Sài Gòn - Hòn ngọc viễn đông
lượt xem 59
download
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG Sài Gòn cổ xưa được thành lập từ năm 1623, nhưng tới năm 1698, Chúa Nguyễn mới cử Thống soái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Phương Nam, khai sinh ra thành phố Sài Gòn. Năm 1911, Sài Gòn là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ra đi tìm đường cứu nước, khi đất nước thống nhất, Quốc Hội khoá VI họp ngày 2.7.1976 đã chính thức đổi tên Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh . Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố trẻ trung...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sài Gòn - Hòn ngọc viễn đông
- THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG Sài Gòn cổ xưa được thành lập từ năm 1623, nhưng tới năm 1698, Chúa Nguyễn mới cử Thống soái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Phương Nam, khai sinh ra thành phố Sài Gòn. Năm 1911, Sài Gòn là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ra đi tìm đường cứu nước, khi đất nước thống nhất, Quốc Hội khoá VI họp ngày 2.7.1976 đã chính thức đổi tên Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh . Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố trẻ trung và hiện đại mới 300 năm tuổi, song trong lòng thành phố đã chứa đựng biết bao giá trị văn hoá nhân văn - văn hoá lịch sử được kết tinh và thăng hoa từ sự giao lưu của nhiều nền văn hoá khác nhau trên nền tảng văn hoá mang đậm bản sắc Việt Nam . Đặc điểm văn hoá Sài Gòn xưa và Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay là sự thể hiện khá độc đáo bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam trong bối cảnh lịch sử – không gian của khu vực phương Nam Tổ quốc ta. Có thể nói, Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh là nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hoá trong quá trình lịch sử hình thành và phát triển, có nền văn hoá mang dấu ấn của người Việt Nam, Hoa, Chăm, Khơ me, Ấn… Rồi Sài Gòn trở thành một trong những trung tâm của cả nước đón nhận những ảnh hưởng của văn hoá Pháp, Mỹ qua các giai đoạn thăng trầm của đất nước. Đó là những như: bến Nhà Rồng, Bưu điện, Nhà hát lớn, đền Quốc Tổ, trụ sở UBNDTP, dinh Thống Nhất, chợ Bến Thành…, hệ thống các ngôi chùa cổ như: chùa Giác Lâm, chùa bà Thiên hậu, Tổ Đình Giác Viên…; các nhà thờ cổ như: Nhà thờ Đức Bà, Huyện Sỹ, Thông Tây Hội, Thủ Đức…; là sự đa dạng về tôn giáo, tín ngưỡng với hàng chục lễ hội văn hoá hàng năm đã tạo nên tính thống nhất trong đa dạng văn hóa của mảnh đất phương Nam này.Trên từng con đường, góc phố, địa danh của thành phố đề gắn liền với những danh nhân văn hoá - lịch sử, những chiến công của một thành phố anh hùng. Thành phố có nhiều danh lam thắng cảnh rất đẹp, địa danh - di tích lịch sử - văn hoá nổi tiếng như: Thảo Cầm Viên, Đầm Sen, Suối Tiên, Hồ Kỳ Hoà, Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Cách mạng, địa đạo Củ Chi, đền tưởng niệm Bến Dược Củ Chi, chiến khu An Phú Đông, 18 thôn Vườn Trầu, Hóc Môn Bà Điểm, Láng Le Bàu Cò, vườn thơm Bưng Sáu, “Căn cứ nổi” rừng Sác, khu du lịch sinh thái Cần Giờ với nhiều hệ sinh thái có nhiều chủng loại động thực vật… Do có vị trí địa lý thuận lợi, khí hậu ôn hoà, quanh năm hai mùa mưa nắng, cùng với lịch sử trên 300 năm đấu tranh quật khởi kiên cường chống ngoại xâm đã từng có tiếng vang trên thế giới, và nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành trung tâm du lịch của cả nước. Sài Gòn – nơi một thời được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" đã là trung tâm thương mại và là nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em, mỗi dân tộc có tín ngưỡng, sắc thái văn hoá riêng góp phần tạo nên một nền văn hoá đa dạng. Đặc trưng văn hoá của vùng đất này là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống dân tộc với những nét văn hoá phương Bắc, phương Tây, góp phần hình thành lối sống, tính cách con người Sài Gòn. Thành phố Hồ Chí Minh hấp dẫn du khách không chỉ vì có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hoá, công trình kiến trúc cổ mà còn thu hút du khách bởi văn hoá ẩm thực mang đậm nét Nam bộ. Là cửa ngõ của Đất phương Nam, ngay tại trung tâm thành phố, từ bến Bạch Đằng, du khách có thể xuống thuyền xuôi theo sông Sài gòn để được hoà mình với thiên nhiên bao la của sông nước, hướng về những làng nghề truyền thống, vườn cây ăn trái xum suê, vườn cây kiểng, chợ nổi trên sông hay khu du lịch sinh thái Cần Giờ - khu du lịch được UNESCO công nhận là "Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn" đầu tiên của Việt Nam… Thành phố còn là cửa ngõ đưa du khách đến với những địa danh nổi tiếng của cả khu vực phía Nam như: vùng nước nóng thiên nhiên Bình Châu, rừng nguyên sinh Nam Cát Tiên, vùng biển Mũi Né, vùng ven biển Hà Tiên, Đà Lạt, đồng bằng sông Cửu Long nổi tiếng với những vựa lúa, vườn cây trái, rừng ngập mặn, rừng tràm, đồng bưng và nhiều loại đặc sản quý hiếm . PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Khí hậu hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa bình quân năm 1.979 mm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 27,55 0C, không có mùa đông Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố ngập tràn ánh nắng, chói chang trên khắp phố phường, lung linh trên những dòng sông uốn lượn, với những nụ cười và ánh mắt thân thiện của người dân Sài Gòn – thành Phố Hồ Chí Minh, những con người đã làm nên truyền thống vẻ vang của mình với vẻ đẹp của “cốt cách văn hoá phương Nam” : yêu nước, thương nòi; đoàn kết thống nhất, kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước; coi trọng nhân nghĩa; biết hội nhập văn hoá để phát triển… đã trở thành "Ðiểm đến của thiên niên kỷ mới", thu hút du khách ở khắp mọi miền của Tổ quốc và trên thế giới. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- DANH LAM THẮNG CẢNH Bến Nhà Rồng Nhà Rồng hay khu lưu niệm Bác Hồ, nằm trên ngã ba sông Sài Gòn, đầu đường Nguyễn Tất Thành, là một tòa nhà ba tầng. Nơi đây ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (mà sau này là Bác Hồ của chúng ta) đã ra đi tìm đường cứu nước. Nhà Rồng nguyên là dinh đại diện hãng chuyên chổ sau đổi là chuyên chở hàng hải, được xây từ năm 1862, ngay sau khi Pháp vừa chiếm xong Sài Gòn và ba tỉnh miền Đông nam bộ. Có lẽ trong cả nước ta, kể cả hàng trăm công trình kiến trúc thời Pháp còn để lại, không một ngôi nhà nào mà kiểu cách dị biệt "thượng ta hạ tây", rõ nét như Nhà Rồng. Những con rồng bằng sứ men xanh uốn khúc trên mái nhà. Có tài liệu nói con rồng này lấy từ Văn Miếu (Hà Nội). Khi Bác Hồ ra đi từ bến sông này, mái Nhà Rồng còn giữ đúng cảnh vẻ của như lúc mới làm. Nhưng ngày nay vì mái xưa đã hỏng, trên nóc vẫn có hai con rồng, song đầu thì quay ra và ngói lợp là loại phẳng chứ không đẹp, không cong ốp xếp âm dương như đợt sóng, theo kiểu thuần túy Việt Nam. Cầu tàu ở đây lúc đầu dài 350m, phí tổn gần 3 triệu France, gồm một dãy cầu bằng ván dày lót trên những chiếc cột bằng sắt. Con tàu đầu tiên của hãng đã rời bến Nhà Rồng ngày 23-11-1862 Ngày nay, tòa nhà được dùng làm nơi trưng bày các hiện vật và hình ảnh về đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ Tịch. Dọc theo bến Bạch Đằng, từ bờ sông Bến Nghé (nay là sông Sài Gòn) từ cầu quay cũ (cầu Khánh Hội) đến nhà máy Ba Son, xưa kia hàng ngàn ghe thuyền chen chúc nhau, hình thành một thành phố nổi trên sông. Tại bến Bạch Đằng, đối diện với Nhà Rồng, có cột cờ Thủ Ngữ. Cột cờ này cao 30 m, được xây dựng từ năm 1900, trên đỉnh treo tín hiệu cờ vải màu hoặc quả bóng đèn ban ngày và một bóng đèn khi trắng khi đỏ ban đêm để dẫn tàu bè ra vào sông Sài Gòn. Hội Trường Thống Nhất (Dinh Độc Lập) Khi nói đến Sài Gòn với những di tích kiến trúc có tính đặc trưng, độc đáo không ai không liên tưởng đến Dinh Thống Nhất với vai trò lịch sử đối với dân tộc Việt Nam, vị trí được xác lập trong giao lưu kinh tế, chính trị, xã hội đối với toàn vùng Ðông Nam á cũng như trên thế giới. Mặt tiền của Dinh Thống Nhất nằm trên ngã ba đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và đường Lê Duẩn. Khuôn viên rộng 15ha. Trên mặt bằng này, ngày 23.2. 