- 1 -

PHẦN MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Lịch sử Việt Nam là lịch sử của các cuộc đấu tranh, đấu tranh với thiên

nhiên, đấu tranh chống giặc ngoại xâm... để có được một Việt Nam hòa bình, độc

lập, thống nhất. Trong giai đoạn hiện nay độc lập dân tộc là của nhân dân, mọi

quyền lợi đều thuộc về nhân dân. Nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho mọi công dân

cũng như phát huy sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước trên mọi lĩnh

vực Đảng và Nhà nước ta đã đề ra rất nhiều đường lối, chủ trương, chính sách.

Trong đó xác định giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Theo nhu cầu đổi mới toàn diện của nền giáo dục hiện nay, lựa chọn phương

pháp dạy học phù hợp với từng đơn vị kiến thức của bộ môn là vấn đề cơ bản

không thể thiếu của sự nghiệp giáo dục. Cùng với các phương pháp dạy học tích

cực trong quá trình giảng dạy tôi đã lựa chọn phương pháp “Gắn nội dung giảng

dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng qua bộ môn” ở một số đơn vị kiến

thức của chương trình GDCD trung học phổ thông.

Học đi đôi với hành là mục tiêu quan trọng của sự nghiệp giáo dục. Chúng ta

không thể đưa vào chương trình một lượng kiến thức vừa mới, vừa khó để nâng cao

trình độ học sinh bắt nhịp cùng thời đại. Trong quá trình dạy và học, học sinh có

thể vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống, đồng thời là cơ sở của quá

trình nhận thức cao hơn. Do yêu cầu giảng dạy của bộ môn đòi hỏi giáo viên phải

chọn lọc các kênh thông tin từ thực tiễn kết hợp với lồng ghép giáo dục tư tưởng

đúng thời điểm cũng như khi có cơ hội. Thông qua ví dụ, hình ảnh minh họa thiết

thực, sinh động, ít nhiều sẽ làm cho người học không nhàm chán, nặng nề và không

cảm thấy kiến thức trong sách vở tồn tại ở dạng lý thuyết; mà trái lại liên hệ thực

tiễn đạt hiệu quả luôn thu hút được sự hiếu kỳ, chủ động tìm đến kiến thức, nắm bắt

kiến thức, có thể áp dụng một phần kiến thức nào đó đã học vào cuộc sống của bản

thân khi cần thiết.

- 2 -

II. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

1/ Phạm vi nghiên cứu:

“Gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng qua

bộ môn” ở đơn vị kiến thức: dấu * thứ nhất, điểm b, mục 2, bài 4 “Quyền bình

đẳng của công dân trong một số lĩnh vực” - Chương trình GDCD lớp 12.

2/ Đối tượng nghiên cứu:

Ứng dụng giảng dạy ở học sinh các lớp 12A1, 12A15 trường THPT Trần

Văn Bảy.

3/ Mục đích nghiên cứu:

Ứng dụng phương pháp “Gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp

giáo dục tư tưởng qua bộ môn” nhằm:

- phát huy thái độ chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập; giúp các em

luôn nhận định kiến thức không phải là cái có sẵn và không thể chủ động tìm đến

người học, muốn có được kiến thức, tri thức người học phải trải qua quá trình tìm

hiểu, đầu tư và phải biết vượt khó trong mọi hoàn cảnh.

- Khi tìm đến kiến thức môn GDCD, người học phải có niềm tin đối với chủ

trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cùng với việc

biết và hiểu về quyền lợi, nghĩa vụ của công dân trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng

đất nước trong mọi thời đại; là động lực để người học phát huy mạnh mẽ các ưu

điểm, khắc phục các hạn chế trong học tập, lao động, hoàn thiện bản thân.

- Nâng cao phẩm chất đạo đức, nhân cách, tác phong cho học sinh và hiệu

quả giáo dục của môn học.

- Giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về những vấn đề thực tiễn sau đó hoàn

thiện phẩm chất đạo đức cá nhân, hiểu bài và hứng thú học tập hơn.

- Có biện pháp rèn luyện để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, xác

định được nghĩa vụ và mục tiêu học tập.

- 3 -

4/ Tính mới mẻ (cấp thiết) của đề tài:

Qua tìm hiểu thực tế cho thấy rằng hiện nay tình trạng đạo đức học sinh ở

các trường nói chung và học sinh ở trường THPT Trần Văn Bảy đã có chiều hướng

đi xuống, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục của nước ta.

Vì vậy việc “Gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng

qua bộ môn” sẽ giúp các em hiểu được tình hình thực tiễn điều gì là đúng, điều gì

là sai, để từ đó bản thân có suy nghĩ, thái độ và hành vi đúng đúng đắn sao cho phù

hợp chuẩn mực đạo đức mà xã hội công nhận.

PHẦN NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:

Hiện nay, đất nước đã trải qua chặng đầu tiên của tiến trình hội nhập quốc tế

với nhiều cam go vất vả và đã đạt được những thành tựu nhất định trong một số

lĩnh vực. Quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật đã đặt nước ta trước

những vận hội mới và thử thách mới, đó là để đưa đất nước đạt đến những yêu cầu

phát triển toàn diện, chúng ta phải có những con người phẩm chất đạo đức, có trình

độ, năng lực, trí tuệ để thực hiện thành công quá trình hội nhập. Để thực hiện được

điều đó thì cần phải có sự đóng góp của tất cả các ngành nghề trong xã hội và

ngành Giáo dục luôn giữ vị trí hàng đầu trong việc đào tạo con người xã hội chủ

nghĩa vừa hồng vừa chuyên.

Đối với học sinh phổ thông việc “ Gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn và kết

hợp giáo dục tư tưởng qua bộ môn” được thực hiện nhằm giáo dục cho học sinh

đạo đức, lối sống, rèn luyện hành vi tích cực và phù hợp mà không bị dư luận xã

hội phê phán. Xuất phát từ tầm quan trọng này, bản thân tôi từ lâu đã thực hiện đề

tài và mang lại hiệu quả đáng kể.

II.THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

- 4 -

Nhà trường phổ thông xã hội chủ nghĩa đào tạo những con người phát triển

toàn diện; có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có học vấn phổ thông vững chắc,

có những hiểu biết về kỹ thuật phổ thông và được trang bị để đi vào nghề nghiệp

một cách có ý thức, có sức khỏe, có óc thẩm mỹ. Môn GDCD trong trường phổ

thông cũng như tất cả các môn học khác là cung cấp kiến thức cho học sinh, hơn

thế nữa môn GDCD còn góp phần giáo dục đạo đức, lối sống, giúp hoàn thiện nhân

cách cho học sinh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở:

“ Có tài mà không có đức là người vô dụng

Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”

Thế nhưng thực tế môn GDCD chưa được đánh giá đúng vai trò, vị trí của nó, bị

xem nhẹ từ nhiều phía.

1.Thuận lợi:

- Học sinh trường THPT Trần Văn Bảy đa số đều cư trú trong khu vực phạm

vi huyện Thạnh Trị, điều kiện rất thuận lợi cho việc học tập. Đối với những em có

ý thức kỷ luật cao, có ý chí phấn đấu vươn lên nên thành tích học tập luôn đạt được

như ý muốn.

- Việc chủ động tiếp nhận các thông tin đa chiều của học sinh hiện nay rất tốt

nên cũng phần nào thuận lợi cho giáo viên khi đề cập những tình huống thực tế

ngoài xã hội...

2. Khó khăn

- Bên cạnh đó còn khá nhiều học sinh xem môn GDCD là môn phụ, không

cần thiết. Vì thế giáo viên giảng dạy môn GDCD luôn gặp phải thái độ lơ là trong

học tập của học sinh. Nhất là học sinh khối 12 các em chỉ quan tâm đến các kỳ thi

tốt nghiệp THPT hay thi đầu vào đại học, việc học môn GDCD như thế nào là phụ

thuộc rất lớn ở học sinh. Trong khi đó nội dung chương trình GDCD 12 gắn liền

với kiến thức pháp luật và cuộc sống. Ở độ tuổi sắp trưởng thành, bước vào cuộc

sống mới, các em cần phải biết mình được hưởng gì, được làm gì, phải làm gì và

- 5 -

không được làm gì. Đó là những quyền lợi, nghĩa vụ mà trách nhiệm mỗi công dân

phải biết và thực hiện đúng khi được sống trong một chế độ xã hội mọi quyền lợi

đều của dân, do dân và vì dân. Các em học môn GDCD rất qua lo, sơ sài nhưng yêu

cầu điểm số rất cao.

- Kết quả của xu thế hội nhập phát triển đã đáp ứng rất nhiều lợi ích chính

đáng cho những ai sống tốt, sống đẹp. Tuy nhiên những cách sinh hoạt, những hoạt

động vui chơi, giải trí không lành mạnh đã lôi kéo số ít học sinh chạy theo tư tưởng

sống ỷ lại, chủ quan, thích hưởng thụ, lười lao động, bỏ bê việc học tập. Việc giáo

dục tư tưởng cho học sinh đã khó lại càng khó hơn.

- Không chỉ dừng lại ở vấn đề học sinh không muốn học hoặc học không

nghiêm túc ở môn GDCD mà ngay cả gia đình và xã hội, luôn có cách nhìn phân

biệt đối với môn học này. Thực tế trước mắt môn GDCD không góp phần quyết

định kết quả tốt nghiệp, kết quả tuyển sinh vào các ngành nghề, về lâu dài xã hội

cũng rất cần những người có đức, có tài, gia đình cũng rất cần những người con

ngoan và chắc rằng một xã hội phát triển bền vững cần phải hạn chế những hành vi

sai trái xảy ra. Việc dạy và học môn GDCD thật sự chưa nhận được sự quan tâm

của gia đình và xã hội .

Từ những thực tế trên đã làm cho giáo viên môn GDCD gặp không ít khó

khăn trong công tác giảng dạy cho nên việc lựa chọn phương pháp dạy học hợp lí,

tạo nên sự hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh không phải là chuyện đơn

giản. Đồng hành cùng những người thực hiện giảng dạy môn GDCD rất mong

trong thời gian sắp tới, từ nhiều phía sẽ có cách nhìn thực tế và công bằng hơn giữa

các môn học. Để giáo viên dạy môn GDCD có điều kiện phấn đấu và hoàn thành

tốt nhiệm vụ của mình.

III. CÁC GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN:

Thứ nhất, giáo viên phải xác định rõ bài học có những yêu cầu gì, yêu cầu nào

là trọng tâm, xác định những nội dung cần truyền đạt, nội dung nào phù hợp với

phương pháp nào, từ đó mới xác định và xây dựng nội dung vận dụng cho hợp lí.

- 6 -

Thứ hai, cần định hướng cho học sinh cách học tập chủ động, giáo viên không

nên thuyết trình nhiều vì như vậy học sinh sẽ rất khó nhớ, mà phải thông qua các

tình huống nhất định, giáo viên có thể đưa ra tình huống và yêu cầu học sinh giải

quyết tình huống nhưng cũng cần hướng dẫn để các em không bị sa đà, lạc đề.

Thứ ba, xây dựng các câu hỏi khai thác từ tình huống thực tiễn để học sinh trả

lời. Nội dung câu hỏi cần hướng đến nội dung bài dạy một cách gần gũi và rõ ràng.

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:

1) Một số yêu cầu:

- Về phía Giáo viên:

+ Chuẩn bị nội dung cần vận dụng vào bài học và tình huống thực tiễn.

+ Thiết lập hệ thống câu hỏi, chuẩn bị các phương pháp dạy học khác và

phương tiện hỗ trợ.

+ Khi giải quyết vấn đề, học sinh sẽ hiểu và có những ý kiến trái chiều, do tiếp

nhận những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, do vậy, giáo viên phải có kiến

thức chắc chắn và bản lĩnh vững vàng, đồng thời lường trước được hướng trả lời

của học sinh để không mất thời gian tiết dạy và làm lệch trọng tâm bài học.

- Về phía HS:

+ Xem trước nội dung bài học SGK.

+ Rút ra nội dung bài học kinh nghiệm cho bản thân

+ Vận dụng và liên hệ được với thực tiễn xung quanh.

2)Thực hiện bài dạy có nội dung cần thực hiện đề tài:

Gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng học sinh,

ở đơn vị kiến thức công dân bình đẳng trong thực hiện quyền lao động, chủ yếu

là tôi sử dụng phương pháp liên hệ thực tế và kết hợp giáo dục tư tưởng qua bộ

- 7 -

môn, đồng thời kết hợp với một số phương pháp khác như: đàm thoại, diễn giảng,

nêu vấn đề, ứng dụng công nghệ thông tin.

HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS NỘI DUNG BÀI

Bài 4: QUYỀN BÌNH ĐẲNG

Chuyển ý: Các em vừa tìm hiểu thế nào là bình CỦA CÔNG DÂN TRONG

đẳng trong lao động và bình đẳng trong lao MỘT SỐ LĨNH VỰC ĐỜI

động được biểu hiện thông qua những nội dung SỐNG XÃ HỘI(T 2)

cơ bản nào? Các em sẽ tìm hiểu ở điểm b Nội

2. Bình đẳng trong lao

dung cơ bản của bình đẳng trong lao động.

động

a. Thế nào là bình đẳng

trong lao động

b. Nội dung cơ bản của bình

đẳng trong lao động

Chuyển ý tiếp: Mọi công dân sống hợp pháp,

có trang bị kiến thức nghề nghiệp. Họ đều được

đối xử bình đẳng trong thực hiện quyền lao

động. Thế nào là bình đẳng trong thực hiện

quyền lao động chúng ta sẽ trao đổi ở dấu * thứ

nhất Công dân bình đẳng trong thực hiện

quyền lao động. * Công dân bình đẳng trong

HĐ( 8 phút): Đặt vấn đề, phát vấn, diễn giảng, thực hiện quyền lao động.

ứng dụng công nghệ thông tin, liên hệ thực tế

kết hợp giáo dục tư tưởng

Mục tiêu: Nêu, hiểu được nội dung bình đẳng

trong thực hiện quyền lao động.

GV: Mọi công dân đều có quyền bình đẳng

trong thực hiện quyền lao động. Vậy em hiểu

thế nào là bình đẳng trong thực hiện quyền lao

- 8 -

động? - Công dân bình đẳng trong

HS: Trả lời thực hiện quyền lao động có

GV: Cho ví dụ về việc công dân đều có quyền nghĩa là, mọi người đều có

làm việc, tự do lựa chọn việc làm mà không bị quyền làm việc, tự do lựa chọn

phân biệt đối xử? việc làm và nghề nghiệp

HS: Trả lời. không bị phân biệt đối xử.

GV: Tất cả các em ngồi đây dù nam hay nữ,

thuộc bất cứ dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng,

thành phần xã hội nào đều được làm việc, tự do

lựa chọn việc làm thông qua báo chí, phát

thanh, truyền hình...... nếu như các em có khả

năng và sống hợp pháp.

GV: Quyền bình đẳng của công dân trong thực

hiện quyền lao động luôn được Nhà nước đảm

thông qua hệ thống pháp luật, cụ thể ở Khoản

1, Điều 5, Luật Lao động nước ta quy định:

“Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa

chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và

nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân

biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã

hội, tín ngưỡng, tôn giáo”.

GV: Qua hình ảnh người lao động xem thông

báo tuyển dụng ta thấy mọi công dân đều có cơ

hội tìm hiểu, tiếp cận với các thông tin về việc

làm mà không bị phân biệt đối xử.

GV: Không phân biệt đối xử trong thực hiện

quyền lao động có ý nghĩa như thế nào đối với

mỗi công dân?

- 9 -

HS: Trả lời

GV giáo dục tư tưởng: Không được phân biệt

đối xử trong thực hiện quyền lao động. Đây

không chỉ là trách nhiệm của công dân theo

quy định của pháp luật mà còn là yếu tố giúp

mỗi công dân không ngừng phát huy truyền

thống đoàn kết trong học tập, lao động và

trong cuộc sống cả dân tộc Việt Nam trong sự

nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Như

Bác Hồ của chúng ta đã từng dạy:

“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công”

GV: Trong đời sống xã hội có rất nhiều việc

làm và cũng có rất nhiều hình thức làm việc

khác nhau. Nhằm đảm bảo sức khỏe cho người

lao động Bộ luật Lao động nước ta quy định

người lao động muốn tìm việc làm thì cần phải

có những điều kiện nào?

HS: Trả lời.

GV: Theo em Luật Lao động quy định công

dân bao nhiêu tuổi thì có quyền tham gia lao - Người lao động nếu đủ tuổi

động và giao kết hợp đồng lao động? theo quy định của Bộ luật Lao

HS: Trả lời. động, có khả năng lao động và

GV liên hệ: - Điều 6 Bộ luật Lao động quy giao kết hợp đồng lao động

đều có quyền tìm việc làm cho định:

“ Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có mình.

khả năng lao động và giao kết hợp đồng lao

động”.

- 10 -

- Điều 120 Bộ luật Lao động quy định:

“Nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc,

học nghề, tập nghề thì việc nhận và sử dụng trẻ

em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha

mẹ hoặc người đỡ đầu”.

GV giáo dục tư tưởng: Mỗi một việc làm điều

gắn liền với một môi trường làm việc riêng.

Có những môi trường làm việc rất san trọng,

thoáng mát như: Ngân Hàng, Bưu Điện, Kho

Bạc...... Bên cạnh đó không ít môi trường làm

việc vất vả, cực khổ như: Bác nông dân trồng

lúa trên đồng, anh công nhân dưới hầm mỏ,

bác thợ xây nhà, chị công nhân quét dọn

đường phố..... Tuy môi trường làm việc có sự

khác biệt khá lớn nhưng tất cả họ đều là

những người lao động chân chính, hợp pháp.

Vì thế mỗi người chúng ta phải tôn trọng,

công bằng và bình đẳng.

GV: Luật Lao động không chỉ quy định độ tuổi

lao động mà đối với người lao động có trình độ

kỹ thuật cao thì pháp luật có những quy định - Người lao động có trình độ

ưu đãi gì cho họ? chuyên môn kỹ thuật cao được

HS: Trả lời. nhà nước và người sử dụng lao

GV: Những ưu đãi đối với người lao động có động tạo điều kiện để phát huy

trình độ chuyên môn kỹ thuật cao: tài năng.

- Học bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên

môn.

- Kiêm thêm việc, kiêm thêm chức, có thể

- 11 -

giao kết nhiều hợp đồng lao động.

- Tuổi về hưu: Ngoài chế độ hưu trí còn được

hưởng những quyền lợi đã thỏa thuận trong

hợp đồng lao động.

GV: Nhà nước và người sử dụng lao động có

những ưu đãi cho người lao động có trình độ

chuyên môn, kỹ thuật cao có bị coi là bất bình

đẳng không? Tại sao?

HS có thể trả lời: Không bị coi là bất bình đẳng

vì những sản phẩm họ tạo ra có lợi cho bản

thân và cống hiến cho xã hội nhiều hơn so với

những người lao động bình thường khác.

GV liên hệ kết hợp giáo dục tư tưởng

GV: Lao động có trình chuyên môn, kỹ thuật

cao là yếu tố có vai trò rất quan trọng đối với

một đất nước phát triển vững mạnh. Để trở

thành những người công dân hữu ích cho đất

nước, là những người lao động có trình độ

chuyên môn, kỹ thuật cao, có đạo đức nghề

nghiệp. Trong thời điểm này, còn ngồi trên ghế

nhà trường các em cần phải làm gì?

HS: Trả lời.

GV: Khi còn tham gia học tập ở các em phải

không ngừng phấn đấu học tập, trau dồi để

nâng cao trình độ, rèn luyện đạo đức. Trở thành

những người lao động có đức, có tài, xứng

đáng với niềm tự hào của dân tộc.

Kết luận: Công dân thuộc bất kỳ dân tộc nào,

- 12 -

tôn giáo nào, thành phần địa vị kinh tế, giới

tính nam hay nữ đều bình đẳng về lựa chọn

việc làm, bình đẳng về độ tuổi lao động, bình

đẳng trong việc hưởng chính sách ưu đãi đối

với những người lao động có trình độ chuyên

môn, kỹ thuật cao.

3/ Hiệu quả của đề tài:

- Học sinh nắm được kiến thức cơ bản của bài thông qua nội dung củng cố,

kết ý của giáo viên.

- Trên cơ sở gợi ý, phân tích các ví dụ có liên quan đến nội dung bài của giáo

viên học sinh có thể tự liên hệ thực tế cho một số nội dung bài học.

- Với phương pháp giáo viên liên hệ thực tế và học sinh tự liên hệ thực tế

trong giờ học đã giúp cho các em tích cực hơn trong học tập, phát huy được tính tư

duy của bản thân, không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng.

Do yêu cầu tự liên hệ thực tế trong giờ học là điều kiện để động viên cho

các em học sinh còn rụt rè, nhút nhát mạnh dạn hơn trong phát biểu, nêu được

những suy nghĩ, những nhận định của bản thân trước tập thể lớp.

Bảng thống kê kết quả thông qua việc vận dụng phương pháp “Gắn nội

dung giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng qua bô môn” ở hai

đối tượng học sinh khác nhau như sau:

Lớp 12A1 12A15

30 29 TS

Giỏi 29 96.7% 28 96.6%

3.3% 01 3.4% Khá 1

0 0% 0 0% TB

Bảng thống kê kê kết quả thông qua việc vận dụng phương pháp “Gắn nội

dung giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng qua bô môn”

- 13 -

Lớp 12A4 12A10

29 34 TS

23.5% Giỏi 11 37.9% 8

Khá 18 62.1% 25 73.5%

0 0% 01 3% TB

Bảng thống kê kết quả khi không vận dụng phương pháp “Gắn nội dung

giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng qua bô môn”

4/ Rút kinh nghiệm từ tiết dạy:

Trong quá trình giảng dạy gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp

giáo dục tư tưởng tôi đã nhận thấy những ưu điểm như sau:

Khi sử dụng phương pháp này đã giúp cho giáo viên tìm hiểu, nắm bắt một

lượng thông tin nhất định có liên quan đến nội dung giảng dạy từ đó giáo dục tư

tưởng đạt hiệu quả như mong muốn. Đây là cơ sở để giáo viên tự học, tự rèn, trau

dồi nâng cao trình độ chuyên môn.

Gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng qua bộ

môn là phương pháp tạo ra những điều kiện thuận tiện cho cho học sinh được nghĩ

đến những vấn đề đang diễn ra trong thực tế có liên quan đến bài học. Trên cơ sở

đó, học sinh được bộc lộ thái độ, ý kiến, cách làm riêng của mình hoặc so sánh, đối

chiếu với nội dung bài học để hiểu sâu sắc hơn điều cần học. Học sinh cũng có thể

so sánh, đối chiếu thái độ, hành vi của mình với nội dung bài học để củng cố những

mặt tốt, kịp thời sửa chữa sai lầm, khuyết điểm của bản thân.

Tuy nhiên khi gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn kết hợp giáo dục tư

tưởng cũng gặp phải một số hạn chế như sau:

Để nội dung bài dạy thật sự gắn vào thực tiễn và giáo dục tư tưởng đạt hiệu

quả cao đòi hỏi giáo viên phải mất nhiều thời gian, công sức tìm hiểu và lựa chọn

- 14 -

thông tin phù hợp với nội dung giảng dạy. Trong khi đó ở trường trung học phổ

thông bộ môn giáo dục công dân còn quá ít tài liệu tham khảo.

Không phải đơn vị kiến thức giảng dạy nào cũng dễ dàng liên hệ thực tế và

giáo dục tư tưởng mà còn phụ thuộc vào kiến thức của từng nội dung. Nếu giáo

viên lựa chọn thông tin liên hệ không phù hợp hoặc không đảm bảo tính vừa sức thì

học sinh sẽ không nắm bắt được nội dung bài học, rất dễ chán nản khi học bộ môn

này.

Do đó, gắn nội dung bài dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng qua

bộ môn, cần xem như một phương pháp dạy học và đặt trong toàn bộ các phương

pháp dạy học nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống đó. Mỗi phương

pháp dạy học đều có những ưu, khuyết điểm riêng của chúng. Khi áp dụng vào

giảng dạy cần phải phát huy tích cực những ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm

của mỗi phương pháp. Gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn góp phần xây dựng

tiết học sinh động nhưng chúng ta phải kết hợp nhịp nhàng với phương pháp truyền

thống nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng trong một tiết học GDCD.

- 15 -

PHẦN KẾT LUẬN

Trong quá trình giảng dạy môn GDCD, giáo viên luôn gặp phải những khó

khăn, thách thức của nghề nghiệp, đòi hỏi phải có sự kiên trì đầu tư của giáo viên.

Nhất là tình hình học sinh hiện nay với thái độ thờ ơ đối với việc học môn GDCD

làm cho tâm lý người dạy ngày càng nặng nề hơn. Để tiếp tục hoàn thành tốt công

tác, góp phần rất nhỏ vào sự nghiệp giáo dục chung của đất nước. Tôi thiết nghĩ,

mỗi giáo viên đều có sự lựa chọn, vận dụng phương pháp dạy học hợp lí, để đạt

hiệu quả tối ưu cho mỗi bài học, trên mỗi đối tượng học sinh.

Mỗi phương pháp và hình thức dạy học môn GDCD đều có mặt mạnh và hạn

chế riêng, phù hợp với từng loại bài riêng, từng đơn vị kiến thức của tiết dạy. Vì

vậy, không nên quá lạm dụng hoặc phủ định hoàn toàn một phương pháp hoặc một

hình thức dạy học nào. Điều quan trọng là cần lựa chọn, phối hợp các phương

pháp, các hình thức dạy học một cách hợp lý và kết hợp với việc sử dụng từ ngữ

khoa học, trong sáng nhằm tạo niềm tin cho học sinh khi tiếp nhận kiến thức.

“Gắn nội dung giảng dạy vào thực tiễn và kết hợp giáo dục tư tưởng qua

bộ môn” là một trong những phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn. Tuy

nhiên cách thức tổ chức như thế nào để phát huy tính tích cực của phương pháp này

thì đang là vấn đề cần được trao đổi. Mặc dù đã cố gắng nhiều, nhưng chắc rằng ý

kiến riêng của bản thân tôi còn có nhiều điều thiếu sót rất mong được sự chia sẻ,

giúp đỡ của quý thầy cô và đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được

hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cám ơn!

Thạnh Trị ngày 22 tháng 5 năm 2015

Người thực hiện

Nguyễn Mỹ Em

- 16 -