intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

25
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện" tập trung tìm hiểu quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền khởi kiện của người chưa thành niên, những bất cập trong quy định làm ảnh hưởng đến thực hiện quyền khởi kiện. Từ đó, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật. Góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

  1. QUYỀN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN - MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN Mai Thị Mị1 1. Khoa Khoa học Quản lý TÓM TẮT Quyền khởi kiện là một trong những quyền cơ bản của con người. Khi quyền và lợi ích hợp pháp của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án có thẩm quyền bảo vệ. Người chưa thành niên là nhóm chủ thể đặc biệt của quyền khởi kiện vì họ chưa có đủ năng lực hành vi dân sự. Quy định về quyền khởi kiện cho nhóm chủ thể này có những điểm khác biệt cần được nghiên cứu một cách cụ thể. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, tác giả tập trung tìm hiểu quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền khởi kiện của người chưa thành niên, những bất cập trong quy định làm ảnh hưởng đến thực hiện quyền khởi kiện. Từ đó, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật. Góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Từ khóa: Quyền khởi kiện; Người chưa thành niên; Năng lực hành vi tố tụng, Bộ luật tố tụng dân sự. ĐẶT VẤN ĐỀ Quyền dân sự nói chung, quyền khởi kiện nói riêng là một trong những quyền cơ bản của con người đã được quy định trong các văn kiện pháp lý quốc tế. “Ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận.” (Điều 8, Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền, 1948). Ở nước ta quyền khởi kiện được Hiến pháp ghi nhận và được cụ thể hoá trong quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Pháp luật Tố tụng dân sự quy định cụ thể về điều kiện, trình tự thủ tục khởi kiện của đương sự. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 25/11/2015 có hiệu lực ngày 1/7/2016 đã đưa ra các quy định chi tiết về quyền khởi kiện của đương sự. Theo đó các chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu Toà án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của chủ thể khác. Người chưa thành niên là một nhóm chủ thể đặc biệt của pháp luật tố tụng dân sự nói chung và quyền khởi kiện nói riêng vì chủ thể này chưa có đủ năng lực hành vi dân sự. Chính vì vậy, quyền khởi kiện của người chưa thành niên cũng có quy định khác biệt so với những nhóm chủ thể khác. Người chưa thành niên khi tham gia vào các giao dịch dân sự rất dễ bị xâm phạm về quyền và lợi ích. Với đặc thù về độ tuổi là chưa đủ mười tám tuổi, nhóm chủ thể này chưa có đủ khả năng tự bảo vệ như nhóm chủ thể có đủ năng lực hành vi dân sự. Để quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên được bảm đảm một cách đầy đủ và nhanh chóng nhất thì quy định về quyền khởi kiện của đương sự chưa thành niên cần được quy định một cách đầy đủ, phù hợp và tiến bộ. Quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên được bảo vệ tối ưu nhất. 329
  2. Quyền khởi kiện là nhóm quyền dân sự quan trọng, đặc biệt đối với chủ thể là người chưa thành niên. Chính vì vậy pháp luật tố tụng dân sự đã có các quy định khá đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên ở cả góc độ lý luận và thực tiễn vẫn còn tồn tại những bất cập về quyền khởi kiện của người chưa thành niên. Một số quy định về năng lực hành vi tố tụng của người chưa thành niên còn chung chung, chưa thể hiện cụ thể về hình thức và nội dung đơn khởi kiện đồng thời thiếu các quy định về trách nhiệm của người khởi kiện khi người chưa thành niên không đủ điều kiện để khởi kiện. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng pháp luật một cách tuỳ tiện, dẫn đến chưa đảm bảo được quyền lợi cho người chưa thành niên. Chính vì vậy, nghiên cứu một cách chuyên sâu và đầy đủ về quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên là rất cần thiết. Tìm hiểu những vấn đề lý luận, từ đó phân tích quy định của pháp luật để hiểu rõ về quy định và thấy được thực trạng áp dụng. Tìm ra những điểm hạn chế, bất cập và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thiện bài nghiên cứu, và đạt được mục tiêu nghiên cứu tác giả sử dụng một số các phương pháp sau: Phương pháp phân tích được xem là phương pháp chủ yếu trong suốt quá trình nghiên cứu của bài viết. Phương pháp này giúp tác giả phân tích, làm sáng tỏ quy định của pháp luật về quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp liệt kê để nêu ra các quy định của pháp luật về quyền khởi kiện của người chưa thành niên và trách nhiệm của tòa án khi giải quyết vụ án dân sự. Để thấy được sự tiến bộ hay bất cập, hạn chế từ quy định của pháp luật tác giả sử dụng phương pháp so sánh. Phương pháp so sách còn giúp phân biệt quyền khởi kiện của nhóm chủ thể chưa thành niên với những nhóm chủ thể khác. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp giải thích, phương pháp bình luận để hoàn thiện bài nghiên cứu của mình. 1. QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 1.1. Quy định chung về quyền khởi kiện Pháp luật tố tụng dân sự không đưa ra khái niệm về quyền khởi kiện mà quy định trực tiếp về quyền khởi kiện, tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.” Khi quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật của chủ thể khác thì chủ thể bị xâm phạm có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Toà án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều 4, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. 330
  3. 2. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.” Khởi kiện là giai đoạn đầu tiên, quyết định vụ án dân sự. “Khởi kiện là cơ sở thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự và cũng là cơ sở để Toà án giải quyết các tranh chấp dân sự.” (Nguyễn Văn Cường và nnk., 2012) Đương sự là người đã thành niên không bị rơi vào các trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì được tự mình thực hiện việc khởi kiện hoặc thông qua người đại diện hợp pháp thực hiện việc khởi kiện. Đương sự không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì thông qua người đại diện để thực hiện hành vi khởi kiện. Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Phạm vi khởi kiện của chủ thể được ghi nhận tại Điều 188 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án. 2. Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.” Cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của bộ luật này thực hiện quyền khởi kiện khi đặt ra trong giả thiết quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm. Theo quy định tại Điều 5, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 “Toà án có thẩm quyền cũng chỉ thụ lý và giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện”. Quyền khởi kiện là quyền năng mà pháp luật quy định cho phép chủ thể thực hiện hành vi khởi kiện. “Hành vi khởi kiện cũng là căn cứ xác định trách nhiệm giải quyết của Toà án có thẩm quyền. Qua đó đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể” (Đàm Thị Hoa, 2016). Việc nộp đơn khởi kiện đến Tòa có thể thực hiện theo một trong các phương thức được quy định tại Điều 190, Bộ luật Tố tung dân sự 2015. Người khởi kiện có thể trực tiếp nộp đơn khởi kiện đến Tòa; có thể gửi đơn khởi kiện theo đường dịch vụ bưu chính; hoặc gửu trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Ngày khởi kiện được xác định theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự phụ thuộc vào phương thức nộp đơn đến Tòa án có thẩm quyền. Như vậy, sau khi chủ thể làm đơn theo đúng quy định của pháp luật thì có thể bằng một trong những phương thức mà pháp luật cho phép để nộp đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Tòa án có trách nhiệm tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện theo đúng quy định của pháp luật. 1.2. Quyền khởi kiện của đương sự là người chưa thành niên và trách nhiệm của Tòa án có thẩm quyền Theo quy định tại khoản 1, Điều 21, Bộ luật Dân sự 2015 “Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Đối với đương sự là người chưa thành niên, quyền khởi kiện của họ có những điểm khác biệt so với quyền khởi kiện của đương sự đã thành niên. “Sự khác biệt này xuất phát từ đặc điểm người chưa thành niên chưa có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ. Vì vậy, khi thực hiện quyền khởi kiện, đương sự là người chưa thành niên phải thông qua chủ thể có đủ năng lực hành vi tố tụng để thực hiện quyền khởi kiện” (Nguyễn Thị Hoài Phương, 2016). 331
  4. Người chưa thành niên theo quy định của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự có nhiều mức độ năng lực hành vi khác nhau, phụ thuộc vào từng độ tuổi nhất định. Nhóm thứ nhất, người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, nhóm độ tuổi này họ có hạn chế về mặt nhận thức, hiểu biết pháp luật... nên chưa nhận thức đầy đủ về quyền lợi của mình khi bị xâm phạm. Vì vậy, cần thiết có người đại diện cho họ thực hiện hành vi khởi kiện nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên. Theo khoản 4, khoản 5, Điều 69 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “ 4. Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện; 5. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện”. Vậy đối với nhóm chủ thể này, họ không thể tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng với Toà án mà tất cả hành vi tố tụng của họ thông qua người đại diện. Bởi vì, người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi chưa đủ khả năng nhận thức và quyết định cho những vấn đề quan trọng, đặc biệt là vấn đề khởi kiện vụ án dân sự. Người đại diện hợp pháp của họ chịu trách nhiệm trước pháp luật về hình thức và nội dung đơn khởi kiện. Trong suốt quá trình tố tụng kể từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi ban hành bản án, quyết định thì quyền và nghĩa vụ tố tụng do người đại diện thực hiện. Quy định này hạn chế quyền khởi kiện của người chưa thành niên. Tuy nhiên, chính quy định này bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi. Nhóm thứ hai, người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi nếu đã tham gia lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, thì được quyền khởi kiện về quan hệ pháp luật dân sự hoặc lao động mà họ tham gia, bởi vì, bản thân người đó đã tự nhận thức được về quyền lợi của mình. Như vậy, theo quy định tại Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có thể hiểu đương sự là người chưa thành niên có thể thực hiện quyền khởi kiện thông qua người đại diện hợp pháp của họ, khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời khi họ đủ điều kiện pháp luật cho phép thì họ có thể tự mình tham gia tố tụng với tư cách đương sự mà không cần có người đại diện. Quy định về năng lực tố tụng dân sự trong trường hợp này phù hợp với quy định về năng lực hành vi dân sự trong Bộ luật dân sự 2015. Nhóm đương sự từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuồi khi đã tham gia hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình họ được tự mình thực hiện các hành vi tố tụng trong đó bao gồm cả hành vi khởi kiện. Nhóm chủ thể là người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi họ đã có nhận thức và sự trưởng thành hơn so với nhóm chưa đủ mười lăm tuổi. Bên cạnh đó, pháp luật tố tụng cũng không cho phép mọi trường hợp thuộc nhóm độ tuổi này được tự mình thực hiện các hành vi tố tụng. Nhóm đương sự này chỉ được tự mình tham gia tố tụng khi họ đã tham gia hợp đồng lao động hoặc tham gia giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Nhóm chủ thể này được tự mình thực hiện hành vi tố tụng mà không cần thông qua người đại diện, thể hiện sự tự quyết định các quyền và nghĩa vụ của đương sự. Thể hiện sự tôn trọng quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự là người chưa của pháp luật tố tụng dân sự nói riêng và hệ thống quy định pháp luật nói chung. 332
  5. Đương sự thực hiện quyền khởi kiện đồng nghĩa với trách nhiệm thụ lý và giải quyết của Tòa án. Theo quy định tại khoản 2, Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Trong quá trình Tòa án giải quyết tòa có “trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ”. Trong vụ án dân sự có đương sự là người chưa thành niên thì theo quy định tại khoản 3, Điều 13 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: “Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ”. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người chưa thành niên được pháp luật quy định cụ thể. Đây là cơ sở để Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng và phải tuân thủ đúng các nguyên tắc mà pháp luật quy định. Nguyên tắc xét xử của Tòa là nguyên tắc xét xử công khai. Tuy nhiên để bảo đảm quyền lợi cho đương sự là người chưa thành niên Tòa có thể xử kín. Tại khoản 2, Điều 15 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đưa ra quy định: “Tòa án xét xử công khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án có thể xét xử kín”. Quy định về trách nhiệm của Tòa trong bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người chưa thành niên thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước với nhóm chủ thể này. Với đặc thù về độ tuổi và được đánh giá là chưa phát triển toàn diện về thể chất đương sự là người chưa thành niên được pháp luật tố tụng dân sự tôn trọng và bảo vệ. 1.3. Điều kiện khởi kiện của người chưa thành niên “Quyền khởi kiện là cơ sở để tiếp cận công lý. Tất cả ác cơ quan, tổ chức, cá nhân đều có quyền bình đẳng khởi kiện” (Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2017). Hiểu theo nghĩa rộng, quyền khởi kiện bao gồm yêu cầu của nguyên đơn, phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Quyền khởi kiện được thực hiện khi chủ thể cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm. Người chưa thành niên với đặc thù họ chưa có đủ năng lực hành vi tố tụng nên quyền khởi kiện vụ án dân sự thông qua người đại diện. “Nếu người chưa thành niên thuộc nhóm độ tuổi từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình và không bị mất năng lực hành vi dân sự thì được tự mình tham gia tố tụng mà không cần có người đại diện” Tưởng Duy Lượng (2009). Để thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự, người chưa thành niên phải đáp ứng đủ những điều kiện mà pháp luật quy định: Một là, người khởi kiện vụ án dân sự với tư cách là nguyên đơn trong vụ án, phải đặt trong giả thiết có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Vì vậy, người chưa thành niên khởi kiện phải có căn cứ chứng mình việc khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đây là cơ sở để Tòa thụ lý vụ án dân sự. Chính vì vậy, nếu không có căn cứ xác định quyền và lợi ích bị xâm phạm thì họ không thể thực hiện quyền khởi kiện. Hai là, trong tố tụng dân sự, thì quan hệ dân sự theo nghĩa rộng bao gồm bốn yếu tố là: dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Chính vì vậy, để thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự người chưa thành niên phải tham gia vào một trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng và có quyền, lợi ích bị xâm phạm từ chính các quan hệ đó. 333
  6. Ba là, Người chưa thành niên thực hiện quyền khởi kiện phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về hình thức và nội dung đơn khởi kiện. Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì yêu cầu khởi kiện phải được thể hiện dưới hình thức đơn khởi kiện. Người chưa thanh niên khởi kiện thông qua người đại diện thì người đại diện phải kí tên hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện. Bốn là, người chưa thành niên là nhóm chủ thể chưa đủ mười tám tuổi nhưng người chưa thành niên tự mình thực hiện quyền khởi kiện mà không cần thông qua người đại diện phải thuộc nhóm độ tuổi từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi. Họ đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Đây là điều kiện quan trọng và khác biệt giữa nhóm đương sự chưa thành niên và đương sự đã thành niên. Quy định này chỉ cho phép người chưa thành niên tự mình khởi kiện trong trường hợp luật định. Những trường hợp còn lại, quyền khởi kiện của người chưa thành niên phải thông qua người đại diện hợp pháp. 1.4. Về hình thức, nội dung đơn khởi kiện Quyền khởi kiện của người chưa thành niên, thuộc nhóm quyền khởi kiện chung của đương sự, hình thức và nội dung đơn khởi kiện phải theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Theo quy định tại khoản 1, Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: “Cơ quan, tổ chức cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện”. Như vậy, để thực hiện quyền khởi kiện, yâu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình chủ thể khởi kiện phải thể hiện các yêu cầu với hình thức đơn khởi kiện. Tiếp đó, theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều quy định:“Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ”. Người chưa thành niên với đặc thù về độ tuổi (chưa đủ mười tám tuổi) nên hạn chế về nhận thức, hiểu biết và suy nghĩ quyết định các vấn đề. Việc làm đơn khởi kiện của người chưa thành niên do người đại diện hợp pháp thực hiện. Người đại diện có thể tự mình làm đơn hoặc nhờ người khác làm đơn khởi kiện. Nếu người đại diện là người không biết chữ, người khuyết tật nhìn, người không thể tự mình làm đơn khởi kiện, người không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người có đủ năng lực tố tụng dân sự làm chứng. Quy định về quyền khởi kiện vụ án dân của người chưa thành niên có khác biệt hơn so với người đã thành niên thể hiện sự chặt chẽ trong quy định của pháp luật. Đây chính là điểm tiến bộ trong quy định. Tuy nhiên khi quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên áp dụng trên thực tế còn thể hiện một số vướng mắc, bất cập, làm cản trở quá trình thực hiện quyền khởi kiện. 2. BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN Bất cập và kiến nghị về xác định năng lực hành vi tố tụng của người chưa thành niên Chủ thể thực hiện hành vi khởi kiện nếu không đúng theo quy định của pháp luật sẽ bị Toà án trả lại đơn khởi kiện. Theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì một trong những trường hợp trả lại đơn khởi kiện là khi: “Người khởi kiện 334
  7. không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự”. Theo quy định này, người không có đủ năng lực hành vi tố tụng sẽ bị trả lại đơn khởi kiện. Nếu xác định trong mọi trường hợp người chưa thành niên đều không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì họ không được tự mình thực hiện hành vi khởi kiện mà bắt buộc phải thông qua người khởi kiện. Việc xác định năng lực hành vi tố tụng của người chưa thành niên có ý nghĩa rất quan trọng ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của người chưa thành niên” (Tống Công Cường, 2007). Vì vậy, việc xác định rõ trường hợp nào người chưa thành niên không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng, đó chính là cơ sở để Tòa án có thẩm quyền tiếp nhận đơn và giải quyết vụ án hay trả lại đơn cho đương sự. Theo quy định tại khoản 3, Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: “3. Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác” theo quy định này người đã thành niên có đủ năng lực hành vi tố tụng. Tiếp theo, tại các khoản 4,5,6 của Điều 69: “4. Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. 5. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. 6. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.” Theo quy định trên có thể thấy, Luật chỉ quy định nhóm chủ thể chưa đủ sáu tuổi là nhóm chủ thể không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Hai nhóm người chưa thành niên còn lại là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi và nhóm từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì luật không quy định cụ thể là có đủ năng lực hành vi tố tụng hay không có năng lực hành vi tố tụng. Căn cứ vào nội dung cụ thể của hành vi pháp luật tố tụng cho phép chủ thể là người chưa thành niên thực hiện có thể chia theo các nhóm mức độ năng lực hành vi tố tụng như sau: Nhóm thứ nhất: Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi tố tụng dân sự; Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Nhóm thứ hai: Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi không có năng lực hành vi tố tụng việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện Nhóm thứ ba: Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. 335
  8. Đây là trường hợp pháp luật cho phép người chưa thành niên được tự mình tham gia tố tụng mà không cần có người đại diện. Khi được tự mình tham gia tố tụng mà không cần có người đại diện nghĩa là họ được xem là có đủ năng lực hành vi tố tụng. Như đã phân tích, Toà án có quyền trả lại đơn khởi kiện khi người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng. “Không có đủ năng lực pháp tố tụng cũng được xem như không có đủ điều kiện khởi kiện. Tòa án sẽ không thụ lý mà trả lại đơn khởi kiện ” (Trần Anh Tuấn, 2017). Vậy nếu xác định trong mọi trường hợp người chưa thành niên đều không có đủ năng lực tố tụng thì trong mọi trường hợp người chưa thành niên đều không được tự mình làm đơn khởi kiện mà bắt buộc phải thông qua người đại diện. Cách quy định của pháp luật chưa rõ ràng dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về việc người chưa thành niên thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự. Xác định rõ năng lực hành vi tố tụng của người chưa thành niên góp phần bảo vệ quyền lợi của nhóm chủ thể này. Quy định của khoản 5 và 6 Điều 69 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cần được thay đổi để thống nhất và đảm bảo quyền khởi kiện của người chưa thành niên. 5. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện” 6. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ trường hợp đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Quy định này xác định rõ phạm vi năng lực hành vi tố tụng của người chưa thành niên. Qua đó bảo đảm được quyền khởi kiện của nhóm đương sự là người chưa thành niên, đặc biệt là nhóm đương sự đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình họ được tự mình quyết định việc khởi kiện và thực hiện hành vi khởi kiện. Những nhóm đương sự còn lại là người chưa thành niên vẫn phải thực hiện quyền khởi kiện thông qua người đại diện vì họ không có năng lực tố tụng. Quy định rõ ràng như vậy, sẽ dễ dàng xác định quyền khởi kiện của chủ thể là người chưa thành niên khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Bất cập và kiến nghị về chủ thể làm đơn khởi kiện Cá nhân có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình làm đơn khởi kiện hoặc nhờ người khác làm đơn khởi kiện. Đối với cá nhân là người chưa thành niên thì pháp luật có quy định như sau: Tại điểm b, khoản 2 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 “Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ”. 336
  9. Theo quy định này, trong mọi trường hợp người chưa thành niên đều không được tự mình làm đơn khởi kiện mà bắt buộc phải thông qua người đại diện. Như vậy, người chưa thành niên thuộc nhóm đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình cũng sẽ không được tự mình làm đơn khởi kiện. Quy định này mâu thuẫn với khoản 6, Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Theo khoản 6, Điều 69 nhóm chủ thể này có thể tự mình tham gia tố tụng mà không cần có người đại diện. Theo quan điểm của tác giả, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong tố tụng rất quan trọng, nhà làm luật cho phép đương sự tự mình thực hiện mà không cần có người đại diện nhưng việc làm đơn khởi kiện lại phải thông qua người đại diện. Như vậy có thể thấy, quy định việc làm đơn khởi kiện của người chưa thành niên trong mọi trường hợp phải thông qua người đại diện là không phù hợp. Quy định này, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực hiện quyền khởi kiện của người chưa thành niên. Theo điểm b, khoản 2 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự thì đưa ra quy định đồng nhất tất cả nhóm người chưa thành niên mà không tách biệt trường hợp khoản 6, Điều 69 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là không phù hợp. Cần có sự thay đổi tại điểm b khoản 2 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để các quy định được thống nhất, quyền lợi của người chưa thành niên được bảo đảm hiệu quả hơn “Cá nhân là người chưa thành niên, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án.” Quy định này đảm bảo quyền khởi kiện của người chưa thành niên. Đối với nhóm chủ thể từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình làm đơn khởi kiện mà không cần thông qua người đại diện. Đồng thời quy định này cũng hạn chế trường hợp Toà án căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 189 để trả lại đơn khởi kiện của đương sự là người chưa thành niên. 3. KẾT LUẬN Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền năng cơ bản mà pháp luật thừa nhận cho các chủ thể khi tham gia vào các giao dịch dân sự. Đối với người chưa thành niên quyền này càng có ý nghĩa quan trọng vì nó ghi nhận quyền quyết định giải quyết tranh chấp dân sự bằng cách yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết. Trong giai đoạn hiện nay khi xã hội ngày càng phát triển, các giao dịch dân sự ngày càng trở nên phức tạp, người chưa thành niên tham gia vào các quan hệ dân sự ngày càng nhiều. Chính vì vậy các tranh chấp dân sự liên quan đến người chưa thành niên ngày càng trở nên phổ biến. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được đánh giá là một bộ luật nhân văn, tiến bộ trong đó ghi nhận về quyền khởi kiện của đương sự nói chung và quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên nói riêng. Người chưa thành niên với đặc thù về độ tuổi (chưa đủ mười tám tuổi) nên còn nhiều hạn chế về nhận thức và hiểu biết. Việc nghiên cứu, tìm hiểu về quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên là rất cần thiết. Qua đó làm sáng tỏ quy định của pháp luật, bảo vệ nhanh chóng và hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Pháp luật tố tụng dân sự có nhiều quy định cụ thể về quyền khởi kiện của người chưa 337
  10. thành niên nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của nhóm chủ thể này. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng những quy định này thể hiện một số bất cập dẫn đên hạn chế quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên. Bất cập trong quy định xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa các điều luật và thiếu hụt các quy định. Hoàn thiện các quy định về quyền khởi kiện nói chung và quyền khởi kiện vụ án dân sự của người chưa thành niên nói riêng là cơ sở để đảm bảo quyền dân sự của chủ thể khi có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Đồng thời là cơ sở để Tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự. Từ đó, hoàn thiện quy định của pháp luật, bảo vệ nhanh chóng hiệu quả cho đương sự là người chưa thành niên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (2012), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động - Xã hội. 2. Tống Công Cường (2007), Luật Tố tụng dân sự Việt Nam - Nghiên cứu so sánh, NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 3. Đại hội đồng Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. 4. Đàm Thị Hoa (2016), Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam (Luận văn thạc sỹ). Trường đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 5. Tưởng Duy Lượng (2009), Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xé xử, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 6. Nguyễn Thị Hoài Phương (2016), Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, NXB Hồng Đức- Hội luật gia Việt Nam. 7. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013 8. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 9. Quốc Hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015 10. Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức- Hội luật gia Việt Nam. 11. Trần Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, NXB Tư pháp. 338
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2