1868, đô đốc thực dân Pháp De lagrandière làm lễ đặt viên đá đầu tiên, đặt tên là Dinh Norodom. Dinh Norodom được xây dựng và hoàn thành sau PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- đó 3 năm, đây là cơ quan biểu thị cho bộ máy cai trị Pháp trên toàn cõi Ðông Dương. Thời Pháp thuộc đây là trụ sở của các vị thủ hiến người Pháp được dân Nam gọi là dinh Thống Soái, và người Pháp gọi là Palais Norodom. Năm 1865 tờ Courier de Saigon viết: "Những nghiên cứu đầu tiên liên quan đến việc xây cất một dinh thự dành làm trụ sở vĩnh viễn cho quan Thống đốc bắt đầu thực hiện để thay thế cho những nhà bằng ống tạm thời". Và dinh Thống Soái là một trong những dinh thự đồ sộ được xây dựng với mục đích đó, theo bản vẽ của kiến trúc sư Hermite (Hermite cũng là người phác thảo đố án tòa thị sảnh Hương Cảng). Theo sử liệu, viên đá đầu tiên của dinh Thống Soái do đô đốc De Lagrandière tự tay đặt vào ngày 23-2-1863. Viên đá lịch sử này là khối đá lấy ở Biên Hòa, hình vuông rộng mỗi cạnh 50cm, có lỗ, bên trong chứa những đồng tiền hiện hành thuở ấy bằng vàng, bạc, đồng, có chạm hình Napoléon đệ tam. Vật tư xây cất phần lớn được chuyển từ Pháp sang. Do chiến tranh Pháp-Ðức (xảy ra năm 1870) nên công trình này kéo dài mãi đến năm 1873 mới xong, riêng việc trang trí dinh phải kéo dài hai năm sau (1875). Lúc bấy giờ đại lộ Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn) còn gọi là đại lộ Norodom vẫn còn bùn lầy, ẩm thấp. Dinh này được coi là một công thự đẹp nhất ở Á Ðông. Mặt tiền rộng 80m, bên trong có phòng khách có thể chức đến 800 người. Chung quanh là khu vườn rộng lớn trồng đủ loại cây cỏ rất ngoạn mục. Ngay trước mặt dinh, dưới chân cột cờ có đặt một khẩu thần công kiểu cổ càng làm tăng thêm vẻ đẹp oai nghiêm cho công thự. Nhiều biến cố chính trị đã xảy ra tại đây suốt gần một thế kỷ dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Sau thất bại Ðiện Biên Phủ và Hiệp định Genève 1954, Dinh Norodom được trao lại cho Việt Nam. Năm 1954, Ngô Ðình Diệm được người Mỹ đặt ngồi vào Dinh Norodom. Ngày 26/10/1956 Dinh Norodom đổi tên là "Dinh Ðộc Lập", tức Phủ Tổng Thống. Sau ngày hai viên phi công của không quân Sài Gòn là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc ném bom xuống Dinh Ðộc Lập (ngày 27/02/1962) làm thiệt hại nặng nề. Vì lối kiến trúc quá cổ và vị hư hại nhiều nên Diệm quyết định phá hủy toàn bộ dinh Norodom để xây dựng lại một dinh hoàn toàn mới gọi là dinh Ðộc Lập. Thời gian xây cất kéo dài gần 3 năm: ngày 31-10-1966 việc xây dựng dinh hoàn tất. Trong thời gian xây dựng, có 6 tháng công việc bị đình trệ do nội bộ chính quyền Sài Gòn lục đục đánh nhau rồi đảo chính, nhất là sự kiện Ngô Ðình Diệm bị lật đổ và bị giết chết vào tháng 11-1963. Diện tích khu này khoảng 12ha, diện tích mặt bằng dinh khoảng 2.000m2. Tòa nhà có diện tích 4.500m2, gồm1 tầng nền, 3 tầng chính, 2 gác lửng, 1 sân thượng đúc có thể làm bãi đáp cho máy bay trực thăng, trên 100 phòng ốc, 4000 ngọn đèn, 400 đường dây điện thoại nội Dinh, 1 tầng hầm kiên cố, 1 đài phát thanh dự phòng, 1 phòng chỉ huy tác chiến.... Tác giả công trình này là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, người từng đoạt giải Khôi Nguyên Kiến Trúc ở La Mã. Về kiến trúc, theo kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thì từ sự xếp đặt bên trong cho đến phần tiền diện bên ngoài, tất cả đều tượng trưng cho một truyền thuyết cổ truyền phương đông, một nghi lễ thần thánh theo phong tục tập quán của dân tộc. Chúng ta có thể nhận thấy rằng, bình diện của toàn thể Dinh độc Lập được hình thành từ chữ Cát khi tâm của tòa nhà là phòng trình ủy nhiệm thư có thể so sánh như vị trí của điện Thái Hòa ở đại nội cố đô Huế. Ðã có ít nhất hơn nửa tá nguyên thủ quốc gia và gần 3 nền cộng hòa của thực dân đã giẫy chết hoặc đội nón ra đi khỏi tòa nhà này. Ngày 8-4-1975 phi công Nguyễn Thành Trung dùng máy bay Mỹ ném hai quả bom làm sập cánh trái dinh, sau đó bay luôn ra vùng giải phóng. Sức tiến công thần tốc của quân giải phóng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử làm cho quân đội Sài Gòn không còn sức chống đỡ: Nguyễn Văn Thiệu từ chức tổng thống, giao quyền lại cho Trần Văn Hương, sau đó Hương lại giao vào tay Dương Văn Minh. 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lữ đoàn 203 xe tăng thuộc quân đoàn 2 dưới sự hướng dẫn của cô gái giao liên đất thép Củ Chi Nguyễn Trung Kiên (còn gọi là Cô Nhíp) tiến thẳng vào Dinh Ðộc Lập. Lúc lá cờ cách mạng tung bay trên dinh cũng là lúc toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn dưới sự điều khiển của Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Dinh Ðộc Lập trở thành hợp điểm của các cánh quân giải phóng Sài Gòn. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Sau chiến dịch Hồ Chí Minh, dinh Ðộc lập là nơi làm việc của Ủy ban Quân Quản thành phố Sài Gòn. Tháng 12-1975 tại đây diễn ra hội nghị Hiệp thương thống nhất đất nước. Cũng tại nơi đây đã diễn ra những cuộc họp quan trọng của Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, một số các đoàn thể để bàn việc thống nhất các tổ chức. Với ý nghĩa lịch sử đó Dinh Ðộc lập đổi tên thành Hội trường Thống Nhất. Một đêm nào đó, nhất là vào những dịp lễ hội, ngắm Dinh Thống Nhất rực rỡ ánh đèn và những chùm pháo bông tỏa sáng, đối với du khách, Dinh Thống Nhất được khoác lên một biểu tượng mới: Không khí hòa bình đang trùm phủ khắp quê hương Việt Nam. Bảo tàng Cách mạng thành phố Hồ Chí Minh Bảo tàng Cách mạng thành phố Hồ Chí Minh nằm trên một khu đất rộng 2ha, giới hạn bởi các đường Lý Tự Trọng, Pastuer, Lê Thánh Tôn và Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Cửa chính số 25 đường Lý Tự Trọng. Công trình này do kiến trúc sư người Pháp Alfred Foulhoux thiết kế, được khởi công xây dựng vào năm 1885 và nă m hoàn thành 1890. Ðịa chỉ: 65 - Lý Tự Trọng - Quận 1. - Khởi đầu, việc xây dựng ngôi nhà này với mục đích làm nơi triển lãm thương mại. Nhưng khi xây dựng xong thì được làm tư dinh cho viên Thống đốc Nam Kỳ. Vì vậy ở công trình có trang trí như mũi thuyền, thần thương mại cổ phương Tây... ngoài ra còn thể hiện những mô típ như cá sấu, con diệt...là những động vật đặc trưng của Nam Kỳ. - Lúc đầu, hai bên cửa chính của công trình có đặt hai tượng nữ đứng trong tư thế tự do và xung quanh viền cửa có trang trí. Ðến năm 1943, viên thống đốc Haeffel cho tháo gỡ hai tượng ở cửa chính và xây cửa có mái che như hiện nay. - Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), nơi đây được làm dinh Thống đốc Nhật Minôda và sau đó là dinh Khâm sai đại thần Nguyễn Văn Sâm. Sau Cách mạng tháng Tám tòa nhà được làm trụ sở ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam Bộ. - Tháng 9/1945 thực dân Pháp làm trụ sở của Cao ủy Cộng hòa Pháp, tiếp theo là dinh thủ hiến Nam Kỳ của Trần Văn Hữu. - Sau Hiệp định Genève 1954, nơi đây là "Dinh thủ hiến Nam phần", đến "Dinh Gia Long" c ủa Ngô Ðình Diệm vào những năm 1962-1963 rồi "Tối cao pháp viện" từ sau năm 1963 trong thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu". - Sau ngày giải phóng đây là Bảo tàng Cách mạng-thành phố Hồ Chí Minh. - Từ ngày 12/8/1978 ngôi nhà này được sử dụng làm Bảo tàng cách mạng thành phố Hồ Chí Minh. - Bảo tàng thể hiện các nội dung chính như sau: - Lược sử Sài Gòn xưa. - Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Những cuộc vận động chống thực dân Pháp trước khi Ðảng cộng sản Việt Nam ra đời (1859 - 1930). - Ðảng cộng sản Việt Nam ra đời, cuộc vận động chống thực dân Pháp của nhân dân Sài Gòn - Gia Ðịnh. - Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Sài Gòn - Gia Ðịnh (từ ngày 23/9/1945 đến 1954) - Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Sài Gòn - Gia Ðịnh và chiến dịch Hồ Chí - Minh Lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975). PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Bảo tàng chiến dịch Hồ Chí Minh - Tp. HCM Tọa lạc trong một khuôn viên 6.000m2 ở vị trí trung tâm thành phố trên đường Lê Duẩn, Quận I , Bảo tàng chiến dịch Hồ Chí Minh - nơi lưu giữ và tái hiện toàn bộ chiến dịch giải phóng Sài Gòn - hiện diện như một biểu tượng chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Vốn là phòng