SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2

======***=====

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài:

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TRANH BIỆN CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE: THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU ( BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG, NGỮ VĂN 10)

LĨNH VỰC: NGỮ VĂN

Tên tác giả: 1. HOÀNG THỊ THU HUYỀN

2. CUNG THỊ THU

Tổ bộ môn: Ngữ văn

Năm thực hiện: 2022 -2023

SĐT liên hệ : 0343675101

0966512070

1

Yên Thành, tháng 4 năm 2023

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài:

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TRANH BIỆN CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE: THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU ( BỘ SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG, NGỮ VĂN 10)

LĨNH VỰC: NGỮ VĂN

MỤC LỤC

Trang

Phần I. Đặt vấn đề………………………………………………………… 1

Phần II. Nội dung nghiên cứu…………………………………………… 6

Chương 1. Cơ sở khoa học của đề tài…………………………………….. 6

1. Cơ sở lý luận……………………………………………………………… 6

1.1. Khái niệm kỹ năng……………………………………………………….. 6

1.2. Khái lược về tranh biện…………………………………………………... 6

1.3.Dạy học hoạt động Nói và nghe trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018 11

12

1.4.Văn nghị luận xã hội và dạy học nói và nghe văn nghị luận xã hội trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018…………………………………………..

2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………. 13

2.1.Tranh biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến………. 13

13

2.2.Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh và Sự phát triển của phong trào tranh biện trong giới trẻ hiện nay……………………………………………..

2.3.Vì sao cần phải phát triển kỹ tranh biện trong dạy học………………….. 14

2.4.Kỹ năng tranh biện trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018............. 16

18

Chương 2. Thực trạng dạy học kỹ năng tranh biện của GV Và HS trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018 ở trường THPT...................

1. Đánh giá thực trạng thông qua số liệu điều tra, khảo sát………………….. 18

2. Phân tích nguyên nhân của thực trạng……………………………………... 18

23

3. Những thuận lợi khi rèn luyện KNTB cho HS trong Chương trình GDPT 2018 tại trường THPT Yên Thành 2

25

Chương 3. Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 THPT qua dạy học phần Nói và nghe thảo luận về vấn đề xã hội có kiến khác nhau………………………………………………………

1. Một số nguyên tắc đề xuất biện pháp……………………………………… 25

2. Một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao kỹ năng tranh biện cho học 27

sinh THPT qua dạy học phần Nói và nghe thảo luận về vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau…………………………………………………………………

2.1. Chiến lược xây dựng câu hỏi……………………………………………. 27

2.1.1. Xây dựng các chủ đề tranh biện phù hợp……………………………… 27

29

2.1.2. Tạo cơ hội cho học sinh tranh luận thông qua hình thức trao đổi, thảo luận nhóm với hệ thống bài tập có chủ định………………………………….

2.1.3. Tổ chức thuyết trình và tranh biện ……………………………………. 30

2.2. Hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận............................................. 32

33

2.2.1. Để có một lập luận tốt trong tranh biện, cần chú ý ba tiêu chí khi xây dựng lập luận: tính liên quan, tính đúng đắn, tính quan trọng..........................

34

2.2.2. Để có một lập luận tốt trong tranh biện cần thiết lập một cấu trúc lập luận chặt chẽ giữa Luận điểm, lý lẽ, dẫn chứng để đi đến một kết luận vững chắc trước đối phương………………………………………………………...

2.3. Rèn luyện một số kỹ năng đi kèm để nâng cao hiệu quả tranh biện ……. 37

2.3.1.Rèn luyện kỹ năng làm chủ nội dung tranh biện……………… 37

2.3.2.Rèn luyện kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm xúc khi tranh biện…. 39

39

2.3.3.Rèn luyện kỹ năng sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ khi tranh biện…………………………………

2.3.4. Rèn luyện kỹ năng sử dụng hiệu quả các thủ thuật phản biện……… 40

3. Khảo sát tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp đề xuất……………. 49

4. Khả năng và ứng dụng của đề tài………………………………………... 53

Phần III. Kết luận……………………………………………………… 55

Phụ lục

Tài liệu tham khảo

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TT Từ viết tắt Từ đầy đủ

KNTB Kỹ năng tranh biện 1

2 GV Giáo viên

3 HS Học sinh

4 SGK Sách giáo khoa

5 GDPT Giáo dục phổ thông

6 THPT Trung học phổ thông

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Các mối quan hệ trong xã hội dù ở bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống: từ đạo đức, văn hóa, giáo dục… đến chính trị, khoa học, kinh tế, luật pháp…luôn luôn làm nảy sinh, xuất hiện những tình huống phức tạp, chứa đựng những mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết. Đối thoại, tranh luận phản biện là cách giải quyết các mâu thuẫn dựa trên sức mạnh của trí tuệ - ngôn từ, là phương thức ôn hòa để hóa giải mâu thuẫn, cân bằng các mối quan hệ, san bằng cách biệt, giúp tiếp cận và làm sáng tỏ chân lý, tạo động lực để xã hội phát triển và là phương tiện giao tiếp không thể thiếu trong thế giới tiến bộ. Là hình thức giao tiếp ngôn ngữ đặc thù, kỹ năng tranh biện luôn gắn bó tự nhiên, giao thoa và song hành cùng kỹ năng lập luận và kỹ năng tư duy phản biện để hình thành nhóm kỹ năng tư duy - ngôn ngữ. Đây là nhóm kỹ năng vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, trong đó có thể coi kỹ năng tư duy phản biện là khối óc và kỹ năng lập luận, tranh biện là dòng máu, là hơi thở để duy trì “sức sống” cho đối thoại, tranh luận.

Mặt khác, rèn luyện KNTB là cơ sở để hình thành và phá triển các kỹ năng sáng tạo, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng hợp tác, mà theo Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF – 2015) đây là những kỹ năng hình thành nên nhóm kỹ năng hội nhập, là hành trang của công dân trong thế kỷ XXI. Vì vậy, việc rèn luyện và nâng cao kỹ năng lập luận và tranh biện là một trong những phương pháp hiệu quả để nâng cao năng lực và giá trị bản thân, đó không chỉ là thước đo để đánh giá phẩm chất và thái độ sống của mỗi người mà còn là “nguồn lực” để phát triển trong một thế giới đầy biến động và bất định. Chính vì thế, trong mục tiêu chương trình GDPT 2018, việc phát triển KNTB là hướng đi phù hợp đáp ứng được nhu cầu đổi mới của giáo dục và phù hợp với xu thế của các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.

6

1.2.Thực tế trong học tập và trong cuộc sống hiện nay luôn chú trọng đến hoạt động tranh biện. Trên các diễn đàn, chương trình truyền hình đã xuất hiện những chương trình hình thành và rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh các cấp như Trường Teen trên kênh VTV7, Thanh niên nói, Học thuật đồng đội(World Scholars cup) hay những cuộc thi tranh biện bằng tiếng Anh. Khi HS tham gia các cuộc thi trên đã phát triển tốt kỹ năng tranh biện cũng như phát triển tư duy logic và tư duy phản biện. Đồng thời rèn luyện được sự tự tin trong giao tiếp, sự sáng tạo trong lập luận, kỹ năng làm việc nhóm và cả kỹ năng lãnh đạo. Không những thế, để làm tốt hoạt động tranh biện thì HS phải tự kiến tạo tri thức, xây dựng được chính kiến của bản thân, có khả năng đánh giá và phản biện đưa ra các lí lẽ sắc sảo, cách lập luận chặt chẽ để phản bác lại quan điểm của người khác, bảo vệ quan điểm của mình. Chính vì thế mà phát triển những sân chơi như thế đã thu hút đông

đảo học sinh tham gia và hưởng ứng tích cực.

Trong môi trường GD của nhà trường, việc phát triển kỹ năng tranh luận cho HS mới chỉ dừng lại dưới hình thức giáo dục như trải nghiệm sáng tạo, hoạt động ngoài giờ lên lớp để tạo môi trường thuận lợi cho các em rèn luyện kỹ năng này. Thực tế cho thấy, phát triển kỹ năng tranh biện ở học sinh THPT còn tồn tại dưới dạng tiềm năng, chưa được khai thác nhiều đặc biệt trong quá trình tổ chức dạy học ở trên lớp.

1.3. Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn: giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha...Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Ngữ văn trong chương trình GDPT 2018 có vai trò to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt đời. Chương trình lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe.

Sách giáo khoa Ngữ văn 10 thuộc bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống” đã đáp ứng theo đúng yêu cầu của Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018, chú trọng mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất cho người học. Đặc biệt, bộ sách đã thiết kế hoạt động Nói và nghe tương tác nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS về các vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau thông qua hai bài học:“Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống”- Ngữ văn, tập 1); Kỹ năng này tiếp tục được lặp lại và đòi hỏi vận dụng cao hơn trong chương trình học kỳ 2 trong “Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống” - Ngữ văn, tập 2). Năm học 2022 - 2023 là năm đầu tiên thực hiện Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018. Thực tế cho thấy, trong quá trình giảng dạy, một bộ phận không nhỏ giáo viên còn lúng túng trong khâu tổ chức tranh biện cho HS, chủ yếu cung cấp kiến thức, chưa tạo cơ hội để học sinh bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình. Mặt khác, ở các tiết học đó, một số giáo viên lựa chọn các chủ đề quá cũ, không phù hợp với nhịp sống đang diễn ra sôi động hiện nay nên thực sự không thu hút được sự quan tâm từ phía học sinh; đồng thời, 7

khi học sinh phát biểu hoặc trình bày vấn đề thì còn mang tính chất một chiều; thiếu sự tranh biện…Chính vì vậy, các giờ học này khá khô khan, nhàm chán; chưa phát huy được sự tích cực, chủ động từ phía người học.

Mặt khác, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ của đồng nghiệp trong và ngoài trường, chúng tôi nhận thấy rằng việc sáng tạo trong đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh; dạy học phát triển năng lực cho người học đặc biệt là phát triển kỹ năng tranh biện rất cần thiết, được xem như mục tiêu cốt lõi của chương trình giáo dục phổ thông mới.

Xuất phát từ các lý do trên, Chúng tôi đã nghiên cứu, áp dụng và từ đó đúc rút kinh nghiệm để viết nên bản sáng kiến với đề tài:“Rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe:Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10).

Trong quá trình giảng dạy các tiết dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau - Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn 10 trong chương trình học kỳ 1 và 2, Chúng tôi đã vận dụng một số biện pháp dạy học tích cực nhằm phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh như dạy học bằng cách đưa ra chiến lược xây dựng câu hỏi gồm xây dựng các chủ đề tranh biện có tính thời sự; hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận vững chắc; các biện pháp rèn luyện kỹ năng làm chủ nội dung tranh luận, kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm xúc khi tranh luận… để các em có cơ hội bày tỏ suy nghĩ, quan điểm của mình. Chúng tôi nhận thấy các tiết học sôi động hơn, học sinh thích thú, say mê; học sinh thực sự chủ động, tích cực và sáng tạo; không khí học tập dường như sôi nổi hẳn lên. Học sinh vận dụng linh hoạt kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn trong đời sống, rèn luyện kỹ năng sống; đặc biệt học sinh làm chủ suy nghĩ và biết cách bảo vệ ý kiến của mình trước những thông tin đa chiều; qua đó phát triển một cách toàn diện về thể chất, trí tuệ và rèn luyện trở thành một con người năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước những yêu cầu của thời đại mới. Đồng thời, khi thực hiện các tiết dạy này, giáo viên sáng tạo hơn trong việc chuẩn bị nội dung và thiết kế dạy học. Như vậy, việc thực hiện đề tài này đã thay đổi cách dạy và học của giáo viên và học sinh, mang lại hiệu quả cao trong dạy học.

2. Mục đích - Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này nhằm đề xuất được các biện pháp rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 thông qua dạy học phần Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn tập 1,2). Đồng thời tạo ra một không khí dạy học dân chủ, thoải mái, góp phần làm nên sức hấp dẫn của tiết dạy, thực hiện đúng mục tiêu của Chương trình GDPT Ngữ văn 2018.

8

Nhiệm vụ cụ thể mà chúng tôi tiến hành như sau:

- Nghiên cứu nhiệm vụ năm học 2022 – 2023 thông qua các văn bản chỉ đạo

thực hiện Chương trình GDPT Ngữ văn 2018 của Sở giáo dục đào tạo Nghệ An.

- Nghiên cứu cơ sở lí luận về tư duy hùng biện, phản biện, tranh biện và các

biện pháp phát triển năng lực đó trong dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.

- Nghiên cứu cơ sở lí luận về bài tập thực tiễn, các kỹ năng lập luận, phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ… và vai trò của nó trong việc phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh.

- Nghiên cứu bài học: phần Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có

ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn tập 1,2)

- Đề xuất các biện pháp rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 thông qua dạy học : phần Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn tập 1,2).

3. Phạm vi nghiên cứu và Đối tượng nghiên cứu

Đề tài bàn đến là giải pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS lớp 10 cấp THPT. Nhưng trong khả năng của người viết, Chúng tôi chỉ xin đề xuất một số cách rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học bài Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Sách giáo khoa Ngữ văn 10 - bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống (Bùi Mạnh Hùng và cộng sự, 2022). Đây là 1 trong 3 bộ sách được Bộ GD - ĐT phê duyệt; trở thành một tài liệu lựa chọn giảng dạy hữu ích trong nước. Việc lựa chọn bộ SGK này làm phạm vi nghiên cứu cho đề tài là một việc làm thiết thực cho hành trang giáo dục sắp tới.

Đối tượng học sinh mà chúng tôi thực nghiệm và đối chứng kết quả là học sinh lớp 10 trường THPT Yên Thành 2, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong năm học 2022 - 2023 tại ba lớp chúng tôi trực tiếp giảng dạy 10A2, 10A5, 10A6. Chúng tôi cũng sử dụng Kế hoạch dạy học của tổ Ngữ văn THPT Yên Thành 2 năm học 2022 - 2023 để thực hiện sáng kiến này.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số phương

9

pháp nghiên cứu như: - Phương pháp điều tra, khảo sát và xử lý số liệu. - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp thực nghiệm sư phạm.. - Phương pháp so sánh… Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau: Bước 1: Tiến hành khảo sát năng lực tranh biện và hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh trường THPT Yên Thành 2 Bước 2: Soạn bài và dạy thể nghiệm theo hướng phát triển kỹ năng tranh biện ở một số lớp mà chúng tôi trực tiếp giảng dạy.

Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết dạy. Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận.

5. Tính mới, đóng góp của sáng kiến

- Góp phần làm sáng tỏ và sâu sắc thêm hệ thống lý luận về vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh THPT; xác định những phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động trong dạy học bài Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh.

- Đánh giá khách quan những thành tựu và tồn tại của việc rèn luyện kỹ năng tranh biện trong dạy học Chương trình Ngữ văn 2018. Đó là cơ sở thực tiễn để đề xuất các biện pháp rèn luyện kỹ năng này cho học sinh, đáp ứng yêu cầu chương trình GDPT 2018.

- Đề xuất những biện pháp cụ thể như chiến lược xây dựng hệ thống câu hỏi/ bài tập, hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận và rèn luyện một số kỹ năng đi kèm như kỹ năng làm chủ nội dung tranh biện, kỹ năng sử dụng phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ…để nâng cao hiệu quả tranh biện cho học sinh lớp 10 THPT.

Đây là những biện pháp mới đã được thực hiện có hiệu quả tại đơn vị công

10

tác, có khả năng áp dụng đối với các trường THPT.

PHẦN II. NỘI DUNG

Chương 1. Cơ sở khoa học của đề tài

1. Cơ sở lý luận

1. 1. Khái niệm kỹ năng

Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong lĩnh vực nào đó vào thực tế. Kỹ năng thể hiện khả năng thực hiện có kết quả những hành động trên cơ sở những kiến thức có được đối với việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra phù hợp với mục tiêu và điều kiện cho phép.

Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng có lẽ không có cơ sở lý thuyết nào tốt hơn hai lý thuyết về phản xạ có điều kiện (được hình thành trong thực tế cuộc sống của cá nhân) và phản xạ không điều kiện (là những phản xạ mà cá nhân sinh ra đã sẵn có). Trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi cá nhân tham gia hoạt động thực tế của cuộc sống. Ví dụ: kĩ năng giao tiếp, kỹ năng quản trị chỉ được hình thành trong hoạt động công việc của cá nhân. Đa số kỹ năng mà chúng ta có đều xuất phát từ việc rèn luyện, bồi dưỡng. Như vậy, nền tảng thành công của con người trong cuộc sống là do 90% được đào tạo và tự đào tạo, chỉ có 2% là kỹ năng bẩm sinh.

Có nhiều cách phân loại kỹ năng. Về cơ bản, kỹ năng có hai loại. Loại thứ nhất là kỹ năng cứng. Đây là kỹ năng có tính nền tảng có được do đào tạo từ nhà trường hoặc tự học. Loại thứ hai là kỹ năng mềm có được từ hoạt động thực tế. Kỹ năng mềm gồm nhiều loại kỹ năng phong phú như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán, kỹ năng tranh biện…Để thành công, đòi hỏi con người phải trang bị cả kĩ năng cứng và kỹ năng mềm, phải vận dụng linh hoạt hai loại kỹ năng cơ bản này trong học tập và cuộc sống. Trong đó, việc vận dụng các kỹ năng mềm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là trong xã hội hiện đại nay.

1.2. Khái lược về tranh biện

Để có một cái nhìn khách quan và chính xác về vấn đề rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh trong dạy học Nói và nghe : Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) thì trước hết chúng ta phải tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến tranh biện và phương pháp tranh biện.

11

1.2.1.Kỹ năng tranh biện

Tranh biện có khi còn được gọi là tranh luận (tranh luận – phản biện) là một hình thức giao tiếp ngôn ngữ đặc thù, thường xuất hiện trong những tình huống giao tiếp có tính đối kháng cao, trong đó các bên tranh luận dùng lý lẽ, lập luận để phân tích, luận giải nhằm xác định đúng/sai, phải/trái… về một quan điểm, một tư tưởng, một vấn đề, một sự việc… nào đó. “Tranh biện” là một trong những hoạt động lâu đời nhất của nền văn minh. Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…, việc thực hành tranh biện được thể hiện rõ ràng không chỉ qua các hoạt động giáo dục mà còn qua các phương tiện truyền thông và đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Tranh biện là cuộc trình diễn tổng hợp các kỹ năng: tư duy phản biện, nói trước công chúng, tổ chức sắp xếp, làm việc nhóm, nghe, ghi chép…

Vì thế, chúng ta có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về tranh biện.

Theo “Từ điển Hán Việt Từ Nguyên” của Bửu Kế đã định nghĩa “Tranh” là “giành”; “biện” là “cãi lẽ”; “tranh biện” là “cãi lẽ để giành lẽ phải về phần mình”; “Tranh biện” đồng nghĩa với “tranh luận”.

Hay nhóm tác giả Hoàng Phê, Hoàng Thị Tuyền Linh, Vũ Xuân Lương, Phạm Thị Thủy, Đào Thị Minh Thu, Đặng Thanh Hòa trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” cũng có quan niệm khác: “Tranh biện” là “tranh luận phải trái”; “Tranh luận” là “bàn cãi để tìm ra lẽ phải”; “tranh biện” đồng nghĩa với “tranh cãi”.

Theo “Từ điển Oxford” định nghĩa “tranh biện là việc tham gia vào cuộc

tranh luận bằng việc nêu ra ý kiến trái ngược”.

Còn hiểu theo tổ chức Vietnam Youth to Debate (Y2D) – tổ chức nghiên cứu và giáo dục về tranh biện cho thanh thiếu niên Việt Nam lại có định nghĩa khác. Hiểu theo nghĩa hẹp, “tranh biện là một trong những loại hình giao tiếp bằng lời”. Tuy nhiên, tranh biện cũng có những đặc điểm khác với những loại hình giao tiếp bằng lời khác. Những đặc điểm của tranh biện trong tương quan với các loại hình khác có thể được thầy Nguyễn Thiên Minh - cán bộ trung tâm Ứng dụng Việt ngữ học, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn thể hiện thông qua bảng sau: bảng 1.1.1

Loại hình giao tiếp Ví dụ Mục đích chính Đặc điểm nổi bật Biến thể (nếu có) Phương tiện chủ yếu Ứng dụng chủ yếu trong

Đối thoại Nói Giao tiếp

chuyện Trao đổi thông tin

12

Mọi hình thức của lời nói Tự do, không hạn định

Thảo luận Cuộc

họp Giả thuyết Kết luận Giáo dục Hội họp Thương thuyết

Thống nhất các ý kiến

Tranh luận Các bài Phê Phán

Tìm ra cái gì Lập luận Kết luận Giáo dục luật Cần người dẫn dắt Cần chương trình định trước Chính xác cao độ

tranh luận trên tạp chí khoa học Đúng

Pháp Khoa học

Phân biệt rạch ròi đúng sai

Tranh biện Các bút Lập luận Có một giải

Tìm ra ai đúng

chiến trên báo

pháp “tối ưu” hơn các giải pháp khác

Nghệ thuật Tư tưởng Giáo dục Các vấn đề xã hội

Hiểu theo nghĩa rộng, “Tranh biện được hiểu là quá trình tư duy và biểu đạt tư duy từ thu thập, phân tích xử lý thông tin đến xây dựng, hệ thống sắp xếp các lập luận để ra quyết định. Tranh biện có thể sử dụng ngôn ngữ (thông qua nói, viết) hoặc không sử dụng ngôn ngữ (tự tranh biện – trong bản thân từng cá nhân). Tranh biện giúp giải quyết vấn đề, bằng cách chỉ ra những xung đột/ mâu thuẫn giữa các luận điểm do người học sử dụng tư duy phản biện để phản đối trực tiếp trên luận điểm của đối phương”

Từ đó, có thể định nghĩa: tranh luận (tranh biện) là hình thức giao tiếp ngôn ngữ mang tính đối kháng, nảy sinh khi có sự khác biệt hoặc đối lập gay gắt về quan điểm trước cùng một vấn đề, một sự viêc, một hiện tượng… trong đó hai bên tranh luận đều nỗ lực dùng lý lẽ, bằng chứng và lập luận để bác bỏ quan điểm của đối phương, đồng thời khẳng định chân lý, lẽ phải thuộc về mình.

13

Tranh biện còn nhằm thuyết phục chính bản thân mình, hoặc người khác rằng lựa chọn nào là tốt hơn, đặt trong những bối cảnh và điều kiện cụ thể. Kết luận của tranh biện mang tính tương đối, không có đúng nhất mà mang tính tạm thời tại thời điểm kết thúc cuộc tranh biện.

Trên cơ sở tham khảo ý kiến từ các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, theo chúng tôi: Tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi những người tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn bằng hệ thống các lập luận logic. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung.

Tranh biện cũng khác với kiến nghị, thảo luận, tranh luận và phản biện.

Trong đó, “Kiến nghị là đưa ra ý kiến về một vấn đề để mọi người bàn bạc và đưa ra hướng giải quyết”. Trong tranh biện, kiến nghị là vấn đề được đưa ra để làm chủ đề để tranh biện. Đó có thể là một nhận định, một đề xuất, hay một dự báo về một vấn đề nào đó.

“Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề, có phân tích lý lẽ”. Thảo luận sẽ là một khâu nằm trong tranh biện bởi nó là quá trình mọi người giao lưu, bàn bạc để nhất trí đường hướng, cùng nhau giải quyết vấn đề mà chúng ta đang cần phải tranh biện với nhau.

Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt thông dụng” của Như Ý, NXB Giáo dục định nghĩa “Tranh luận là bàn cãi có phân tích lí lẽ để tìm ra lẽ phải”. Như vậy, mục đích cuộc tranh luận ở đây là tìm xem ai đúng.

Còn Phản biện là việc sử dụng một lý lẽ để chống lại một lý lẽ, chỉ ra điểm yếu, điểm sơ hở của lý lẽ đó dựa trên các luận điểm được đưa ra. Mục tiêu chính là thiết lập sự cân nhắc đối với các lựa chọn được đưa ra và tăng cường sự thuyết phục đối với quan điểm cá nhân bằng cách làm suy yếu quan điểm của đối phương.

Như vậy, chúng ta thấy rằng “tranh biện” là một khái niệm khác hẳn với những khái niệm trên và không thể đồng nhất tất cả các khái niệm đó với nhau. Về bản chất, tranh biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ đòi hỏi những người tham gia phải chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn. Đó là cách ngắn nhất và ôn hòa nhất giúp mọi người cùng đi đến một nhận thức chung. Tranh biện được coi là tinh hoa của năng lực sử dụng ngôn ngữ, là cách thức phát triển trí tuệ, là hòn đá mài sắc tư duy. Chính vì vậy, tranh biện là một kỹ năng thiết yếu của con người, nhất là trong thời đại ngày nay.

1.2.2. Phương pháp tranh biện

14

Tranh biện là xương sống của giáo dục. Trong các môn khoa học tự nhiên, người nghiên cứu có thể chứng minh được sự thật khi dùng những dữ kiện hay thử nghiệm tự nhiên vào việc này. Tuy nhiên, đối với những môn xã hội chẳng hạn thì cách tiếp cận vấn đề hoàn toàn khác. Trong dạy học, tổ chức cho học sinh tranh

biện vừa là một hình thức tổ chức dạy học vừa là phương pháp dạy học cần áp dụng phổ biến hiện nay nhằm giúp các em tự chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng…

Vậy “phương pháp tranh biện” trong dạy học được hiểu như thế nào? Phương pháp tranh biện là cách giáo viên đưa ra, gợi mở cho học sinh suy nghĩ, đánh giá về một vấn đề nhất định theo những hướng khác nhau, trái ngược nhau. Sau đó dựa trên những tìm hiểu của các em, giáo viên tổ chức cho các em trao đổi, bàn bạc, phản biện về vấn đề. Học sinh sẽ đưa ra và bảo vệ quan điểm của mình, đồng thời thuyết phục đối phương theo ý kiến đó bằng những lập luận, lí lẽ, bằng chứng xác thực nhằm làm rõ những khía cạnh khác nhau của vấn đề và làm giàu sự hiểu biết của cá nhân theo yêu cầu, mục tiêu và nhiệm vụ dạy học.

Trong quá trình dạy học, giáo viên có thể lựa chọn sử dụng tranh biện trong việc kiểm tra bài cũ, tổ chức dạy học và nghiên cứu kiến thức mới; củng cố và kiểm tra, đánh giá. Hiểu một cách đơn giản về phương pháp này là giáo viên đề xướng, tổ chức còn học sinh chủ động trao đổi, bàn luận, tranh biện, linh hoạt, sáng tạo tiếp thu tri thức một cách vững chắc và hiệu quả.

1.2.3. Mô hình cấu trúc của lập luận trong tranh luận

Một cuộc tranh luận diễn ra giữa hai bên đối lập về quan điểm: bên khẳng

định và bên phủ định về một kiến nghị cụ thể, thuộc một chủ đề nhất định.

Mỗi bên trình bày hệ thống các lập luận trái chiều, được tổ chức sắp xếp một

cách hợp lý (có chiến thuật), trong đó mỗi lập luận đưa ra thường bao gồm: - Luận đề là vấn đề gây ra những quan điểm đối lập dẫn đến tranh luận. Với mỗi chủ đề tranh luận cụ thể, luận đề của lập luận thường bao gồm một số luận điểm. - Bảo vệ cho các luận điểm là các luận cứ liên quan, bao gồm lý lẽ và bằng chứng.

Trong quá trình tranh luận, các bên phải làm tốt công việc sau: + Trình bày lập luận và quan điểm của mình một cách rõ ràng, thuyết phục; + Phản biện lập luận và hệ thống luận điểm của đối phương. + Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.

Như vậy, lập luận được đưa ra khi tranh luận – để khẳng định hay phủ định

luận đề đang tranh luận.

Sức mạnh của lập luận phụ thuộc vào sức mạnh của các luận điểm. Sức mạnh của các luận điểm lại được quyết định bởi các luận cứ, bao gồm: sự vững vàng của các lý lẽ cũng như tính chính xác, đầy đủ, hiển nhiên, rõ ràng và có thể công thức hóa thành phần của một lập luận dưới dạng: A = C + R + E

Trong đó: A: là lập luận; C: là lời khẳng định cho luận điểm được đưa ra

(cũng là tiêu đề cho luận điểm); R: là lý lẽ và E: là bằng chứng.

15

Có thể coi lý lẽ (R) và bằng chứng (E) là nguyên vật liệu để xây dựng nên

“bức tường” khẳng định (C). Nguyên vật liệu có chất lượng tốt sẽ đảm bảo sự vững chắc, kiên cố của “bức tường”, khiến đối phương khó có thể phá vỡ.

Sự đối lập về quan điểm trong tranh luận tất yếu làm nẩy sinh mâu thuẫn, xung đột. Đây vừa là trọng tâm cần giải quyết, vừa là “vẻ đẹp” của một cuộc tranh luận. Một cuộc tranh luận tồi hay thất bại là một cuộc tranh luận hoặc không tạo ra hoặc tạo ra những xung đột mờ nhạt.

1.3. Dạy học hoạt động Nói và nghe trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018

Nói và nghe là 2 trong 4 kĩ năng giao tiếp cần rèn luyện cho HS. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều khẳng định tầm quan trọng của kĩ năng nghe - nói. Họ cho rằng: Những đứa trẻ có thể diễn giải suy nghĩ và ý kiến của mình bằng lời nói sẽ có thể thành công hơn trong học tập. Ngoài ra, một số tác giả nước ngoài cũng khẳng định: Nghe không chỉ để hiểu mà còn để học ngôn ngữ, sự phát triển của ngôn ngữ nói là một trong những thành quả tự nhiên và ấn tượng nhất của mỗi đứa trẻ.

Điểm khác biệt lớn nhất của Chương trình GDPT 2018 so với Chương trình GDPT 2006 là sự chuyển hướng hoàn toàn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến thức sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Ở cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp…Chương trình GDPT 2018 quy định cụ thể về các kĩ năng cần đạt trong học tập nói và nghe ở cấp phổ thông như sau: Kĩ năng nói yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi nói...Kĩ năng nghe yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,… Kĩ năng nói và nghe tương tác gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy định trong thảo luận, phỏng vấn,…

16

Theo định hướng của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018, kĩ năng nói được phát triển kết hợp với nghe và hoạt động nói - nghe tương tác. Chương trình hướng đến mục tiêu ở cấp THPT là HS biết tranh luận về các vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hóa tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, thuyết phục. Nói và nghe linh hoạt; nắm bắt được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận (Bộ GD-ĐT, 2018).

Ngoài ra, việc dạy nói - nghe không chỉ hướng tới mục tiêu rèn luyện kĩ năng nói và nghe mà còn là cơ hội để rèn giũa phẩm chất, thái độ, tình cảm, lối sống có văn hóa cho HS. Như vậy, nói - nghe là những kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày, giúp ích cho các HS trong quá trình hình thành các mối quan hệ và khẳng định bản thân trong xã hội. Đặc biệt, thông qua việc tổ chức dạy học hoạt động Nói – Nghe tương tác sẽ rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS. Chính vì thế, trong chương trình Ngữ văn 2018, Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” ở tập1 đã dành thời lượng 1 tiết trong bài 3 “Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận” cho Hoạt động dạy học Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” để rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS. Kỹ năng này, tiếp tục được rèn luyện và vận dụng ở mức độ cao hơn trong học kỳ 2 ở bài 6 “Nguyễn Trãi – Dành còn để trả nợ này. Phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”.

1.4. Văn nghị luận xã hội và dạy học nói và nghe văn nghị luận xã hội trong

chương trình GDPT Ngữ văn 2018.

Văn bản nghị luận là loại văn bản nhằm phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết (người nói) để thuyết phục người đọc (người nghe) về một vấn đề nào đó. Đặc điểm cơ bản của văn nghị luận là bao gồm luận đề, luận điểm, luận cứ và lập luận. Luận đề là vấn đề tổng quát, bao trùm cần được làm sáng tỏ, cần đem ra bình luận, đánh giá. Luận đề được triển khai, phân tách thành nhiều luận điểm. Luận điểm là tư tưởng, quan điểm, ý kiến của người nói, người viết về vấn đề nào đó được đặt ra. Luận cứ là những lí lẽ, dẫn chứng làm sáng tỏ cho quan điểm. Lập luận là cách sắp xếp, tổ chức phối hợp các luận cứ để chứng minh cho luận điểm. Văn nghị luận xã hội trong nhà trường hiện nay thường chia thành hai loại: nghị luận về tư tưởng, đạo lí và về một hiện tượng đời sống.

Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018 nêu rõ yêu cầu cần đạt

- Nói: Biết thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện

dạy học hoạt động nói và nghe văn nghị luận xã hội ở lớp 10 như sau:

- Nghe: Nghe và nắm bắt được nội dung thuyết trình, quan điểm của người nói,

ngôn ngữ với các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ.

- Nói, nghe tương tác: Biết tranh luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau; đưa ra được những căn cứ thuyết phục để bảo vệ hay bác bỏ một ý kiến nào đó; tôn trọng người đối thoại .

biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình.

17

Như vậy, Tranh biện là hoạt động vận dụng tư duy, quan điểm về các kiến thức, lĩnh vực xung quanh vấn đề bàn luận, sắp xếp các quan điểm, ý kiến, dẫn chứng theo hệ thống lập luận nhất định để ra đưa quan điểm phản biện. Phát triển

kỹ năng tranh biện trong dạy học nói và nghe văn nghị luận xã hội sẽ giúp HS phát huy tối đa năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp, HS có thể thể hiện quan điểm cá nhân của mình và phản biện quan điểm của người khác khi thảo luận về các vấn đề xã hội có ý nghĩa thực tiễn.

2. Cơ sở thực tiễn

2.1.Tranh biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến

Nhìn ra thế giới, chúng ta dễ dàng nhận thấy hầu hết các quốc gia có nền giáo dục phát triển mạnh, cụ thể là các nước phương Tây, đều coi trọng kỹ năng tranh biện. Ở Mỹ, người ta đề cao tính dân chủ trong giáo dục, tạo điều kiện cho người học phát huy khả năng tranh biện của học sinh THPT. Phó giáo sư lịch sử Johann N. Neem thuộc Đại học Western Washington (Mỹ), trong một bài viết đăng trên tạp chí The Chronicle of Higher Education, đã thúc giục nhà chức trách và những nhà giáo dục Mỹ cần thực hiện tốt hơn việc giáo dục lịch sử dân tộc và phải dạy với tinh thần tranh biện. Nước Anh coi dạy học kỹ năng tranh biện như xương sống của nền giáo dục, trong kiểm tra đánh giá học sinh phải hoàn thành hai nội dung chính: “Sự đáng tin của dẫn chứng” và “Phát triển tranh luận”. Còn ở các quốc gia Châu Á, cụ thể là Nhật Bản, một đất nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới hiện nay. Văn hóa tranh luận được nhiều gia đình Nhật Bản áp dụng trong cách nuôi dạy con cái. Việc dạy cho trẻ những kỹ năng tranh luận cần thiết sẽ giúp trẻ hình thành nên tư duy phản biện từ sớm, từ đó biết phân tích và xử lý đối với các vấn đề trong cuộc sống.

Như vậy, các nước tiên tiến đã coi trọng kỹ năng tranh biện trong dạy học, đây là cơ sở đáng tin cậy để giáo dục Việt Nam mạnh dạn đưa tranh biện vào trong dạy học ở các bậc Đại học và bậc THPT.

2.2. Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh và Sự phát triển của phong trào

tranh biện trong giới trẻ hiện nay.

18

Đối tượng học tập của trường THPT là những thanh thiếu niên độ tuổi từ 15 – 18, đang ở độ tuổi phát triển, có những thay đổi hết sức lớn lao về tâm sinh lý, có sự trưởng thành vượt bậc về phẩm chất và năng lực. Đây là thời kì mà có em có khả năng tư duy lí luận và tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo về những điều đã học ở nhà trường, ngoài xã hội và cả những điều chưa được học. Tính độc lập tư duy là một phẩm chất rất quý báu mà người thầy cần phải giữ gìn và phát triển. Nếu như người giáo viên không đổi mới phương pháp thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu học tập của các em. Phải làm thế nào để phát huy được năng lực nhận thức sáng tạo của học sinh, thôi thúc các em phải tìm tòi, suy nghĩ để tìm ra những lập luận, bằng chứng xác đáng để thuyết phục người khác và chứng minh ý kiến của mình.

Bên cạnh nhu cầu học tập nâng cao kiến thức, các em cũng có nhu cầu bộc lộ bản thân, nhất là trong giai đoạn mà quyền cá nhân con người, tính dân chủ được đề cao như hiện nay. Học sinh THPT có khát vọng, có chính kiến riêng, có quan điểm và phán đoán của mình với những vấn đề chung, chưa hoàn toàn tin tưởng vào uy quyền của cha mẹ, thầy cô, sách vở, thường “tìm ra những cái sai sót” trong lập luận của thầy cô giáo hoặc tài liệu, có xu hướng tranh chấp và phản đối với hình thức rất quyết liệt. Các em mong muốn được thể hiện mình trước thầy cô, bạn bè, muốn khẳng định chính kiến của bản thân, muốn chứng minh sự tiến bộ, trưởng thành của mình. Ngoài ra, ở độ tuổi 15 – 18 các em học sinh thường rất hiếu động, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá. Trong quá trình đó, học sinh cần có người định hướng cho mình cách làm, hướng đi để tránh rơi vào tình trạng ngộ nhận, chủ quan hoặc sai lầm.

Như vậy, nhu cầu học tập và bộc lộ bản thân của học sinh cũng là một cơ sở

để phát huy tiềm năng học tập, rèn luyện kỹ năng tranh biện cho các em.

Chính vì nhu cầu trên, Trong năm năm trở lại đây, tranh biện đang ngày càng thu hút sự quan tâm của giới trẻ Việt. Phong trào tranh biện bắt đầu du nhập vào Việt Nam và nhanh chóng được các bạn trẻ ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đón nhận. Nhìn chung, phong trào tranh biện đang ngày càng được phát triển, lan rộng ở Việt Nam thông qua các chương trình tranh biện như “Tôi lên tiếng”, “Trường Teen” phát sóng trên kênh VTV7. Nhiều câu lạc bộ tranh biện được thành lập ở các trường THPT trong tỉnh Nghệ An như: câu lạc bộ tranh biện PDC của trường THPT chuyên Phan Bội Châu, Thunder Debate Club của trường THPT chuyên Đại học Vinh hay H.D.C. Huỳnh Debate Club của trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. Tại các trường THPT ở huyện Yên Thành, phong trào này chủ yếu diễn ra dưới hình thức cuộc thi trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có sự phối hợp giữa Ban chuyên môn với Đoàn trường. Quan trọng là các hoạt động này đều do các em học sinh tự điều hành từ cách thành lập câu lạc bộ cho đến tổ chức các cuộc tranh biện với nhau. Do đó, dù tranh biện là hoạt động mang lại rất nhiều mặt tích cực cho học sinh song chất lượng và cả tính lâu dài của hoạt động này vẫn còn tùy thuộc rất nhiều vào các thành viên cốt cán của các câu lạc bộ. Đã đến lúc phong trào tranh biện cần được quan tâm nhiều hơn để hướng phát triển theo chiều chất lượng và bền vững hơn. Từ đó giúp các em có thêm nhiều cơ hội rèn luyện tư duy đa chiều, tư duy phản biện không chỉ trong học tập mà còn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.

2.3. Vì sao cần phải phát triển kỹ tranh biện trong dạy học

2.3.1. Phát triển kỹ năng tranh biện là phát triển tư duy và năng lực phản biện

19

Lý do tư duy phản biện đứng đầu trong các lợi ích mà tranh biện đem lại – khả năng đưa ra những lập luận hợp lý và suy nghĩ thấu đáo bên cạnh việc đặt ra

những câu hỏi về tính xác thực của những kết luận. Tư duy phản biện còn giúp bạn tìm ra chìa khóa cho những khúc mắc trong cuộc sống mà vẫn giữ được thái độ, chuẩn mực cá nhân mình. Thậm chí nó còn giúp bạn trở nên khiêm tốn hơn! Hãy ghi nhớ rằng bạn không phải lúc nào cũng đúng!

2.3.2. Phát triển kỹ năng tranh biện là song hành với việc nâng cao khả năng diễn đạt suy nghĩ của bạn

Bạn có từng cảm nhận rằng bạn không thể diễn đạt suy nghĩ của mình ra bằng lời. Tranh biện có thể giúp bạn giải quyết vấn đề không chỉ diễn đạt đầy đủ suy nghĩ mà củng cố lập luận để thuyết phục người nghe trong nhiều chủ đề khác nhau: từ những phương trình toán học phức tạp đến cốt truyện của cuốn sách yêu thích của bạn. Tranh biện giúp bạn xác định đối tượng nghe để chọn ngôn từ giải thích phù hợp.

2.3.3. Giữ đúng chuẩn mực

Trong bất kỳ cuộc tranh biện nào cho dù bạn cho bạn có không đồng ý với quan điểm đó thì thái độ cũng vô cùng quan trọng: hãy giữ bình tĩnh và duy trì giao tiếp bằng ánh mắt đã được chứng minh là kỹ thuật tranh biện vô cùng hiệu quả. Một người tranh luận tốt sẽ ghi nhớ tất cả những điều này ngoài các yếu tố cốt lõi họ có được thông qua giáo dục (đọc và tìm nguồn tư liệu, soạn thảo bài phát biểu, nói một cách tự tin và biết lắng nghe) hữu ích cả trong và ngoài lớp học.

2.3.4. Trở thành người hiểu biết rộng hơn

Tranh biện khơi dậy cho bạn cảm giác mong muốn tìm tòi và khai thác lỗ hổng trong những lập luận của người khác để tạo lợi thế phản biện lại quan điểm đối lập. Xây dựng cho bản thân kiến thức sâu về nhiều vấn đề để trả lời những câu hỏi và những nhận xét từ người khác là những yếu tố cần thiết để tranh biện thành công. Việc hiểu biết sâu rộng sẽ giúp bạn luôn vững vàng trước mọi thử thách trong cuộc sống nhất là trong những hoàn cảnh cần đưa ra quyết định nhanh chóng, dứt khoát.

2.3.5. Giải quyết xung đột

20

Tranh biện giúp bạn luôn tập trung vào vấn đề mà bạn đang tranh biện, thông qua những buổi tranh biện bạn sẽ học được cách chấp nhận sai lầm của bản thân, điều này cũng vô cùng quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của bạn. Việc học cách thua và thuyết phục được người nghe một cách lịch sự sẽ giúp xóa bỏ những xung đột không đáng có trong cuộc sống.

2.3.6. Kiểm soát cảm xúc của bạn

Thông qua những buổi tranh biện sẽ giúp bạn kiểm soát cảm xúc của bản thân tốt hơn, giúp bạn luôn sẵn sàng khi đối mặt với những thử thách khó khăn bạn gặp phải trong cuộc sống. Kỹ năng này không dễ để thành thục nhưng có thể rèn luyện một cách dễ dàng nhờ tranh biện.

2.3.7. Xây dựng tư duy logic cho những tình huống phức tạp

Trong tranh biện, bạn cần xây dựng bài phát biểu/phản biện của mình một cách khoa học, logic, bài bản để thuyết phục người nghe với đối thủ. Không những thế đây còn là kỹ năng cực kỳ quan trọng để giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống, phân tích vấn đề một cách thận trọng và khoa học sẽ giúp bạn vượt qua mọi thử thách đơn giản hơn.

2.3.8. Nâng cao sự tự tin của bản thân

Khi tham gia buổi tranh biện cho dù luận điểm bạn có đúng hay sai nhưng diễn giải và tranh biện cho quan điểm trước đám đông cũng giúp bạn mạnh dạn hơn tự tin trong cuộc sống. Thành thục kỹ năng diễn thuyết trước đám đông cũng là những lợi ích mà tranh biện mang lại cho bạn, là hành trang quan trọng để thành công hơn trong các lĩnh vực cuộc sống trong hiện tại và tương lai.

2.3.9. Mở rộng tầm nhìn của bạn

Khi tham gia tranh biện về một vấn đề mới đòi hỏi bạn phải đào sâu tìm hiểu vấn đề từ nhiều góc nhìn khác nhau để tìm ra được lập luận phù hợp cho quan điểm của bạn về vấn đề đó. Khi bạn tìm hiểu sâu hơn về một vấn đề bạn cũng sẽ nhận ra nhiều kiến thức và góc nhìn mới mẻ mà trước đây bạn chưa từng thấy.

Tóm lại, tranh biện là một kỹ năng cực kỳ quan trọng trong chương trình giáo dục. Những nền giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới coi đây là một nội dung chính. Ở Việt Nam hình thức này cũng đã bắt đầu được quan tâm trong thời gian gần đây, nhiều trường THPT trên địa bàn Hà Nội như Newton Grammar School trong năm học 2020 – 2021 đã đưa Tranh biện trở thành một môn học trong chương trình giáo dục và đã xây dựng kế hoạch dạy học cho bộ môn này.

2.4. Kỹ năng tranh biện trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018.

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, giáo dục là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Luật Giáo dục Việt Nam năm 2019 đã xác định: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý 21

tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”.

22

Ngữ văn là môn học có nhiều ưu thế giúp học sinh (HS) rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện. Thông qua quá trình tìm kiếm thông tin, tranh biện với bạn bè, thầy cô, các em sẽ tạo được kiến thức, kỹ năng. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 thuộc bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống” đã đáp ứng theo đúng yêu cầu của Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018, chú trọng mục tiêu phát triển năng lực và phẩm chất cho người học. Đặc biệt, bộ sách đã thiết kế Hoạt động Nói và nghe tương tác nhằm rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS về các vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau thông qua hai bài học:“Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống”- Ngữ văn tập 1); kỹ năng này tiếp tục được lặp lại và đòi hỏi vận dụng cao hơn trong chương trình học kỳ 2 với “Bài 6. Nguyễn Trãi Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống).

Chương 2: Thực trạng dạy học kỹ năng tranh biện của GV Và HS trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018 ở trường THPT Yên Thành 2

1. Đánh giá thực trạng thông qua các số liệu điều tra, khảo sát

Để có cái nhìn đầy đủ, chính xác về thực trạng r è n l u y ệ n kỹ năng tranh biện trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018 với Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” thông qua bài học“Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Ngữ văn tập 1) chúng tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát. Tháng 11/2022, chúng tôi đã phát phiếu khảo sát với đối tượng là 450 học sinh khối 10 và 10 giáo viên phụ trách môn Ngữ văn của trường THPT Yên Thành 2. Nội dung chủ yếu hỏi về nhận thức của học sinh và giáo viên về tầm quan trọng của kỹ năng tranh biện cũng như thực tế rèn luyện kỹ năng này tại nhà trường THPT hiện nay khi vừa mới thực hiện xong bài học “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”, Ngữ văn tập 1) của chương trình GDPT Ngữ văn 2018. Phương pháp nghiên cứu được chúng tôi sử dụng là điều tra qua hệ thống câu hỏi nhanh. Đối tượng khảo sát trả lời hoặc đánh dấu vào phương án lựa chọn.

1.1. Khảo sát, đánh giá với học sinh

Về phía học sinh, chúng tôi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu mức độ hiểu biết và hứng thú của các em đối với hoạt động tranh biện và thông tin về thực tế dạy học kỹ năng này qua tiết dạy “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Ngữ văn tập 1). Kết quả như sau:

Bảng 2.1.1

Câu hỏi Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ %

A. Dễ dàng 45/450 10

B. Khó khăn 270/450 60 1. Khi thuyết phục người khác em cảm thấy thế nào?

C. Bình thường 135/450 30

A. Chưa 70/450 15

23

2. Em đã từng biết đến hoạt B. Biết nhưng chưa hiểu rõ 255/450 58

động tranh biện chưa? C. Hiểu rõ 125/450 27

A. Là hình thức tranh luận văn minh 360/450 80

B. Bản chất là tranh cãi 30/450 7 3. Theo em, tranh biện là hoạt động như thế nào?

60/450 13

C.Là hình thức bảo vệ đến cùng quan điểm cá nhân

A. Rất cần thiết 410/450 85

B. Cần thiết 40/450 15

4. Theo em, có cần thiết rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh không?

0 C. Không cần thiết 0

A. Có 115/450 25

B. Không 290/450 65 5. Chủ đề tranh biện mà GV đưa ra có hấp dẫn không?

C. Bình thường 45/450 10

A. Không làm chủ 45/450 10

B. Có làm chủ 270/450 60 6. Khi tranh biện không làm chủ được cảm xúc của bản thân dẫn đến cãi lộn không có điểm dừng?

C. Bình thường 135/450 30

A. Chưa biết 315/450 70

B. Đã biết 45/450 10 7. Khi tranh biện đã biết cách kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để tranh biện đạt hiệu quả cao?

24

C. Biết sơ sơ 90/450 20

Bảng số liệu 2.1.1 cho thấy, đa số học sinh nhận thức được tầm quan trọng của khả năng thuyết phục, đàm phán đối với thành công của mỗi người trong cuộc sống. Tuy nhiên 60% học sinh thấy gặp khó khăn khi thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình. Các em cảm thấy lúng túng khi trình bày quan điểm cá nhân, đặc biệt là khi nói trước đám đông. Nhiều em đã biết đến hoạt động tranh biện nhưng chưa hiểu rõ (68%). Nhận thức đó là một hình thức tranh luận văn minh (80%), phần lớn các em khẳng định việc rèn luyện kỹ năng tranh biện là rất cần thiết (85%). Tuy nhiên, khi được hỏi thêm về bản chất của tranh biện, nhiều em còn tỏ ra mơ hồ trong phân biệt kỹ năng thuyết trình và kỹ năng tranh biện. Khi được hỏi “Tranh biện có gì khác với thuyết trình?”, một số em còn nhầm lẫn hoặc đánh đồng hai kỹ năng này.

Ở câu hỏi về việc tổ chức hoạt động tranh biện trong tiết học“Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Ngữ văn tập 1), 75% học sinh bày tỏ mong muốn các chủ đề tranh biện cần đa dạng, hấp dẫn, phù hợp với độ tuổi và có tính thời sự để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh cũng như việc thể hiện quan điểm của mình trước những vấn đề xã hội đang nổi cộm; HS chưa biết cách lập luận như tạo luận điểm, kết hợp giữa lý lẽ và dẫn chứng để thuyết phục đối phương.

Trong quá trình thực hiện tranh biện Có khoảng 85% số HS không làm chủ được cảm xúc, hành vi của bản thân dẫn đến cãi lộn, tức giận, có thái độ “hơn thua” nên chưa đi đến thống nhất được ý kiến của hai bên; 60% số HS vẫn chưa phát huy được hiệu quả của giá trị ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để thuyết phục được đối phương.

1.2. Khảo sát, đánh giá đối với giáo viên

Về phía giáo viên, chúng tôi đưa ra một số câu hỏi nhằm tìm hiểu nhận thức và những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh qua tiết dạy “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Ngữ văn tập 1) . Kết quả thu được như sau:

Bảng 2.1.2

Câu hỏi Phương án trả lời Số lượng Tỷ lệ %

25

1. Theo thầy /cô có cần thiết rèn luyện A. Rất cần thiết 8/10 80

kỹ năng tranh biện cho học sinh không? B. Cần thiết 2/10 20

cần 0 0

C. Không thiết

2. Thầy/cô đã từng hướng dẫn học sinh A. Thường xuyên 2/10 20

rèn luyện kỹ năng tranh biện chưa? thường 6/10 60

B.Không xuyên

C. Chưa thực hiện 2/10 20

A. Không 6/10 60

B. Có 3/10 30

C. Vừa đủ 1/10 10 3.Việc rèn luyện kỹ năng tranh biện tqua một tiết học “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Ngữ văn tập 1) có đảm bảo đủ thời gian để tổ chức giờ học?

4. Khi thực hiện giờ dạy lên lớp với 5/10 50

A.Ít nguồn tài liệu tham khảo tiết học trên, thầy cô gặp khó khăn gì ?

3/10 30

B. HS không hợp tác

2/10 20

C.Cơ sở vật chất không đầy đủ

Bảng 2.1.2. cho thấy 80% giáo viên nhận thấy rất cần thiết phải rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh. Tuy nhiên, chỉ có 20% giáo viên thường xuyên hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng này, 70% thực hiện một cách không thường xuyên, cá biệt có 10% chưa thực hiện.

26

Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn thêm một số giáo viên về những khó khăn mà họ gặp phải khi tổ chức cho học sinh rèn luyện kỹ năng qua tiết dạy “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Ngữ văn tập 1). Các ý kiến nêu lên một số vấn đề như sau: thời gian 1 tiết học không đủ để hướng dẫn và tổ chức hoạt động tranh

biện cho học sinh, lúc nào cũng ở trong trạng thái “cháy giáo án”; là năm đầu tiên thực hiện chương trình mới nên ít nguồn tham khảo để thiết kế giáo án, giáo viên chủ yếu dựa vào SGV; HS còn tâm thế rụt rè, chưa tự tin nên hiệu quả tranh biện không cao; cơ sở vật chất chưa đáp ứng cho nhu cầu dạy và học của GV và HS.

Như vậy, có thể thấy việc rèn luyện kỹ năng tranh biện trên lớp trong giờ dạy “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Ngữ văn tập 1) còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.

2. Phân tích nguyên nhân của thực trạng

Số liệu khảo sát, điều tra cho thấy học sinh rất hứng thú với hoạt động tranh biện và có mong muốn được rèn luyện kỹ năng này. Tuy nhiên những hiểu biết và khả năng vận dụng kỹ năng tranh biện vào thực tiễn của các em còn hạn chế. Một số em có năng khiếu tranh biện nhưng tất cả mới chỉ đang ở dạng tiềm năng, chưa được phát huy tối đa. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập cũng như sự thành công trong cuộc sống của các em sau này. Đặc biệt, chưa đáp ứng được mục tiêu của chương trình GDPT Ngữ văn 2018. Trên thực tế, đa số giáo viên rất mong muốn được rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh một cách bài bản và hiệu quả tuy nhiên còn vướng mắc trong phương pháp, đặc biệt là cách thức tổ chức dạy học.

Vậy nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đó? Qua khảo sát và tìm hiểu thực

trạng, chúng nhận thấy có một số nguyên nhân cơ bản như sau:

Thứ nhất, năm nay là năm đầu tiên Chương trình GDPT 2018 triển khai ở khối lớp 10 thực tế giáo viên vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Đối với riêng môn văn, các khó khăn thường đến từ việc thiết kế các hoạt động trong giờ học, giáo viên vẫn ôm đồm quá nhiều dẫn đến thường luôn trong tình trạng “cháy giáo án”, không đủ thời gian khi dạy trên lớp... cũng chưa có nhiều nguồn tài liệu tham khảo để thiết kế hoạt động dạy học đạt hiệu quả cao.

27

Thứ hai, đối với học sinh, ngoài khó khăn thay đổi môi trường học từ THCS sang THPT còn là khó khăn phải ngay lập tức đối diện, thích nghi với thay đổi của chương trình mới mà các em chưa được làm quen từ trước. Đặc biệt là phương pháp học tập phải chuyển từ ghi nhớ, đọc chép sang tư duy... Khó khăn lớn nhất của học sinh lớp 10 năm học 2022 - 2023 là trước đó trong suốt 4 năm học ở cấp THCS, các em quen với cách học theo chương trình cũ, phụ thuộc rất nhiều vào thầy, cô giáo, vào những bài giảng của giáo viên dạy. Khi lên lớp 10, các em học chương trình mới với mục tiêu, định hướng, yêu cầu của môn học đặt ra hoàn toàn khác, nên các em sẽ gặp lúng túng, mất nhiều thời gian để bắt nhịp. Đây là thiệt thòi lớn cho khóa học sinh đầu tiên học chương trình mới này. Mặt khác, trong quá

trình giảng dạy môn Ngữ văn vẫn đối diện khó khăn như kỹ năng nghe, đọc, nói, viết của một số học sinh còn hạn chế. Bên cạnh đó, nhiều em nhút nhát, thiếu tự tin khi thuyết trình, phản biện, tranh biện về các nội dung liên quan đến bài học. Quá trình tương tác để khám phá, hình thành kiến thức trong mỗi bài học tương đối bị động, đôi lúc mang tính hình thức. Do đó, các em cần thời gian để quen dần và trở nên tự tin, mạnh dạn hơn khi phát biểu ý kiến, thuyết trình sản phẩm học tập trước tập thể.

Thứ ba, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho các hoạt động dạy học còn hạn chế. Chương trình GDPT Ngữ văn 2018 với sự đổi mới về phương pháp tổ chức để phát huy năng lực và phẩm chất người học thì đòi hỏi một cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại như loa máy, màn hình… và tốn kém không ít kinh phí. Trong khi đó, nguồn thu tài chính của nhà trường phổ thông không nhiều, cơ sở vật chất được trang bị qua thời gian sử dụng không tránh khỏi lạc hậu hoặc hư hỏng. Tuy đây không phải là yếu tố quyết định đến kết qủa dạy học nhưng cũng có ảnh hưởng không nhỏ.

Trường tôi – THPT Yên Thành 2 là một ngôi trường làng thuần nông, nghèo nằm trên địa bàn phía Nam của tỉnh Nghệ An – vùng dân cư sống bằng nghề trồng lúa là chính, lại đông dân cư nên đời sống vật chất lẫn tinh thần còn lạc hậu, nghèo nàn. Địa bàn tuyển sinh vào lớp 10 của trường gặp nhiều bất lợi. Chất lượng đầu vào thuộc diện thấp nhất trong huyện nhà. Mặt khác, học sinh định hướng sau khi tốt nghiệp THPT chủ yếu là xuất khẩu lao động hoặc con đường du học nên ý thức đối với môn Ngữ văn là chưa cao, không quan tâm. Đại đa số các em còn thiếu tự tin, ngại bộc lộ quan điểm ý kiến cá nhân, ngại giao tiếp. Về phía giáo viên khi lên lớp chưa thật sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy cũng như tổ chức dạy học mang tư duy cũ còn nặng cung cấp kiến thức, chưa tạo điều kiện cho các em trao đổi, tranh luận nhiều; một số giáo viên chưa nhạy bén với công nghệ thông tin nên phần nào ảnh hưởng đến tiết dạy.

3. Những thuận lợi khi rèn luyện KNTB cho HS trong chương trình GDPT

Ngữ văn 2018 tại trường THPT Yên Thành 2

Mặc dù có những khó khăn như đã nói trên nhưng năm học 2022 – 2023 vẫn

có những dấu hiệu khả quan, điều kiện thuận lợi để tháo gỡ.

28

Thứ nhất, các hoạt động của tổ chuyên môn luôn được sự chỉ đạo sát sao từ ban chuyên môn của nhà trường, lãnh đạo sở giáo dục – đào tạo Nghệ An. Đặc biệt, vào dịp cuối tháng 10/2022, thầy Nguyễn Chí Hòa – Nhà giáo ưu tú, chuyên viên của Sở phụ trách môn Ngữ văn đã có buổi làm việc trực tiếp tại trường THPT Phan Đăng Lưu với những GV các trường THPT huyện Yên Thành đang phụ trách, giảng dạy môn Văn chương trình GDPT 2018, thầy đã dự giờ cô Hoàng Thị Bích Hồng – GV trường THPT Phan Đăng Lưu. Cuối buổi thầy đã lắng nghe và có

những chia sẻ cũng như ý kiến chỉ đạo sát tình hình thực tế của việc thực hiện chương trình mới.

Thứ hai, hoạt động chuyên môn đã có những đổi mới trong giảng dạy để phù hợp và đạt mục tiêu của chương trình 2018 cụ thể là hoạt động sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học (4 lần/ năm) chủ yếu thực hiện ở chương trình Ngữ văn 10 để qua thực tế giảng dạy bước đầu GV tháo gỡ những khó khăn khi tiếp cận chương trình mới. Đặc biệt, GV tham gia sinh hoạt chuyên môn theo cụm huyện đã có cơ hội trao đổi những vướng mắc và đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy.

Thứ ba, đội ngũ GV đã được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng về chương

trình mới do Sở giáo dục và Đào tạo tổ chức trong dịp hè và đầu năm học.

Thứ tư, phong trào xây dựng “Ngôi trường Hạnh phúc”cũng tạo nhiều cơ hội

cho các em phát huy tiềm năng sáng tạo của thế hệ “ Gen Z”.

Và cuối cùng, cơ sở vật chất trong mấy năm nay đã được đầu tư như mạng, tivi màn hình lớn, các trang thiết bị dạy học, các phòng học cũng khang trang, rộng rãi hơn để phục vụ tốt hơn cho hoạt động dạy và học trong thời đại công nghệ 4.0.

29

Như vậy, sau khi thực hiện tiết dạy “phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”- Ngữ văn tập 1), Chúng tôi nhận thấy những khó khăn, thử thách trong thời gian đầu thực hiện chương trình GDPT mới. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện tiết dạy đó, chưa có những biện pháp cụ thể và hiệu quả để rèn luyện và nâng cao kỹ năng tranh biện - một trong những kỹ năng không thể thiếu được của HS trong thời đại công nghệ 4.0. Vì vậy, trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp cụ thể đã được áp dụng có hiệu quả tại đơn vị - trường THPT Yên Thành 2 để rèn luyện kỹ năng tranh biện cho HS 10 thông qua tiết dạy “Bài 6. Nguyễn Trãi Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách“Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn tập 2).

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH BIỆN CHO HỌC SINH LỚP 10 QUA DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE: THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU.

1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp

- Phải đáp ứng yêu cầu phát triển nhân cách của học sinh.

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu rõ: “Con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, nhưng con người có cá tính riêng”. Trong quá trình hoạt động, nhờ các mối quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật do các thế hệ trước tạo ra và các quan hệ xã hội mà con người gắn bó bằng các hoạt động đã nói ở trên, nhân cách của con người được hình thành, phát triển. Bởi vậy, trong quá trình lựa chọn các biện pháp giáo dục kỹ năng tranh biện cho học sinh, chúng tôi nhận thấy cần áp dụng các giải pháp phát huy cao nhất các yếu tố hình thành, phát triển nhân cách của học sinh, đảm bảo tính tự nhiên trong phát triển con người và nâng cao năng lực tự chủ của mỗi cá nhân.

- Đảm bảo quan điểm giáo dục theo phương pháp sư phạm tương tác.

Theo phương pháp sư phạm tương tác, trong quá trình học tập ở trường THPT, mỗi học sinh phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng, phải nắm vững những cơ sở của nghề nghiệp tương lai ở trình độ phổ thông và có tiềm năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu do thực tiễn xã hội và cách mạng khoa học, công nghệ đặt ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập ở trường THPT, học sinh cần tiến hành hoạt động nhận thức trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, có óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi và tự xây dựng cho mình phương pháp học tập thích hợp.

Từ quan điểm giáo dục trên, chúng tôi cũng tiến hành rèn luyện kĩ năng tranh biện cho học sinh trên tinh thần phát huy tư duy độc lập sáng tạo và các năng lực, sở trường của học sinh. Giáo dục học sinh phải tạo được sự tương tác, không giáo dục một chiều hay máy móc, rập khuôn.

- Đảm bảo tính thực tiễn của hoạt động giáo dục.

30

Các biện pháp được đề xuất cho việc tổ chức quá trình học tập được thực thi trong thực tiễn dạy học ở trường THPT Yên Thành 2. Điều đó có nghĩa là các biện pháp phải đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường, giúp học sinh nắm kiến thức và kỹ năng thực hành tương ứng, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề cơ bản của giáo dục ở trường THPT đặt ra.

31

Các biện pháp phải phù hợp với nội dung, phương pháp dạy học, tức là phải đảm bảo tính hiện đại, cân đối hài hòa của nội dung, phương pháp dạy học, coi trọng phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện để người học phát huy tính chủ động sáng tạo của mình.

2. Một số biện phát rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống - Ngữ văn 10, tập 1,2).

2.1. Chiến lược xây dựng câu hỏi

Trong hoạt động dạy và học, câu hỏi luôn được xem là một trong những công cụ quan trọng để giúp người học chiếm lĩnh tri thức và hình thành kĩ năng. “Câu hỏi do giáo viên dùng trong lớp là phương tiện giáo dục nhằm giúp học sinh biết được những gì cần học và chúng học như thế nào” [13; tr.27]. Mỗi loại câu hỏi sẽ tác động đến tư duy cấp thấp hay tư duy cấp cao của con người. Người dạy đặt ra câu hỏi để người học trả lời, hoặc người học có thể đặt câu hỏi, tranh luận với nhau và với cả giáo viên. Qua quá trình giải quyết vấn đề, người học vừa lĩnh hội kiến thức, hình thành kĩ năng vừa rèn luyện tư duy tranh biện.

2.1.1. Xây dựng các chủ đề tranh biện phù hợp

Để phát triển kỹ năng tranh biện cho học sinh thông qua hai bài học:“Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” - Ngữ văn tập 1); và “Bài 6. Nguyễn Trãi - Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” – Ngữ văn tập 2), GV cần hết sức lưu ý việc lựa chọn vấn đề tranh biện. Theo đó, GV cần hiểu rõ, hiểu sâu kiến thức và hiểu rõ đối tượng HS của mình, trình độ nhận thức ra sao, các em đã có cái gì, cần có cái gì thì GV mới có thể đưa ra những vấn đề tranh biện đúng đắn, sáng suốt và phù hợp nhất. Khi tổ chức tranh biện, GV cũng cần chú ý cân đối thời gian, bởi muốn tranh biện đúng nghĩa thì phải cho HS tranh luận đến cùng để bảo vệ ý kiến của mình. Do đó, để rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện cho HS qua các tiết học nói trên, để hoạt động tranh biện có hiệu quả, GV cần lựa chọn vấn đề phù hợp với trình độ của HS, yêu cầu học sinh chuẩn bị kỹ để đưa ra những ý kiến tranh luận chất lượng, đúng trọng tâm.

- Cách thức thực hiện:

GV lựa chọn một chủ đề trong SGK hoặc ngoài SGK, tuy nhiên, chủ đề đó phải gần gũi, thiết thực với HS; hoặc GV trao quyền lựa chọn chủ đề cho HS, nếu HS không đề xuất được chủ đề phù hợp, GV gợi ý một vài chủ đề cho HS lựa chọn. Đề tài lựa chọn có thể là kế thừa ở phần Viết trước đó hoặc một đề tài hoàn toàn mới mà nhóm quan tâm ở hiện tại.

32

Ví dụ, trong Bài 3 - Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, SGK Ngữ văn 10 (tập 1), bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”, ở phần Nói và nghe: “Thảo luận về

một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau”, HS có thể kế thừa phần viết: “Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hay một quan niệm”. HS có thể lựa chọn một trong những chủ đề sau:

Nhóm chủ đề : Từ bỏ một thói quen

HS lựa chọn có thế lựa chọn những đề tài sau: + Có nhất thiết phải làm mọi thứ thuận theo tay phải? + Nên hay không nên duy trì thói quen lướt mạng xã hội 1 tiếng/ ngày + Phong trào check – in khi đi du lịch, nên hay không? + Nên hay không nên cấm HS trang điểm khi đến trường?...

Nhóm chủ đề : Từ bỏ một quan niệm HS lựa chọn có thế lựa chọn những đề tài sau:

+ Lịch sử có nên là một môn học lựa chọn? + Có nên khuyến khích thần tượng siêu anh hùng Hollywood cho giới trẻ? + Có nên ủng hộ những bạn trẻ được hỗ trợ học bổng đi du học phải trở về cống hiến cho quê hương hay được tự do lựa chọn ở lại làm việc ở nước ngoài? + Nên hay không nên thỏa hiệp với bố mẹ về ước mơ, tương lai của bản thân? + Nên hay không nên tạo áp lực lớn cho bản thân?...

Với các đề tài mới HS tự lựa chọn, GV cần kiểm duyệt tính khả thi trước khi triển khai để đảm bảo hiệu quả của tiết học. Với các đề tài thảo luận trên, HS được gián tiếp trải nghiệm các tình huống thực tiễn trong đời sống.

Ví dụ, với đề tài “Có nên khuyến khích thần tượng siêu anh hùng Hollywood cho giới trẻ?” HS sẽ rất hứng thú phim hành động Hollywood - từ lâu đã chiếm trọn thị phần phim ảnh trên thế giới. Nhân vật siêu anh hùng có ảnh hưởng lớn đến giới trẻ (từ nhận thức đến lời nói, hành động). Các siêu anh hùng cổ vũ người trẻ có những ước mơ táo bạo, bồi dưỡng niềm tin vào cuộc sống. Tuy nhiên, các bậc phụ huynh lại cho rằng hành động bạo lực trong phim cần có sự kiểm soát, cấm đoán. Vấn đề đặt ra là việc thần tượng một nhân vật không có thật và thường xuyên phải sử dụng hành động bạo lực để bảo vệ công lí có nên được khuyến khích ở giới trẻ hay không? Với vai trò là người trong cuộc, HS sẽ có những kiến giải để bảo vệ quan điểm đồng tình hay bác bỏ. Từ đó, HS sẽ có nhận thức đúng đắn về vấn đề “thần tượng” và điều chỉnh hành vi của mình trong đời sống.

- Tuy nhiên, khi lựa chọn chủ đề tranh biện, GV cần lưu ý một số yêu cầu sau:

33

Thứ nhất, không nên chọn những chủ đề quá phức tạp vì nó sẽ làm mất rất nhiều thời gian của học sinh để tìm hiểu, thu thập thông tin; mặt khác, chọn chủ đề quá phức tạp và không thể giải thích trong khoảng thời gian ngắn, hay không thể diễn đạt bằng lời mà cần dùng biểu đồ và đồ thị thì bài thuyết trình đó sẽ khiến người nghe nhàm chán.

Thứ hai, không chọn chủ đề quá đơn giản mà người nghe có thể hiểu ngay trong 1-2 phút đầu. Khi đó, hoạt động tranh biện cũng không mang lại hiệu quả tích cực.

Thứ ba, GV nên chọn những chủ đề có tính thời sự, phù hợp với đối tượng HS

lớp 10.

Ví dụ: + Tình yêu tuổi học trò, Nên hay không nên?

+ Bạn nghĩ sao về xu hướng sống tối giản trong xã hội hiện nay?

+ Nên chăng cho HS sử dụng điện thoại thông minh trong lớp học?

+ Học sinh cấp THPT nên mặc đồng phục đến trường….

Như vậy, với những chủ đề trong tầm hiểu biết của học sinh, khi bàn luận về nó sẽ tạo nên sự hào hứng, say mê nhất định. Các em sẽ cảm thấy tự tin hơn với bài thuyết trình của mình. Mặt khác, quá trình tranh biện sẽ diễn ra sôi nổi hơn, tạo không khí thoải mái trong lớp học.

2.1.2. Tạo cơ hội cho học sinh tranh luận thông qua hình thức trao đổi, thảo luận nhóm với hệ thống bài tập có chủ định.

Hình thức dạy học thảo luận nhóm là một hình thức có nhiều ưu thế trong việc phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù của môn Ngữ văn. Hoạt động chính của dạy học thảo luận nhóm là thực hành nói và nghe. Vì vậy, hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu dạy học nói và nghe của Chương trình. Hơn nữa, hình thức dạy học thảo luận nhóm là một hình thức tổ chức DH tích cực, gần gũi với nhiều GV, dễ thực hiện để sử dụng trong dạy học nói và nghe theo Chương trình GDPT Ngữ văn 2018 để rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện.

34

Mặt khác, hình thức dạy học thảo luận nhóm có khả năng khắc phục tình trạng dạy học theo kiểu “đọc -chép” của môn Ngữ văn trước đây và hướng vào phát triển tư duy, năng lực giao tiếp và hợp tác của người học. Thông qua việc tổ chức hoạt động thảo luận nhóm, HS được kích thích bản năng nói và nghe, rèn luyện nói và nghe có chủ đích, đặc biệt là kỹ năng tranh biện. Qua hoạt động, HS biết xác định mục đích giao tiếp, lựa chọn nội dung, kiểu văn bản và thể loại, ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ khác nhau để thảo luận; biết đối thoại phù hợp dựa trên ngữ cảnh; chủ động, tự tin và biết kiểm soát cảm xúc, thái độ trong giao tiếp. HS biết đồng cảm với suy nghĩ của người khác; biết sống hoà hợp và hoá giải các mâu thuẫn; thiết lập và phát triển mối quan hệ với người khác... Chính vì vậy, để rèn luyện kỹ năng tranh biện trong phần nói và nghe về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau thì lựa chọn hình thức thảo luận nhóm là hoàn toàn phù hợp.

Tranh biện được tổ chức theo các hình thức sau:

- Tổ chức tranh biện theo đội, nhóm: GV vận dụng lồng ghép phương pháp hoạt động nhóm kết hợp tranh biện. Thông thường, GV sẽ chia lớp thành 2 nhóm: nhóm ủng hộ và nhóm phản đối. HS khi được phân công vào nhóm nào sẽ tôn trọng và tuân thủ ý kiến của nhóm đó. Để giành chiến thắng trong phần tranh biện, HS phải tìm tòi, nghiên cứu kĩ những lí lẽ bảo vệ cho quan điểm của nhóm mình và tìm điểm chưa hợp lí của nhóm bạn để phản đối. Điều này kích thích tư duy và sự ham học hỏi, ưa chinh phục của HS.

- Tổ chức tranh biện giữa HS với HS: đây là hình thức có khả năng phát huy tính tích cực, chủ động của từng học sinh trong học tập, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ dạy học hiện nay. Tranh luận cá nhân có thể giúp HS khám phá những giá trị tiềm ẩn của mình như khả năng Tranh biện trước đám đông, khả năng tư duy logic hay khả năng tự chủ. Hoạt động này có thể tổ chức thường xuyên trong lớp học, được thực hiện khi các HS nhận xét, góp ý câu trả lời hay bài thuyết trình của các bạn trong lớp.

Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng làm việc nhóm đang được khuyến khích ở hầu hết các lĩnh vực, xuất phát từ quan niệm “trí tuệ tập thể bao giờ cũng sáng suốt hơn trí tuệ của mỗi cá nhân”. Người ta coi các nhóm làm việc là nhân tố cơ bản tạo nên hiệu quả của vốn nhân lực trong một tổ chức.

2.1.3. Tổ chức thuyết trình và tranh biện

Bước 1: Giới thiệu chủ đề tranh biện.

Bước 2: Tạo nhóm, giao nhiệm vụ, HS chuẩn bị nghiên cứu về vấn đề tranh biện. GV phân công cụ thể: Nhóm khẳng định - Bên đồng ý với tuyên bố được đề xuất; Nhóm phủ định – Bên hông đồng ý với tuyên bố được đề xuất.

Bước 3: Tiến hành tranh biện

35

Quá trình tranh biện sẽ có 2 phần: Phần 1: Trình bày +) Mỗi nhóm sẽ trình bày vấn đề mình bảo vệ; +) Nhóm ủng hộ sẽ trình bày trước; +) Thời gian cho phần trình bày tối đa là 5 phút Phần 2: Tranh luận +) Mỗi nhóm sẽ căn cứ vào phần trình bày của nhóm đối phương để phản biện bằng cách phản vấn nghĩa là Đặt ra các câu hỏi cho đối phương. +) Thời gian tối đa cho mỗi lượt phản biện không quá 5 phút +) Các thành viên trong mỗi nhóm cần thay phiên nhau, tránh trường hợp chỉ 1 người tranh biện từ đầu đến cuối

+) Ý kiến tương tác của nhóm 1 (nếu có) để làm rõ thêm vấn đề

Trong quá trình thuyết trình và tranh biện, cả 2 nhóm nên cử thư kí ghi lại các câu hỏi và nội dung thảo luận. Giáo viên cần bám sát tiến trình đó để có cơ sở chốt ý, tổng kết bài. Trường hợp nếu tranh luận vượt ra khỏi phạm vi đề tài hoặc chưa hợp lí hoặc không khí tranh biện có vẻ căng thẳng, GV sẽ phải có sự điều chỉnh kịp thời để cuộc thảo luận diễn ra đúng hướng, đúng trọng tâm vấn đề, tránh được sự căng thẳng.

Bước 4: Nhận xét, đánh giá

GV sẽ đưa ra nhận xét, đánh giá cho mỗi nhóm và chốt lại kiến thức cốt lõi của bài học. Tiêu chí đánh giá sẽ là: chất lượng các luận điểm tranh biện, kĩ năng trình bày của mỗi nhóm, thái độ làm việc và tranh biện của mỗi nhóm.

Ví dụ: Khi dạy “Bài 3. Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống - Ngữ văn 10), GV có thể lựa chọn hình thức tổ chức tranh biện theo đội, nhóm như sau:

Bước 1 - Giới thiệu chủ đề tranh biện: “HS cấp THPT nên hay không nên

mặc đồng phục đến trường?”.

Bước 2 - Tạo nhóm, giao nhiệm vụ, HS chuẩn bị nghiên cứu về vấn đề tranh biện. GV phân công cụ thể: Nhóm khẳng định - Bên đồng ý với tuyên bố được đề xuất; Nhóm phủ định - Bên không đồng ý với tuyên bố được đề xuất.

GV gợi ý HS hình thành ý kiến dưới dạng câu hỏi: Lợi ích của việc mặc

đồng phục? Việc mặc đồng phục trong nhiều ngày có gây ra bất tiện cho HS?

Bước 3 - Tiến hành tranh biện:

Bảng 1. Gợi ý câu trả lời

Nhóm khẳng định Nhóm phủ định Thời gian của mỗi nhóm

Lượt 1. Các nhóm đưa ra quan điểm của nhóm mình

5 phút

- Mặc đồng phục giới hạn khả năng thể hiện, phong cách, cá tính của HS.

36

- Đồng phục giúp tiết kiệm chi phí mua các loại quần áo cho HS. - Tránh được sự phân biệt giàu nghèo

giữa các đối tượng HS. - Giúp mọi người nhận ra mình là HS của trường nào. - Thể hiện tinh thần tập thể, đoàn kết. - Chi phí may đồng phục đắt, HS có thể không ưng chất liệu nhà may đưa ra. - Mặc đồng phục gây nhàm chán, giới hạn sự sáng tạo của HS.

5 phút

Lượt 2. Các nhóm phản bác ý kiến của nhau - HS mặc đồng phục giống nhau sẽ dẫn đến việc GV, HS gặp khó khăn khi ghi nhớ, phân biệt về một HS nào đó. - Có những chất liệu đồng phục không tốt khiến HS cảm thấy gò bó, không thoải mái khi học tập, vận động. - HS bắt buộc phải tuân thủ mặc đồng phục đến trường, nếu không mặc sẽ bị vi phạm nội quy nhà trường, dẫn đến tâm lí mệt mỏi, chán nản cho HS. HS không thể hiện được hứng thú, cá tính, sáng tạo của mình. - Nếu HS tự do mặc trang phục mình lựa chọn sẽ có những trường hợp HS mặc trang phục không phù hợp với lứa tuổi HS, khi đó không gọi là cá tính mà là gây phản cảm trong môi trường học đường. - Việc chi trả tiền đồng phục một lần cho một năm học sẽ tiết kiệm hơn là việc HS phải chi nhiều tiền để chạy theo các xu hướng thời trang. - Sẽ có những HS mặc đồ đẹp, đắt tiền và HS nhà không có điều kiện mặc đồ rẻ hơn, gây ra luồng tranh luận, bàn tán về việc phân biệt giàu nghèo, gây mất đoàn kết.

Bước 4: GV kết luận - Ý kiến của đội nào cũng có lí, đồng phục giúp chúng ta thêm gắn kết, xoá nhoà khoảng cách. Tuy nhiên, các trường có thể lựa chọn cho HS mặc đồng phục trong một số ngày nhất định, một số ngày được mặc tự do. Dù mặc trang phục nào thì HS cũng phải giữ đúng chuẩn mực, phù hợp với văn hoá, môi trường học tập. Sau khi tranh biện, GV yêu cầu HS trình bày suy nghĩ về vấn đề cần đặt ra với bản thân

Như vậy, thông qua hoạt động thảo luận nhóm, HS sẽ lần lượt được đổi vai người nói - người nghe, luyện tập được kĩ năng nói nghe tương tác, thảo luận cũng như bày tỏ được ý kiến, quan điểm của mình trong các tình huống khác nhau. Từ đó rèn luyện và phát triển được kỹ năng tranh biện.

2.2. Hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận tranh biện

Lập luận có vai trò quan trọng trong giao tiếp ngôn ngữ, diễn ra ở mọi nơi và ở mọi lĩnh vực, là công cụ để đạt được mục tiêu truyền tải thông điệp với hiệu quả cao nhất: giúp các đối tượng giao tiếp thấu hiểu lẫn nhau, tránh những thông tin sai lệch hoặc cách hiểu sai lệch, giúp khẳng định những ý kiến, quan điểm đúng đắn và bác bỏ những ý kiến, quan điểm sai lầm, giúp thuyết phục, lôi kéo sự đồng 37

tình của người khác…Trình độ lập luận là sự kết hợp hài hòa năng lực nhận thức, đánh giá, tổng hợp, phân tích, suy luận, phán đoán… về các hiện tượng, sự vật, sự việc diễn ra không ngừng và đa dạng trong bất cứ lĩnh vực nào của cuộc sống. Do đó, trình độ lập luận là thước đo năng lực trí tuệ, năng lực tư duy logic, kỹ năng ngôn ngữ của mỗi người, là phẩm chất, là thước đo mức độ trưởng thành của con người.

Thực chất, việc nghĩ ra ý tưởng và lập luận không khó. Thế nhưng, xây dựng được một lập luận tốt, thuyết phục để tăng chất lượng cuộc tranh luận thì lại không hề đơn giản và đây cũng là một trong những khó khăn nhất của học sinh lớp 10 khi tham gia tranh biện.

2.2.1. Để có một lập luận tốt trong tranh biện, cần chú ý ba tiêu chí khi xây dựng lập luận: tính liên quan, tính đúng đắn, tính quan trọng.

Trước hết, GV hướng dẫn HS cách xác định tiêu chí khi xây dựng lập luận là

tính liên quan:

+ Luận điểm, lí lẽ và dẫn chứng của lập luận có liên quan đến nhau hay không? Như vậy, nếu chúng ta nhìn vào thực tế, có rất nhiều cuộc “tranh luận” xảy ra, mà ở đó, chúng ta thấy các câu trả lời không liên quan gì đến câu hỏi, hay thông tin đưa ra từ hai phía không liên quan gì đến nhau, hoặc tệ hơn, cuộc tranh luận không nhằm giải quyết một vấn đề thực tế nào (mà đôi khi chúng ta hay bắt gặp ở những cuộc “phím chiến” giữa các “anh hùng” trên mạng) mà thực chất, nói theo ngôn ngữ của các bạn trẻ, chỉ đơn giản là “ghét cái thái độ”. Cho nên việc đầu tiên của chúng ta khi tranh biện, là hãy tìm những thông tin liên quan đến chủ đề tranh biện của mình và thể hiện nó trong quá trình tranh luận.

Tiếp theo, GV hướng dẫn HS cách xác định lập luận đó có tính đúng đắn và quan trọng: Khi đưa ra một nhận định nào đó, HS phải giải thích và chứng minh. Và mỗi khi HS chứng minh rằng sẽ có một hệ quả nào đó xảy ra, hãy chỉ ra vì sao hệ quả đó lại quan trọng.

Như vậy, khi ta lập luận để bảo vệ quan điểm của mình trước đối phương thì lập luận đó phải đảm bảo tính liên quan, tính đúng đắn và tính quan trọng thì mới làm chủ được nội dung tranh biện của nhóm mình đồng thời đưa cuộc tranh luận đi đúng hướng và đến thống nhất của hai bên cũng như nó mang lại hiệu quả của cuộc tranh luận đó.

38

Ví dụ: Khi tiến hành tổ chức tranh biện cho HS về chủ đề “Nên hay không nên cấm HS trang điểm khi đến trường” (tiết dạy phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này, Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” – Ngữ văn, tập 2).

Nếu HS được phân công vào nhóm đồng tình thì để thuyết phục đối phương buộc HS phải tìm hiểu kỹ các thông tin liên quan đến vấn đề trên như khảo sát nhu cầu HS muốn được trang điểm khi đến trường không? Việc trang điểm khi đến trường có phù hợp với các bạn? Ý kiến của nhà trường và phụ huynh như thế nào trước nhu cầu này của HS? Đồng thời HS phải xác định nguyện vọng đó có chính đáng không? Vậy khi HS nắm được những thông tin liên quan và đúng đắn, quan trọng về vấn đề trên sẽ làm chủ nội dung tranh biện và “Lái” được người nghe theo quan điểm của mình.

2.2.2. Để có một lập luận tốt trong tranh biện cần thiết lập một cấu trúc lập luận chặt chẽ giữa luận điểm, lý lẽ, dẫn chứng để đi đến một kết luận vững chắc trước đối phương.

Hoạt động tranh luận hiệu quả phải được xây dựng, kiểm soát và vận hành trên nền tảng của năng lực tư duy phản biện và năng lực lập luận. Do đó, sự khác nhau giữa tranh luận với cãi lộn ngoài sự biểu hiện ở động cơ, thái độ thì chỉ dấu quan trọng hơn cả là “cấu trúc” của nội dung thể hiện. Tranh luận để bảo vệ, chứng minh cho tính đúng đắn của một tư tưởng, một quan điểm… phải là sự diễn giải trình tự logic, khoa học theo một “cấu trúc” chặt chẽ gồm:

+ Các luận điểm. + Các lý lẽ làm cơ sở, làm chỗ dựa cho các luận điểm. + Các minh chứng xác thực cho sự tồn tại của những lý lẽ đã nêu ra.

Để làm tốt thao tác này, GV hướng dẫn HS thấy được mối quan hệ của cấu

trúc trên và yêu cầu của mỗi thành tố:

Cấu trúc Câu hỏi

Luận điểm

Điều tôi muốn chứng minh là gì? Vì sao? Như thế nào? Lý lẽ

Dựa vào đâu? Ví dụ?

Dẫn chứng

Vai trò Đưa ra lý do chính để ủng hộ/ phản đối kiến nghị Giải thích, chứng minh để thuyết phục người nghe tin vào luận điểm Ví dụ, bằng chứng để củng cố, mô tả luận điểm giúp người nghe hình dung vấn đề tốt hơn. Rút ra vấn đề quan trọng Kết luận Vì sao điều này lại quan trọng

39

Trong đó: Luận điểm: Là ý kiến thể hiện quan điểm của người nói khẳng định hoặc phủ định về một vấn đề nhất định. Một luận điểm cần thể hiện được ngay kết luận, ý chính cũng như các khái niệm hay các nguyên tắc đánh giá của người nói đối với vấn đề. Mặt khác, người nghe thường dựa theo bài nói nhờ các ý chính, nên luận điểm cần được trình bày dễ hiểu và dễ nhớ. Yêu cầu đối với luận điểm: Chính xác, phù hợp và nêu được bản chất vấn đề; Lý lẽ sẽ là phần bạn thực hiện hai nhiệm vụ: giải thích và chứng minh.

Nhiệm vụ chính của nó là để chứng minh vì sao luận điểm đưa ra lại đúng. Yêu cầu đối với lý lẽ: + Làm rõ luận điểm; + Logic (chặt chẽ); + Đúng đắn + Thuyết phục. Dẫn chứng là phần lập luận mà bạn cung cấp bằng chứng và ví dụ thực tế để củng cố thêm luận điểm. Nó giúp thuyết phục người nghe rằng những gì bạn đang nói có khả năng cao sẽ xảy ra trong thực tế. Các loại dẫn chứng phổ biến trong tranh biện như sau: + Số liệu, thống kê. Với loại dẫn chứng này, HS cần chú ý số liệu không thể tự chứng minh cho kết luận, nó cần được giải thích. + Một số xu hướng trong thực tế + Kết quả nghiên cứu khoa học. + Các trường hợp hay tình huống thực tế. Với loại này, HS cần chỉ ra được mỗi liên quan giữa các tình huống trong dẫn chứng và tình huống đang diễn ra trong trận tranh biện. Lưu ý: Trong tranh biện, HS hoàn toàn có thể trình bày dẫn chứng trước và đưa ra lý lẽ để giải thích dẫn chứng cũng như để chứng minh luận điểm sau. Việc này hoàn toàn phụ thuộc vào phong cách cá nhân của người nói cũng như hoàn cảnh cụ thể. Điều quan trọng là khi đưa ra bất cứ nhận định nào, HS cần có thói quen giải thích, chứng minh và đưa ra dẫn chứng cho nó. Ví dụ: Cách thiết lập một cấu trúc lập luận chặt chẽ cho chủ đề tranh biện: “HS nên hay không nên sử dụng mạng xã hội” được sử dụng trong tiết dạy “Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”)

Luận điểm đầu tiên: (Đồng tình) Mạng xã hội cập nhật thông tin mới nhanh hơn tất cả các kênh truyền thông khác.

Bằng chứng Số liệu: 78.5 % nhà báo sử dụng mạng xã hội để kiểm tra tin tức nóng hổi. 59% người dùng Twitter và 31% người dùng Facebook thăm dò tin tức mới trên những kênh mạng xã hội.

40

Luận điểm đầu tiên: (Phản đối) Mạng xã hội truyền tải nhiều thông tin không đáng tin cậy và sai sự thật. Bằng chứng Tham chiếu: Một nghiên cứu đăng trên báo Khoa học tìm ra rằng những lời nói dối lan truyền nhanh gấp 6 lần so với những sự thật trên Twitter, và tin giả thường được đăng lại thường xuyên hơn so với tin thật.

Kết luận 1 Mọi người không chắc đâu là thông tin đáng tin cậy bởi họ liên tục bị ngợp trong tin tức sai sự thật trên mạng xã hội.

Kết luận 1 Phần lớn mọi người trông cậy vào mạng xã hội để biết những tin tức mới cập nhật, điều này khiến mạng xã hội trở thành nguồn thông tin phổ biến nhất.

Luận điểm thứ hai: (Đồng tình) Mạng xã hội cho phép mọi người củng cố các mối quan hệ và kết bạn mới một cách dễ dàng. Bằng chứng: Số liệu: 72% thiếu niên kết nối với bạn bè qua mạng xã hội. 81% thiếu niên từ 13 đến 17 tuổi nói rằng mạng xã hội giúp họ cảm thấy có sự liên kết hơn với mọi người, và 68% cho rằng sử dụng mạng xã hội làm họ thấy được ủng hộ trong những lúc khó khăn. Kết luận Người trẻ tuổi đặc biệt nhận thức được tầm quan trọng của mạng xã hội trong việc xây dựng và duy các mối quan hệ. Luận điểm thứ hai: (Phản bác) Mạng xã hội dẫn đến căng thẳng và những vấn đề trong mối quan hệ ở cuộc sống ngoài đời. Bằng chứng: Tham chiếu: Một nghiên cứu cho thấy người có càng nhiều bạn bè trên Facebook thì người đó càng cảm thấy căng thẳng khi sử dụng mạng xã hội này. Bên cạnh đó, những nhà nghiên cứu tìm ra rằng việc sử dụng Twitter thường xuyên dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong các các mối quan hệ tình cảm như sự không chung thuỷ, chia tay, và ly hôn. Kết luận Về việc hình thành các mối quan hệ qua mạng xã hội, những mặt hạn chế dường như lớn hơn những mặt tích cực.

41

Như vậy, để tạo được bầu không khí đối thoại dân chủ thì chúng ta phải có kỹ năng trình bày lập luận chặt chẽ. Bởi vì, muốn đạt đến tính tối ưu của vấn đề buộc phải thuyết phục được người khác. Một bài tranh biện có sức thuyết phục đến đâu là phụ thuộc vào độ sắc của những lí lẽ, độ mạnh mẽ hùng hồn của lập luận, độ chắc chắn, đáng tin cậy của minh chứng mà người tranh biện đưa ra. Giáo viên cần khuyến khích học sinh sử dụng các kỹ năng lập luận. Học sinh sẽ học cách nghiên cứu bằng cách đưa ra các lý giải hợp lý cho câu trả lời. Lập luận trong tranh biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, toàn diện và chặt chẽ. Giáo viên có thể gợi mở các chủ đề tranh luận để học sinh suy ngẫm, đề xuất ý kiến và triển khai lập luận thành các bài viết hoàn chỉnh. Việc rèn luyện kỹ năng lập luận sẽ chuẩn bị tốt cho nội dung của bài tranh biện. Tuy nhiên, để tranh biện thực sự thành công còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng trình bày giàu sức thuyết phục, có tính hùng biện cao.

Đội Phản đối đã xây dựng nội dung tranh biện như sau:

42

2.3. Rèn luyện một số kỹ năng đi kèm để nâng cao hiệu quả tranh biện . Kỹ năng tranh biện là kết quả của một quá trình rèn luyện kiên trì và liên tục, bởi đó là kỹ năng có tính tổng hợp và hội tụ cao của năng lực trí tuệ, năng lực lựa chọn và vận dụng phương tiện ngôn ngữ, phương tiện phi ngôn ngữ cùng khả năng kiểm soát cảm xúc…trực tiếp và quan trọng nhất là các kỹ năng tư duy phản biện, tư duy logic, lập luận hiệu quả, giao tiếp và thuyết trình (nghe, nói, đọc, viết). Do đó, để có kỹ năng tranh biện hiệu quả cần tập trung rèn luyện để hoàn thiện và nâng cao đồng thời các kỹ năng cơ bản và cụ thể sau đây: 2.3.1.Rèn luyện kỹ năng làm chủ nội dung tranh biện Sự căng thẳng, gay gắt, quyết liệt (đôi khi còn có cả sự không khoan nhượng, một mất một còn) của một cuộc tranh luận đòi hỏi các bên tham gia tranh luận phải huy động đến mức cao nhất toàn bộ tâm trí và sức lực của mình để ứng phó kịp thời và nhạy bén với mọi diễn biến phức tạp đang và sẽ diễn ra. Trong hoàn cảnh đó, năng lực tự chủ của bản thân nhằm giúp kiểm soát nội dung tranh luận là yếu tố cực kỳ quan trọng giữ cho cuộc tranh luận đi đúng hướng, đúng mục tiêu, không bị đối phương chi phối, điều khiển và “dẫn dắt” theo ý đồ của riêng họ. Với những người đã có nhiều trải nghiệm trong hoạt động tranh luận thì sự tự chủ đã trở thành bản năng và là sức mạnh nội lực. Tuy nhiên, đối với lứa tuổi HS lớp 10 thì đây là một trong những điểm yếu rất dễ bộc lộ, có thể dẫn đến thất bại trong cuộc tranh luận. Làm chủ nội dung tranh biện là nắm vững và bám sát vấn đề cốt lõi. Để làm được điều này, trước và trong khi tranh luận, GV hướng dẫn HS cần luôn chủ động, thường trực “đánh thức” bản thân bằng việc bám sát, tự trả lời 5 câu hỏi: Câu hỏi 1. Vấn đề chính (trọng tâm) cần làm sáng tỏ là gì? Câu hỏi 2. Các khái niệm cốt lõi là gì và đã được xác định rõ ràng chưa? Câu hỏi 3. Các thông tin liên quan có tin cậy, khách quan và đủ để đưa ra kết luận chưa? Câu hỏi 4. Có giả định, hàm ý gì khác không? Có góc nhìn nào khác không? Câu hỏi 5. Lập luận có logic không? Có ngụy biện không? Ví dụ: Khi tổ chức hoạt động tranh biện về chủ đề: “Phong trào Check – in khi đi du lịch, nên hay không nên?”(Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” – Ngữ văn tập 2). + Định nghĩa của phong trào check – in + Chỉ ra những mặt hại của check-in: họ có thể làm điều nguy hiểm, giật gân nhằm gây sự chú ý, từ đó hình thành lối du lịch thờ ơ, vô cảm như việc ảnh hưởng đến giá trị văn hóa hay ảnh hưởng đến hệ sinh thái đồng thời khẳng định mục tiêu xây dựng một nền du lịch hiệu quả và bền vững. + Thu thập dẫn chứng là các hình ảnh vứt rác bừa bãi, chen lấn, xô đẩy nhau khi check-in tại địa điểm du lịch nổi tiếng. + Dự định câu hỏi phản biện của nhóm bạn: Phong trào check-in khi đi du lịch là

Một số yêu cầu bắt buộc HS thực hiện: + Khi đội bạn trình bày thì không vội phản bác, không cắt ngang và cũng

+ Yêu cầu quan trọng của tranh luận là phải luôn tuân thủ nguyên tắc bình

43

cách quảng bá du lịch, các hình ảnh đẹp của đất nước; thể hiện quyền tự do của con người. Như vậy, nắm vững và luôn theo sát chủ đề tranh luận bằng việc sử dụng tổ hợp các câu hỏi trên là cách hiệu quả để dẫn dắt cuộc tranh luận đi đúng hướng, đúng với mục đích với tâm thế chủ động. Đó cũng là cách tốt nhất để “đọc vị” đối phương, nhanh chóng phát hiện những sơ hở, những điểm yếu (trong nội dung và trạng thái tâm lý), những ngụy biện… của đối phương để phản bác và giữ thế chủ động. Vì vậy, các câu hỏi trên có thể được coi là “Bánh lái” để định hướng, nhằm dẫn cuộc tranh luận luôn đi đúng mục tiêu mong muốn. 2.3.2.Rèn luyện kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm xúc khi tranh biện Trong các cuộc tranh biện thường không có hồi kết hoặc HS không “phục” trước đối phương phần lớn là do HS lớp 10 với tâm lý hiếu thắng, thích thể hiện đã không chụi lắng nghe cũng như không biết kiểm soát cảm xúc của bản thân dẫn đến mâu thuẫn, đối kháng nhau dễ nảy sinh những ngôn ngữ gây hiềm khích, “đấu đá” nhau làm mất đi tính chất văn minh trong tranh luận. Vì vậy, GV hướng dẫn HS kỹ năng biết lắng nghe. + HS lắng nghe để chọn lọc, ghi nhớ thông tin trọng điểm + HS lắng nghe để biết phân biệt, xử lý thông tin (đúng/sai, hợp lý/không hợp lý…), đồng thời phải tổng hợp và liên kết, xâu chuỗi thông tin nhanh nhạy để có thể đưa ra phương án đối phó, phản biện tức thì. Nói khác đi phải có thái độ lắng nghe tích cực. Nếu không biết lắng nghe, mọi thiện chí đều có nguy cơ bị đổ bỏ. Do đó, có thể nói: biết lắng nghe hiệu quả trong tranh luận là đã nắm chắc 50% thành công. không nên vội đồng ý. đẳng và dân chủ, tôn trọng sự thật và chân lý. Vì vậy, làm chủ cảm xúc, nhận biết và kiểm soát cảm xúc của bản thân khi tranh luận là điều kiện cần thiết để đạt được kết quả tốt trong tranh luận, là nền tảng, là tiêu chí của văn hóa tranh luận. Ở đây, sự tôn trọng quan điểm, ý kiến trái ngược của đối phương, thái độ cầu thị, biết gạt bỏ định kiến cá nhân… là những kỹ năng cực kỳ quan trọng, có tính quyết định để đưa cuộc tranh luận đạt đến đúng mục đích cuối cùng là bảo vệ chân lý, phân định rõ đúng/sai, phải/trái…, thuyết phục đối phương bằng sự “thấu tình, đạt lý”. Khi áp dụng biện pháp này GV đã quay video thực hiện tại lớp qua tiết học với chủ đề “Nên hay không nên, yêu ở lứa tuổi học trò” (Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” – Ngữ văn tập 2). Đường link để truy cập nội dung của hoạt động dạy học: https://drive.google.com/file/d/15zFHpjPfK51Fv1jZs_T5JRT0Nhcgnw3z/view?u sp=drivesdk.

Ngôn ngữ trong tranh luận, GV hướng dẫn HS phải đảm bảo được 5 yêu

44

2.3.3.Rèn luyện kỹ năng sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ khi tranh biện. Trong “Bài 9. Hành trang cuộc sống, phần nói và nghe thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ” (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, tập 2) cũng đã khẳng định hiệu quả của tranh biện khi có sự kết hợp của phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ. cầu : “Trong sáng, Ngắn gọn, Dứt khoát, Rõ ràng và Phù hợp”. Cụ thể: - Ngôn ngữ sử dụng phải ngắn gọn, được chắt lọc, đi trực tiếp vào vấn đề cần tranh luận, không vòng vo, dài dòng, lan man, không được trùng lặp. - Ngôn ngữ diễn đạt phải rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu. Tuyệt đối tránh dùng các ngôn từ mơ hồ, tối nghĩa (hoặc đa nghĩa dễ gây hiểu lầm), các câu từ cảm thán, trừu tượng, khó hiểu. Nói chung, không nên dùng các lời lẽ hoa mỹ, kiểu cách, khoa trương, sáo rỗng. Tuyệt đối không sử dụng các ngôn từ khiếm nhã, cay cú để đả kích, chế nhạo, giễu cợt… gây ức chế, bức xúc cho đối thủ. Đặc biệt, sự sắc sảo, chặt chẽ, logic khi sử dụng ngôn ngữ là những yếu tố vô cùng quan trọng để làm tăng sức mạnh, giành lợi thế chiến thắng. Phương tiện phi ngôn ngữ bao gồm giọng nói (ngữ điệu, khẩu khí, chất giọng, tốc độ, cao độ khi nói…) và hành vi (nét mặt, dáng điệu, ánh mắt, nụ cười…). GV hướng dẫn HS khi sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ cần lưu ý: Trước hết, Chọn âm lượng với cung bậc phù hợp khi nói có tác dụng gây ấn tượng, thu hút sự chú ý của người nghe nhất là với những điểm nhấn quan trọng, dễ dàng tạo sự đồng cảm với quan điểm của mình. + Giọng nói phải đa dạng, phù hợp, tương thích với nội dung và ý đồ của người nói khi đưa ra các lập luận. Khi phủ định, bác bỏ thì khẩu khí phải hùng hồn, mạnh mẽ, đanh thép, dứt khoát…thể hiện sự tự tin, cương quyết. Khi cần thuyết phục thì giọng điệu phải ôn hòa, điềm đạm, truyền cảm, lay động lòng người. Khi phê phán, giọng điệu phải nhẹ nhàng, sâu sắc, ý nhị pha chút hài hước, châm biếm. + Âm lượng nói cần vừa đủ để người nghe có thể tiếp nhận được thông tin. Nói to quá có thể làm người nghe cảm thấy khó chịu. Nói nhỏ quá có thể làm người nghe phải “căng óc” để ghi nhận thông tin. Với những điểm cần nhấn mạnh, cần tăng âm lượng (thậm chí có thể nhắc lại). Lưu ý là dù âm lượng to hay nhỏ thì giọng nói phải có khí lực. Một giọng nói thiếu sinh khí, không thể hiện thái độ, cảm xúc…sẽ gây buồn chán, mệt mỏi và không có tác dụng thu phục người nghe. Âm vực phải chuẩn, tròn vành rõ chữ, không méo hay nuốt chữ, không nhầm lẫn giữa các âm. Tránh mắc một số tật như nói lắp, nói ngọng. + Tốc độ nói phải phù hợp với diễn biến tâm lý của người nghe và diễn biến của cuộc tranh luận. Với những điểm “chốt” quyết định trong lập luận, có thể dừng vài giây để tạo khoảng lặng nhằm gây tác động. Cần quan sát nét mặt của người nghe để điều chỉnh tốc độ nói cho phù hợp.

Như vậy, sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn

45

Thứ hai, GV hướng dẫn HS cách phát huy hiệu quả của dáng điệu, cử chỉ. Dáng đứng phải đàng hoàng, vững chãi, uyển chuyển và linh hoạt theo vấn đề đang trình bày, các cử động của cơ thể, của đôi tay phải thích ứng với khung cảnh giao tiếp, thu hút sự chú ý của người nghe và toát lên khả năng kiểm soát tình hình. Mọi hành vi phải được thể hiện đúng mức, phù hợp với nội dung và không khí tranh luận, không được lạm dụng. Thứ ba, GV hướng dẫn HS cách phát huy hiệu quả của việc Giao tiếp bằng mắt là giao tiếp phi ngôn ngữ quan trọng nhất. Thường xuyên nhìn thẳng vào đối phương trong khi nói, duy trì giao tiếp bằng mắt là cách tốt nhất để thể hiện sự tự tin, nghiêm túc và khẳng định sức mạnh nội tâm khi tranh luận. Thứ tư, GV hướng dẫn HS cách phát huy hiệu quả của Biểu cảm trên nét mặt phải thể hiện được những cảm xúc khác nhau phù hợp với nội dung trình bày. Ví dụ, khi xuất hiện tình tiết có sự đồng thuận với đối phương, nét mặt thể hiện sự chân thành, đồng cảm. Khi đối phương có biểu hiện lẩn tránh, ngụy biện, đi kèm với lập luận chặt chẽ, sắc sảo để phản bác là khuôn mặt thể hiện sự cứng rắn, cương quyết. Khi đối phương có hành vi coi thường, thái độ thiếu văn hóa… thì ánh mắt, biểu cảm trên khuôn mặt phải thể hiện thái độ phản kháng, không khoan nhượng, sẵn sàng trấn áp. Cuối cùng, Phương tiện phi ngôn ngữ cũng phải kể đến như PowerPoint kết hợp tranh ảnh, sơ đồ, bảng biểu, video cũng là một trong những phương tiện hỗ trợ đắc liệu cho hoạt động tranh biện. ngữ một cách hài hòa sẽ nâng cao hiệu quả của hoạt động tranh biện. Khi áp dụng biện pháp này GV đã quay video thực hiện tại lớp qua tiết học với chủ đề “Nên hay không nên, yêu ở lứa tuổi học trò”(Bài 6. Nguyễn Trãi - Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau, Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” - Ngữ văn tập 2). Đường link để truy cập nội dung của hoạt động dạy học: https://drive.google.com/file/d/15zFHpjPfK51Fv1jZs_T5JRT0Nhcgnw3z/view?u sp=drivesdk 2.3.4. Rèn luyện kỹ năng sử dụng hiệu quả các thủ thuật phản biện 2.3.4.1.Thuật “phản vấn”. “Phản vấn” là phản biện bằng cách đặt câu hỏi và dẫn dắt vấn đề để đối phương tự trả lời, từ đó buộc đối phương phải tự phủ định chính luận đề của mình qua câu trả lời. Đây là cách đem lại hiệu quả cao, có giá trị hơn lời khẳng định, đồng thời thể hiện trí tuệ sắc sảo của người lập luận. Vì vậy, lập luận/phản biện bằng cách đặt câu hỏi cũng là một thủ thuật được dùng khá phổ biến trong tranh luận, nhất là với những người có năng lực hùng biện. Ví dụ, khi tổ chức hoạt động tranh biện với chủ đề “Nên hay không nên, yêu ở lứa tuổi học trò” (Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách “Kết nối tri

thức với cuộc sống” – Ngữ văn tập 2). GV hướng dẫn các đội phải chuẩn bị câu hỏi cho đối phương: * Đội đồng tình đặt câu hỏi cho đội bạn: - Từ cơ sở định nghĩa nào của tình yêu khiến đội các bạn cho rằng cuộc đời chỉ nên yêu một người đến hết cuộc đời? - Tại sao các bạn chắc chắn rằng tình yêu tuổi học trò sẽ dễ khiến các bạn rơi vào trạng thái u buồn để rồi tìm đến những hướng giải quyết tiêu cực? * Đội phản đối đặt câu hỏi cho đội bạn: - Tình yêu tuổi học trò liệu có tạo động lực cho việc học tập hay chỉ khiến quãng đời đi học trở thành một đồ thị hình sin ? - Phải đối mặt thế nào với cú sốc, đau đớn từ tan vỡ chia tay gây ra khi mà ở lứa tuổi này không phải ai cũng có đủ bản lĩnh? 2.3.4.2. Các thủ thuật tác động vào tâm lý, cảm xúc của đối phương. Mặc dù mục đích cuối cùng của tranh luận là sự phân định đúng/sai trong tư tưởng, quan điểm…Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người tham gia tranh luận phải luôn ở trong trạng thái “máu lửa”, sẵn sàng đôi công, “ăn miếng, trả miếng” với đối thủ. Điều quan trọng mà tranh luận thực sự hướng đến, thực ra có khi lại là sự nhất trí, đồng lòng, tức là cùng chia sẻ sự tin tưởng vào kết quả cuối cùng. Điều đó có nghĩa là trong nhiều trường hợp, tranh luận còn có mục đích lôi kéo đối tượng. Quyến rũ, dụ dỗ thuyết phục đối tượng để họ muốn điều mình muốn, là cách dễ dàng nhất để đạt được sự đồng lòng, là cách để đạt được thắng lợi. Vì vậy, thuật “thu phục lòng người” không có mục tiêu tấn công vào lập luận của đối phương mà tập trung tác động đến trạng thái cảm xúc, tâm lý…Từ đó, khéo léo dẫn dắt đối phương thuận theo hướng suy nghĩ và quan điểm của mình. Đây được xem là giải pháp mang tính chiến thuật, tạo thế chủ động để “chiếm giữ” những khoảng trống, chưa xác định rõ giá trị trong tư duy của đối phương.

GV hướng dẫn HS vận dụng các thủ thuật tác động vào tâm lý, cảm xúc

- Nhẹ nhàng, từ tốn và ôn hòa để gây thiện cảm ban đầu.

- Khai thác những điểm tương đồng để lôi kéo đối phương.

46

của đối phương như: + HS cần chú ý thái độ từ tốn, ôn hòa, giọng điệu nhẹ nhàng, điềm tĩnh và tự kiểm soát được giọng nói sẽ khiến đối phương có cảm giác thoải mái, yêu tâm, không cảm thấy bị tấn công, là cách tốt nhất để hạn chế bản năng tự vệ của đối phương. + Sự nhẹ nhàng (và cả duyên dáng) sẽ làm cho đối phương cảm thấy không thể sử dụng thái độ căng thẳng và hành động công kích, từ đó dễ dàng làm chủ tình huống, chủ động “dẫn dắt” cuộc tranh luận đi theo ý muốn của mình hết sức đơn giản, rõ ràng…”. + Cách đặt vấn đề nhẹ nhàng, điềm tĩnh đã phần nào làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng vốn có của phiên tòa hình sự, tạo điều kiện để Luật sư trình bầy những nội dung tiếp theo. + HS đưa ra những điểm chung có sự tương đồng, dễ tạo đồng cảm. Đây là một kỹ năng nhỏ nhưng cực kỳ hiệu nghiệm. Mục tiêu của nó là làm cho đối phương thay

- Luôn giữ thể diện cho đối phương.

Khi áp dụng biện pháp này GV đã quay video thực hiện tại lớp qua tiết học

đổi quan điểm và nghĩ rằng bạn không hẳn là đối thủ của họ, làm cho đối phương có cảm giác rằng cả bạn và họ đều có thể có những suy nghĩ giống nhau. Đây là một thủ thuật mang tính tâm lý và thường được vận dụng để luôn giữ thế chủ động thu phục đối phương trong tranh luận. Tốt nhất là điểm tương đồng đưa ra để tìm kiếm tiếng nói chung nên là những điểm đánh vào cảm xúc, bản năng và tình cảm của con người, khiến cho đối phương không chỉ cảm thấy NÊN mà còn MUỐN đồng tình. Bởi lẽ, lý trí sẽ dễ dàng bị thuyết phục nếu cảm xúc đủ mạnh. + HS tránh các hành vi nhạo báng, đả kích ý kiến, công kích đời tư hoặc xúc phạm nhân cách cá nhân của đối phương. với chủ đề “Nên hay không nên, yêu ở lứa tuổi học trò” (Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dân này, phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”, Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” – Ngữ văn tập 2). Đường link để truy cập nội dung của hoạt động dạy học: https://drive.google.com/file/d/15zFHpjPfK51Fv1jZs_T5JRT0Nhcgnw3z/view ?usp=drivesdk. Tóm lại, để rèn luyện và phát triển kỹ năng tranh biện cho HS lớp 10 qua các tiết dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ sách Kết nối với tri thức, Ngữ văn 10), Người viết đã đưa ra 3 nhóm biện pháp dạy học: Chiến lược xây dựng câu hỏi, hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận vững chắc và rèn luyện một số kỹ năng đi kèm với KNTB như kỹ năng làm chủ nội dung tranh biện, kỹ năng lắng nghe và kiểm soát cảm xúc... . Trong mỗi nhóm biện pháp, người viết đều làm rõ đặc điểm, mục đích, ưu điểm, hạn chế cũng như các bước thực hiện của các nhóm biện pháp dạy học, lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp và trình bày ví dụ minh họa.

THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM (Theo kế hoạch dạy học của tổ chuyên môn Ngữ văn, trường THPT Yên Thành 2)

47

Tiết 90 Lớp dạy: 10A6 NÓI VÀ NGHE THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU I. MỤC TIÊU 1. Năng lực - Năng lực chung: Tự chủ & tự học, giao tiếp & hợp tác, giải quyết vấn đề & sáng tạo; năng lực trình bày - Năng lực đặc thù: + Năng lực thu thập thông tin có liên quan đến bài học. + Năng lực hợp tác khi trao đổi thảo luận, hoàn thành các bài tập.

Nhiệm vụ

+ Năng lực tiếp thu tri thức, kĩ năng để hoàn thành các yêu cầu của bài tập. 2. Phẩm chất - Tôn trọng người đối thoại để tìm được tiếng nói chung trong cuộc thảo luận. II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU 1. Thiết bị dạy học - Giáo viên: Văn bản, hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài (Máy tính, máy chiếu), phiếu học tập… - Học sinh: Sách, bút…. 2. Học liệu HS chuẩn bị bài nói theo chủ đề định hướng chuẩn bị nói mà giáo viên yêu cầu: - Tình yêu tuổi học rò, Nên hay không nên? - Sống nhanh hay sống chậm? - Việc dùng tiếng nước ngoài trong giao tiếp thông thường - Yêu bản thân: lối sống ích kỉ hay bí quyết hạnh phúc? - Lựa chọn nghề nghiệp theo định hướng của cha mẹ hay theo sở thích của bản thân? GV cho HS lựa chọn chủ đề thảo luận, GV chia HS thành (2 đội) và 1 nhóm Chuyên gia (MC, bản word chương trình Tranh biện) CHUẨN BỊ NHIỆM VỤ NHÓM Chủ đề tranh biện: Tình yêu tuổi học rò, Nên hay không nên? Nhóm 1

2

Đội theo quan điểm 1 Đội theo quan điểm 2

3

Đội chuyên gia - Tổ chức chương trình - Hội đồng giám khảo

Yêu cầu thảo luận - Nhóm chuẩn bị ở nhà phân công nhiệm vụ các thành viên xây dựng hệ thống luận điểm để đưa ra quan điểm cá nhân bảo vệ quan điểm của nhóm - Cử đại diện nhóm ba thành viên để tham gia vào cuộc tranh biện trực tiếp trên lớp - Tìm hiểu về chủ đề mà nhóm cần thảo luận - Lên ý tưởng tổ chức hoạt động tranh biện bằng kịch bản bản Word nộp trước cho giáo viên bộ môn điều chỉnh, góp ý - Xây dựng tiêu chí chấm điểm cho phần tranh biện (nộp trước cho giáo viên bộ môn Điều chỉnh góp ý gửi đến cho các nhóm trước tiết học)

48

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định tổ chức 2. Kiểm tra 3. Bài mới HOẠT ĐỘNG 1: KHỞI ĐẦU 1.1. Mục tiêu: Tạo hứng thú cho HS, thu hút HS sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học

tập của mình. HS khắc sâu kiến thức nội dung bài học. 1.2. Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS DỰ KIẾN SẢN PHẨM CẦN ĐẠT

Hs chú ý lắng nghe và trình bày ý kiến

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ: GV nêu câu hỏi: Trong cuộc sống và học tập khi nảy sinh những vấn đề xã hội vẫn còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, em sẽ phản ứng như thế nào? Vì sao? Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ, thảo luận, trình bày quan điểm Bước 3: Báo cáo, thảo luận: HS trình bày quan điểm Bước 4: Kết luận, nhận định: GV đánh giá kết quả của HS, trên cơ sở đó dẫn dắt HS vào bài học mới. HOẠT ĐỘNG 2: HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI Nội dung 1. Chuẩn bị thảo luận 2.1. Mục tiêu: HS nắm được cách thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau. 2.2. Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS DỰ KIẾN SẢN PHẨM CẦN ĐẠT

Hs chú ý lắng nghe và trình bày ý kiến

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ: GV yêu cầu học sinh đọc SGK và nêu những công việc cần làm để có thể thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau? Em phải chuẩn bị gì khi nói và khi nghe? Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: - HS nghe và thực hiện yêu cầu. - GV quan sát, gợi mở Bước 3: Báo cáo, thảo luận: GV gọi học sinh trình bày kết quả; HS quan sát, theo dõi, suy ngẫm Bước 4: Kết luận, nhận định: GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức Nội dung 2: Thực hành nói và nghe 2.1. Mục tiêu: Nắm được các kĩ năng khi thực hành bài nói, nghe; Biết cách thảo luận về một vấn đề xã hội cụ thể còn có ý kiến khác nhau. 2.2. Tổ chức thực hiện:

49

HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS DỰ KIẾN SẢN PHẨM

CẦN ĐẠT

Hs chú ý lắng nghe và trình bày ý kiến

50

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ: GV tổ chức HS tiến hành tranh biện - Tổ chức hình thức Gameshow, cho học trò tham gia chương trình “Trường Teen”. Chủ đề: “Tình yêu tuổi học rò, Nên hay không nên?” - Chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm cử 1 thư kí ghi chép ngắn gọn nội dung thuyết trình + Nhóm 1: lựa chọn Ủng hộ, Trình bày vấn đề theo quan điểm đã chuẩn bị, Nhóm 2: Lắng nghe và chuẩn bị câu hỏi thảo luận. + Nhóm 2: lựa chọn Phản đối, Trình bày vấn đề theo quan điểm đã chuẩn bị, Nhóm 1: Lắng nghe và chuẩn bị câu hỏi thảo luận - Giáo viên bám sát tiến trình tranh biện của HS, nhận xét, chốt ý Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: - MC của đội chuyên gia phổ biến luật của hoạt động tranh biện cuộc tranh biện gồm hai phần chính đan xen nhau + Phần nói của thành viên mỗi đội theo luật tranh biện + Phần Hỏi - Đáp giữa đại diện của mỗi đội: Người hỏi chỉ hỏi không trình bày luận điểm; người hỏi có thể yêu cầu xem nguồn bằng chứng; người trả lời có thể bị người hỏi ngắt lời nếu trả lời không đúng câu hỏi. + Thời gian chuẩn bị trước mỗi phần nói hỏi đáp các đội được phép xin thời gian để chuẩn bị tối đa 5 phút - Các thành viên đại diện nhóm thực hiện các luật nói theo tiêu chí của luật hoạt động tranh biện - Những thành viên còn lại giữ vai trò là người nghe khán giả có thể hỗ trợ các thành viên trong nhóm của mình (nếu cần) Bước 3: Báo cáo, thảo luận: Học sinh trình bày kết quả; quan sát, theo dõi, suy ngẫm, đưa ra ý kiến thảo luận về vấn đề HS tham gia tranh biện, yêu cầu lượt nói của mỗi thành viên đội như sau:

Vai trò Nội dung cụ thể Thời lượng

- A là đội theo quan điểm 1 (ủng hộ): A1, A2, A3 lần lượt là người nói thứ nhất, nhì, ba - B là đội theo quan điểm 2 (phản đối): B1, B2, B3 lần lượt là người nói thứ nhất, nhì, ba. - Lượt nói được trình bày ở bảng dưới theo thứ tự người nói thứ nhất A1 đến người nói cuối cùng B3 Lượt nói A1 5 phút

Trình bày toàn bộ phiên tranh biện Hỏi đáp Trình bày toàn bộ phiên tranh biện của bên A B3 đặt câu hỏi, A1 trả lời 2 phút

B3 và A1 B1 4 phút

Trình bày toàn bộ phiên tranh biện

Hỏi đáp - Phản biện phiên tranh biện của bên A - Trình bày luận điểm bên B A3 đặt câu hỏi, B1 trả lời 2 phút

A3 và B1 A2 4 phút

Phản biện B1 và ủng hộ A1

triển lý

Hỏi đáp - Phản biện B1 - Ủng hộ A1 bằng cách củng cố luận điểm A1 trình bày, bổ sung bằng chứng phát lẽ; không đưa ra luận điểm mới B1 đặt câu hỏi, A2 trả lời 2 phút

B1 và A2 B2 4 phút

Phản biện A2 và ủng hộ B1

triển lý

Hỏi đáp - Phản biện A2 - Ủng hộ B1 bằng cách củng cố luận điểm B1 trình bày, bổ sung bằng chứng phát lẽ; không đưa ra luận điểm mới A1 đặt câu hỏi, B2 trả lời 2 phút

A1 và B2 A3 3 phút

Tổng hợp xung đột chứng để minh A thắng

51

- Phản biện B2. Phân tích các xung đột chính để chứng minh A thắng - Không được đưa ra bất kì luận điểm mới hay bổ sung luận điểm cũ, kể cả bằng chứng.

B3 3 phút

Tổng hợp xung chứng để đột minh B thắng

- Phản biện A3. Phân tích các xung đột chính để chứng minh B thắng - Không được đưa ra bất kì luận điểm mới hay bổ sung luận điểm cũ, kể cả bằng chứng.

Bước 4: Kết luận, nhận định: GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức

II. Thảo luận 1. Người nói - Giới thiệu được vấn đề cần thảo luận. - Tóm lược những ý kiến khác nhau về vấn đề; trình bày ý kiến cá nhân, sử dụng lý lẽ, bằng chứng để chứng minh cho quan điểm của mình; trao đổi thảo luận với những người có ý kiến khác. - Khái quát những điểm chung có thể thống nhất; nhấn mạnh tác dụng của cuộc thảo luận đối với cách nhìn nhận đánh giá vấn đề xã hội. 2. Người nghe - Lắng nghe, ghi chép lại những ý kiến muốn trao đổi với người nói. - Chuẩn bị nội dung trao đổi.

Nội dung 3: Trao đổi và đánh giá 2.1. Mục tiêu: Nắm được tiêu chí đánh giá bài nói và đưa ra được nhận xét về bài nói. 2.2.Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS DỰ KIẾN SẢN PHẨM CẦN ĐẠT

Hs chú ý lắng nghe và thực hiện yêu cầu theo phiêu học tập số 1

52

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ: Nhóm chuyên gia và các thành viên trong hội đồng giám khảo tổ chức nhận xét đánh giá về phần trình bày của các nhóm (Phiếu học tập 1) Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: GV yêu cầu nhận xét sự trình bày của các nhóm theo bảng Bước 3: Báo cáo, thảo luận: GV gọi học sinh trình bày kết quả đánh giá Bước 4: Kết luận, nhận định:

GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thứ

HOẠT ĐỘNG 3: LUYỆN TẬP 3.1. Mục tiêu: Củng cố lại kiến thức đã học 3.2. Tổ chức thực hiện: HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS

DỰ KIẾN SẢN PHẨM CẦN ĐẠT

Đoạn văn của học sinh

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ: GV nêu câu hỏi yêu cầu hs trả lời: Em học được những kĩ năng gì sau bài học này? Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: HS trình bày quan điểm Bước 3: Báo cáo, thảo luận: GV gọi học sinh trình bày Bước 4: Kết luận, nhận định: GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức

HOẠT ĐỘNG 4: VẬN DỤNG (GIAO VỀ NHÀ) 4.1. Mục tiêu: Vận dụng kiến thức đã học để giải bài tập, củng cố kiến thức. 4.2.Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS DỰ KIẾN SẢN PHẨM CẦN ĐẠT

Hoàn thành bài tập ở nhà và nộp vào buổi học sau

53

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ: - GV chuyển giao nhiệm vụ: Hãy chọn viết về một đề tài xã hội mà bạn đang quan tâm. Dựa vào bài viết này để lập dàn ý cho một bài thuyết trình và tập thuyết trình trên cơ sở dàn ý đó; Hoàn thành bài tập khác trong SKG Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: - HS tiếp nhận nhiệm vụ. - HS thực hiện nhiệm vụ (Ở nhà) Bước 3: Báo cáo, thảo luận: - HS hoàn thành bài làm, chỉnh sửa - Giáo viên khuyến khích học sinh quay video phần trình bày bài nói và gửi cho giáo viên. Bước 4: Kết luận, nhận định: - GV nhận xét, đánh giá ý thức làm bài của học sinh trong giờ học sau

3. Khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất.

3.1.Mục đích khảo sát

- Khảo sát tính cấp thiết, tính khả thi của đề tài thông qua các giải pháp được đưa ra trong đề tài.

- Khảo sát mức độ hứng thú, đạt hiệu quả của học sinh trong quá trình áp dụng giải pháp rèn luyện KNTB cho học sinh lớp 10

3.2.Nội dung và phương pháp khảo sát

Nội dung khảo sát tập trung vào các vấn đề chính:

- Các giải pháp ứng dụng để rèn luyện KNTB cho học sinh lớp 10 có thực sự cần thiết với vấn đề được nghiên cứu hay không?

- Các giải pháp có thực sự khả thi đối với vấn đề được nghiên cứu trong hiện tại hay không?

Phương pháp sử dụng để khảo sát và thang đánh giá

Chúng tôi tiến hành khảo sát bằng phương pháp là trao đổi bằng bảng hỏi qua Trang tính https://docs.google.com/forms/d/1Js908XBK8kgEys_R5tRJaPSWT2bV3Yoxpbws cFPQhD4/edit#responses gửi đến các nhóm Zalo của lớp và tổ chuyên môn

Thang đánh giá 04 mức (tương ứng với điểm số từ 1 đến 4):

Không cấp thiết; Ít cấp thiết; Cấp thiết và Rất cấp thiết.

Không khả thi; Ít khả thi; Khả thi và Rất khả thi. Phần mềm tính điểm: https://docs.google.com/forms/d/1Js908XBK8kgEys_R5tRJaPSWT2bV3Yoxpbws cFPQhD4/edit#responses

3.3.Đối tượng khảo sát

TT Đối tượng Số lượng

1 Giáo viên tổ văn trường THPT Yên Thành 2 10

2 Học sinh 10A2,10A5,106 137

3.4. Kết quả khảo sát

Tính cấp thiết của đề tài được khảo sát

54

Sau khi khảo sát và xử lý số liệu về Sự cấp thiết của các biện pháp Rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10, tập 1,2) Chúng tôi thu được kết quả dưới đây:

Bảng 3.1. Kết quả tổng hợp kiến đánh giá về sự Cấp thiết của các giải pháp đề xuất : TT Các giải pháp Mức

Điểm trung bình Cấp thiết

Số lượt khảo sát (146 lượt) Ít cấp Không thiết cấp thiết 2 (1,4 %) 47 (32,2%) 0 (0%) Rất cấp thiết 97 (66,4%) 3.63 1. Chiến lược xây câu hỏi

1 (0,7%) 1 (0,7%) 29 (19,9%) 115 (78,8%) 3.76

3 (Cấp thiết) 3 (Cấp thiết)

dựng tranh biện 2. Hướng dẫn HS cách xây dựng một luận lập vững chắc.

3. Rèn

0 (0%) 1 (0,7%) 39 (26,5%) 107 (72,8%) 3.72

3 (Cấp thiết)

luyện một số kỹ năng đi kèm như KN làm chủ nội dung tranh biện…

55

Bảng số liệu trên được cụ thể hóa bằng biểu đồ sau:

Đối chiếu số liệu khảo sát trước và sau khi thực hiện các biện pháp của đề tài, chúng tôi nhận thấy: các giải pháp đều đạt điểm mức trung bình lớn hơn 3 chấm tương ứng với mức Cấp thiết, trong đó giải pháp Hướng dẫn HS cách xây dựng một lập luận vững chắc để rèn luyện KNTB cho HS thì đạt mức điểm trung bình lớn nhất (3.76), điều đó cho thấy trong thực tế tranh biện các em HS còn thấy khó khăn trong kỹ năng lập luận để bảo vệ quan điểm trước đối phương và mong muốn được rèn luyện kỹ năng để nâng cao hiệu quả tranh biện. Như vậy, qua khảo sát đã cho thấy được Sự cấp thiết của các giải pháp đề xuất để rèn luyện và phát triển KNTB cho học sinh lớp 10 THPT trong chương trình GDPT Ngữ văn 2018.

56

Tính khả thi của vấn đề được khảo sát Sau khi khảo sát và xử lý số liệu về Tính khả thi của các biện pháp Rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10, tập 1,2) Chúng tôi thu được kết quả dưới đây:

Bảng 3.2. Kết quả tổng hợp kiến đánh giá về Tính khả thi của các giải pháp đề xuất :

Mức TT Các giải pháp

Điểm trung bình

Số lượt khảo sát (147 lươt) Rất khả thi 95 (66,6%) Khả thi 50 (34,0%) Ít khả thi 1 (0,7%) Không khả thi 1 (0,7 %) 3.62 3 1. Chiến lược xây câu hỏi

1 (0,7%) 1 (0,7%) 29 (19,9%) 115 (78,8%) 3.76 3

dựng tranh biện 2. Hướng dẫn HS cách xây dựng một luận lập vững chắc.

3. Rèn

2 (1,4%) 0 (0%) 37 (25,2%) 108 (73,5%) 3.70 3

luyện một số kỹ năng đi kèm như KN làm chủ nội dung tranh biện…

57

Bảng số liệu trên được cụ thể hóa bằng biểu đồ sau:

58

Đối chiếu số liệu khảo sát trước và sau khi thực hiện các biện pháp của đề tài, chúng tôi nhận thấy: các giải pháp đưa ra của đề tài đều thể hiện được tính Khả thi, HS thấy hứng thú và vận dụng có hiệu quả các giảp pháp trên để nâng cao chất lượng tranh biện. Như vậy, có thể khẳng định, sáng kiến kinh nghiệm:“Rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10) đã tạo một cách tiếp cận mới, có tác dụng nhiều mặt trong việc rèn luyện tư duy phản biện, sáng tạo, kỹ năng tự học, kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Đây là một tiết học bổ ích giúp các em có cơ hội rèn luyện, vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học đ ể hình thành các kỹ năng mềm quan trọng cho học tập cũng như đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống trong tương lai. 4. Khả năng ứng dụng của đề tài 4.1. Phạm vi ứng dụng và đối tượng sử dụng - Đề tài đã được áp dụng ở các lớp 10A5(Lớp khối D1), 10A6 (lớp khối D2),

- Đối tượng mà đề tài hướng tới là GV bộ môn Ngữ văn và HS lớp 10, phù

Đối với học sinh Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi nhận thấy tiết học sôi nổi, hứng thú; học

10A2 có đối chứng với kết quả trước và sau khi thực hiện các giải pháp trên tại trường THPT Yên Thành 2, có thể áp dụng rộng rãi trong và ngoài tỉnh khi lựa chọn Bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống” để thực hiện giảng dạy chương trình GDPT Ngữ văn 2018. hợp với năng lực HS, kể cả HS yếu, trung bình. - Việc rèn luyện kỹ năng tranh biện có thể lồng ghép trong suốt tiến trình dạy học: hình thành kiến thức, luyện tập, vân dụng, sinh hoạt câu lạc bộ, ngoại khóa. 4.2. Hiệu quả của đề tài Đối với giáo viên Giáo viên trở thành người tổ chức, hướng dẫn và đồng hành cùng với HS thực hiện nhiệm vụ học tập, tạo sựu gắn kết giữa cô và trò. Tạo động lực cho GV tìm tòi, mở rộng và nâng cao kiến thức, kỹ năng. Từ nâng cao KNTB cho HS qua hoạt động tương tác giữa Phần nói – nghe thảo luận về các vấn đề xã hội có kiến khác nhau, còn giúp GV vận dụng một cách hiệu quả thông qua dạy một số tiết về Hoạt động viết hoặc đọc. sinh thích thú, tích cực, sáng tạo và yêu thích môn Ngữ văn chương trình 2018. Nhờ được bồi dưỡng, phát hiện KNTB, các em tự tin hơn trong giao tiếp; mạnh dạn bày tỏ quan điểm trước tập thể; một số kỹ năng khác cũng được phát triển như làm việc nhóm, sử dụng ngôn ngữ, tư duy logic… 4.3. Bảng đối chứng thực nghiệm về hiệu quả của đề tài Để kháo sát kết quả rèn luyện KNTB của HS qua dạy học Phần Nói – Nghe. Thảo luận về vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bộ Sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10, tập 1,2) thể nghiệm, Chúng tôi đã tiến hành kiểm tra sau tiết học Phần Nói – Nghe. Thảo luận về vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 6. Nguyễn Trãi – Dành còn để trợ dần này, Bộ Sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10, tập 2) Kết quả thu được như sau:

Nội dung

Lớp 10A5 (Thực nghiệm) sĩ số 45 HS

59

Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung bình Điểm yếu – kém Trước 5/45 (11%) 15/45 (33%) 20/45 (44%) 5/45 (12%) Sau 23/45 (51%) 20/45 (44%) 2/45 (5%) 0/45 (0%)

PHẦN III. KẾT LUẬN

60

1. Quá trình nghiên cứu Để đạt được kết quả nêu trên, chúng tôi đã tiến hành một quá trình nghiên cứu nghiêm túc, khách quan, khoa học. Đề tài hướng đến mục đích nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh qua hoạt động dạy học trên lớp tại trường THPT Yên Thành 2. Từ đó đề xuất các giải pháp rèn luyện kỹ năng này nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy, đáp ứng mục tiêu yêu cầu của Chương trình GDPT Ngữ văn 2018. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm: phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp điều tra khảo sát và xử lý số liệu, phương pháp quan sát sư phạm, phương pháp thực nghiệm sư phạm, phương pháp phỏng vấn… Quá trình nghiên cứu dựa trên nguồn tài liệu có độ tin cậy cao từ sách vở, báo chí, internet, các khảo sát điều tra chính xác từ nhiều đối tượng (học sinh, giáo viên). Trong thực hiện, chúng tôi cũng có sự điều chỉnh kịp thời các biện pháp để phù hợp với tình hình thực tế và đạt hiệu quả cao nhất. Đề tài nhận được sự quan tâm và tham gia tích cực của học sinh, đồng nghiệp trong nhà trường. Kết quả của đề tài khẳng định hướng đi đúng đắn của Chương trình GDPT Ngữ văn 2018. Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài, chúng tôi rút ra các kết luận sau: - Việc rèn luyện kỹ năng nói chung, kỹ năng tranh biện nói riêng cho học sinh THPT là một nhiệm vụ quan trọng trong dạy học hiện nay. - Từ những nghiên cứu về lý luận và phân tích thực trạng trong quá trình rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 THPT qua dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10), Chúng tôi đã đề xuất 3 biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Mỗi giải pháp đều dựa trên cơ sở thực tiễn và tình hình thực tế tại đơn vị để đề xuất cách thức thực hiện có hiệu quả. Kết quả đánh giá đều dựa trên quá trình thực nghiệm nghiêm túc tại cơ quan nơi công tác. Phân tích kết quả thực hiện cho phép khẳng định: các biện pháp rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 THPT qua tiết dạy trên được đề xuất là đảm bảo tính khoa học, phù hợp với đối tượng học sinh THPT, thích hợp với điều kiện nhà trường phổ thông hiện nay. Nếu thực hiện đồng bộ các biện pháp này sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học của Chương trình GDPT Ngữ văn 2018; đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới. 2. Ý nghĩa của đề tài Xuất phát từ một vấn đề thực tiễn nảy sinh trong hoạt động dạy học, đề tài đã giúp giải quyết những tồn tại, hạn chế trong việc rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 THPT qua dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau”(Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10). Việc vận dụng kết hợp các giải pháp của đề tài đã đáp ứng lòng ham hiểu biết, hứng thú học tập, khả năng tự nhận thức và đặc biệt là rèn luyện cho các em tư duy độc lập, năng

Để nhân rộng hiệu quả của đề tài, chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kiến

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

61

lực hợp tác nhóm và giải quyết vấn đề. Đây là những hành trang cần thiết để các em có thể tự tin hòa nhập với cộng đồng, trở thành những công dân toàn cầu trong tương lai. Những giải pháp của đề tài cũng góp phần đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học trên lớp, có đóng góp không nhỏ vào kết quả giáo dục của nhà trường khi thực hiện Chương trình GDPT 2018. Quá trình nghiên cứu cũng giúp bản thân chúng tôi nâng cao kiến thức về lý luận, vận dụng những phương pháp dạy học mới vào thực tiễn và đúc rút được những bài học kinh nghiệm quý giá. Những kết quả thu được trong quá trình dạy học sẽ là động lực mạnh mẽ thúc đẩy chúng tôi cố gắng nhiều hơn nữa để làm tròn sứ mệnh “trồng người” của người giáo viên. 3. Một số đề xuất nghị sau: - Sở giáo dục – đào tạo có sự quan tâm chỉ đạo cụ thể sát sao việc thực hiện mục tiêu giáo dục của Chương trình GDPT Ngữ văn 2018. Tổ chức các hội thảo chuyên đề giữa các trường THPT nhằm đánh giá tình hình thực hiện Chương trình GDPT 2018 trong đó có môn Ngữ văn để tháo gỡ những khó khăn, thử thách; từ đó nhân rộng các kinh nghiệm, giải pháp để hoạt động dạy học có hiệu quả, nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên đáp ứng được những đòi hỏi của Chương trình giáo dục phổ thông mới. - Về phía nhà trường, cần bổ sung các sách tham khảo mới, đặc biệt là tài liệu nghiên cứu về đổi mới chương trình giáo dục hiện nay cho GV ở thư viện; Đầu tư thêm máy chiếu tại các phòng học, tạo điều kiện giúp đỡ cho một số GV biết và sử dụng thành thạo công nghệ thông tin để đáp ứng yêu cầu của Chương trình GDPT Ngữ văn 2018. - Về phía giáo viên, để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp GV cần nghiên cứu kỹ bài giảng; xác định được kiến thức trọng tâm; tìm hiểu, tham khảo các vấn đề thực tế liên quan phù hợp với năng lực người học, xây dựng kế hoạch dạy học cho từng chuyên đề, từng nội dung kiến thức theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của HS để phát triển năng lực và phẩm chất cho HS. Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm: “Rèn luyện kỹ năng tranh biện cho học sinh lớp 10 qua dạy học phần Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau” (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Ngữ văn 10), được chúng tôi đúc rút được trong quá trình thực hiện tại đơn vị công tác. Rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và hội đồng khoa học các cấp.

PHỤ LỤC

1. Một số hình ảnh về hoạt động dạy và học

62

Đại diện các nhóm lần lượt trình bày quan điểm của đội mình về chủ đề “Tình yêu tuổi học trò, Nên hay không nên”

63

Các nhóm đặt câu hỏi cho đối phương để tranh luận về chủ đề “Tình yêu tuổi học trò, Nên hay không nên”

64

Các đội tranh luận về chủ đề “Việc sử dụng ĐTDĐ trong giờ học, Nên hay không nên”

65

2. Một số bài viết sản phẩm của HS

66

Bài trình bày và dự kiến câu hỏi của nhóm Đồng tình với chủ đề “Tình yêu tuổi học trò, Nên hay không nên”

67

68

Bài trình bày và dự kiến câu hỏi của nhóm Phản đối với chủ đề “Tình yêu tuổi học trò, Nên hay không nên”

Sản phẩm chuẩn bị tranh biện của hai nhóm Đồng tình và Phản đối về chủ đề “Việc sử dụng ĐTDĐ trong giờ học, Nên hay không nên”

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. SGK 10 tập 1 và 2, Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Chương trình

GDPT Ngữ văn 2018, NXB GD

2. SGV 10 tập 1 và 2, Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, Chương trình

GDPT Ngữ văn 2018, NXB GD

3. NQ TW 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.

4. Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê 2007

5. Lưu Thị Trường Giang, Phạm Thị Quỳnh Trang, tạp chí giáo dục, tháng

9/2022.

6. Lã Phương Thúy, Trần Thị Dung, tạp chí giáo dục, tháng 12/2022

7. Luật giáo dục 2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, số

38

8. Tài liệu tập huấn, Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định

hướng phát triển năng lực học sinh, môn Ngữ văn cấp THPT, Hà Nội 2014.

9. Lê Đình Trung, Phạm Thị Thanh Hội (2016), Dạy học theo định hướng hình

thành và phát triển năng lực người học ở trường phổ thông, NXB ĐHSP

10. Trần Thị Nâu, chiến lược xây dựng câu hỏi nhằm phát triển năng lực tư duy phản biện cho sinh viên ngành sư phạm Ngữ văn , Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 04 năm 2015, trang 54

11. Đỗ Văn Vinh, Trần Thanh Lộc, nâng cao năng lực tư duy phản biện cho

69

sinh viên, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số kì 1/ tháng 5/2019, trang 54