năm. Theo quan niêm L l :
của người Cơ Lao, £hu £ là vị thần phù hộ cho trồng trọt, chăn nuôi và sức khoẻ của con người. Tín ngưỡng thờ (hu £Ẻ có vị trí rất quan trọng trong đời sông của người Cơ Lao, nếu cúng quải không đầy đủ sẽ đem lại nhiều điều rủi ro cho dân làng và cộng đồng. Lễ cúng ¿hưu £¿ được tổ chức vào ngày mùng 3 tết Nguyên Đán hàng năm. Mỗi gia đình tự mang lễ vật tới miếu, gồm một thẻ hương, một tờ giãy ban, hai chiếc bánh chưng, một quả trứng hoặc một miếng thịt. Người hành lễ là chủ miếu (miểu chu) do dân làng bầu ra, là người có uy tín trong cộng đồng, am hiểu phong tục tập quán. Khi cúng các gia đình ngồi ở phía sau. chủ miếu đọc bài khấn với mong muốn (hu tỉ phù hộ cho mùa màng bội thu, chăn nuôi øìa súc không bị bệnh dịch, dân làng không có a1 bị ốm đau, bệnh tật. Cúng xong, trước khi ra về, theo tục lệ dân tộc, mọi người ngồi nghe chủ miếu nhắc lại quy ước của làng. Đối với khu rừng cấm này không được phép lấy củi, phát nương, cũng như các hành động phá hoại khác. Quy ước cũng trao quyền cao nhất cho chủ miếu có quyền xư phạt các vụ vị phạm vào rừng cấm. Với các khu rừng khác mọi người đều có nghĩa vụ bao vệ, không được chặt phá bừa bãi. Quy ước cũng nhắc nhở mọi người không dược lấy măng vào khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 6 âm lịch, là thời điểm măng đã mọc lên cao; ai cố tình lấy măng, thả trâu, bò để măng gẫy đều bị nhắc nhở. Vào những tháng này làng cư 12 người làm nhiệm vụ tuần tra xung quanh các khu rừng tre, vầu, trúc. Gia đình nào có nhu cầu lấy củi phải xin phép trưởng làng và chỉ được chặt những cành, cây bị sâu ăn. Đến mùa măng mọc, cấm thả trâu, bò, lợn, dê vào rừng tre, trúc, vầu. Nếu đề trâu, bò làm gây 1 cái măng bị phạt 5000d. Trong làng ai phát hiện được ngươi lấy măng vào thời điểm cấm thì được thưởng 5000d. Vào mùa hanh khô, các gia đình vào rừng lấy 40
NGUYÊN NGỌC THANH


củi. thu hái lâm thổ sản phải tự phòng cháy; người làm cháy rừng. tuy theo mức độ thiệt hại, phải nộp phạt từ 100.000đ đến 300.000đ. Những khu rừng đầu nguồn ở xa làng, ai tự ý chặt cây, sẽ bị phạt nặng.
Đối với nguồn nước, cứ đến tháng 3 hàng năm, mỗi gia đình cử một người ởi sửa sang máng nước ăn, mương tưới tiêu trước tiên. Theo quy ước của làng, ai làm hỏng ống dân nước thì phải đến ống mới. Trâu, bò phóng uế ra nguồn nước, chủ vật nuôi phải đến dọn sạch nguồn nước. Người nào giặt øiũ ở nguồn nước sẽ bị nhắc nhở; nếu nhắc nhiều lần mà vấn vi phạm thì tên của ngươi đó được nêu lên trong cuộc họp của làng. Với ngươi Cơ Lao, việc nêu tên như vậy là rất đáng hồ thẹn nên không mấy ai vi phạm quy ước. Với nguồn nước tưới tiêu, các gia đình có chung một con mương thì tự phân công nhau trồng nom; mương bị sạt lợ thì góp công cùng nhau tu sửa. Pheo tập quán dân tộc, hàng năm vào sáng mùng 1 tết Nguyên Đán, mỗi gia đình cử một người mang ð nén hương, giấy ban đến nguồn nước đốt hương và giấy, cầu khấn thần linh năm mới luôn khơi thông nguồn nước. Sau đó mọi người lấy nước mang về nhà đun sôi rót vào chiếc chén nhỏ
đặt lên bàn thờ tổ tiên. 3.4. Quy ước uề an nình, trật tự trì an
Quy ước chủ yếu để ra các phương án phòng chống trộm cắp, các hình thức xử phạt nhăm bào vệ tài sản và giữ gìn sự bình yên của các thành viên trong cộng đồng làng. Khi trong làng có trộm, cắp, trưởng làng sẽ gõ mõ báo động để các gia đình nhanh chóng cử người ra chặn các nga đường vào làng, vây bắt trộm. Trường hợp bắt dược trộm nhưng người đi đuổi trộm chăng may bị thương, theo quy ước, người ăn trộm phải chịu tiền thuốc men chạy chữa cho người bị thương, đồng thời phải
tra tiền công 5000d/người cho những người tham gia bắt trộm. Ngoài ra, anh ta còn phải nộp hai con gà cho nhà bị mất trộm để sia đình đó làm bữa cơm thết đãi dân làng đã có công đuổi bắt trộm. Anh ta còn bị bêu
trước cuộc họp cua dân làng.
Ban đêm, ai đi ngoài đường phải đốt đuốc, thắp đèn; nếu vị phạm thì người đó bị col là có hành động mơ ám. na đình nào có khách lạ ngủ lại qua đêm thì phải đến báo cho trưởng làng và công an biết.
Quy ước còn nêu rõ, kẻ nào ăn trộm lợn, gà, cắt trộm lúa bị bắt quả tang thì phải mang trả lại cho chủ nhà theo thể thức lấy một trả hai (thấu gò cổ fà leng côi. Ngoài ra, ngươi ăn trộm bị phạt làm lao động công ích như: làm đương, dọn dẹp vệ sinh trụ sở Ủỷ ban nhân dân xã, và bị nêu tên trong cuộc họp của làng.
2.5. Quy ước uê hôn nhún
Quy ước hôn nhân của người Cơ Lao không cho phép được lây người cùng họ. Trương hợp trai gái đã thành hôn nhưng vì một lí do nào đó khiến họ phải l dị nhau. nếu vợ chủ động xin l¡ đị thì nhà gái phai hoàn lại đầy đủ đồ dẫn cưới cho nhà trai. Người vợ không được hương một thứ tài sản gì của nhà chồng, kế cả con cái. Nếu người chồng chủ động l¡ dị, nhà gái không phải trả đồ dẫn cưới và người vợ được chia một phần tài sản và nuôi con cái. Nhưng bất luận trong trường hợp nào, khi l¡ dị, ngươi vợ sẽ không được gia đình và họ hàng công nhận là thành viên của nhà mình nửa cũng như không được tham gia các nghi lễ tôn giáo, hội hè, đặc biệt khi chết đi không được đưa ma tại nhà bố mẹ đẻ, họ hàng thân thiện.
Trai gái quan hệ bất chính bị bắt quả tang, theo quy ước, chàng trai phai nộp phạt cho nhà gái 1 con gà, I chai rượu, ]
_®“a
manh vai đỏ với hàm ý "rửa nhà, tây ô uể”. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
41


Nhà gái cũng có l con gà, l chai rượu để làm lễ cúng tổ tiên vì con gái mình đã mắc lỗi.
Trước kia, trai có vợ, gái có chồng mà ngoại tình, nếu bị bắt quả tang thì phải nộp phạt 3,6 lạng bạc trắng, ngày nay là 36.000đ cho bố mẹ vợ hoặc bố mẹ chồng. Ngoài ra còn nộp 2 con gà, I chai rượu để một trong hai bên gia đình làm lễ cúng rưa nhà.
3. Mối quan hệ cộng đồng làng bản
Tính cố kết cộng đồng là một đặc điểm nôi bật của các tộc người ở Việt Nam, trong đó có tộc người Cơ Lao. Mỗi gia đình Cơ Lao là một đơn vị kinh tế, các thành viên trong sia đình ở độ tuổi lao động là những người đàm bảo đời sống cho gia đình. Tuy nhiên, do cư trú ở các vùng núi cao, điều kiện sản xuất gặp nhiều khó khăn, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. công cụ lao động sản xuất còn thô sơ, các gia đình phải liên kết chặt chẽ với nhau, về nhiều phương diện, vượt qua trở ngại để có thể sinh tổn và phát triển. Tính tâp thể trong lao động sản xuất không chỉ tao chỗ dựa vật chất và tỉnh thần cho mỗi người, mà điều quan trọng hơn là đem lại lợi ích thiết thân cho các gia đình.
Trong trồng trọt, để kịp thời vụ người Cơ luao có hình thức làm đổi công (phàng công), theo đó nhiều gia đình đến làm giúp cho một nhà và gia chủ chỉ cần chuẩn bị một bữa cơm thết đãi sau khi công việc đã xong. Gia đình nào trong làng có ngươi là lao động chính bị tai nạn rủi ro, không thể tham gia sản xuất được thì các gia đình khác trong làng cử người đến giúp đỡ mà không đòi hỏi phai trà công. Rõ ràng, đây là truyền thống tốt dẹp. có ý nghĩa tích cực, là một biện pháp giải quyết sức lao động nhằm giúp mỗi gia đình có đủ nhân lực đề hoàn thành công việc.
Trong đời sống hàng ngày, mỗi sự kiện vu, buồn của từng gia đình đều cũng là nỗi vui, buồn chung của cả cộng đồng làng. Một đứa tre ra đời, khi hết thời gian ở cữ, theo tập quán, các gia đình trong làng đến hỏi thăm và chia vui. Việc lấy vợ, lấy chồng cũng là sự kiện được dân làng quan tâm chú ý đến nhiều. Một gia đình có con xây dựng gia đình, dân làng tự đến mà không cần phải mời mọc. Theo tập quán của người Cơ Lao Đo, vào ngày cưới, thanh niên trong làng vào rừng lấy củi, phụ nữ ở nhà xay đâu phụ và nâu cơm. Những người đến dự thường mang theo 5 đến 10 chảy gao (ống sửa bỏ), I chai rượu hoặc 10.000đ -15.000d #Óp vui với gia đình. Còn ở người Cơ Lao Trắng, khi trong làng có đám cưới, mỗi nhà øóp một rá đậu phụ, 10 lít rượu, 20.000d và nhất thiết phải có một can nước 30 lít. Nếu cưới vợ cho con trai, dân làng còn cử người vào rừng lấy củi, xay đậu phụ, xay bột. Nếu con gái lấy chồng, ngoài các khoản "đóng sóp” như trên, các gia đình còn cử người đưa cô gái về nhà chồng.
Đám tang là sự kiện buồn không chỉ của riêng gia đình mà còn là nỗi buồn chung của cộng đồng làng. Vào những ngày gia đình tô chức đám tang, dân làng tạm dừng việc lao động sản xuất để cùng chia sẻ nỗi buồn mất mát với tang gia. Ỏ ngươi Cơ Lao Trắng, tuỳ theo điều kiện kinh tế của mỗi gia đình mà có thể giúp từ 1 đến 3 địu ngô, giúp lấy nước, lấy củi cho tang chủ. Đối với người Cơ Lao Đó, gia đình tang chủ nhân được sự giúp đỡ của mỗi gia đình từ 3 đến 5 ống sữa bò gạo, 1 chai rượu, 1 bó củi và 5000d. Trong đám tang, anh em dòng họ dù ở xa mấy cũng phai có mặt.
Trong làng có gia đình nào làm nhà mới, mọi nhà đều cử người đến giúp các phần việc khác nhau như: trình tường, gánh đất, dựng cột, đắp nền nhà v.v.. Gia 42
NGUYÊN NGỌC THANH


đình nào gặp khó khăn có thể vay gạo và tiền của các gia đình khác, không phai tính lãi. Người trong cùng họ thiếu đói đến cậy nhờ được cho không. Người Cơ Lao vẫn nói: Cùng họ hàng phai cho nhau (Xinh ngự bhù dình nọ).
Biêu hiện của tính cộng đồng còn thê hiện ở một số mặt khác của đời sống như:
Chung cối giã gạo: Vài ba nhà chung một côi giã gạo, cắt cử nhau luân phiên đề thóc vào cối giã gạo tại đâu làng mà không
sơ mất mát.
Chung máy phát diện: 3 - 3 hộ góp tiền mua máy phát điện nho, mua dây điện đê
thặăp sáng.
Chung rừng: Ngoài rừng đã nhận khoán. người Cơ Lao Đỏ ở một số làng thuộc xã Túng Sản, huyện Hoàng Su Phì còn có hình thức chung rừng. Theo đó, mỗi làng chia thành hai nhóm (mỗi nhóm khoang 30 gia đình) cùng chung nhau quản lí hai khu rừng (20 ha), đồng thời cử một tô bao vệ 13 người, ai có nhu cầu lấy củi, lấy gỗ làm nhà đểu phải xin phép trưởng làng
và tô bao vệ này. (hung nguồn nước ăn: 4 - 5 nhà chung
nhau một nguồn nước ăn, tự bảo vệ và tu sưa nếu nguồn nước bị hỏng hoặc tự nhiên
Trước dây khi rừng còn nhiều, người nào săn dược thú rừng khi mang vỀề làng bao ø1ở cũng mời đại diện các gia đình đến uống rượu. Nếu lượng thịt cho phép, các gia đình đều được chia phần.
Tín ngưỡng của người Cơ Lao là vạn vật hữu linh. Đồng bào tin rằng, tất cả những gì tổn tại xung quanh con người đều có sức sống và sinh hoạt giống con người. Niềm tin đó chỉ phối mọi hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng của cá nhân và cộng đồng.
Người Cơ Lao tin răng mỗi bản đều có một vị thần cai quản, bảo hộ cho. dân làng gọi là ma (síứnh khủng con nờ). Bơi vậy, ca cộng đồng phải thực hiện những lễ thức tôn giáo và kiêng cừữ nhất định.
Qua những điều trình bày trên đây, cho thấy người Cơ Lao từ lâu đã hình thành các quy ước, dù chỉ truyền miệng nhưng lại có hiệu lực trong việc quản lí làng bản.
Các quy ước chủ yếu tập trung vào bao vệ đất đai, rừng, nguồn nước và hoa màu. đây cũng là nguồn tài nguyên phục vụ thiết thực cho nhu cầu sống của con người, điều hoà được lợi ích của từng cá nhân với lợi ích chung của làng bản.
Các quy ước không chỉ đưa ra các hình phạt cụ thể, khi người nào đó xâm pham đến lợi ích của cá nhân, hoặc tập thể mà còn đưa ra những điều răn đe (nêu tên trước cộng đồng, phạt lao động công ích...), đây là diều tối kị ở người Cơ Lao. Nhờ vậy, quy ước được mọi người tuân thủ, ít người
vì phạm.
Mối quan hệ cộng đồng làng bản ở ngươi Cơ Lao cho đến nay vẫn được duy trì, chính điều này làm cho mối quan hệ gữa cá nhân với cộng đồng càng thêm gắn bó, tạo nên nguồn sức mạnh để tộc người này vượt qua mọi khó khăn, hướng tới tương lai.
N.N.T
(1) Gọi là Cơ Lao Xanh vì trước đây đàn ông của nhóm này đều mặc áo dài xanh. Gọi là Cơ Lao Trắng vì theo phong tục dùng khăn trắng chịu tang người chết. Gọi là Cơ Lao Đó vì trước đây phụ nữ nhóm này mặc váy thêu
chỉ đo.
(2) Tổng cục Thống Kê: Kết qua Tổng điều tra dân số và nhà ở 1999.