trưng bày chiến dịch Hồ Chí Minh thuộc Bảo tàng lực lượng vũ trang miền Ðông Nam Bộ mở cửa từ hơn 10 năm nay, Bảo tàng chiến dịch Hồ Chí Minh được đầu tư xây dựng, nâng cấp thành một bảo tàng độc lập nằm trong hệ thống các bảo tàng của cả nước. Toàn bộ phần trưng bày của bảo tàng chia làm hai khu vực: trưng bày ngoài trời và trưng bày trong nhà. Khu trưng bày ngoài trời có diện tích 2.000m2 , giới thiệu các loại vũ khí, khí tài sử dụng trong chiến dịch như máy bay, xe tăng, đại bác các loại. Khu trưng bày trong nhà có diện tích mặt nền 1.000m2 cấu trúc thành 5 phòng trưng bày riêng biệt. Ðó là phòng trưng bày chiến dịch đường 14 - Phước Long, chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Ðà Nẵng; phòng trưng bày chiến dịch Hồ Chí Minh; phòng trưng bày sở chỉ huy chiến dịch; phòng trưng bày Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn trong tháng 4 -1975; và phòng trưng bày tranh tượng về đề tài chiến dịch Hồ Chí Minh của các họa sĩ quân đội. ở phòng trưng bày trung tâm, một sa bàn lớn, có diện tích 60m2, sử dụng thiết bị điện tử hiện đại, lồng các thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, kết hợp với màng hình video diễn tả toàn bộ tiến trình chiến dịch. Bằng các mảnh khối trưng bày mạch lạc, hấp dẫn, với 467 hiện vật gốc, 108 ảnh tư liệu, 36 tài liệu khoa học phụ, 34 tranh tượng minh họa cùng 100 hiện vật gốc khác bảo quản trong kho mở, bảo tàng đã đem đến cho người xem những nhận thức và cảm xúc chân thực về bối cảnh và diễn biến của sự kiện trong lịch sử trọng đại này. Bảo tàng chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức hoạt động từ ngày 29 -02 - 1996. Ðịa chỉ: 2 Lê Duẩn, quận 1. Ðiện thoại: 8229357 Bảo tàng chứng tích chiến tranh Địa chỉ: 28 Võ Văn Tần, quận 3Được thành lập tháng 9-1975, tiền thân là nhà trưng bày tội ác chiến tranh Mỹ - Ngụy. Bảo tàng trưng bày một số hiện vật, hình ảnh tội ác của Mỹ - Ngụy trong chiến tranh với các chủ đề: lính Mỹ tàn sát nhân dân, rải chất độc hóa học, tra tấn, tù đày, chiến tranh phá họai miền Bắc. Các hiện vật như: máy bay, đại bác,xetăng, máy chém và hai ngăn “chuồng cọp” được xây đúng kích thước như ở nhà tù Côn Đảo. Ngoài ra, còn có các phòng trưng bày về: chiến tranh biên giới Tây Nam, chiếen tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, vấn đề quần đảo Trường Sa, âm mưu của các thế lực thù địch. Bên ngoài bảo tàng có những gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm văn hóa dân tộc Việt Nam, phòng rối nước Việt Nam. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Bảo tàng Tôn Đức Thắng Bảo tàng Tôn Đức Thắng được thành lập nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 – 20/8/1988) tại tòa nhà vốn là tư dinh của Trần Thiện Khiêm, thủ tướng của chính phủ Sài Gòn trước năm 1975. Bảo tàng là nơi lưu trữ, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Tôn Đức Thắng, người Viện Nam duy nhất đã tham gia phản chiến trên chiến hạm France tại Biển Đen vào năm 1917, ủng hộ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới – Cánh Mạng Tháng Mười Nga. Là người kế tục chức vụ chủ Tịch nước việt Nam sau khi chủ tịch Hồ Chí minh qua đời, từ năm 1969 đến năm 1980. Hiện nay bảo tàng có 7 phòng trưng bày với diện tích trên 700m2. Bảo tàng đã thể hiện một cách sinh động, khái quát về cuộc đời và sự ngiệp của chủ tịch Tôn Đức Thắng qua hơn 600 hiện vật, tài liệu, hình ảnh Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ Tòa nhà này trước đây là dinh cơ của Nguyễn Ngọc Loan – giám đốc tổng nha cảnh sát chế độ ngụy quyền Sài Gòn cũ, năm 1984 đượcnhà nước giao làm nhà truyền thống phụ nữ Nam bộ. Sau đó được xây thêm tòa nhà 4 tầng và đổi thành bảo tàng phụ nữ Nam bộ. Bảo tàng phụ nữ Nam bộ có diện tích trưng bày khỏang 2000m2, gồm 10 phòng trưng bày về truyền thống dựng nước và giữ nước của phụ nữ Nam bộ. Có một hội trường 800 chỗ ngồi, một phòng chiếu phim, một thư viện và một kho lưu giữ hàng chục ngàn hiện vật, tranh ảnh quý hiếm. Địa chỉ: 202 Võ Thị Sáu, quận 3 Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh Được thành lập năm 1987 nhưng năm 1991 mới chính thức họat động. Lầu 1 của bảo tàng dành cho triển lãm mỹ thuật của những tác giả trong và ngòai nước. Lầu 2 là phòng trưng bày các tác phẩm hội họa và điêu khắc có giá trị mỹ thuật của nhiều tác giả trong và ngòai nước. Lầu 3 gồm các phòng trưng bày mỹ thuật từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 20… Địa chỉ: 97A Phó Đức Chính, P.NTB, Q.1, TP. HCM PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Chợ Bến Thành - Thành phố Hồ Chí Minh Chợ Bến Thành đã có từ xưa, trước khi thực dân Pháp xâm chiếm. Vị trí của chợ ở cạnh bờ sông Bến Nghé, gần thành Gia Định. Gần chợ có bến để cho hành khách vãng lai và quân nhân vào thành. Vì vậy gọi là chợ Bến Thành, Thửa ấy Sài Gòn chỉ có một trăm ngàn dân, và chợ Bến Thành là nơi đông đúc nhất. 40 năm sau, chợ Bến Thành được dời về địa điểm hiện nay. Chợ chiếm một diện tích rộng ở cuối đại lộ Lê Lợi, một trong những con đường quan trọng nhất ở giữa trung tâm thành phố. Công trường Cộng Hòa nằm ngay trước chợ Bến Thành hay chợ Mới Sài Gòn và nhà ga thành phố, đã mọc lên từ một cái ao sình lầy cũ, gọi là ao lầy Bồ Rệt (Marais Boresse) được người Pháp cho lấp lại. Lúc đó gọi là bùng binh Cu-nhắc (rond point Cuniac), vì tên xã tây Cunhắc là người đề ra công việc lấp ao đắp công trường, rồi lần lượt đổi tên thành công trường Diên Hồng nay là Quảng trường Quách Thị Trang. Từ ngày 1-7-1985 đến 15-8-1985 chợ Bến Thành được cải tạo và sữa chữa lớn. Chợ Bến Thành trước đây nằm ở bến sông Tân Bình (tức sông Sài Gòn), cạnh một con đường vào thành Phụng. Năm 1859, khi Pháp đánh thành Gia Ðịnh, chợ Bến Thành bị thiêu rụi. Sau đó, Pháp đã lập lại chợ ở vị trí Kho Bạc nằm trên đường Nguyên Huệ ngày nay. Ngôi chợ này xây cất bằng cột gạch, sườn gỗ và lợp lá. Năm 1870, chợ bị hỏa hoạn, phải xây lại vẫn bằng cột gạch, sườn gỗ nhưng lợp ngói, chia làm năm gian hàng: gian thực phẩm, gian hàng cá, gian hàng thịt, gian hàng ăn uống và gian hàng tạp hóa. Ðến năm 1911, ngôi chợ này quá cũ, bị hư sụp nên đã bị phá bỏ để xây dựng ngôi chợ mới ở vị trí hiện nay, khánh thành vào ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm l914. Chợ Bến Thành ngày nay có hình chữ nhật, trổ bốn cửa ra quảng trường Quách Thị Trang và các con đường: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Lê Thánh Tôn. Ở cửa quay ra quảng trường Quách Thị Trang có tháp cao hình vuông treo đồng hồ ở ba mặt, từng được dùng làm biểu tượng cho Sài Gòn. Chợ có bảy gian với gian giữa lớn và sáu gian còn lại nhỏ hơn bố trí ở hai bên, chia thành nhiều khu vực với những ngành hàng khác nhau. Năm 1985, Ủy ban Nhân dân Quận 1 đã tiến hành đợt sửa chữa lớn toàn bộ chợ, nhưng vẫn giữ nguyên dáng vẻ bên ngoài. Hiện nay, chợ Bến Thành có trên 3000 hộ kinh doanh. Trải qua gần một thế kỷ tồn tại, chợ Bến Thành đã luôn giữ vị trí là một trung tâm thương mại tiêu biểu của thành phố, đồng thời cũng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trong công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Từ tối 28-4-2002 chợ đêm Bến Thành, TP.HCM đã bắt đầu hoạt động trên hai con đường Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, phường Bến Thành Q1. Trong phiên chợ đầu tiên có 38 gian hàng của 10 doanh nghiệp tham gia với các ngành hàng chủ yếu là hàng tiêu dùng, mỹ nghệ, lưu niệm và thực phẩm ăn uống. Chợ đêm hoạt động từ 18g- 24g mỗi ngày, thu hút khá đông khách tham quan, mua sắm, ăn uống.... Nhà hát Thành phố Công trình này thực hiện theo thiết kế của kiến trúc sư Ferret, do kiến trúc sư Guichard thi công, mẫu trang trí, điêu khắc được gửi từ Pháp qua. Nhà hát với sức chứa 800 khán giả, chính thức khai mạc ngày 17-1-1900. Năm 1944 phần trang trí, điêu khắc ở mặt tiền nhà hát bị xóa bỏ (tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa, hai cây đèn...) nhằm trẻ trung hóa phong cách kiến trúc. Năm l944, khi đó nhà hát được gọi là nhà hát Tây bị phi cơ Ðồng Minh oanh tạc, gây thiệt hại nặng, ngưng hoạt động và được sử dụng làm nơi ở tạm trú cho những người Pháp di cư từ miền Bắc, nơi ở tạm trú cho những người miền Bắc di cư vào Nam sau hiệp định Genève năm 1954. Năm 1955, nhà hát PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- được tu bổ lại. Năm 1956 được dùng làm trụ sở quốc hội Sài Gòn (ngụy). Từ năm l975, trở thành Nhà hát thành phố. Năm 1998, Nhà hát được sửa chữa lớn với phương châm bảo tồn phong cách kiến trúc ban đầu. Bưu điện Thành phố Xây dựng trong 5 năm ( 1886- 1891) , tọa lạc ở Công trường Công xã Paris, theo phong cách kiến trúc Châu Âu. Mặt tiền của Bưu điện được trang trí với những bảng tên một số danh nhân Pháp như Laplace, Voltaire, Arago... Kiến trúc đơn giản, nhã nhặn, điểm tô bởi những hoa văn như đầu rồng, đuốc, tràng hoa, cây trái... Trong tiền sảnh có hai bản đồ lịch sử "Sài Gòn và vùng phụ cận năm 1882" và "Mạng dây thép Nam Bộ và Campuchia năm 1936", nay vẫn được bảo tồn. Trụ sở UBND Thành phố (Dinh xã tây) Xây dựng vào năm 1898-1909 theo đồ án của kiến trúc sư Gardès, mô phỏng kiểu những lầu chuông ở miền Bắc nước Pháp. Mặt tiền của tòa nhà được trang trí bằng những hình người, mặt nạ và vòng hoa theo các điển tích phương Tây. Bên trong, mỗi phòng được thiết kế theo phong cách khác nhau. Thời Pháp nơi đây là Dinh Xã Tây và sang thời Mỹ là tòa Ðô chính, sau l975 trở thành trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố. Nhà thờ Đức Bà Khởi công năm 1877, hoàn thành năm 1880. Ðồ án thiết kế do kiến trúc sư Pháp Bonard thực hiện theo kiểu Roman cải biên, mô phỏng nhà thờ Notre Dame của Paris, nhưng nhỏ hơn và thuộc loại đẹp nhất trong số các nhà thờ ở các nước thuộc địa của Pháp thời đó.Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 25,850 tấn. Ðứng trước Nhà thờ là tượng Ðức mẹ Hòa Bình làm tại Rome được dựng vào năm 1959. Ngày 7-10-1877, một cha cố người Pháp tên là Colombert đã đặt viên đá đầu tiên và đến ngày 11-4-1880 thì làm lễ khánh thành. Bản đồ án thiết kế vẽ từ bên Pháp, do kỹ sư người Pháp chỉ huy thực hiện, với tổng số tiền là hai triệu rưỡi quan lúc bấy giờ. Ngày 7 và 8 tháng 12 năm 1959, theo sự chấp thuận của Tòa thánh Vaticăng, nhà thờ đã làm lễ xức dầu "đăt tên là Vương cung thánh đường" (Basilique) PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Nhà thờ Huyện Sỹ Ðịa chỉ: số 1 Ðường Tôn Thất Tùng quận 1 Nhà thờ được xây dựng năm 1902, công trình còn có tên cũ là Nhà Thờ Chợ Ðũi. Công trình được thiết kế bởi Ðức Cha Bouttier, do ông bà Lê Phát Ðạt (tức Huyện Sỹ) một đại phú gia đã chi phí cho toàn bộ công trình, họ còn hiến thêm cả 1 thửa đất khác kèm theo (giới hạn bởi Nguyễn Trãi, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Thị Minh Khai, Tôn Thất Tùng) Công trình được tọa lạc trên đường Nguyễn Trãi, lúc đó gọi là Ðường Trên, nối Sài Gòn với Chợ Lớn, thuộc làng Tân Hoà (sát nhập vào Sài Gòn từ năm 1904). Ðây là một trong số hiếm công trình sử dụng vật liệu đá Granite Biên Hoà, tại mặt tiền cũng như tại các phần đế và nhất là ở các cột của chính điện. Tường trổ cửa sổ nhưng ánh sáng được sàn lọc tối đa cho nên hành lang gác trên hoàn toàn chìm trong bóng tối, tạo nên khoảng không gian tĩnh lặng bên trong. Hậu cung là nơi có mộ ông bà Huyện Sỹ, tất cả đều làm bằng đá cẩm thạch kể cả các bức tượng. Nhà thờ có phong cách tân Gothic với các vòm trần và cửa sổ có dạng gãy cung với một số trang trí đặc thù. Tu viện Saint Paul Ðịa chỉ: số 4 Tôn Ðức Thắng quận 1 Tu viện được xây dựng khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, do Nguyễn Trường Tộ thiết kế theo trường phái kiến trúc cổ điển Pháp, phong cách kiến trúc Roman.Việc xây dựng chủ yếu dựa vào lực lượng binh lính đương thời. Trong khối nhà nguyện chính nội thất được trang trí rất công phu, trần cao vút được tạo thành từ các vòm cong kết hợp với nhau thành nhiều múi, dãy cửa mỗi bên cũng bằng các vòm cuốn nhọn trang trí phức tạp, trên tường, thân cột, đỉnh và chân cột là các chi tiết và hoa văn trang trí tỉ mỉ, các thức cột, phù điêu. Ngôi nhà cổ nhất Sài Gòn Ngôi nhà cổ nhất Sài Gòn nằm trong khuôn viên Tòa Giám mục, tọa lạc tại số 180 Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngôi nhà này đã được tu sửa nhiều lần. Lần cuối vào năm 1980, nhưng hình dáng và vẻ ngoài nguyên thủy của nó cách đây 200 năm vẫn không thay đổi. Cuối thế kỷ 18, các quan lại triều Nguyễn thường sống trong những ngôi nhà với kiểu dáng như thế. Ngôi nhà với ba gian, hai chái. Hệ thống rường ngắn và mái ngói lợp âm dương đã hình thành một kiến trúc gỗ Việt Nam truyền thống với những bức vách là những thanh gỗ mỏng được xếp vuông góc. Những vách gỗ này không chỉ giữ vai trò bảo vệ tốt cho ngôi nhà mà còn là hệ thống thông gió tuyệt vời. Sau năm 1945, những bức vách gỗ bị mối mọt ăn đã được thay thế bằng gạch. Trong lần tu sửa vào năm 1980, những người thợ đã thay phần lõi bên trong của những cột gỗ bị mối mọt ăn bằng cách đổ bê tông vào. Phần mặt ngoài những cột gỗ này vẫn được giữ nguyên nên chúng trông vẫn có vẻ cổ xưa. Đồng thời, những người thợ này cũng đã nâng phần đế cột lên 30cm. Năm 1790, Nguyễn Ánh, vị Vua cuối cùng của triều Nguyễn, đã cho xây dựng ngôi nhà này để Giám mục xứ Adran, Pierre Pigneau de Behaine trú ngụ. Vị Giám mục này đã giúp đở Nguyễn Ánh trong cuộc chiến tranh chống lại những người nông dân áo vải Tây Sơn. Chính trong ngôi nhà này, Vị Giám mục này đã dạy học cho Hoàng tử Cảnh, con trai của Nguyễn Ánh. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Khởi thủy, ngôi nhà tọa lạc gần kênh Thị Nghè, nằm trong khu vực Thảo cầm Viên hiện giờ. Năm 1799, sau khi Pierre Pigneau mất, một Giám mục Pháp khác đã đến thay thế và ở trong ngôi nhà, nhưng giữa những năm 1811 và 1864, do triều đình Huế cấm đạo Công Giáo, ngôi nhà bị đóng cửa. Trong triều đại Tự Đức, ông Vua này đã ký hòa ước với Pháp và ngôi nhà được chuyển lại cho Tòa Giám mục và di chuyển về đường Alexandre de Rhodes, gần nhà thờ Chánh tòa. Năm 1900, cùng với Tòa Giám mục, ngôi nhà được di chuyển về địa điểm hiện tại. Hiện nó được sử dụng như nhà nguyện. Với tình trạng nguyên thủy vẫn được vẫn giữ nguyên, chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều thứ khi tham quan ngôi nhà cổ đã được tu sửa rất tốt này. Một số tòa nhà di tích lịch sử của Sài Gòn không may là đã bị phá hỏng hình dáng nguyên thủy do sự tu sửa quá tệ. Chùa Một Cột ở miền Nam : Nam Thiên Nhất Trụ Tọa lạc tại đường Nguyễn Văn Bi, quận Thủ Đức, Nam Thiên Nhất Trụ là ngôi chùa Một Cột được nhiều người biết đến không những bởi kiến trúc độc đáo mà còn là nơi lui tới của nhiều chư tăng phật tử ở phương Nam. 1958. Kiến trúc sư Nguyễn Gia Đức đã vẽ thiết kế ngôi chùa này dựa theo kiến trúc chùa Diên Hựu (chùa Một Cột ở Hà Nội) được dựng lên vào đời nhà Lý. Chùa Nam Thiên Nhất Trụ là nơi để nhân dân và các chư tăng phật tử ở miền Nam có dịp đến chiêm ngưỡng lễ Phật, nhớ về cội nguồn tổ tiên, cầu cho quốc thái dân an, quê hương hưng thịnh. Từ cổng tam quan đi vào, hồ Long Nhã vuông, rộng, án ngữ giữa sân chùa. Hồ vừa có cá chép vừa có rùa sinh sống, điểm trong làn nước trong xanh và thanh tịnh ấy là những khóm sen hồng, sen trắng vươn những chiếc lá non với nhiều bông hoa khoe sắc. Trụ vững giữa hồ là ngôi chùa Một Cột với mái ngói thâm nâu, vòm mái uốn cong đầu đao trông rất uy nghi, cổ kính. Trụ chùa Một Cột được đúc vĩnh cửu bằng xi măng cốt thép. Chiếc cầu dẫn vào chùa trông rất lạ mắt, hai bên là những chậu mai vàng và những hàng sứ trắng. Bên trong chùa thờ Đức Bồ Tát Quan Thế Âm, hương khói nghi ngút. Vòng ra đằng sau, chánh điện được bài trí trang nghiêm, gian giữa thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, các pho tượng Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp; Sau chánh điện là nhà lưu niệm và bảo tháp Nam Thiên. Trong nhà lưu niệm có lưu bút tích của hoà thượng Thích Trí Dũng. Khuôn viên chùa có nhiều pho tượng lớn lộ thiên như tượng Phật A Di đà, Phật Di Lặc, Bồ Tát Địa Tạng...Giữa chùa là một màu xanh của cây lá. Vào trong chùa, mọi ồn ào, tất bật của cuộc sống bên ngoài không còn nữa mà thay vào đó là sự thanh tịnh đến lạ lùng. Giữa sự đông đúc của phố thị, Nam Thiên Nhất Trụ đứng sừng sững trong một khoảng không gian xanh, là một điểm nhấn ấn tượng trong lòng thành phố. Nơi đây là một trong những danh lam thắng cảnh để nhân dân miền Nam chiêm ngưỡng. Cùng với nhiều ngôi chùa khác ở thành phố Hồ Chí Minh, Nam Thiên Nhất Trụ là một trong những công trình kiến trúc đẹp, mang đậm nét độc đáo trong đời sống văn hoá tinh thần người Sài Gòn. Bát Bửu Phật Đài (Phật Cô Đơn) - Thành phố Hồ Chí Minh Bát Bửu Phật đài (còn được gọi là tượng Phật Cô đơn) ở cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30 km về phía Tây Nam, hướng Ðức Hòa, cách tỉnh lộ số 10 khoảng 1 km. Ðây là một vùng đất thuộc xã Lê Minh Xuân, diện tích trên 1000m2. Chung quanh có rừng bạch đàn bao bọc, có PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- những con kinh dẫn nước từ sông Vàm Cỏ Tây chảy qua, cảnh quan yên tĩnh, mát mẻ, phù hợp với phong cảnh thiền môn. Phật đài được kiến trúc theo hình bát giác, cao 3m. Tượng đức Phật Thích Ca cao 7m, nặng trên 4 tấn, do nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu hoàn thành năm 1957. Cư sĩ Ngô Chí Bình, ngộ duyên thành tâm thỉnh tượng từ chùa Xá Lợi (Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh) đưa về cử lễ an vị năm 1961 tại vị trí trước chùa Thanh Tâm hiện nay. Trải qua những năm tháng chiến tranh, bom đạn đã tàn phá chọn xóm làng, thiêu rụi cả chùa Thanh Tâm, chỉ riêng ngôi Phật đài với Kim Thân đức Phật vẫn sừng sững, trang nghiêm giữa nơi hoang vắng. Vì thế, dân địa phương gọi di tích tôn nghiêm này là Phật Cô đơn. Ngày nay, Bát Bửu Phật đài đã được sửa khang, xây dựng khang trang. Cổng Tam quan trang nghiêm, hài hòa với cả khuôn viên, các tượng Phật, Bồ Tát, Thiên Long, Hộ Pháp... Cũng được an vị ở chánh điện như ở những ngôi chùa khác. Kiến trúc độc đáo, trang trí hài hòa, khung cảnh thanh nhàn đã hấp dẫn du khách, tín đồ ngày càng đông đảo. Sự việc tượng đức Thích Ca vẫn tồn tại nguyên vẹn trong khi cả một vùng bom đạn bị cày xới, trơ trụi vì bom đạn càng làm tăng thêm niềm tin Phật của giới Phật tử. Hiện nay, Bát Bửu Phật đài đã trở thành một trong những khu tham quan, chiêm bái của du khách, Phật tử trong và ngoài nước. Chùa Bà Thiên Hậu Tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, phường 10, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh, là một trong những ngôi chùa cổ của người Hoa. Theo lời truyền thì khoảng năm 1760 bắt đầu quyên tiền lập chùa. Chùa Bà (Chợ Lớn) được nhóm người Hoa Quảng Ðông ở huyện Tuệ Thành (Trung Quốc) đã rời bỏ làng quê sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng chùa. Bên cạnh chùa còn có Tuệ Thành Hội Quán là nơi quy tụ của nhóm người Hoa Quảng Ðông. Chùa được gọi là chùa Bà (Chợ Lớn), tên chữ Hán là Thiên Hậu miếu, người Việt Nam gọi là chùa Bà Thiên Hậu, ngưởi Hoa còn gọi là "Phò Miếu". Từ trước đến nay, chùa trải qua 4 lần trùng tu lớn 1800, 1842, 1890, 1916. Chùa thờ bà Thiên Hậu là chính. Bà được người Quảng Đông gọi là "A Phò" (Đức Bà). Theo tước phong của phong kiến Trung Quốc thì gọi bà là Thiên Hậu thánh thánh Mẫu. Người Phúc Kiến và Hải Nam thích gọi bà là "Đạo Mẫu". Bà được đại bộ phận người Hoa tôn thờ, thành kính nhất trong các thần và dành thờ ở ngôi chùa trang trọng, to lớn nhất của khu vực. Truyền thuyết về bà tuy có sự khác biệt ít nhiều nhưng chủ yếu vẫn là sự linh hiển của bà, một người phụ nữ Hoa có lòng hiếu thảo, có đức hạnh...Đề cao bà, ngưỡng mộ và thành kính bà, người Hoa muốn qua đó giáo dục cho cộng đồng mình hãy noi gương bà và học tập theo lòng hiếu thuận đối với cha mạ, xả thân vì mọi người như bà. Mặt khác, khi sang Việt Nam lập nghiệp, trên bước đường nguy nan, bị đe dọa bởi sóng gió, người Hoa cầu nguyện đến bà và giờ đây được an cư lạc nghiệp ở quê hương thứ hai này, người Quảng Đông thờ bà để tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với sự phù trợ của bà. Chùa Bà có vị trí quan trọng đối với người Hoa Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu... và cả người Việt. Chùa xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa, đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Sát bên hông chùa là trường Hoa Tuệ thành học viện trước kia, nay là trường Mạc Kiếm Hùng. Trang thờ Bà đặt tại chính điện, hai bên thờ bà Kim Huệ (Bà mẹ sinh Mẹ Đậu) và Long Mẫu nương nương (phía trái). Góc phải có chuông đồng niên hiệu Càn Long năm thứ 60 (1796). Trong tủ kính có tượng Bát tiên và tướng lịnh PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- của Ariès ký tên cấm các binh sĩ Pháp và Y Pha Nho phá phách trong chùa. Tướng lịnh được giữ từ khoảng năm 1860. Phần trung điện không đặt trang thờ mà đặt bộ lư phát lam mang nhãn hiệu Quang Tự thứ 12. Hai bên bộ lư là kiệu sơn son thiếp vàng, bằng gỗ tốt, dành rước bà vào ngày vía bà (23 tháng 3 âm lịch) với chiếc thuyền rồng chạm hình nhân, rước theo cùng với kiệu bà. Tiền điện từ ngoài cổng bước vào là hai trang thờ hai bên: Phúc Đức Chánh thần (phải) và Môn Quan Vương Tả (trái). Gian phụ nằm hai bên chính điện thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài. Vật liệu xây cất chùa chở từ Trung Quốc sang. Trang trí chùa sử dụng hình ảnh Tứ Linh (Long, Lân, Quy, Phụng) và trang chữ Hán, hình nhân... Ngoài các ngày vía quan trọng, chùa bà còn có một số ngày thu hút đông đảo khách thập phương như rằm tháng giêng, tháng bảy, tháng mười. Trước ngày giải phóng, lễ vía Bà kéo dài hàng tuần, cúng kiến lễ vật linh đình, có khi đến 200 heo quay. Đêm đến có múa lân, hất Tiều, hát Quảng, đèn treo rực rỡ...Người ta đặt tượng vào kiệu sơn đỏ, khiêng qua các khu phố. Đi theo kiệu có rước thuyền và nghi trượng, ghi tên các vị thần thờ tại chùa. Các cơ sở hoạt động từ thiện xã hội của chùa Bà là trường học (Mạc Kiếm hùng) và bệnh viện (Nguyễn Tri Phương ngày nay). Chùa Bà đóng góp nhiều vào công việc công ích xã hội. Chùa c ũng là cơ sở cách mạng do Mạc Kiếm Hùng hoạt động chủ yếu. Lăng ông Bà Chiểu Lăng tả quân Lê văn Duyệt, còn gọi là "Lăng ông Bà Chiểu", là một di tích lịch sử - văn hóa ở TP.HCM đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Ðây không chỉ là nơi thờ cúng một nhân vật lịch sử cách nay hơn thế kỷ mà còn là công trình kiến trúc có giá trị văn hóa, nghệ thuật đặc sắc mang đậm nét văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung và vùng đất Nam bộ nói riêng. Nằm kề bên chợ Bà Chiểu nên "Lăng ông Bà Chiểu" là tên gọi phổ biến trong dân gian để chỉ di tích lịch sử - văn hóa: lăng tả quân Lê Văn Duyệt. Lăng tọa lạc số 126 Ðinh Tiên Hoàng - phường 1 - Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh trên một khu đất rộng 18.500 m2. Thật ra, theo đúng như hàng đại tự phù điêu trên cổng Tam quan thì tên gọi chính xác phải là "Thượng Công Miếu". Vốn nằm trên vùng đất hoang ở thượng du Nghi giang nên dọc lối đi vào khuôn viên lăng ngày nay vẫn còn nhiều cây gỗ quý cao to, bóng mát nh ư: si, dầu, bằng lăng... Theo lời của một số người am hiểu thì ngày xưa, Lăng ông nằm trên một gò đất hình lưng qui. Ðối với khoa "địa lý" thì đây là vị thế nằm vào "long mạch" hợp với "địa linh nhân kiệt", tài lộc đời đời vĩnh tế và sẽ có ảnh hưởng tốt cho sự an lạc của đồng bào cư trú trong khu vực. Khuôn viên Lăng ông hiện còn khá rộng, được giới hạn bởi bức tường vây quanh với chu vi 500m, cao 1,2m. Bốn cổng lăng mở ra bốn hướng: - Cổng Ðông (mở ra đường Trịnh Hoài Ðức). - Cổng Tây (mở ra đường Ðinh Tiên Hoàng). - Cổng Bắc (mở ra đường Phan Ðăng Lưu). - Cổng Nam - Cổng Tam quan (mở ra đường Vũ Tùng). Trước kia, khi những con đường trên chưa được mở thì diện tích Lăng ông lớn gấp 2 lần hiện nay. Phía trước và hai bên lăng miếu là phần đất hương hỏa mà triều đình Tự Ðức - năm thứ 13 (1860) ban cho xã Bình Hòa thâu huê lợi để phụng sự và trùng tu lăng miếu. Tuy gọi là Lăng ông nhưng tại khu lăng mộ lại có hai ngôi mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt và của chánh thất tả quân phu nhân Ðỗ Thị Phận, được song táng theo cổ lệ "càn khôn hiệp đức" của Nho PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- giáo. Trước mộ phần là một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp âm dương, phía trên vòm c ửa hình vòng cung phù điêu hàng chữ "Lê Công Bí Ðình". Cùng nằm trên một trục và cách khu lăng một khoảng sân rộng 26 x 15m là khu vực trung tâm diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng được gọi là "Thượng công linh miếu". Bố cục của "Thượng công linh miếu" bao gồm: tiền điện, trung điện và chánh điện, mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân Thiên Tĩnh. Ðối xứng hai bên trục nhà chính là Ðông Lang , Tây Lang - Lễ khách đường. Nhìn bề ngoài, toàn bộ mái nhà "Thượng công linh miếu" như điệp vào nhau xếp thành lớp, thành tầng. Nóc sau cao hơn nóc trước với các cổ lầu rất nguy nga, bề thế. Vật liệu cũng như kỹ thuật kết cấu của "Thượng công linh miếu" có những đặc điểm đáng chú ý: kế thừa kiến trúc cổ truyền Việt Nam, đồng thời có sự cách tân , nên hình khôí ki ến trúc có những thay đổi, tạo sự vững vàng, bền chắc. Tường gạch giữ vai trò quan trọng trong kết cấu chịu lực; cột gạch thay thế cột gỗ ở hàng hiên để chịu đựng lâu dài trước mưa dầm và nắng gắt của vùng nhiệt đới phương nam. Nhìn chung Tiền điện, Trung điện và chánh điện có một vài sự khác nhau về vật liệu và kỹ thuật kết nối bên trong. Tuy nhiên bộ mái nhà hai tầng là một nét đặc sắc chung trong tổng thể kiến trúc "Thượng công linh miếu", thể hiện đặc điểm kiến trúc Việt Nam. Các bờ nóc được xây cao với hai đầu cong, trang trí "Lưỡng Long chầu nguyệt" trông giống như những chiếc thuyền rồng đang neo lại. Trên bề mặt bờ nóc được chia thành từng ô hình vuông và chữ nhật để đắp những đề tài trang trí khác. Cảm giác cong nhẹ của mái là điểm xoáy hất lên của đuôi rồng chầu vào bờ nóc hoặc nơi oằn xuống của lưng kỳ lân. Sau nhiều đợt trùng tu, di tích Lăng ông đã phần nào phục hồi được nét uy nghiêm, cổ kính vốn có của một cơ sở tín ngưỡng và đã trở thành di sản quí giá trong kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. Đền thờ Hùng Vương - TP. HCM Ðền thờ Hùng Vương nằm cạnh cổng chính trong khu vực Thảo Cầm Viên. Ðền này do Pháp cho xây dựng, lúc đầu mang tên là đền Kỷ niệm, nơi ghi tên và thờ cúng những người Việt Nam đi lính cho Pháp đã chết trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sau năm 1954, đổi lại là đền Quốc Tổ Hùng Vương. Trong đó ngoài việc thờ vua Hùng còn thờ Khổng Tử và một số nhân vật lịch sử khác như Trần Hưng Ðạo, Lê Văn Duyệt... Sau năm 1975, đền được đổi thành đền thờ Hùng Vương và giao cho Bảo tàng lịch sử Việt Nam - thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp quản lý. Hiện nay, trong đền thờ Hùng Vương, ngoài ngai thờ đặt ở trung tâm thờ các vua Hùng, còn có các bài vị thờ tổ tiên bách tính và lương thần danh tướng. Trước bàn thờ có bộ vũ khí bát bửu, chiêng trống. Xung quanh đền được dùng giới thiệu bằng hợp hình, tranh ảnh chuyên đề về thời đại Hùng Vương. Ngoài phần giới thiệu sơ lược về thời đại nguyên thủy trên đất Việt Nam, còn có các phần giới thiệu về nông nghiệp, săn bắn, đánh cá, nghề sản xuất gốm, nghề đúc đồng, nghề dệt vải, các loại vũ khí và văn hóa nghệ thuật của thời đại Hùng Vương. Về kiến trúc, đền được tạo dáng mái cong, có ba bậc. Nóc trên có trang trí hình rồng và phượng, thuộc phong cách triều Nguyễn, hai bên bậc đá lên cửa chính của đền cũng có đôi rồng chầu thuộc thời Nguyễn. Bên trong phần la phong cũng có chạm khắc hình rồng, dơi, phượng và được sơn màu đỏ khá đẹp. Các lỗ thông gió xung quanh cũng được chạm khắc. Ðền được chống đỡ bằng 12 cây gỗ mật màu đen đường kính khoảng 50 phân, tượng trưng cho thập nhị chi : tý, sửu, dần, mẹo... Ðền chỉ đóng cửa ngày thứ hai, các ngày còn lại trong tuần đều mở cửa. Ðặc biệt vào ngày giỗ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 âm lịch, ở đây có tổ chức lễ dâng hương và lễ hội. PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Chùa Vĩnh Nghiêm Xưa kia tại tỉnh Bắc Giang (nay là Hà Bắc) cũng có một ngôi chùa mang tên Vĩnh Nghiêm của phái Phật Giáo Trúc Lâm Tam Tổ. Vua Trần Nhân Tông là Tổ thứ nhất, Pháp Loa là vị Tổ thứ hai và Huyền Quang Tôn Dã là vị Tổ thứ ba sáng lập một thiền phái Phật giáo. Năm 1964, trong phong trào Phật giáo đấu tranh chống Mỹ ngụy, có rất nhiều Phật tử quê miền Bắc thuộc dòng dõi của tổ Vĩnh Nghiêm. Cho nên trong hiến chương của giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất trước kia dành cho tăng ni Phật tử miền Bắc có mặt tại miền Nam được lấy một miền, gọi là miền Vĩnh Nghiêm. Chùa Vĩnh Nghiêm được tạo dựng với mục đích làm nơi kế tục của Vĩnh Nghiêm xưa và là trụ sở cho miền Vĩnh Nghiêm. Chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng do một ban kiến thiết chùa Vĩnh Nghiêm và được hỗ trợ của ban đại diện miền Vĩnh Nghiêm. Chùa được xây dựng trên một dòng sông sình lầy 8.000 m2, chuyển đất từ xa lộ về (nay là đường Hà Nội) để làm nền. Khởi công từ tháng 4-1964 và được hoàn thành cơ bản vào năm 1973. Kinh phí xây dựng chùa khoảng 98 triệu đồng tiền lúc bấy giờ. Tiền này hoàn toàn do các Phật tử đóng góp Chùa kiến trúc theo kiểu cổ kính Á Đông. Tuy vậy, nội dung trong chùa mang tính chất hiện đại. Chùa làm theo kiểu chữ "công". Phần ngoài là diện thờ Phật, có hậu cung và tiền đường. Ở chính giữa thờ tượng Phật Thích Ca và hai đệ tử của ngài là văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát. Trang trí có hoàng phi câu đối cửa võng và các bàn thờ. Hai bên bàn thờ có tranh thờ Thập Bát La Hán. Ngoài sân thượng chùa, phía bên trái có ngọn tháp bảy tầng, thờ Đức Quan Thế Âm, và trong các tầng của ngôi tháp để đồ trang trí các tranh ảnh và di tích phật giáo. Bên trái sân thượng có tháp gác chuông treo đại hồng chung, sớm tối gióng chuông để cầu nguyện thế giới hòa bình, nhân dân an lạc. Quả chuông này do Phật giáo Nhật Bản tặng trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, để cầu nguyện cho chiến tranh sớm chấm dứt. Phía sau chánh diện có Địa Tạng Đường. Ở giữa có thờ Bồ Tát Địa Tạng để cứu giúp cho những vong linh đã quá cố được siêu thoát. Hai bên có thờ bài vị những người đã chết mà họ được phối hưởng tại chùa. Tại sân dưới, phía sau chùa, có một tháp gọi là tháp xá lợi công đồng, để thờ các hủ cốt của người đã quá cố, được đặt gởi tại Pháp. Ở sân trước cửa Chùa, mé bên phải có dãy nhà để làm nơi sinh hoạt của Phật giáo. Tầng trệt của chùa gồm có nơi thờ các vị tổ sư đã quá vãng và có giảng đường để thuyết giảng. Sau nhà thờ Tổ có trai đường để sớm tối hành đạo. Chùa Vĩnh Nghiêm nằm trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, trên đường từ sân bay tân Sơn Nhất về trung tâm thành phố. Đền thờ Trần Hưng Đạo Đền thờ Trần Hưng Đạo ở số 36 đường Võ Thị Sáu, phường Tân Định, quận 1 vốn là một ngôi chùa Phật chuyển sang thờ Trần Hưng Đạo từ năm 1932 mang tên Vạn An Linh Từ. Đến năm 1958 khuôn viên đền mở rộng và xây dựng ngôi đền mới theo đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Mạnh Bảo. Ngôi đền mới khang trang hơn với những vật liệu kiên cố, nhưng nhìn chung vẫn giữ được những đường nét cổ kính của ngôi đền truyền thống Bắc Bộ. Đền kiến trúc theo hình chữ đinh trong Hán tự. Trước đền là một khoảng sân rộng có dựng tượng Trần Hưng Đạo chỉ tay xuống dòng sông Hoá lịch sử. Trong đền có nhiều tác phẩm chạm gỗ rất mỹ thuật như: hương án, bao lam, hoành phi, liễn PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- đối... cũng như nhiều bức phù điêu vẽ lại chiến trận Bạch Đằng và quang c ảnh bốn mùa do các nghệ dân nhân gian thực hiện. Hậu cung đền thờ phụng Trần Hưng Đạo cùng phu nhân ở chính giữa và hai bên thờ các vương cô và vương cậu - con của Trần Hưng Đạo. Hằng năm, đền có các ngày lễ lớn như: lễ giỗ (20 tháng 8 âm lịch) và lễ sinh (10 tháng chạp âm lịch) của Trần Hưng Đạo, cùng lễ hội mùa xuân vào các ngày mùng 9, 10 và 11 tháng giêng âm lịch. Chùa Ngọc Hoàng Ðiện thờ bên trong có ba gian, gian giữa có 3 phần: Tiền Ðiện, Trung Ðiện và Chánh Ðiện. Hai gian bên là nhà nghỉ và thế giới của “Thập điện Diêm Vương”, tiền điện, thờ 2 bên: Thổ Thần và Thần Cửa, lối giữa bước vào trung điện là bàn thờ Phật Sư bằng gỗ trầm. Tầng lầu là nơi thờ Phật, có thờ Quan Thánh Ðế Quân, Quan Thế Âm Bồ tát, Hộ pháp, Tổ Lưu Minh, La Hán. Trước đây, ngày vía Ngọc Hoàng là ngày đại lễ vào mùng 9 tháng Giêng âm lịch được gọi nôm na là vía trời. Ngoài ra còn các ngày vía như mùng 6 tháng 11 âm lịch (kỷ niệm ngày Ngọc Hoàng bắt đầu tu), rằm tháng giêng, tháng 7, tháng 10, khách thập phương lui tới cúng bái không dứt từ sáng đến tối. Ðây là cơ sở lớn nhất, cổ xưa nhất của người Hoa ở thành phố đặt thờ Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Phong cách thợ tự trong điện cũng cho thấy rõ nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Hoa khá rõ nét: có cõi Phật, cõi trời, cõi Âm… Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, nơi đây còn là cơ sở cách mạng do hoàn thượng Thích Vĩnh Khương tổ chức nuôi dấu cán bộ, nơi ém quân. Chùa Phước Ân (Quận Bình Thạnh) cũng là điểm do hoà thượng lập thêm để tránh bị Mỹ -Ngụy phát hiện. Với những ý nghĩa đó Ðiện Ngọc Hoàng đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 2754QÐ/BT ngày 15/10/1994. Thiền viện Vạn Hạnh Thiền viện tọa lạc tại số 716 đường Nguyễn Kiệm trên một diện tích rộng khoảng 1 ha, bao gồm ngôi chánh điện, nhà tổ, các dãy nhà làm trụ sở trường Cao cấp Phật học Việt Nam, văn phòng Viện nghiên cứu Phật học, văn phòng Hội đồng phiên dịch đại Tạng kinh Việt Nam, dãy nhà tăng, trai đường, ngày nay thiền viện còn đang xây dựng thêm dãy nhà cao rộng làm những phòng học cho các Tăng Ni. Trước năm 1975, nơi đây là Phân khoa Khoa học ứng dụng thuộc Viện đại học Vạn Hạnh do Hòa thượng Thích Minh Châu làm Viện trưởng. Năm 1976, Hòa thượng đã tạp lập thiền viện này làm nơi tu trì và nghiên cứu Phật học. Cổng thiền viện được xây dựng vào năm 1990, theo kiến trúc cổ Phật giáo ở Huế do đại đức Tâm Ðoan và đại đức Tịnh Quang đảm trách. Ngôi chánh điện gồm hai tầng. Tầng trệt, gian giữa thờ tượng đức Phật Thích Ca màu trắng ngà ngồi trên tòa sen, vẻ mặt đầy bao dung. Nơi đây bài trí đơn sơ nhưng rất nghiêm cẩn. Hai bên là phòng đọc sách của thư viện với nhiều sách quý. Tầng lầu là phòng khách và phòng làm việc của Hòa thượng Viện chủ. Thiền viện Vạn Hạnh còn là trung tâm đào tạo Tăng tài cho các tỉnh phía Nam. Nơi đây đặt trường Cao Cấp Phật học Việt Nam. Trường đào tạo theo phương thức tập trung thông qua một kỳ thi tuyển, mỗi khóa học kéo dài 4 năm, với văn bằng tương đương trình độ đại học.Từ năm 1984 đến nay, trường đã mở được 3 khóa, đào tạo PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- hơn 400 Tăng Ni Sinh. Chương trình giảng dạy gồm phần nội điển do chư tôn túc giảng sư của Giáo hội phụ trách và phần ngoại điển do các giáo sư, giảng viên các trường đại học đảm nhiệm. Thiền viện Vạn Hạnh thường xuyên được vinh dự đón tiếp các đoàn đại biểu các Giáo hộiphật giáo trên thế giới và nhiều đoàn khách quốc tế đến làm việc, thăm viếng; cùng đông đảo du khách, Phật tử đến lễ bái, sinh hoạt, nhất là vào các ngày lễ Phật đản, Vu lan... (Những ngôi chùa nổi tiếng Việt Nam) Chùa Giác Lâm Địa chỉ 118 Lạc Long Quân, Q.Tân Bình, là một trong những ngôi chùa cổ xưa nhất thành phố, được xây dựng vào năm 1744. Chùa còn có tên là Cẩm Sơn hoặc Cẩm Điện. phong cảnh nơi này đẹp như tranh với những vườn hoa và những cây cao. Nhiều người đến đây để sáng tác và ngâm thơ. Chùa đã được trùng tu nhiều lần: vào năm 1804 và 1909. Trên cổng có 3 chữ Giác Lâm Tự viết bằng chữ hán. Chùa còn được goị là đình Giác Lâm vì có nhiều am với những người trụ trì thuộc dòng họ Lâm Tế, con cháu của những người truyền và phát triển đạo phật ở Trung Quốc. Kiến trúc của chuà mang đậm nét văn hóa phương Đông, nghiêm trang, nhẹ nhàng, mỹ thuật. đặc biệt tượng phật Địa tạng của chùa đẹp có tiếng. chùa được công nhận là di tích l ịch sử văn hóa quốc gia. Chùa Xá Lợi. Tọa lạc tại số 89. Bà Huyện Thanh Quan, Q.3, được xây dựng vào năm 1956 do sự đóng góp của nhân dân 21 tỉnh miền Nam. Hội phật học Việt Nam tổ chức xây cất chùa để thờ Xá Lợi Phật. các chư tăng, ni và phật tử quen gọi là chùa Xá Lợi vì thế khi khánh thành chùa đã được đặt tên là chùa Xá Lợi như tên quen gọi của mọi người. điện thờ ở lầu một được bài trí đơn giản, tôn nghiêm và ở đây có đặt thờ Xá Lợi phật do ngài Narada ở Tích Lan dâng cúng cho phật giáo Việt Nam. Chùa được chọn đặt trụ sở Giáo hội phật giáo Việt Nam Hội Phật Học Nam Việt đã xây cất được ngôi chùa Xá Lợi là một thắng tích cho thành phố Sài Gòn vào năm 1957, đồng thời đã đóng góp bằng xương máu của chư Tăng trong mùa Pháp nạn 1963 đã cùng với Ủy Ban Liên Phái Bảo vệ Phật giáo chống chế độ độc tài của gia đình trị họ Ngô. Chùa Xá Lợi có một cổng tam quan chính trông ra đường Bà Huyện Thanh Quan, một cổng tam quan phụ trông ra đường Sư Thiện Chiếu, tọa lạc với diện tích trên 2.000 mét vuông, thuộc Quận 3 TP.HCM. Bước chân qua cổng tam quan, chúng ta đi dưới bóng cây mát mẻ, ngang qua tượng đài Quán Thế Âm lộ thiên ẩn mình dưới gốc Bồ đà xanh lá, và luôn được nam nữ Phật tử thường xuyên lễ bái, nhang đèn hằng việc sáng, mang tất cả tâm thành gởi theo đám mây hương. Phía trong chánh điện là chỗ thờ Phật, trên cao ngay trước tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là nơi tôn trí ngọc Xá Lợi Phật trong một ô khám theo hình lá bồ đề. Sở dĩ thờ một tượng Phật là để dễ nhất tâm hơn thờ nhiều tượng Phật. Sau chánh điện là nơi thờ Tổ gồm các Hòa thượng có công lớn trong phong trào chấn hưng và thống nhất Phật Giáo. Bên mặt là bàn thờ di ảnh các vị Tăng Ni đã tự thiêu trong thời kỳ tranh đấu bảo vệ Phật Giáo bị Pháp nạn năm 1963. Bên trái là thờ cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, cố Hội PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Trưởng khai sáng Hội Phật Học Nam Việt, ngoài ra còn bàn thờ hương linh các hội viên quá cố, nam bên trái, nữ bên phải đèn nhang lúc nào cũng được thắp sáng. Hai bên góc trong c ủa chánh điện có treo chuông và trống bát nhã đặt trên khuôn giá chạm trổ hoa văn rất công phu, riêng chày đóng chuông được tạc hình cá Kình tuyệt đẹp ! Bên dưới chánh điện là giảng đường Mai Thọ Truyền rộng rãi chứa khoảng 400 chỗ ngồi, dành cho Phật nữ đến để nghe các buổi thuyết giãng vào sáng chủ nhựt hàng tuần, do các giãng sư Thành Hội Phật Giáo đảm trách và sẽ có buổi thuyết giãng về Thiền Đốn Ngộ 1 lần trong tháng do Hòa thượng Thích Thanh Từ hướng dẫn. Ngoài ra vào chiều chủ nhựt mỗi tuần Phật tử còn được học lớp giáo lý, để trang bị kiến thức Phật giáo cho hàng Phật tử tại gia bước đầu học Phật. Đặc biệt mỗi sáng chủ nhựt Đạo Tràng Bát Quan Trai tập trung hàng trăm cư sĩ Phật từ đến thọ giới, nghe pháp, tụng kinh, thọ trai bửa trưa và đồng đi kinh hành với Chư Tăng Trường hạ Xá Lợi. Ngoài những kiến trúc đặc biệt mỹ thuật Phật giáo Việt Nam của chùa Xá Lợi, phần đáng lưu ý và biểu tượng nhứt là Tháp chuông, Tháp cao 7 tầng, mỗi tầng có bàn thờ Phật, có 4 mặt phẳng lớn và 4 mặt góc nhỏ, tạo thành một hình bát giác, có mái che cong cong vước lên hình đầu đao, và tầng trên cùng có treo một quả chuông rất lớn. Địa đạo Củ Chi Khu di tích địa đạo Củ Chi cách trung tâm Sài Gòn khoảng 1 giờ rưỡi đồng hồ đi ôtô. Nằm sâu trong lòng đất, và được che phủ bởi màu xanh của thiên nhiên hoang sơ, nơi đây đã trở thành một điểm du lịch nổi tiếng, ngoài tên thời chiến là "đất thép thành đồng". Hệ thống địa đạo Củ Chi ngoằn ngoèo, chạy dài với các đường hầm chằng chịt. Từ một đường hầm xương sống tỏa ra vô số nhánh dài, ngắn, thông với nhau, là nơi trú ngụ, ẩn náu của lực lượng Việt Cộng trước đây trong thời kỳ kháng chiến. Đây quả là một thành phố dưới lòng đất. Có các nơi dự trữ vũ khí, lương thực, thực phẩm, giếng nước, hầm chỉ huy, hầm dùng để hội họp, chiếu phim, xem văn nghệ, các phòng ngủ tập thể, các nhà ăn tập thể, đến các hầm giải phẫu thu nhỏ, cùng với hàng trăm hố cá nhân. Mọi điều kiện sinh hoạt ở dưới hầm đều mang tính thô sơ, tự chế như dép râu làm từ lốp xe cũ, đạn dược được tái chế từ các quả bom chưa nổ, có bếp Hoàng Cầm, tức loại bếp nấu ăn dấu khói. Ðịa đạo Củ Chi thuộc xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 17 km về phía Tây Bắc, địa đạo Củ Chi là một di tích lịch sử nổi tiếng của thành phố. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo, là một hệ thống đường hầm nằm sâu trong lòng đất, có nhiều tầng, nhiều ngõ ngách, liên kết nhau thành một hệ thống chằng chịt, có nơi ăn ở, hội họp, sinh hoạt, chiến đấu. Hệ thống đường hầm bí mật này đã đào từ kháng chiến chống Pháp (1948), lúc ấy mới chỉ có khoảng 17 km. Sau năm 1960, hệ thống này tiếp tục được củng cố, phát triển thêm tới 250 km, có 3 tầng, tầng sâu nhất từ 8 - 10m. Củ Chi được gọi là quê hương của “chiến tranh địa đạo”, đã được tặng hiệu “đất đồng. danh thép thành Hiện nay, khu di tích lịch sử này đã trở thành một khu du lịch hấp dẫn, thu hút hàng ngàn du khách trong nước và nước ngoài tham quan mỗi ngày. Đặc biệt, nhiều vị lãnh đạo Đảng, nguyên thủ quốc gia của Việt Nam và các nước đã đến thăm và ghi cảm tưởng lưu niệm tại đây. Nơi đây đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Đền tưởng niệm liệt sĩ Bến Dược Nằm trong khu di tích lịch sử Củ Chi, xã Phú M ỹ Hưng, huyện Củ Chi, đền Bến Dược được khởi công xây dựng ngày 15-9-1993, khánh thành giai đoạn một vào ngày 19-12-1995 gồm có: cổng PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- tham quan, , nhà văn bia, tháp 9 tầng, ngôi điện chính và hoa viên. Tấm bia đá cao 3m, nặng 3.7 tấn đặt giữa nhà văn bia, khắc bài văn “đời đời ghi nhớ” của nhà văn Viễn Phương. Trong ngôi điện chính, điện thờ được bài trí tôn nghiêm, chính giữa tôn trí tượng chủ tịch Hồ Chí Minh. Ba mặt xung quanh là họ tên của các anh hùng liệt sĩ được khắc vào bia đá hoa cương, chữ mạ vàng. Tầng dưới đền là nơi trưng bày những hình ảnh, hiện vật, mô hình, sa bàn… với chủ đề: “Củ Chi đất thép thành đồng. Ngày 19-12 hàng năm là ngày lễ hội tưởng niệm và tri ân các anh hùng liệt sĩ tại đền Bến Dược. Khu du lịch sinh thái dân tộc thiểu số Củ Chi (Fosaco) Thuộc xã Nhuận Đức, huyện Củ Chi, cách địa đạo Củ Chi khoảng 8km, làng sinh thái Fosaco được ví von là một Tây Nguyên giữa lòng thanh phố bởi quy tụ các nét văn hóa độc đáo của các dân tộc thiểu số như: kiến trúc, lễ hội, ẩm thực và làng nghề…Chuyến hành hương về Củ Chi không phải để trở về địa đạo một thời anh hùng của người dân đất thép mà là để tìm về chốn yên bình với thiên nhiên, với những gì hoang sơ và độc đáo. Chỉ cách trung tâm Tp.HCM 50km, nghĩa là khoảng hơn một giờ đi xe máy thôi, nhưng ở khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số Củ Chi, hơi thở gấp gáp và cái dáng vẻ vội vã quay quắt của thành phố dường như không còn nữa. Người ta tạm quên mình còn công việc và cả những mối lo toan, để những nhân viên hướng dẫn đưa đi hết 20ha của khu sinh thái. Những cỗ xe ngựa mộc mạc thay cho xe gắn máy lộc cộc gõ móng trên lối nhỏ sẽ đưa chúng ta dạo quanh khu du lịch. Hoa viên phượng vĩ vào mùa rực lửa, cháy khát khao nỗi niềm mùa hạ. Khu biểu diễn vịt độc đáo đến mức nhiều người nghĩ họ đang được đến vườn chim Jurong ở Singapore. Khác chăng chỉ là màn biểu diễn của gần 300 diễn viên vịt nhào lộn hết sức ngoạn mục thay cho tiếng chim hót. Bỏ lại sự ồn ào của những chú vịt, chúng tôi đến sân khấu ca múa nhạc dân tộc thiểu số. Những vũ điệu, lời ca của người dân Tây Nguyên như nhắc con người sống có tình hơn. Đến Mê Cung Trúc, không chỉ giới trẻ mà cả người có tuổi đều thích thú với sự bất ngờ của khu nhà 5 căn được làm từ hơn 2.000 cây trúc. Nơi đây, những lối đi ngắt khúc, quanh co và cả những lối đi ảo trong mỗi tầng nhà khiến người chơi trò mê cung khó tả hết cảm giác hồi hộp. Cơm lam, bánh tráng phơi sương, bánh kẹp đậu phộng hay rượu cần chỉ là vài món ăn dân dã mà người dân tộc ưu ái mời khách nếm qua, để thấy cái tình người nơi đây nó đậm đà, thơm thảo lắm. Trước khi về với hiện đại của thành phố, đừng quên mua vài món quà thủ công mỹ nghệ của các dân tộc thiểu số ở gian hàng bán quà lưu niệm, để nhớ mình đã có lần về với Củ Chi. Khu du lịch sinh thái văn hóa dân tộc thiểu số Củ Chi Ấp 4, xã Nhuận Đức, Củ Chi, TP Hồ Chí Minh. Điện thoại: (84-8) 792 8922. Khu du lịch “một thoáng Việt Nam” Địa chỉ: Bến Bò Cạp, ấp Phú Bình, xã An Phú, Huyện Củ Chi Đây là một quần thể làng nghề thủ công truyền thống với diện tích 22.5 ha đất bưng biền, nằm cạnh rạch Bò Cạp, gần sông Sài Gòn. Khu du l ịch bao gồm 30 hạng mục với đền thờ đất nước, Sa bàn nước Việt Nam, lầu Vọng, đường Trường Sơn, ba khu tiêu biểu cho 3 miền đất nước. Bên cạnh là khu văn hóa ẩm thực, đảo nuôi chim thú tự nhiên, khu chợ hàng tiểu thủ công nghiệp, chợ trên sông, vườn cây ăn trái… PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
- Ở đây, những người thợ thủ công, nông dân, nghệ nhân… thuộc nhiều dân tộc khác nhau đến từ những miền quê khác nhau cùng lao động sản xuất bên nhau trong một số nghề truyền thống tiêu biểu như: đan lát mây tre, dệt tơ lụa và thổ cẩm, gốm sứ, chầm nón, thêu ren, làm giấy dó, in khắc tranh, điêu khắc đá, điêu khắc mộc, chế biến mía đường, canh tác lúa nước, nuôitrồng thủy sản, ươm trồng hoa lan, cây cảnh, chăn nuôi gia súc… Thăm khu du lịch “một thoáng Việt Nam” sẽ lưu lại cho quý khách những ấn tượng sâu sắc về một đất nước Việt Nam Mười tám thôn Vườn Trầu Thuộc huyện Hóc Môn, cách trung tâm thành phố gần 20 km về [hía Tây. Du khách thích tiếp xúc với những người nông dân Nam bộ, có tinh thần thượng võ, xả thân, xả thân vì chính nghĩa, xin mời về vườn trầu 18 thôn. Với những vườn trầu xanh mướt, ken dầy đến mức trời mưa, đứng dưới dàn trầu không bị ướt. Du khách sẽ được ngồi xe ngựa đi dạo khắp thôn làng trong một màu xanh cây lá, được tiêép xúc với người dân cởi mở, mến khách và được nghe những chuyện kể về truyền thống anh hùng của nhân dân 18 thôn vườn trầu trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Mười tám Thôn vườn trầu thuộc địa phận huyện Hóc Môn, ngoại vi thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố chưa đầy 10 km. Từ xa xưa, dân vùng này đã nổi tiếng là khẳng khái, trọng nghĩa khinh tài, giàu lòng tương thân tương ái. Vua tôi nhà Nguyễn cũng phải mặc nhiên chấp nhận lẽ thời của những người dân "cứng đầu cứng cổ" ở nơi đây. Thời ấy Mười tám Thôn vườn trầu lắm thứ dữ, cảnh trí hoang sơn, cỏ cây rậm rạp. Nhắc tới địa danh này, nhiều cụ cao niên cho biết ngày xưa ở đây nhiều hổ lắm, "ông ba mươi" đi trên đường làng giữa ban ngày, còn ban đêm thì thả sức tung hoành quấy phá, bởi vậy mới có câu truyền miệng "dữ như hổ Mười tám Thôn vườn trầu". Bà con sinh sống lâu đời ở đây coi trồng trầu là một nghề ăn nên làm ra. Do vậy mà, vườn nhà nọ nối với vườn nhà kia bằng một màu xanh bất tận của cây trầu. Nghề nuôi ngựa, nuôi gà chọi cũng là một trong những nghề nổi tiếng ở đây. Buổi đầu Pháp xâm chiếm Nam Bộ, giữa tết năm ất Dậu (1885), nhân dân Mười tám Thôn vườn trầu đã nổi dậy, khởi nghĩa giết đốc phủ Ca, một tên tay sai gian ác, rồi kéo quân vào Sài Gòn..... Năm 1930 khi Ðảng Cộng Sản Ðông Dương ra đời thì Mười tám Thôn vườn trầu được chọn làm hậu cứ, nơi nuôi dưỡng các cán bộ lãnh đạo của Ðảng, nơi cất dấu tài liệu bí mật của Ðảng. Trong khoảng thời gian năm 1930 đến 1940, bà con Mười tám Thôn vườn trầu đã bảo vệ, che dấu, nuôi nấng nhiều chiến sĩ cộng sản, nhiều người con ưu tú của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam: Nguyễn Văn Cừ, Phan Ðăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Quốc Việt, Lê Duẩn......Tin vào dân, dựa vào dân, Trung ương Ðảng đã tổ chức ở đây ba cuộc họp quan trọng. Tháng 3 năm 1937 Trung ương Ðảng họp hội nghị mở rộng kiểm điểm tình hình, bàn chủ trương biện pháp cụ thể, nhất là công tác mặt trận và công tác đấu tranh hợp pháp để đẩy mạnh phong trào cách mạng tại ấp Tiến Lâm. Cũng tại ấp này, tháng 3 năm 1938, Trung ương Ðảng họp hội nghị toàn thể kiểm điểm ưu khuyết điểm về các mặt công tác: xây dựng Ðảng, tổ chức quần chúng, xây dựng mặt trận. Và đề ra những chủ trương cụ thể nhằm phát huy thắng lợi đã giành được, đưa phong trào đấu tranh dân chủ lên một bước nữa. Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 11 năm 1939, hội nghị Trung ương Ðảng lần thứ 6 khai mạc tại ấp Tây Bắc Lân - Mười tám Thôn vườn trầu với sự tham gia của các đồng chí Nguyễn Văn Cừ (Tổng bí thư), Lê Duẩn, Phan Ðăng Lưu, Võ Văn Tần..... Hội nghị đã bàn toàn diện các chủ trương của Ðảng trong tình hình mới. Ðêm 23 tháng 11 năm 1940, khởi nghĩa Nam kỳ bùng nổ. Cả một vùng rộng lớn nông thôn Nam Bộ rung chuyển trước sức nổi dậy, tiến công của quần chúng cách mạng. Ngày đó, bà con Mười tám Thôn vườn trầu tự vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác đánh vào các cơ quan hành chính của thực dân Pháp. Do điều PDF created with FinePrint pdfFactory Pro trial version http://www.fineprint.com
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn