Quyền tự do sử dụng tác phẩm qua hành vi sao chép theo pháp luật của Cộng hòa Pháp và Việt Nam
lượt xem 2
download
Bài viết Quyền tự do sử dụng tác phẩm qua hành vi sao chép theo pháp luật của Cộng hòa Pháp và Việt Nam phân tích quyền tự do sử dụng tác phẩm qua hành vi sao chép như là một ngoại lệ của quyền tác giả theo pháp luật của Cộng hòa Pháp và so sánh với các quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả đưa ra gợi mở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Quyền tự do sử dụng tác phẩm qua hành vi sao chép theo pháp luật của Cộng hòa Pháp và Việt Nam
- KINH NGHIỆM QUỐC TẾ QUYỀN TỰ DO SỬ DỤNG TÁC PHẨM QUA HÀNH VI SAO CHÉP THEO PHÁP LUẬT CỦA CỘNG HÒA PHÁP VÀ VIỆT NAM Nguyễn Thị Hồng Nhung* Ngô Minh Tín** *PGS.TS. Khoa Luật, Trường Đai học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh **ThS. Khoa Luật, Trường Đai học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khóa: Quyền tác giả, ngoại lệ Quyền tác giả được xác lập trên cơ sở sự thừa nhận, trao quyền sở hữu và của quyền tác giả, tự do sử dụng bảo hộ của Nhà nước đối với các chủ thể sáng tạo và đầu tư cho sự sáng tạo tác phẩm, quyền sao chép. như là một phần bù đắp cho công sức sáng tạo tương xứng. Ở một khía cạnh khác, con người có quyền được tiếp cận những sáng tạo mới phục vụ cho sự Lịch sử bài viết: phát triển không ngừng về khoa học công nghệ cũng như đời sống văn hoá, Nhận bài : 06/12/2021 tinh thần. Nhằm giải quyết sự xung đột lợi ích giữa chủ thể sáng tạo và quyền Biên tập : 09/02/2022 tự do sử dụng tác phẩm của xã hội, các nước trong đó có Việt Nam đã đặt ra Duyệt bài : 10/02/2022 chế định hạn chế quyền tác giả nhằm giúp cân bằng các lợi ích này. Trên cơ sở phân tích quyền tự do sử dụng tác phẩm qua hành vi sao chép như là một ngoại lệ của quyền tác giả theo pháp luật của Cộng hoà Pháp và so sánh với các quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả đưa ra gợi mở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Article Infomation: Abstract: Keywords: Copyright; copyright Copyright is established on the basis of recognition and protection of the exception; freedom to use work; State to subjects and investment in creativity as a compensation for the right to copy. corresponding creative effort. In another aspect, people have the right to access creations for the continuous development of science and technology Article History: as well as cultural and spiritual life. In order to resolve the conflict of Received : 06 Dec. 2021 interests between creative subjects and society, many countries including Edited : 09 Feb. 2022 Vietnam have set up restrictions on copyright, thereby helping to balance Approved : 10 Feb. 2022 the interests. On the basis of analysis of the freedom to use a work through copying as an exception to copyright under the law of the French Republic, and comparison of the Vietnamese current law on copyright, the authors give out recommendations for the improvement of the related legal regulations on copyright of Vietnam. 1. Đặt vấn đề biệt là Anh, Pháp vào đầu thế kỷ thứ 181. Khi Lịch sử chế định sở hữu trí tuệ (SHTT) nói các quốc gia đẩy mạnh lợi ích cốt lõi để phát chung và quyền tác giả nói riêng đã bắt đầu triển kinh tế - xã hội trong cuộc đua thay đổi được hình thành và phát triển ở châu Âu, đặc thế giới, nhiều xung đột đã phát sinh, bao gồm 1 Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), Quyền tác giả trong không gian ảo, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr.3. 58 Số 05 (453) - T3/2022
- KINH NGHIỆM QUỐC TẾ xung đột lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân, dưới góc độ quyền sử dụng tự do tác phẩm xung đột về pháp luật giữa các quốc gia khác của cộng đồng lại được đặt ra để cân bằng nhau. Để giải quyết các xung đột và thống nhất lợi ích giữa các chủ thể trong xã hội. Ngoại cuộc chơi sáng tạo chung, nhiều hiệp ước quốc lệ của quyền sao chép được hiểu là, trong một tế điều chỉnh lĩnh vực SHTT đã được ban hành, số trường hợp được pháp luật quy định, người trong đó có Công ước Bern 1886 về bảo hộ thực hiện hành vi sao chép tác phẩm không phải quyền tác giả (Bern) và Hiệp định về các khía xin phép hay trả thù lao cho tác giả. Nói cách cạnh thương mại liên quan đến quyền sở SHTT khác, trong một chừng mực nhất định, đó chính năm 1994 (TRIPS)2, và gần đây nhất là Hiệp là quyền tự do sử dụng tác phẩm qua hành vi định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái sao chép. Lẽ dĩ nhiên, quyền này chỉ được thực Bình Dương (CPTPP)3. Đây được xem là bước hiện trong một số trường hợp hạn hữu theo quy tiến lớn trong việc mở rộng cam kết về SHTT định của từng quốc gia. Tuy nhiên, làm thế nào nhưng lại mang tính mở và trao quyền cho các để cân bằng trọn vẹn lợi ích giữa một bên là tác quốc gia thành viên có thể điều chỉnh việc giới giả với một bên là các chủ thể khác một cách hạn quyền tác giả đối với hành vi sao chép để hợp lý nhất có thể? Câu hỏi này thu hút được đảm bảo quyền tự do sử dụng tác phẩm. sự quan tâm nghiên cứu của giới học giả trong Nhìn chung, quyền tác giả bao gồm quyền nước và trên thế giới. nhân thân và quyền tài sản4. Mặc dù, vì một số lý do nhất định, quyền nhân thân chưa thật sự Hiện nay, các nước trên thế giới có những được công nhận thống nhất ở tất cả các quốc quy định khác nhau về việc giải quyết xung đột gia trên thế giới5, nhưng quyền tài sản, trong đó giữa quyền tác giả và ngoại lệ của quyền tác có quyền sao chép của tác giả đối với tác phẩm giả trong việc sao chép dưới góc độ quyền tự do mình sáng tạo ra lại mang tính phổ quát, do sử dụng tác phẩm của cộng đồng dựa trên cơ nghĩa là được thừa nhận và bảo vệ rộng rãi ở sở các tiêu chí như số lượng, mục đích của việc các nước. Việc sao chép tác phẩm có thể mang sao chép. Khi quy định quyền tự do sử dụng tính vật chất (tạo bản sao được định hình dưới tác phẩm qua hành vi sao chép (một ngoại lệ một hình thức vật chất nhất định) nhưng cũng của quyền tác giả), luật pháp các nước chủ yếu có thể phi vật chất (trích dẫn, dịch thuật, phóng tập trung vào các hành vi phi lợi nhuận mang tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn…)6. Theo tính phục vụ cho lợi ích của nhiều người, cộng nguyên tắc của quyền sao chép, khi thực hiện đồng, xã hội, nhà nước như nghiên cứu khoa hành vi sao chép tác phẩm, người sử dụng phải học, giảng dạy. Tuy nhiên, cũng có nhiều quốc xin phép và trả thù lao cho tác giả. gia mở rộng phạm vi quyền tự do sử dụng tác Khi quyền tài sản của tác giả được bảo vệ, phẩm qua hành vi sao chép đối với cả trường vấn đề ngoại lệ của quyền sao chép tác phẩm hợp học tập. 2 Michael Blakeney (2015), Các khái niệm cơ bản về sở hữu trí tuệ, EC-ASEAN, tr.10-12. 3 Điều 18.3 CPTPP. 4 Xem khoản 2 Điều 6bis Công ước Bern, Điều 9 Hiệp định TRIPS. 5 Hoa Kỳ không bảo vệ quyền nhân thân của tác giả, ngoại trừ tác phẩm nghệ thuật thi giác (Điều 106A Copyright Act); xem thêm Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), Quyền tác giả trong không gian ảo, Tlđd, tr.34. 6 Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), Quyền tác giả trong không gian ảo, Tlđd, tr.40. Số 05 (453) - T3/2022 59
- KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Tại Việt Nam, quy định giới hạn quyền tác tài sản của tác giả mạnh mẽ như vậy, nhưng giả đối với hành vi sao chép chính thức được luật sở hữu trí tuệ của Pháp cũng đã thừa nhận thừa nhận trong Luật SHTT năm 2005 đã được những trường hợp ngoại lệ thoát khỏi tấm lưới sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019 (Luật SHTT bảo vệ quyền tác giả. Đó là các trường hợp sử năm 2005). Điều này đặc biệt đúng trong bối dụng, khai thác tác phẩm mà không cần sự cho cảnh cả thế giới bước vào cuộc cách mạng số phép của tác giả ; nói cách khác, tác giả không với nền tảng khoa học kỹ thuật công nghệ cao, được quyền cấm đoán hay cản trở các trường việc tiếp cận và sao chép các tác phẩm ngày hợp được quy định tại Điều L122-5, một khi cảng trở nên dễ dàng và tinh vi hơn, nhưng tác phẩm đã được công bố hợp pháp. Những cũng từ đó cho thấy các quy định về tự do sử ngoại lệ này nhằm mục đích cân bằng lợi ích dụng tác phẩm thông qua giới hạn quyền sao giữa tác giả và cộng đồng. Liên quan đến quyền chép của Việt Nam cũng trở nên lạc hậu hơn, sao chép tác phẩm trong phạm vi bài viết, theo theo nghĩa tác giả cảm thấy quyền của mình bị pháp luật Pháp thì tác giả không được quyền xâm phạm nhiều hơn, khó phát hiện hơn; mặt cấm đoán việc sao chép tác phẩm từ nguồn hợp khác, người thực hiện hành vi sao chép dễ trở pháp vì mục đích sử dụng cá nhân (à l’usage thành người vi phạm pháp luật hơn. privé) và không nhằm cho mục đích sử dụng tập thể, ngoại trừ tác phẩm nghệ thuật được tạo Dưới đây, tác giả chủ yếu tập trung bàn về ra cho mục đích cụ thể nào đó, chương trình bản sao được định hình vật chất, chứ không máy tính và dữ liệu điện tử9. nhằm giải quyết hết các vấn đề về sao chép tác phẩm theo nghĩa rộng bao gồm trích dẫn, « Mục đích sử dụng cá nhân» được quy định phóng tác, chuyển thể, biên dịch…, hay bản trong điều luật trên không bị hạn chế ở một hoạt sao để lưu trữ của thư viện. động cụ thể nào. Nói cách khác, việc sao chép tác phẩm mà không cần xin phép tác giả có thể 2. Quy định của pháp luật Pháp về quyền tự được thực hiện tự do nhằm phục vụ mục tiêu cá do sử dụng tác phẩm qua hành vi sao chép nhân của người sử dụng như sao chép một bản Đối với quyền tài sản của tác giả hay quyền để lưu trữ, để nghiên cứu, để học tập…. Tuy khai thác giá trị của tác phẩm, luật sở hữu trí nhiên, sẽ là vi phạm quyền tác giả nếu việc sao tuệ của Pháp quy định hai quyền cơ bản của chép tác phẩm nhằm mục đích cho nhiều người tác giả: quyền trình diễn và quyền sao chép tác cùng sử dụng chung. phẩm7. Theo đó, mọi hành vi trình diễn hoặc Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền tác giả, sao chép tác phẩm một phần hoặc toàn bộ tác pháp luật Pháp cũng quy định thêm rằng, hành phẩm dưới mọi hình thức mà không có sự đồng vi sao chép vì mục đích cá nhân này chỉ được ý của tác giả đều là bất hợp pháp8. xem là hợp pháp nếu nguồn sao chép là hợp Mặc dù với việc công nhận và bảo vệ quyền pháp10, ví dụ anh A mua một quyển sách có 7 Điều L122-1 Bộ luật Sở hữu trí tuệ Pháp. 8 Điều L122-4 Bộ luật Sở hữu trí tuệ Pháp. 9 Điều L122-5 Bộ luật Sở hữu trí tuệ Pháp. 10 Điều L122-5 Bộ luật Sở hữu trí tuệ Pháp. 60 Số 05 (453) - T3/2022
- KINH NGHIỆM QUỐC TẾ bản quyền và cho anh B sao chép một bản để trong việc sử dụng bản sao tác phẩm, pháp luật nghiên cứu hoặc học tập thì hành vi sao chép Pháp quy định tác giả được quyền hưởng thù của anh B là hợp pháp. Ngược lại, nếu anh B lao cho việc sử dụng tác phẩm vì mục đích cá thực hiện hành vi sao chép trên một quyển sách nhân (từ Điều L311-1 đến L311-8 Bộ luật Sở được sao chép bất hợp pháp thì hành vi của anh hữu trí tuệ Pháp). Số tiền thù lao này đã được B cũng là bất hợp pháp. Vậy nếu anh B thực tính trong giá bán các thiết bị, dụng cụ ghi âm, hiện hành vi sao chép từ nguồn hợp pháp, sau ghi hình… phục vụ cho mục đích sao chép cá đó anh C sao chép tiếp 1 bản trên bản sao hợp nhân, và sau đó được phân phối lại cho các pháp đó thì hành vi của anh C có được xem là chủ sở hữu quyền tác giả theo các nguyên tắc hợp pháp? Pháp luật Pháp chỉ nêu lên vấn đề được nêu trong luật. Lẽ dĩ nhiên, số tiền này nguồn sao chép phải hợp pháp, chứ không yêu cũng không quá lớn để hạn chế quyền sao chép cầu phải là tác phẩm gốc (œuvre originale), do cá nhân13. vậy hành vi của anh C vẫn được xem là hợp Ở đây, khi nêu lên vấn đề này, tác giả không pháp nếu tạo ra bản sao theo cách đó. bàn sâu về phương thức phân phối lợi nhuận, Quyền tự do sao chép tác phẩm mang tính nhưng có thể thấy rằng, tại Pháp, quyền tự cá nhân theo quy định tại Điều L122-5 Bộ luật do sử dụng tác phẩm qua hành vi sao chép cá Sở hữu trí tuệ Pháp cũng không bị giới hạn ở nhân không làm mất đi tính chất độc quyền của một hay một số bản sao nhất định. Tuy nhiên, quyền tác giả, mà cho phép quyền độc quyền mặc dù không cụ thể hóa số lượng cho phép, này tồn tại theo hình thức khác. Đây cũng nhưng «mục đích sử dụng cá nhân» cũng đã thể chính là điểm mấu chốt để lý giải các quy định hiện rõ bản chất của hành vi sao chép: hành vi về quyền tư do sử dụng tác phẩm qua hành vi là hợp pháp nếu một người sao chép 100 bản để sao chép cá nhân tại Pháp, theo nghĩa quyền dành lưu trữ và sử dụng riêng cho chính mình sao chép cá nhân không phải là một ngoại lệ (vì 1 bản hay 100 bản sao cũng không khác biệt hoàn toàn của quyền tác giả, vì mặc dù không khi sử dụng cá nhân), sẽ khác với một người cần phải xin phép nhưng vẫn trả thù lao cho tác sao chép chỉ 50 bản để đưa cho nhiều người sử giả dưới một hình thức gián tiếp. Tuy nhiên, dụng (bất hợp pháp)11. Quyền này cũng không quy định này có thể tạo ra mâu thuẫn với các bị giới hạn ở bất kỳ hình thức cụ thể nào, truyền biện pháp công nghệ bảo vệ tác phẩm, khi thống hay điện tử. Tuy nhiên, việc sao chép tự người sử dụng mua về các thiết bị trắng (đĩa do nhằm mục đích cá nhân này không được CD, USB…) để thực hiện sao chép cá nhân và gây ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường đã trả tiền cho tác giả trong giá mua thiết bị của tác phẩm, cũng không được gây ảnh hưởng đó nhưng lại không thể thực hiện sao chép tác bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả12. phẩm do biện pháp công nghệ bảo vệ tác phẩm Một vấn đề quan trọng cuối cùng cần đề mà tác giả hay các nhà sản xuất bản ghi âm, ghi cập thêm rằng để đạt mục tiêu cân bằng lợi ích hình có thể áp dụng. 11 Tại Hoa Kỳ, Thuỵ Điển, Nhật Bản, số lượng bản sao có thể nhiều hơn 1. 12 Điều L122-5 Bộ luật Sở hữu trí tuệ Pháp. 13 Xem thêm Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), Quyền tác giả trong không gian ảo, Tlđd, tr.51 và tiếp theo. Số 05 (453) - T3/2022 61
- KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 3. Quy định của pháp luật Việt Nam về đều xâm phạm quyền tài sản theo Điều 20 Luật quyền tự do sử dụng tác phẩm qua hành vi SHTT. Điều này một lần nữa cho thấy, việc sao chép quy định các giới hạn quyền tác giả tại Điều Như đã đề cập ở trên, nguồn gốc của quyền 25 Luật SHTT nói chung và đối với hành vi tự do sử dụng tác phẩm qua hành vi sao chép sao chép nói riêng xuất phát từ nguyên tắc cốt xuất phát từ nguyên tắc cân bằng lợi ích trong lõi về cân bằng lợi ích, trong khi vẫn phải đảm việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, bảo nhiệm vụ bảo vệ quyền tác giả đối với tác việc áp dụng không được gây ảnh hưởng bất phẩm sáng tạo nhằm thúc đẩy sự phát triển xã lợi nghiêm trọng đến việc khai thác thương hội15. Việc xác định điều kiện để tác phẩm được mại bình thường của chủ thể quyền tác giả. xem là đã công bố theo pháp luật của mỗi quốc Vận dụng các nguyên tắc này vào thực tiễn đất gia có sự khác nhau. Tại Việt Nam, công bố tác nước, Luật SHTT năm 2005 của Việt Nam đã phẩm là phát hành đến công chúng số lượng quy định chi tiết về các giới hạn quyền tác giả bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công đối với hành vi sao chép tại Điều 25. Cụ thể, chúng tùy theo bản chất của tác phẩm, nhưng mọi người có quyền tự do sao chép tác phẩm không bao gồm việc trình diễn, trưng bày tác trong trường hợp tự sao chép 1 bản sao tác phẩm trước công chúng như một số nước16. phẩm phục vụ cho mục đích nghiên cứu, giảng Thứ hai, việc sao chép bị giới hạn với một dạy của cá nhân đối với tác phẩm đã công bố14. bản sao duy nhất. Điều này đảm bảo cho công Như vậy, để thực hiện quyền tự do sử dụng chúng có quyền tự do sử dụng, nhưng số lượng tác phẩm theo quy định tại Điều 25 Luật SHTT bản sao không quá lớn để có thể gây ảnh hưởng đối với hành vi sao chép, người sao chép một đến lợi ích của chủ thể sáng tạo. Tuy nhiên, bản sao tác phẩm cho mục đích nghiên cứu cũng có quan điểm cho rằng, đối với các tác khoa học, giảng dạy phải đáp ứng các điều phẩm được sáng tạo cho mục đích đào tạo, mặt kiện sau: dù số lượng bản sao trên một chủ thể sao chép Thứ nhất, điều kiện đầu tiên và tiên quyết không lớn, nhưng việc bất kỳ ai cũng có thể là tác phẩm được sao chép đã được công bố. thực hiện quyền này rõ ràng thiệt hại tổng hợp Trường hợp tác phẩm chưa công bố, mọi hành là rất lớn và ảnh hưởng ít nhiều đến lợi ích của vi sao chép không được phép của chủ sở hữu chủ thể quyền17. 14 Điểm a Điều 25 Luật SHTT. 15 Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm và công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc. 16 Nguyễn Thị Ngọc Tuyền (2018), “Giới hạn quyền tác giả trong việc sao chép và trích dẫn tác phẩm dưới góc nhìn luật sơ sánh”, Tạp chí công thương (điện tử), https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/gioi-han-quyen-tac-gia-trong-viec-sao- chep-va-trich-dan-tac-pham-duoi-goc-nhin-luat-so-sanh-55018.htm?fbclid=IwAR3Oi-dUJV6tzeJACxgIrmqpF3_6w9V h6DiH44p0rKNijzXI5qNZiDECCyA, truy cập ngày 28/11/2021. 17 Quỳnh Như (2017), Lý, tình trong vụ cấm học vì photo giáo trình, https://plo.vn/phap-luat/ly-tinh-trong-vu-cam-hoc- vi-photo-giao-trinh-682628.html, truy cập ngày 27/11/2021. 62 Số 05 (453) - T3/2022
- KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Thứ ba, việc sao chép phải nhằm mục đích với các loại tác phẩm còn lại, bởi lẽ việc kiểm cá nhân. Đối với điều kiện này, khoản 1 Điều soát mục đích học tập hay nghiên cứu khoa học 22 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP khi giải thích rất khó thực hiện trên thực tế, vì ranh giới giữa Điều 25 đã quy định thêm, việc sao chép một học tập và nghiên cứu khoa học lại khá mờ bản sao tác phẩm cho các mục đích nghiên cứu nhạt: trong học tập có nghiên cứu và ngược lại. khoa học, giảng dạy phải không nhằm mục đích Nhìn chung, quy định về quyền tự do sử thương mại18. Nghị định số 22/2018/NĐ-CP đã dụng tác phẩm đối với hành vi sao chép trong đặt ra thêm một điều kiện mới so với Điều 25 pháp luật Việt Nam đã được quy định cụ thể của Luật SHTT, đó là “không nhằm mục đích tại Điều 25 Luật SHTT và được hướng dẫn bởi thương mại” đi kèm với mục đích cá nhân. Tác Nghị định số 22/2018/NĐ-CP khá phù hợp với giả cho rằng quy định thêm điều kiện mới như các cam kết của Việt Nam tại các Điều ước vậy là chưa phù hợp, bởi lẽ trái với nguyên quốc tế. Theo đó, khoản 1 Điều 18.65 Hiệp tắc đảm bảo tính thống nhất giữa văn bản luật định CPTPP trao quyền giới hạn quyền tác giả và văn bản hướng dẫn19. Trong Dự thảo Luật cho các quốc gia thành viên, nhưng nhấn mạnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT, việc giới hạn này không được ảnh hưởng đến nhà làm luật cũng đã đề xuất luật hoá quy định việc khai thác bình thường tác phẩm cũng như này vào Điều 25 Luật SHTT sửa đổi để phù không được gây phương hại bất hợp lý đến lợi hợp hơn với Luật Ban hành văn bản quy phạm ích của chủ sở hữu quyền tác giả21 và phù hợp pháp luật20. với quy định của TRIPS và Bern22. Cuối cùng, việc sao chép này phải nhằm Tuy nhiên, để đạt được sự cân bằng lợi ích mục đích nghiên cứu khoa học hoặc giảng dạy. thật sự giữa quyền sở hữu của chủ thể sáng tạo Điều này có nghĩa là dù đáp ứng đủ 3 điều kiện với việc sử dụng tự do tác phẩm thì dường như trên, nhưng nếu bản sao được sử dụng nhằm Việt Nam vẫn chưa đạt được. Thật vậy, về mặt mục đích khác, ví dụ như học tập, thì cũng bị lý thuyết, chúng ta có thể thấy pháp luật Việt xem là hành vi sao chép bất hợp pháp nếu chưa Nam hiện tại vẫn còn khá dè dặt trong việc xin phép và trả thù lao cho tác giả. Điều này trao nhiều lợi ích hơn cho cho cộng đồng so đúng với các tác phẩm được sáng tạo ra dùng với việc bảo vệ quyền tác giả, khi một mặt quy cho mục đích giảng dạy (sách giáo khoa, sách định giới hạn quyền tác giả, mặt khác lại ràng hướng dẫn, giáo trình, tài liệu giảng dạy trong buộc rất nhiều điều kiện được xem là khắt khe các cơ sở đào tạo), nhưng lại chưa hợp lý đối hơn so với pháp luật một số nước, qua đó làm 18 Khoản 1 Điều 22 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP: 1. Tự sao chép một bản quy định tại điểm a khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ áp dụng đối với các trường hợp nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục đích thương mại. 19 Khoản 1 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2020. 20 Dự thảo 2.0 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ ngày 17/11/2020, tr. 5. Khoản 6 Điều 1 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Điều 25 như sau: a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. 21 Khoản 1, Điều 18.65 CPTPP. 22 Khoản 2, Điều 18.65 CPTPP. Số 05 (453) - T3/2022 63
- KINH NGHIỆM QUỐC TẾ hạn chế quyền tự do sử dụng tác phẩm hợp lý Thực sự là khiêng cưỡng khi lấy pháp luật của các chủ thể có nhu cầu. Nhưng trên thực của quốc gia khác làm khuôn mẫu một cách tế, việc tạo bản sao dùng cho mục đích đa dạng máy móc để đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt của cá nhân lại không thể kiểm soát, vô hình Nam. Tuy nhiên, lý luận cũng như thực tiễn trung làm cho quy định của pháp luật xa rời phân tích ở trên đã cho thấy còn nhiều nội dung thực tiễn, không mang tính thực thi cao. Hiệp về quyền tư do sử dụng tác phẩm qua hành vi định CPTPP tại Điều 18.6623 cũng đã có hướng sao chép dưới góc độ ngoại lệ của quyền tác giả dẫn các quốc gia thành viên cần phải nỗ lực để cần phải được xem xét và điều chỉnh. Cụ thể, đạt sự cân bằng hợp lý trong hệ thống quyền qua nghiên cứu, tác giả có một vài đề xuất sau: tác giả bằng cách giới hạn hoặc ngoại lệ phù Một là, thay đổi về việc quy định số lượng hợp quyền tác giả phù hợp với Điều 18.65 của bản sao. Theo đó, không cần thiết phải là 1 bản Hiệp định, bao gồm trong đó có mục đích học sao, bởi lẽ nếu đã dùng cho mục đích của cá tập, nghiên cứu, giảng dạy... nhân thì một hay nhiều bản sao cũng không quá 4. Kết luận và đề xuất quan trọng như đã phân tích ở trên, vì không gây ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường Qua nghiên cứu pháp luật của Pháp và Việt của tác phẩm đó. Nam về quyền tự do sử dụng tác phẩm qua Hai là, nên cụ thể hoá mục đích phi thương hành vi sao chép – một trường hợp ngoại lệ mại vào văn bản luật cho phù hợp giữa văn bản của quyền tác giả, tác giả cho rằng có một số luật và văn bản hướng dẫn thi hành. nét tương đồng cũng như khác biệt giữa hai quốc gia này. Cụ thể, về sự tương đồng, cả hai Ba là, bổ sung mục đích học tập vào ngoại hệ thống pháp luật đều cụ thể hóa các trường lệ của quyền sao chép, ngoại trừ các tác phẩm hợp sao chép tác phẩm đã công bố mà không được sáng tạo cho mục đích giảng dạy như giáo cần xin phép hay trả thù lao cho tác giả vì mục trình, sách giáo khoa, tài liệu học tập... Việc bổ đích cá nhân. Tuy nhiên, pháp luật Pháp lại sung mục đích học tập có chọn lọc này sẽ giúp không đưa ra giới hạn cụ thể cho các trường cho pháp luật gần với thực tiễn hơn, mang tính hợp sử dụng cá nhân, cũng như số lượng bản khả thi và hợp lý hơn. sao, nhưng lại quy định nguồn sao chép phải Cuối cùng là, nghiên cứu áp dụng cơ chế là nguồn hợp pháp để đảm bảo quyền tác giả. tiền bản quyền trong giá bán các thiết bị sao Ngược lại, Pháp luật Việt Nam chỉ cho phép chép sao cho đảm bảo lợi ích của tác giả cũng một bản sao duy nhất cho mục đích nghiên cứu như lợi ích chính đáng của người sử dụng. Có khoa học và giảng dạy của cá nhân, và không như thế, các kiến nghị ở trên mới thực sự hợp đề cập gì đến nguồn sao chép. lý và có tính khả thi ■ 23 “Each Party shall endeavour to achieve an appropriate balance in its copyright and related rights system, among other things by means of limitations or exceptions that are consistent with Article 18.65 (Limitations and Exceptions), including those for the digital environment, giving due consideration to legitimate purposes such as, but not limited to: criticism; comment; news reporting; teaching, scholarship, research, and other similar purposes; and facilitating access to published works for persons who are blind, visually impaired or otherwise print disabled.” 64 Số 05 (453) - T3/2022
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đánh giá tình hình chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên địa bàn huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên
7 p | 150 | 14
-
Đánh giá tình hình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại huyện Bắc Tân Uyên tỉnh Bình Dương giai đoạn 2018–2020
9 p | 38 | 13
-
Nghiên cứu công tác đấu giá quyền sử dụng đất của một số dự án trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
10 p | 72 | 10
-
Thực trạng công tác đấu giá quyền sử dụng đất trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang
11 p | 31 | 10
-
Vấn đề quyền của người sử dụng đất trong thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, và tài sản khác gắn liền với đất theo Luật Đất đai 2013
14 p | 35 | 9
-
Nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng công tác đấu giá quyền sử dụng đất ở một số dự án trên địa bàn huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai
6 p | 41 | 7
-
Thực trạng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2015-2018
11 p | 26 | 7
-
Bàn về hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất
6 p | 14 | 6
-
Tiếp cận quyền sử dụng đất của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
8 p | 23 | 6
-
Quyền sao chép của người học: Nhìn từ góc độ quyền sử dụng hợp lý
8 p | 56 | 5
-
Công tác thi hành pháp luật về đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
7 p | 51 | 5
-
Triết lí tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và tham chiếu cho nghiên cứu hành pháp
12 p | 43 | 3
-
Quyền tự do hiệp hội và thương lượng tập thể tại các doanh nghiệp FDI ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh hiện nay – thực trạng và khuyến nghị
13 p | 40 | 3
-
Tác động của tự do kinh tế đến sự phát triển con người: Nghiên cứu ở một số nước đang phát triển giai đoạn 2010-2019
20 p | 27 | 2
-
Quyền bề mặt trong pháp luật dân sự và quyền sử dụng đất trong pháp luật đất đai của Việt Nam
5 p | 24 | 2
-
Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân - Bất cập và một số kiến nghị
9 p | 5 | 1
-
Vướng mắc về chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản cho tổ chức để đầu tư xây dựng nhà ở, công trình xây dựng theo Luật Kinh doanh Bất động sản 2023
7 p | 3 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn