PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Lý do chọn đề tài: Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là tạo điều kiện trẻ được hoạt động, tìm hiểu về thiên nhiên, con vật, nhà trường, đất nước… Củng cố các khái niệm thu lượm được bằng con đường cảm thụ và cung cấp những hiểu biết thú vị về đời sống.

Tổ chức hướng dẫn cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là nhiệm vụ quan trọng ở trường mầm non. Đó là sự dẫn dắt mở cửa cho con người ngay từ những bước chập chững đầu tiên đi vào thế giới của các giá trị phong phú chứa đựng trong tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Sự tiếp xúc thường xuyên với tác phẩm văn học được chọn lọc sẽ phát triển ở trẻ ngôn ngữ, sự nhạy cảm thẩm mỹ, năng lực cảm thụ văn học những tố chất ban đầu của năng khiếu nghệ thuật. Tiếp xúc với tác phẩm văn học được tiếp xúc với vốn từ tiếng việt học cách phản ánh đúng, tích lũy vốn từ ngữ nghệ thuật, học những mẫu câu hoàn hảo sinh động, giàu sức biểu cảm. Qua đó trẻ yêu mến chân trọng tiếng nói. Văn học còn góp phần còn góp phần phát triển trí tuệ, tình cảm, đạo đức làm phong phú đời sống tinh thần cho trẻ, Những ấn tượng đẹp đẽ về những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học sẽ thúc đẩy ham muốn, sang tạo nghệ thuật của trẻ, những bài thơ, những câu truyện kẻ, tranh vẽ, mô hình mô phỏng chính là sự thể hiện thế giới bên trong, là nhu cầu tự thể hiện mình của trẻ. Cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học sẽ giúp trẻ phát triển kỹ năng lời nói trong các hoạt động đời sống, mở rộng hiểu biết của trẻ về những mối quan hệ con người làm cho trẻ cảm nhận vẻ đẹp của tình người, của thiên nhiên, của những hình tượng thẩm mỹ, giáo dục tâm hồn và xây dựng được thái độ đúng đắn của trẻ về thế giới xung quanh. Như chúng ta đã biết trẻ nhỏ được lớn lên trong vòng tay yêu thương của cha mẹ, qua những mẩu truyện ngắn hay bài thơ trẻ đã được giáo dục để hình thành nhân cách con người.

Là một người giáo viên hàng ngày trực tiếp chăm sóc giáo dục. Tôi nhận thức rõ mục tiêu của tác phẩm văn học là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một, Hình thành ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, Năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ ngăng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo xuất phát từ những vai trò cụ thể đó, cho nên hoạt động dạy trẻ làm quen văn học là môn học không thể thiếu trong chương trình Chăm sóc giáo dục trẻ trẻ vì vậy việc nâng cao chất luwongj dạy trẻ 5 – 6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học là vấn đề quan trọng trong đổi mới hình thức tổ chức GDMN.

Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp đứng lớp chăm sóc giáo dục các cháu 5 – 6 tuổi nên tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số hình thức nâng cao chất lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi làm quen với các tác phẩm văn học ” để nghiên cứu.

1.2. Mục đích nghiên cứu:

1

- Giáo viên giúp trẻ nhớ được một số bài thơ, câu truyện… biết cách đọc thơ,

kể truyện diễn cảm.

- Trẻ biết nghe, hiểu và cảm thụ được tác phẩm văn học. - Trẻ biết nhận xét, đánh giá các nhân vật trong tác phẩm văn học. 1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Qua việc nghiên cứu giúp trẻ phát triển trí tuệ, óc sáng tạo và đó cũng chính

là cánh cửa mở ra chân trời nhận thức cho trẻ.

- Hình thành ở trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ, phát triển trí tưởng tượng như: Lòng yêu thiên nhiên, lòng kính trọng yêu thương gần gũi và giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như (Ông, bà, bố, mẹ, cô giáo, anh, chị, em…), biết yêu cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác đọc, phê phán những việc xấu, Kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn… Giúp trẻ làm tái tạo và sáng tạo thêm những tình tiết của tác phẩm một cách hồn nhiên phù hợp với nội dung của tác phẩm. Đồng thời trẻ được thuộc thơ, kể lại được truyện vốn từ và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ, trẻ nói mạch lạc, nói diễn cảm, nói đầy đủ, nói đung từ và đúng ngữ pháp.

1.4. Đối tượng nghiên cứu: - Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. 1.5. Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp dùng lời. + Phương pháp đàm thoại. + Phương pháp trực quan. + Phương pháp thực hành. 1.6. Giới hạn về không gian nghiên cứu:

- Lớp 5 tuổi C Trường Mầm Non Định Trung – Thành Phố: Vĩnh Yên – Tỉnh: Vĩnh Phúc. 1.7. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:

Đề tài được nghiên cứu trong 8 tháng từ tháng 09 năm 2013 đến tháng 04 năm 2014. Đăng ký đề tài,tìm hiểu hiện trạng, nguyên nhân, áp dụng và hoàn thành sáng kiến .

PHẦN II: NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lý luận của đề tài: Như chúng ta đã biết làm quen văn học là tạo điều kiện cho trẻ phát triển

ngôn ngữ nhằm rèn luyện phát triển ở trẻ các kỹ năng nghe, nói… cần thiết để giao tiếp với mọi người xung quanh.

Việc cho trẻ làm quen với kỹ năng đọc, viết ban đầu để chuẩn bị cho trẻ vào lớp một nhằm phát triển ở trẻ sự hứng thú, say mê đọc thơ, đọc truyện… Nhằm rèn luyện sự chú ý, khả năng ghi nhớ có chủ định, phát triển vốn từ cho trẻ, dạy giúp trẻ biết diễn đạt rõ rang, mạch lạc. Nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của trẻ tạo

2

môi trường và cơ hội để trẻ hoạt động tích cực và chủ động để trẻ có thể tiếp nhận toàn diện và thích hợp từ nhận thức đến nhận xét đánh giá và cao hơn là biết cái hay, cái đẹp của tác phẩm, tạo cơ hội để trẻ nói ý của mình, thể hiện cảm xúc của mình, nghe ý của bạn, nghe ý của cô giáo giúp cho hiểu biết của trẻ phong phú hơn. Bằng cách ấy những hiểu biết của trẻ hòa quyện với cảm thụ tác phẩm văn học làm cho trẻ có nhu cầu nói, kể… sáng tạo tác phẩm.

Qua tác phẩm vui, giản dị, dễ hiểu, phù hợp với tâm lý trẻ thì hứng thú của trẻ sẽ được thỏa mãn, trẻ sẽ nhìn nhận cuộc sống rực rỡ, phong phú, mới lạ trẻ sẽ tạo ra sức để thích ứng với đòi hỏi của cô giáo trong khi làm quen với tác phẩm văn học giúp trẻ có khả năng phản ánh, mô tả cuộc sống đa dạng và độc đáo, tác phẩm bồi dưỡng tình cảm trong sang, lành mạnh đồng thời phải nâng cao nhận thức cho trẻ. Vậy cô giáo cần tạo cho trẻ có nhiều cơ hội được tiếp xúc và làm quen với các tác phẩm văn học như: Nghe cô kể truyện, đọc thơ, trẻ tự đóng kịch, xem phim hoạt hình, chơi các trò chơi…

Làm quen với tác phẩm văn học còn bao hàm cả công việc đọc kể diễn cảm: Cô là người đọc kể sử dụng sắc thái của mình và các phương tiện đọc kể biểu cảm khác nhau làm cho tác phẩm văn học cất tiếng nói tạo cho tác phẩm văn học một bức tranh âm thanh thích ứng giúp các em dễ hiểu nội dung, nhìn thấy được các hình tượng, các khung cảnh, các tình tiết và phát triển ngôn ngữ biểu cảm cho trẻ, giúp trẻ biết nhận, đánh giá và phán đoán tác phẩm.

Sức mạnh của tác phẩm văn học thật vô cùng to lớ. trong quá trình cho trẻ

tiếp xúc với tác phẩm bằng tài năng sư phạm cùng với nghệ thuật đọc và kể truyện văn học. Cô giáo ở trường Mầm Non sẽ hướng trẻ vào những vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật, tác phẩm gây ấn tượng đầu tiên cho trẻ về hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn ngữ dân tộc.

Dạy trẻ biết lắng mình với tác phẩm văn học hòa vào cõi mộng mơ, chau dồi

thói quen đón nhận được các hòa âm tinh tế thoáng qua bất chợt đến từ các nguồn sống khác, dạy trẻ tập chung rung động của mình chứ không phải người khác.

Tác phẩm văn học thể hiện, hiện thực cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật, bằng sức mạnh của tính hình tượng, sự biểu cảm của ngôn ngữ, những hình tượng con người, con vật… bức tranh thiên nhiên được vẽ nên bằng ngôn ngữ đã tác động mạnh mẽ đến trẻ.

Đối với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở giai đoạn này cảm nhận thẩm mỹ đã có một

bước phát triển trong tiếp nhận văn học, sự tiếp nhận tác phẩm đầy đủ, hoàn thiện hơn, biểu hiện trước tiên là sự hiểu biết những câu truyện cổ tích, bài thơ, những đoạn văn xuôi hay và sự làm giàu tình cảm qua quá trình tích lũy hình tượng nghệ thuật.

2.2. Thực trạng vấn đề: a. Khó khăn: - Lớp học 5 tuổi C tôi chủ nhiệm tiền thân là nhà kho của hợp tác xã đã xuống cấp, diện tích chật hẹp ảnh hưởng đến việc tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học.

3

- Một số trẻ chưa qua lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi nên còn nhút nhát, chậm chạp, bỡ ngỡ, thiếu tự tin khi tham gia vào các hoạt động nhất là môn học làm quen với tác phẩm văn học.

- Khả năng nhận thức của học sinh không đồng đều có cháu tiếp thu nhanh,

có cháu tiếp thu chậm.

- Qua kết quả điều tra trên trẻ khi chưa áp dụng các phương pháp, hình thức tổ chức trên thì tỷ lệ trẻ hào hứng tham gia vào hoạt động văn học của lớp tôi còn thấp.

+ 55% trẻ hào hứng tham gia vào các hoạt độngn văn học. + 50% trẻ thuộc thơ, truyện, ca dao, đồng dao.

b. Chuẩn bị:

Là một giáo viên được phân công phụ trách lớp 5 tuổi C bản thân tôi luôn nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, được trải nghiệm, cọ sát với thực tế, được học tập và đào tạo qua trường lớp, luôn tìm tòi học hỏi và rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Có giọng kể hay, truyền cảm, nắm chắc phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.

Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, sở giáo dục và đào tạoThành Phố Vĩnh Yên cũng như ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo sát sao về chuyên môn đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ.

- Lớp học được trang bị 01 máy tính qua đó khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, trẻ trực tiếp được quan sát các hình ảnh tĩnh, hình ảnh động, lắng nghe âm thanh và cảm nhận sâu hơn, hứng thú hơn với tác phẩm văn học.

- Trẻ mạnh dạn tự tin, hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động làm quen với văn học. - Phụ huynh luôn quan tâm chu đáo đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ tạo

điều kiện thuận lợi trong việc kết hợpgiaos dục giữa gia đình và nhà trường.

- Từ thực trạng trên tôi bắt đầu thực hiện việc nghiên cứu “Một số hình

thức cho trẻ làm quen với văn học” gồm có các hình thức sau:

- Hình thức cho trẻ làm quen với văn học qua các giờ hoạt động chung. - Hình thức cho trẻ làm quen với văn học qua các hoạt động khác. - Hình thức cho trẻ làm quen với văn học qua góc thư viện của bé. - Hình thức cho trẻ làm quen với văn học qua việc kể truyện sáng tạo. - Hình thức cho trẻ làm quen với văn học qua việc tuyên truyền với phụ

huynh. 2.3. Đề xuất biện pháp:

Muốn đại được kết quả cao trong việc nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo làm quen với các tác phẩm văn học thì trước hết cô giáo cần phải yêu văn học, say mê văn học, thích học hỏi, tìm tòi khám phá những cái hay cái đẹp trong tác phẩm văn học, giúp trẻ hiểu nội dung, giá trị của tác phẩm. Biết kết hợp giữa thực tế và những chi tiết hư cấu của tác phẩm phả có sự tác động qua lại giữa người truyền thụ và người tiếp thu. Đọc kỹ tác phẩm đó nghiên cứu để hiểu biết ý tứ của tác phẩm, hiểu được hàm ẩn của tác giả muốn gửi vào mỗi nội dung, suy nghĩ, tìm tòi

4

để chọn lựa tác phẩm lên lớp, chọn hình thức phù hợp nhất, dễ dàng giúp trẻ hiểu được những giá trị đích thực của tác phẩm.

Việc nghiên cứu và thử nghiệm các hình thức được diễn ra song song trọng suốt quá trình thực hiện đề tài. Các tác phẩm văn học cho trẻ làm quen trong hoạt động này thường nằm trong chương trình có nội dung phù hợp với chủ đề đang thực hiện. Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số hình thức đẻ nâng cao chất lượng cho trẻ 5 – 6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học đẻ làm giàu, củng cố vốn từ, hình thành việc phát âm, luyện phát âm đúng hình thành nhịp điệu của ngôn để phát huy tác dụng nhiều mặt đến việc giáo dục trẻ, trong quá trình cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học cô giáo cần tạo cho trẻ yêu thích khám phá lời hay, ý đẹp, hứng thú khi tiếp nhận các bài thơ, câu chuyện… vì vậy muố tạo cho trẻ long yêu thích văn học dự trên cơ sở hình thức mới phát huy tính tích cực để phát triển ngôn ngữ cho trẻ như sau:

2.3.1. Hình thức cho trẻ làm quen với văn học qua các giờ hoạt động chung: * Giờ học cho trẻ làm quen với văn học: Đây là hình thức cơ bản cho trẻ làm quen với văn học. Các tác phẩm văn học cho trẻ làm quen trong hoạt động này thường nằm trong chương trình, có nội dung phù hợp với chủ đề đang thực hiện. Thời gian của hoạt động này thường không nhiều; khoảng từ 25 đến 30 phút có thể kéo dài thêm 5 phút. Vì vậy trong giờ hoạt động này tôi sử dụng rất nhiều hình thức khác nhau đề gây hứng thú cho trẻ giúp trẻ nhanh chóng hiểu nội dung truyện, nhớ truyện, thuộc thơ và đọc kể diễn cảm. Trong hoạt động này hình thức sử dụng đồ dùng trực quan rất có hiệu quả. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, mô hình, sa bàn, rối que, rối bóng, trang phục, sân khấu, băng dài...

- Đồ dùng trực quan dùng để giới thiệu bài: VD1: Truyện “Hai anh em gà con” - Chủ đề “Gia đình”, tôi lựa chọn hình

thức sử dụng hình ảnh minh hoạ.

- Chuẩn bị slide hình ảnh gà, vịt tĩnh và động. Giới thiệu với trẻ “Xin chào các bạn, các bạn hãy lắng nghe và đoán xem tôi là ai nhé ! “ Mẹ ơi! Vịt con vừa ăn bánh mỳ với chúng con. Mẹ hãy nói đi con chia cho Vịt ăn cùng có được không? ”

+ Vậy đố các bạn tớ là ai? VD2: Truyện “Chú dê đen” - Chủ đề “Động vật”, sử dụng hình thức rối tay

để giới thiệu truyện:

Tay trái của cô là rối chó sói, tay phải là rối dê trắng cô nói giọng chó sói và cử động tay trái phù hợp với ngữ điệu kể: “Dê kí mày đi đâu?; + Trên đầu mày có gì? ; + Dưới chân mày có gì? ; + Bây giờ mày hãy trả lời tao trái tim mày thế nào?…

- Các con hãy đoán xem đó là câu nói của nhân vật nào? ở trong câu truyện

gì?

Ở câu truyện “Hai anh em gà con” tôi sử dụng hình thức đó vì con Gà, con Vịt là những con vật nuôi trong gia đình rất gần gũi với trẻ nên rất dễ dàng nhận ra đó là Gà con và từ đó cô dẫn dắt để bước vào kể câu truyện “Hai anh em gà con”.

5

Còn truyện “Chú Dê đem” tôi đã cho trẻ làm quen hoạt động khác từ hôm trước nên trẻ đã nắm được nội dung câu truyện. Vì vậy tôi đã sử dụng chính những nhân vật trong truyện và kể trích một câu nói của Dê đen để hỏi trẻ về tên nhân vật và tên truyện từ đó dẫn dắt để kể lại truyện giúp trẻ thuộc truyện. Sau giờ hoạt động chung này trẻ đã thuộc truyện cô đã tổ chức cho trẻ tập đóng kịch và hình thức sử dụng đồ dùng trực quan trong hoạt động này là mũ, trang phục và sân khấu. Việc thay đổi hình thức khi cho trẻ làm quen cùng một tác phẩm văn học đã đem lại kết quả cao cho cô và trẻ.

- Đồ dùng trực quan còn là hình thức sử dụng để giảng giải từ khó trong nội dung tác phẩm: thường mỗi bài thơ, câu truyện lại đem đến cho trẻ một vài từ mới và cô sẽ giải thích cho trẻ để trẻ hiểu ý nghĩa của từ mới đó.

VD1: Thơ “Hoa cúc vàng” - Chủ đề “Tết và mùa xuân” Trong bài thơ này có từ “Gom nắng vàng” trong câu thơ: “Cúc gom nắng vàng vào trong lá biếc” Tôi đã để một số đồ dung, đồ chơi trên bàn khi đọc đến câu thơ “Cúc gom nắng vàng” đồng thời dung tay gom đồ dung, đồ chơi lại một chỗ tôi làm với trẻ “Gom nắng vàng” giống như cô và các con hay gom đồ dung, đồ chơi hang ngày.

VD2: Truyện “Truyện sự tích bánh chưng, bánh dày” - Chủ đề “Tết và mùa xuân” sử dụng đồ dùng trực quan là sa bàn và rối. Mở đầu câu truyện là: “Ngày xưa, ở nước ta, trong số các con của vua Hùng Vuwong thứ sáu có một người con tên là Lang Liêu. Các hoàng tử khác đều văn hay, võ giỏi, nhưng lại không thích lao động chân lấm tay bùn chỉ riêng có hoàng tử Lang Lieu là chăm chỉ thích nghề trồng trọt. Chàng đem vợ con về quê vỡ nương, cuốc bãi cùng bà con nông dân trồng lúa gạo, hoa màu.

Cô giải thích từ “Vỡ nương” bằng cách chỉ vào hình ảnh nơi đất hoang chưa có ai khai phá. Cô nói: “Vỡ nương” là làm những khu đất chưa có người tròng hoa màu. Như vậy, đồ dùng trực quan sẽ giúp cô giảng giải được từ đó còn trẻ thì hiểu được từ khó đó.

- Cuối cùng, đồ dùng trực quan còn là hình thức để trẻ kể lại tác phẩm: Khi tiến hành dạy trẻ kể lại chuyện sẽ có rất nhiều hình thức: kể theo cô, kể toàn bộ câu chuyện kể theo vai... Hình thức kể chuyện theo tranh được trẻ thích thú.

VD: Truyện “Sự tích cây vú sữa: - Chủ đề “Thế giới thực vật” + Tranh 1: Cậu bé đang ham chơi thả diều, người mẹ đang ngồi buồn chờ

con.

+ Tranh 2: Cậu bé đang đói rét và mẹ bê nòi coam. + Tranh 3: Ngôi nhà và cậu bé đang quỳ duwois gốc cây. + Tranh 4: Cậu bé đang ăn quả vú sữa. Lần 1 cô treo tranh theo thứ tự từ đầu đến cuối lên bảng. Trẻ nhìn tranh chỉ

vào hình ảnh trong tranh và kể tương ứng với nội dung trong tranh.

Lần 2 cô thay đổi trình tự các bức tranh, trẻ kể từ đầu đến cuối câu chuyện nhưng phải chỉ vào đúng bức tranh tương ứng sau đó sắp xếp lại cho đúng trình tự các bức tranh rồi kể lại.

6

Hình thức kể lại truyện theo tranh rất có hiệu quả vì khi trẻ nhìn vào các bức tranh trẻ sẽ hình dung ra diễn biến câu chuyện một cách đầy đủ từ đó có thể kể lại truyện mà không bị nhầm lẫn.

Qua những ví dụ minh hoạ ở trên, tôi thấy hình thức sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ hoạt động cho trẻ làm quen với văn học là hình thức rất cơ bản giúp giáo viên đạt được mục đích của giờ hoạt động. Ngoài ra tuỳ theo nội dung của từng tác phẩm mà giáo viên có thể lựa chọn hình thức tổ chức giờ hoạt động ở những địa điểm thích hợp, nhằm tạo cho trẻ một tâm trạng thoải mái, gần gũi với cuộc sống thực.

Ví dụ: Dạy các tác phẩm có nội dung nói về thiên nhiên tươi đẹp như bài “Hoa cúc vàng”, “Ngôi nhà” cô giáo có thể tổ chức tiết học ở ngoài vườn trường, ngoài sân trường, Còn những tác phẩm có nội dung trang nghiêm như nói về lãnh tụ, tổ quốc cô nên tổ chức tiết học ở trong lớp, cho trẻ ngồi ghế... như thơ “Ảnh Bác”.

Cùng với các loại hình nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc,đóng kịch cũng

là một loại hình nghệ thuật được trẻ em rất yêu thích, nó có ý nghĩa giáo dục toàn diện cho trẻ, trẻ không chỉ biến thành người lớn mà còn phải hóa thân thành các nhân vật với nội tâm phong phú, phức tạp với những cá tính khác biệt vừa là hành động thực tê vừa là ảo. Để đóng được vai này trẻ phải trải qua quá trình lao động nghệ thuật như người nghệ sĩ.

Kết quả của trò chơi đóng kịch có một ý nghĩa quan trọng chính những yêu

cầu đặt ra trong xuốt quá trình đòi hỏi trẻ phải phát huy cao độ sự hoạt động của các chức năng tâm lý như: Ngôn ngữ, biểu tượng, trí nhớ, tư duy…, như vậy trò chơi tác động với trẻ trên một bình diện rất rộng, nó giúp trẻ tích lũy kinh nghiệm sống qua trải nghiệm các nhiệm vụ trong tác phẩm, nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển ngôn ngữ và phát triển xúc cảm, tình cảm thẩm mỹ. Qua trò chơi đóng kịch trẻ lĩnh hội được ngôn ngữ giàu hình ảnh, học được giọng nói diễn cảm, rõ rang, các biểu tượng thẩm mỹ và óc sang tạo trong giáo dục thẩm mỹ. Việc phát triển trí tưởng tượng cho các em chiếm một vị trí đặc biệt. Trí tưởng tượng là một tiền đề căn bản của giáo dục nghệ thuật, không có trí tưởng tượng của trẻ sẽ ít thấy tác động của nghệ thuật một lĩnh vực có khả năng ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành đời sống nội tâm của con người. Trẻ sẽ học được ở đó long dũng cảm, tính trung thực, tình yêu quê hương đất nước, yêu những điều thiện, bênh vực kẻ yếu, lên án những cái sấu. cái ác… Đặc biệt trò chơi đóng kịch đã phát triển ở trẻ tính tích cực cá nhân, tính độc lập sang tạo. Trước tiên cô giáo phải cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học mà trẻ được đóng kịch tạo cảm giác thoải mái, tinh than tập thể hòa đồng với bạn bè cũng là hình thức phát triển ngôn ngữ, phát triển trí nhớ nhằm khắc sâu tác phẩm văn học cho trẻ, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, con vật trong nội dung câu truyện đồng thời giúp trẻ thể hiện tình cảm, sắc thái, ngữ điệu… Khi dạy trẻ đóng kịch cô giáo phải hướng dẫn và cùng làm với trẻ về cách hóa trang và bố trí sân khấu.

7

Ví dụ: Trong truyện “Chú Dê Đen” cho trẻ đàm thoại về nội dung câu

chuyện:

+ Trong truyện có những nhân vật nào? + Dê trắng là nhân vật có tính cách như thế nào? + Dê đen là nhân vật có tính cách như thế nào? + Chó sái là nhân vật như thế nào? + Vì sao Dê trắng lại bị chó Sói ăn thịt? + Dê đen có bị chó Sói ăn thịt không? ; + Vì sao?

Cho trẻ chọn vai mình thích cô giáo giúp trẻ tận dụng cảnh sân khấu, cô làm

người dẫn truyện hoặc một trẻ khác làm người dẫn truyện.

Cô hướng dẫn cho trẻ vào vai với hình thức này trẻ rất thích học và đạt kết

quả cao.

* Các giờ hoạt động chung khác: Với phương pháp dạy tích hợp, nhiều nội dung được lồng nghép trong 1 giờ hoạt động chung. Việc vận dụng một số phương pháp, hình thức dạy truyền thống và kết hợp phương pháp giáo dục mầm non mới để phát huy tính tích cực của trẻ nhằm giúp trẻ cảm thụ văn học và cảm xúc của mình. Cho trẻ làm quen với văn học không chỉ được tiến hành trong giờ thơ, truyện mà nó còn được dạy thông qua các giờ hoạt động chung khác như tạo hình, âm nhạc, tìm hiểu môi trường xung quanh… giáo viên có thể củng cố hoặc mở rộng kiến thức về văn học cho trẻ. ở những hoạt động chung này, các tác phẩm văn học sẽ đến với trẻ qua hình thức giới thiệu bài hoặc củng cố bài.

VD1: Khi cho trẻ vẽ về thế giới thực vật đề tài theo ý thích ở giờ tạo hình cô có thể cho trẻ đọc bài thơ “Bó hoa tặng cô” để giới thiệu bài và gây hứng thú cũng như để gợi ý đề tài cho trẻ.

VD2: hay ở giờ âm nhạc khi dạy trẻ hát bài “Cô giáo miền xuôi”, cuối tiết học cô cùng trẻ có thể đọc bài thơ “Bàn tay cô giáo”, hay với bài hát “Bà thương em” cô có thể đọc cho trẻ nghe bài thơ “Giữa vùng gió thơm”,

VD3: Còn ở giờ cho trẻ tìm hiểu về môi trường xung quanh trong giờ cho trẻ “Trò chuyện, tìm hiểu về một số loài hoa” – Chủ đề “Thực vật” ở phần giáo dục cô có thể đọc cho trẻ nghe bài thơ “Hoa kết trái!”, hay giờ “Trò chuyện về gia đình của bé” – Chủ đề gia đình cô đọc bài thơ “Giữa vòng gió thơm” để giáo dục trẻ phải biết hiếu thảo, lễ phép với ông bà, cha mẹ, ngoài ra cô có thể thay bằng bài thơ khác: “Lấy tăm cho bà”, “Mẹ và cô”, “M ẹ và con”. Hoặc trong giờ “Trò chuyện về một số ngành nghề”, đối với nghề giáo viên cô đọc cho bài thơ “Chiếc cầu mới” hay bài thơ “Ước mơ của tý” có thể giới thiệu cho trẻ rất nhiều nghề: Thợ nề, thợ mỏ, thợ hàn, thầy thuốc, cô nuôi. Còn giờ “Cho trẻ làm quen với một số luật lệ giao thông”. Khi kết thúc hoạt động cô đọc cho trẻ nghe bài thơ “ Giúp bà” ở giờ “Trò chuyện về một số con vật nuôi trong gia đình” cô cho trẻ đọc bài thơ “Mèo đi câu cá”. Như vậy, cho trẻ làm quen với văn học qua các giờ hoạt động chung là hình thức rất cơ bản để giúp trẻ đạt được những kĩ năng cần thiết khi bước lớp một.

2.3.2. Hình thức cho trẻ làm quen với văn học qua các hoạt động ngoài

giờ:

8

Với trẻ mầm non, hoạt động chung chiếm một thời gian rất ngắn so với thời gian của các hoạt động khác. Do đó tôi đã tận dụng thời gian đón trẻ, trả trẻ, hoạt động ngoài trời, hoạt động vui chơi hay trong hoạt động chuyển tiếp để giới thiệu hay ôn luyện các bài thơ, bài đồng dao, câu truyện. Hình thức cho trẻ ôn tập là đọc hoặc kể lại tác phẩm cho trẻ nghe, sau đó cho trẻ đọc hoặc kể lại, giáo viên theo dõi, sửa sai cho trẻ để trẻ thể hiện đúng, diễn cảm. Muốn cho việc ôn luyện của trẻ hấp dẫn, trẻ hứng thú tham gia, giáo viên nên tổ chức ôn luyện dưới hình thức trò chơi: đoán tên, đóng kịch hay thi biểu diễn giữa các cá nhân, các tổ theo những đề tài khác nhau như “Cháu hãy đọc các bài thơ viết về Bác Hồ”, “Cháu hãy đọc những bài thơ viết về các loài hoa…”, hai tổ thi đua đọc các bài thơ viết về những người thân trong gia đình hay về trường lớp mẫu giáo của bé. Một hình thức cũng khá hấp dẫn là cho trẻ làm quen với văn học theo các chủ đề gắn liền với việc tổ chức các ngày hội, ngày lễ: ngày 8/3, 1/6, 20/11, 22/12, tết nguyên đán… Cô giáo tổ chức cho các cháu trong lớp, trong các buổi liên hoan văn nghệ, trong đó có thể kể truyện, đọc thơ, đóng kịch các tác phẩm văn học. Hình thức này thu hút được nhiều trẻ tham gia luyện tập, biểu diễn. Nó có tác dụng động viên, cổ vũ cho các cháu khá giỏi, đồng thời cũng khuyến khích các cháu yếu, nhút nhát tham gia vào các hoạt động nghệ thuật. Để việc tổ chức các ngày hội, ngày lễ có kết quả, cô giáo cần có kế hoạch luyện tập trước cho trẻ, không nên để sát ngày tổ chức mới bắt trẻ luyện tập liên tục khiến trẻ mệt mỏi, chán nản. Sau một thời gian luyện tập cho tất cả trong lớp, giáo viên lựa chọn một số cháu có khả năng hơn cho luyện tập thêm để tiến hành biểu diễn cho cả lớp xem hoặc thi diễn giữa các lớp trong trường. Và tôi đã áp dụng hình thức này khi dạy trẻ đóng “Chú dê đen”, tiết mục này của cô cháu lớp tôi sau khi thi với các lớp khác trong khối đã được chọn để biểu diễn trong dịp tổng kết năm học cùng các anh chị lớp lớn và các em mẫu giáo bé.

2.3.3. Hình thức cho trẻ làm quen với văn học qua góc thư viện: Theo hình thức đổi mới và giáo dục mầm non mới trong lớp tôi đã xây dựng

được góc thư viện phù hợp theo từng chủ đề, góc thư viện có đủ ánh sáng, có kê bàn, có các loại truyện tranh, sách tranh cho trẻ và cô cùng làm. ở những thời gian ngoài giờ hoạt động chung, cô giáo gợi ý để các cháu tự lấy truyện tranh ra kể lại cho nhau nghe. Đối với những truyện tranh mới, cô giáo tổ chức kể cho từng nhóm trẻ nghe vào các thời điểm khác nhau. Lúc đầu, cô để cho trẻ tự tìm hiểu nội dung của các hình ảnh trong truyện tranh, sau đó cô dùng câu hỏi gợi ý để hướng sự chú ý của trẻ vào những hình ảnh chủ yếu của bức tranh, rồi dọc đoạn truyện dưới tranh. Đọc xong truyện lại cho trẻ xem tranh một lần nữa. Với những truyện tranh trẻ đã được làm quen nhiều lần cô có thể đề nghị lần lượt các trẻ kể lại nội dung của từng bức tranh. Ngoài ra cô có thể kích thích phát triển tư duy cho trẻ bằng cách kể chuyện sáng tạo theo tranh. Sau mỗi tiết học trẻ được tái tạo củng cố lại kiến thức đã học cảm nhận của trẻ qua các góc chơi, ngay từ đầu tôi đã sưu tầm tranh ảnh phù hợp với chương trình để trưng bày ở góc thư viện các loại trenh ảnh tạp chí, các loại đồ chơi bằng nhựa, các loại rối que, rối bong… và sưu tầm vải vụn có màu sắc đẹp để khâu các con rối theo nội dung bài thơ, câu truyện, hay tranh ảnh vẽ có nộ

9

dung phù hợp với nội dung bài thơ, câu truyện tạo nên góc thư viện đa dạng và phong phú, sau khi học môn làm quen văn học tôi đưa trẻ vào chơi góc thư viện tôi cho trẻ lật sách xem các hình ảnh trong truyện và kể lại truyện theo tranh… Từ đó cho trẻ biết tự lấy sách, tranh truyện ra xem và gọi tên từng nhân vật trong truyện. Cứ thế văn học sẽ đến với trẻ hằng ngày để củng cố, khắc sâu những gì mà trẻ đã được học.

Góc văn học thực sự sẽ thu hút trẻ, giúp trẻ tiếp xúc với văn học một cách tự giác nếu cô giáo thường xuyên thay đổi các loại truyện mới, tranh mới phù hợp với chủ đề đang thực hiện kết hợp với việc cùng trẻ làm sách, tranh theo chủ đề. Hình thức này giúp trẻ rất thoải mái khi làm quen với các tác phẩm văn học, trẻ hứng thú với sách truyện, kích thích tư duy của trẻ nhằm hình thành những kỹ năng giúp trẻ học đọc sau này.

2.3.4. Hình thức cho trẻ làm quen với văn học qua việc kế truyện sáng

tạo:

Hình thức này rất có tác dụng kích thích tư duy của trẻ đồng thời cũng giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, phát triển năng lực tri giác cụ thể xuất phát từ một sự việc hiện tượng diễn ra xung quanh trẻ hay một chuyện bất chợt xảy ra, cũng có thể là chuyện bịa cô gợi ý, khuyến khích trẻ kể lại sự việc hay câu chuyện đó theo cách trình bày của một tác phẩm văn học hay sử dụng cách nói vần những câu nói ngắn để tạo thành bài thơ ngắn.

VD1: Trẻ bất chợt khoe với cô hôm chủ nhật được bố mẹ cho đi chơi công

viên xem các con thú và trẻ tỏ ra rất thích. Từ đó cô gợi mở, đặt các câu hỏi cho trẻ trẩ lời về tiến trình của buổi đi chơi, những cảm nhận của trẻ khi nhìn thấy các con vật trong công viên, cho trẻ tả đặc điểm nổi bật của các con vật mà trẻ thích. Sau đó cô giúp trẻ liên kết các diễn biến đó lại để kể thành một câu chuyện, cho trẻ đặt tên câu chuyện của mình.

VD2: Qua một sự việc có thật cô dựng thành một câu chuyện để kể cho trẻ nghe: Cô thấy 1 bạn trong lớp mình mặc một chiếc áo mới cô liền kể cho trẻ nghe câu chuyện “Chiếc áo mới”, trong đó có nêu tên và đặc điểm của bạn đó cũng như của chiếc áo mới để trẻ nhận ra đó là câu chuyện kể về bạn “Hôm qua Linh cùng mẹ đi siêu thị để mua hàng. Trong siêu thị có rất nhiều thứ: đồ chơi, bánh kẹo, hoa quả, thực phẩm, đồ dùng trong gia đình và nhiều thứ khác nữa. Khi đến chỗ bán quần áo trẻ em, mẹ lật từng chiếc áo ra xem rồi chọn một chiếc áo phông màu hồng hay màu… rất đẹp đưa cho Linh và hỏi “con có thích chiếc áo này không”. Linh thích quá liền reo lên “con thích mẹ ạ!”. Mẹ cho Linh mặc thử thấy rất vừa, mẹ bảo “Mẹ sẽ mua chiếc áo này cho con, con hãy để mẹ cởi chiếc áo này ra và trả tiền cho cô bán hàng đã nhé!. Vì thích chiếc áo mới quá Linh không cho mẹ cởi, cô bán hàng liền gọi Linh đến và bảo “Cháu đã chơi trò chơi bán hàng bao giờ chưa?”. Linh liền trả lời rất lễ phép “Thưa cô, cháu đã chơi trò chơi bán hàng ở lớp rồi ạ!”. Cô bán hàng nói tiếp “Cháu ngoan quá, thể cháu biết phải trả tiền sau khi mua hàng không ? ”. “Có ạ! Linh trả lời rất to làm cho mấy bác mua hàng ở đấy đều quay lại nhìn. Linh xấu hổ quá, liền lấy tay che miệng. Cô bán hàng mỉm cười

10

với Linh rồi nói “Thế bây giờ cháu có đồng ý cởi áo ra cho mẹ xem giá tiền rồi trả tiền cho cô không ? – “Có ạ!”, Linh nói chỉ đủ cho mẹ và cô bán hàng nghe thấy. Quay sang mẹ, Linh bảo “Mẹ ơi, ở chỗ đông người không nên chạy nhảy, nói to mẹ nhỉ”. Mẹ xoa đầu Linh rồi trả tiền cho cô bán hàng. Hôm sau Linh mặc chiếc áo mới đến lớp, cô và các bạn đều khen Linh mặc chiếc áo phông màu hồng trông rất đẹp. Cô giáo dặn Linh phải giữ chiếc áo luôn sạch sẽ để luôn là chiếc áo mới.” Đây là một hình thức mới, việc thử nghiệm còn chưa đồng đều, hình thức này sẽ còn tiếp tục được nghiên cứu trong thời gian tiếp theo.

2.3.5. Hình thức dùng thủ thuật rèn luyện lời nói: Việc cho trẻ làm quen với văn học qua tuyên truyền với phụ huynh: Hình thức này tôi đã thực hiện bằng cách in những tờ rơi các bài thơ, câu truyện để trong góc “Cha mẹ cần biết” để cha mẹ cùng phối hợp với các cô giúp trẻ ôn luyện khi ở nhà.

Những bài thơ, câu truyện này được thay đổi theo chủ đề và được in thành nhiều bản để nhiều phụ huynh được biết và để hình thức này có hiệu quả, tôi đã giới thiệu cho họ trong buổi họp phụ huynh đầu năm, phối hợp cùng ban đại diện phụ huynh lớp đánh máy các bài thơ, câu truyện trong mỗi chủ đề để rồi phô tô thành nhiều bản và phụ huynh các cháu có thể lấy mang về để đọc, kể cho trẻ nghe. Ngoài ra tôi còn viết báo cáo và trực tiếp trao đổi với bố mẹ trẻ tích cực tham gia sáng tác, sưu tầm thơ, truyện để hưởng ứng cuộc thi “Bé mầm non với văn học”, động viên trẻ cùng bố mẹ tham gia cuộc thi này.

Qua việc tuyên truyền này, nhiều phụ huynh đã tích cực tham gia hàng ngày, khi có những bài thơ, câu truyện mới được gửi đến, tôi lại đọc cho trẻ nghe, tuyên dương khích lệ trẻ để trẻ hứng thú với việc cùng bố mẹ sáng tác, sưu tầm thơ, truyện.

Sau quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi thấy trẻ lớp tôi rất thích

nghe kể truyện, đọc thơ, biết đọc thơ diễn cảm, thuộc nhiều truyện và kể rất hay.

Để thấy rõ kết quả này tôi đã lập biểu bảng so sánh để khảo sát trẻ trong tong

giai đoạn: Kỹ năng “Đọc, nói họ và tên trẻ nghe.

Với trẻ trên từng tiết dạy tôi luôn dùng các thủ thuật gây hứng thú khác nhau để dẫn dắt vào bài hay khi chuyển tiếp hoạt động một cách linh hoạt. Ví dụ: Cho trẻ đọc bài thơ “Mèo đi câu cá ” tôi cho trẻ hát bài “Gà trống mèo con và cún con”… * Hỏi trẻ: + Các con vừa hát bài hát nói về những con gì?

+ Những con vật này sống ở đâu?…, cô giới thiệu tên bài thơ và đọc diễn cảm cho trẻ nghe lần một, sau đó cô đọc cho trẻ nghe lần hai sử dụng slide các hình ảnh minh họa nội dung bài thơ,

2.4 Kết quả thực hiện: Sau quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, qua các tiết dạy trực tiếp trên lớp, trẻ lớp tôi rất hào hứng tham gia hoạt động học tập, trẻ rất thích nghe kể truyện, đọc thơ, biết đọc thơ diễn cảm, thuộc nhiều truyện và kể rất hay, Ngôn ngữ của trẻ rõ rang, mạch lạc hơn, trẻ hứng thú tham gia đóng kịch các nhân vật trong truyện, tự tin mạnh dạn hơn nhiều so với trước đây. Việc hình thành ở trẻ khả năng

11

cảm thụ văn học, trẻ đã bộc lộ cảm xúc của mình khi nghe đọc thơ, kể truyện, diễn kịch… cho mọi người cùng nghe và xem. Qu đó hình thành ở trẻ lòng yêu thiên ,gia đình, yêu quê hương, đất nước, yêu ông bà, bố mẹ, yêu cảnh vật gần gũi xung quanh trẻ, yêu những việc làm tốt, biết phê phán những việc làm xấu.

Để thấy rõ kế kết quả này tôi đã lập biểu bảng so sánh để khảo sát trong tổng

giai đoạn:

* Đối với trẻ:

Kết quả Số lượng trẻ Sauk hi áp dụng

Trước khi áp dụng hình thức đổi mơi 50% - 60% 50& - 55% 50% - 60% 80% - 90% 80% - 95% 80% - 09% 28 28 28

Nghe – Đọc diễn cảm Thuộc nhiều, nhanh Phát triển ngôn ngữ, diễn đạt tốt

Qua việc khảo sát trong hai lần, lần 1 vào tháng 10, lần 2 vào tháng 4 đã cho

thấy tỉ lệ đạt khá, tốt cao.

Trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động làm quen với văn học nhanh thuộc truyện, thuộc thơ, biết đọc kể diễn cảm, kỹ năng giao tiếp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc có nhiều tiến bộ. Nhiều cháu có năng khiếu như các cháu:

2. Hoàng Thu Thủy 4. Nguyễn Đình Đức 6. Hoàng Minh Hiếu 8. Nguyễn Bá Minh,…

1. Hoàng Gia Hiệp 3. Sái Trà My 5. Hoàng Đức Minh 7. Lê Bảo Ngọc * Đối với cha mẹ trẻ: Nhiều phụ huynh đã tích cực phối hợp với giáo viên trong việc cho trẻ làm quen với văn học và chữ viết bằng việc sử dụng các tờ rơi để ôn luyện, cùng cố cho trẻ, tích cực hưởng ứng sáng tác và sưu tầm thơ truyện.

* Đối với giáo viên: Qua việc thực hiện đề tài này, kết quả trên trẻ cho thấy hiệu quả của việc thay đổi, vận dụng một số hình thức cho trẻ làm quen với văn học là rất cần thiết và không thể thiếu trong quá trình tổ chức hoạt động của cô và trẻ.

Tôi thấy việc thực hiện đề tài này không chỉ phù hợp với lớp tôi mà còn có thể triển khai ở các lớp mẫu giáo nhỡ, mẫu giáo bé… khác nói riêng cũng như lứa tuổi mẫu giáo lớn nói chung và có thể tiếp tục thực hiện trong những năm sau.

Việc nghiên cứu đề tài này đã giúp tôi dễ dàng trong việc thực hiện các yêu cầu kỹ năng cần đạt trong độ tuổi của trẻ, tạo cho trẻ niềm vui, sự hứng thú khi tham gia các hoạt động cũng như tạo sự gần gũi, yêu thương giữa cô và trẻ.

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận:

12

Tóm lại, sau tám tháng nghiên cứu và thử nghiệm đề tài, tôi thấy việc nâng cao một số hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một vấn đề hết sức quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học rất phong phú, đa dạng sẽ giúp trẻ phát triển về mọi mặt như: ( Nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội… ), nhằm quyết định đến sự thành công của giáo viên khi tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với văn học đồng thời giáo viên cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm sau mỗi lần tổ chức những hoạt động đó và trong những năm sau, khi tiếp tục thực hiện đề tài này, kết quả trên trẻ cũng như mục đích của các hoạt động đã đạt tốt hơn.

MỤC LỤC

Trang

1.1. 1.2. 1.3. Phần I: Đặt vấn đề Lý do chọn đề tài..................................................................... Mục đích nghiên cứu............................................................... Nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................. 2 4 4

13

1.4. 1.5. 1.6. 1.7. 4 4 4 4

2.1. 5

2.2. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.3. 2.3.4. 2.3.5. 2.4. 7 8 8 11 12 14 15 16

3.1. 3.2. Đối tượng nghiên cứu............................................................. Phương pháp nghiên cứu......................................................... Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu................. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu............................................. Phần II: Nội dung Cơ sở lý luận liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm Thực trạng vấn đề nghiên cứu................................................. Đề xuất biện pháp .................................................................. Biện pháp đọc kể diễn cảm..................................................... Biện pháp đàm thoại............................................................... Biện pháp đọc lại tác phẩm hoặc một phần của tác phẩm Biện pháp dùng tài liêu minh họa, đồ dùng trực quan............ Biện pháp dùng thủ thủ thuật rèn luyện lời nói....................... Kết quả thực hiện.................................................................... Phần III: Kết luận và kiến nghị Kết luận................................................................................... Kiến nghị................................................................................. 18 20

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ:

1.1. Lý do chọn đề tài: Giáo dục mầm non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân chiếm vị trí rất quan trọng. Giáo dục mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người đây là thời điểm

14

mấu chốt và quan trọng nhất, ở cái thời điểm ấy tất cả mọi việc đều bắt đầu: Bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và vận động bằng đôi chân, đôi tay của mình ….Tất cả những cử chỉ đó đều làm nên những thói quen, kể cả thói quen xấu. Cho nên giáo dục mầm non đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ. Trách nhiệm nặng nề và cao cả ấy tất cả thuộc về cô giáo mầm non. Có thể tạo nên nền tảng vững chắc trên chặng đường khôn lớn của trẻ hay không phụ thuộc vào công tác chăm sóc giáo dục trẻ vì vậy đòi hỏi cô giáo phải rất linh hoạt nhạy bén kịp thời,có năng lực và có tính chủ động, sáng tạo cao. Giáo dục có tầm quan trọng rất lớn đối với đời sống con người nhất là tuổi mầm non. Ca dao xưa có câu “ Dạy con từ thủa còn thơ … ” câu ca dao ấy đã đi vào lòng người và không thể nào quên. Mỗi chúng ta đều được lớn lên từ những tiếng ru dịu ngọt của ông bà cha mẹ, ngay từ lúc chào đời những tiếng ru êm dịu của bà của mẹ lại cất lên “Cháu ơi cháu ở với bà” Hoặc “Con cò lặn lội bờ sông” …đã đi vào tâm hồn mỗi chúng ta và cùng ta lớn dậy. Lớn lên chút nữa ta lại được bay bổng trong thế giới cổ tích như được vui chơi những trò chơi gắn với những câu ca dao, đồng dao “Rềnh rềnh ràng rành” hay “Dung dăng dung dẻ ”. Chúng ta lớn lên bằng những tiếng ru ấy và cũng lớn lên bằng những câu chuyện ấy. Ta lớn lên về thể xác và cũng mở rộng dần đôi cánh của tâm hồn và tình cảm. Chính vì lẽ đó việc cho trẻ mầm non đặc biệt là trẻ ở độ tuổi 5- 6 tuổi làm quen với các tác phẩm văn học là hết sức quan trọng và cần thiết bởi vì: Thông qua văn học giúp cho trẻ nhận biết được thế giới xung quanh, mở rộng vốn hiểu biết của trẻ đối với thiên nhiên và cuộc sống xung quanh thông qua đó trẻ biết tích luỹ được những kinh nghiệm sống . Mặt khác, để phù hợp với nhu cầu ngày càng đi lên của xã hội, hòa nhập với xu thế phát triển giáo dục trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng với chương trình tiểu học thì giáo dục mầm non càng cần phải nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục theo hướng giáo dục mầm non, xóa bỏ phương thức dạy học cũ rập khuôn, thụ động, chú trọng phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ có cơ hội được tìm tòi, khám phá, trải nghiệm... trên khả năng và vốn hiểu biết của trẻ. Trên cơ sở đó Bộ Giáo dục và đào tạo - Vụ Giáo dục mầm non đã có chủ trương thực hiện chương giáo dục mầm non, đặc biệt là chỉ đạo thực hiện chuyên đề nâng cao chất lượng làm quen văn học ở trường mầm non.Đặc biệt thông qua việc làm quen với văn học giúp cho ngôn ngữ của trẻ phát triển làm phong phú thêm vốn từ của trẻ , trẻ biết dùng từ chính xác biểu cảm.

Là một người giáo viên hàng ngày trực tiếp chăm sóc giáo dục thế hệ mầm non tương lai của đất nước. Tôi nhận thức rõ trong mọi thời đại giáo dục luôn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng cùng với một số ngành khác góp phần nâng cao đời sống xã hội của mỗi con người. Tuy nhiên với từng thời đại mà giáo dục sẽ được tổ chức kiểu này hay kiểu khác phù hợp với mỗi độ tuổi khác nhau. Mọi hoạt động học tập và vui chơi được tổ chức trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ ở

15

trường mầm non có tính quyết định để tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ trong tương lai cho trẻ. Đặc biệt là hoạt động dạy trẻ “Làm quen với tác phẩm văn học” là một hoạt động không thể thiếu được đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non, vì từ khi lọt lòng mẹ đến lúc chập chững tập đi, tập nói, đến lúc trẻ biết viết, biết đọc thì văn học là chiếc cầu nối, là phương tiện dẫn dắt trẻ nói những tiếng nói, đi những bước đi đầu tiên, ngôn ngữ trau chuốt cho trẻ. Ca dao, chuyện kể là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói cho trẻ học tập là phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, tình yêu mến bạn bè, với những người thân, biết được việc làm tốt, biết yêu cái đẹp, cái thiện, ghét cái ác, phê phán những việc xấu, kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn, thích đi học… Và còn là phương tiện, hình thành các phẩm chất đạo đức trong sáng và thông qua đó mở rộng vốn hiểu biết của trẻ đối với cuộc sống xung quanh, trẻ biết tích luỹ được những kinh nghiệm sống, làm phong phú thêm vốn từ của trẻ, trẻ biết nói đủ câu, chính xác, biểu cảm. Chính vì lẽ đó việc cho trẻ mầm non nói chung và đặc biệt là trẻ mẫu giáo ở độ tuổi 5- 6 tuổi làm quen với các tác phẩm văn học là hết sức quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ vấn đề trên hơn nữa bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp đứng lớp chăm sóc giáo dục các cháu 5 - 6 tuổi nên tôi mạnh dạn chọn đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất lượng làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi” để nghiên cứu. Trong chương trình giáo dục mầm non, hoạt động học của trẻ rất phong phú, đa dạng với nhiều hoạt động học khác nhau và được tổ chức với nhiều hình thức một cách linh hoạt để giúp trẻ lĩnh hội tri thức, phát triển kỹ năng của hoạt động học theo nội dung của chủ đề. Trong đó hoạt động làm quen văn học chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Làm quen văn học nhằm tạo tiền đề cho việc phát triển ngôn ngữ, phát triển trí tưởng tượng, phát triển nhân cách, phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội, phát triển thẩm mỹ cho trẻ, chuẩn bị cho trẻ vào học ở lớp một.

1.2. Mục đích nghiên cứu: - Giáo viên giúp trẻ biết nghe, hiểu và cảm thụ được tác phẩm văn học. - Để trẻ dễ dàng hơn trong việc cảm nhận ngôn ngữ của thơ, truyện, ca dao,

đồng dao…

- Giúp trẻ thể hiện các tác phẩm văn học bằng chính ngôn ngữ và những

hành động của trẻ.

- Trẻ biết nhận xét, đánh giá các nhân vật trong tác phẩm văn học. - Trẻ nhớ được một số bài thơ, câu truyện, biết cách đọc, kể diễn cảm. 1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Qua việc nghiên cứu mở ra cho trẻ thế giới tình cảm của con người, kích thích sự chú ý đến con người giúp trẻ tích cực đồng cảm với nhân vật của tác phẩm.

16

- Cùng với những nhân vật trong truyện trẻ có cảm giác hồi hộp trong những giây phút căng thẳng, cảm giác bằng lòng, khoan khoái với thắng lợi của chính nghĩa, của cái thiện. biết xúc động với những nhân vật trong tác phẩm, trẻ bước đầu biết được tâm trạng của những người sống gần gũi xung quanh trẻ.

- Giúp trẻ làm giàu vốn từ, củng cố vốn từ, hình thành việc phát âm đúng, tập luyện phát âm đúng, hình thành nhịp điệu của ngôn ngữ và dạy trẻ đọc kể diễn cảm, giáo dục văn hoá giao tiếp cho trẻ.

- Hình thành ở trẻ những xúc cảm văn học, biết yêu cái thiện, cái đẹp, ghét cái ác, có tình cảm nồng hậu đối với ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, thầy cô, với những chú bộ đội, với những người lao động vất vả….

1.4. Đối tượng nghiên cứu:

Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. 1.5. Phương pháp nghiên cứu :

- Phương pháp quan sát. - Phương pháp đàm thoại. - Phương pháp thực hành trải nghiệm. - Phương pháp nhận xét, đánh giá. 1.6. Giới hạn về không gian nghiên cứu: - Lớp 5TC Trường mầm non Định Trung-TP Vĩnh Yên-Tỉnh Vĩnh Phúc.

1.7. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trong 8 tháng từ tháng 9/2013 đế tháng 4/2014: Đăng

ký đề tài, tìm hiểu hiện trạng, nguyên nhân, áp dụng và hoàn thành sáng kiến. PHẦN II:

NỘI DUNG:

2.1. Cơ sở lý luận của đề tài Bác Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã để lại cho đất nước, cho dân tộc không chỉ ở các lời dạy mà còn được phản ánh, được kết tụ trong các cử chỉ sư phạm cao quí, sự lịch lãm tinh tế trong dạy học, tấm lòng sâu sắc thức tỉnh tâm hồn người học và tấm gương sáng thực hiện lời dạy của tiền nhân “Học nhi bất yếm, Giáo nhân bất quyện” (Học không bao giờ chán, Dạy người không bao giờ biết mỏi). Hơn thế nữa Bác còn khẳng định “Trẻ em như búp trên cành - biết ăn ngủ biết học hành là ngoan”. Chính vì vậy người giáo viên cần tạo cho trẻ có nhiều cơ hội được tiếp xúc và làm quen với các tác phẩm văn học như nghe cô kể chuyện, đọc thơ, trẻ tự đóng kịch, xem phim hoạt hình, chơi trò chơi ….là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho

17

trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt gãy gọn biết sữ dụng từ đúng lúc, đúng chỗ giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ, trẻ biết yêu quý người hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè, biết nhường nhịn em nhỏ. Từ đó hình thành ở trẻ những yếu tố tốt, hài hoà, giúp trẻ phát triển về thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực.

Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dạy trẻ làm quen với văn học là môn học không thể thiếu trong trương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học là vấn đề quan trọng trong tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng thú dối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ. Kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch; Cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diển tả, biểu đạt, truyền đạt trong những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng, dòng sông, phiên chợ, lớp học, khu phố….Qua tác phẩm văn học, trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội những mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn tình cô cháu,…Trẻ cũng dần nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với nhau trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm.Văn học có thể cần đề cặp đến những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đối tượng miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần.

Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học, có những hiểu biết sơ đẳng về văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống xung quanh phong phú, hấp dẫn bằng những dạng thức khác nhau. Bước đầu trẻ sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các thể loại thơ, chuyện. Không những giúp trẻ cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình tượng, nhà sư phạm còn cần giúp trẻ phân biệt được hình tượng nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số khái niệm văn học như: Thơ, chuyện, nhân vật, hình ảnh…, giúp trẻ trao đổi những điều đã được nghe và bộc lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm, nhằm phát triển đời sống tinh thần của trẻ.

18

Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cấn giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân vật; giữa lời kể, lời thuật và ngôn ngữ nhân vật. Giữa không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học chưa yêu cầu trẻ phải nhớ hết mối quan hệ phức tạp mà chỉ nhằm giúp trẻ nhận ra tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung tâm của tác phẩm.

Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong giọng kể, lời thuật, phân biệt ngữ điệu lời nói các loại nhân vật và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Khi cho trẻ làm quen với tác phẩn văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách” kỷ năng đọc và kể tác phẩm.

Sức mạnh của tác phẩm văn học thật vô cùng to lớn. Trong quá trình cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm, bằng tài năng sư phạm cùng với nghệ thuật đọc và kể chuyện văn học, cô giáo ở trường Mầm non sẽ hướng trẻ vào những vẽ đẹp nội dung và nghệ thuật tác phẩm, gây ấn tượng đầu tiên cho trẻ về hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng ngôn ngữ dân tộc.

Đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, ở giai đoạn này, cảm nhận thẫm mĩ đã có một bước phát triển trong tiếp nhận văn học. Sự tiếp nhận tác phẩm đầy đủ hoàn thiện hơn, biểu hiện trước tiên là sự hiểu biết những câu chuyện cổ tích, bài thơ, những đoạn văn xuôi hay và và sự làm giàu tình cảm qua quá trình tích lũy hình tượng nghệ thuật.

Đối với trẻ mẫu giáo lớn thì sự quan tâm tới tác phẩm văn học sẽ giúp trẻ hiểu được nội dung tác phẩm, các nhân vật trong tác phẩm trở nên gần gũi dễ hiểu hơn. Sự cảm thông với nhân vật, sự lo lắng cho số phận của nhân vật của trẻ đã mang đặc điểm cá tính hơn. Sự hồi hộp, lo lắng trong đời sống hàng ngày.

Làm quen với tác phẩm văn học còn bao hàm công việc cô giáo tổ chức để trẻ hứng thú bước vào hoạt động văn học nghệ thuật một cách tự nhiên như đọc thơ diễn cãm, kể lại truyện một cách sáng tạo, hóa thân vào các vai diễn trong trò chơi đóng kịch…Để trẻ trở thành một chủ thể hoạt động văn học nghệ thuật một cách tích cực, sáng tạo.

Văn học đã góp phần mở rộng hiểu biết của trẻ về tự nhiên và xã hội bằng ngôn ngữ văn học, bằng các thủ pháp nghệ thuật…Các tác phẩm nghệ thuật giải thích các hiện tượng sự vật theo lối riêng của mình. Trẻ Mầm non không thể cảm nhận được nội dung nghệ thuật của bài thơ câu chuyện, khi thiếu sự tác động của cô giáo và người lớn xung quanh bởi trẻ chưa biết đọc mà phải nhờ vào sự tổ chức, hướng dẫn của cô giáo qua giọng đọc kể của cô giáo làm cho tác phẩm văn học đến với các cháu trở thành nhân tố giúp trẻ phát triển tư duy, trí tưởng trợng, ngôn ngữ, thẩm mỹ, hình thành nhận cách và giáo dục đạo đức cho trẻ.

19

2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu a. Thuận lợi. - Được sự quan tâm của Đảng uỷ, uỷ ban nhân dân xã Định Trung, Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Vĩnh Phúc, Phòng Giáo dục và đào tạo Thành phố Vĩnh Yên cũng như Ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo sát xao về chuyên môn, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ.

- Bản thân luôn nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, được trải nghiệm cọ sát với thực tế, được học tập và đào tạo qua trường lớp, luôn tìm tòi học hỏi và rút ra kinh nghiệm cho bản thân, có nhiều sáng tạo, có giọng kể hay, truyền cảm, nắm chắc phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.

- Lớp học được trang bị một máy tính qua đó khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học trẻ trực tiếp được quan sát hình ảnh động và lắng nghe âm thanh và cảm nhận sâu hơn, húng thú hơn với tác phẩm văn học.

- Trẻ mạnh dạn, tự tin, hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động làm

quen với văn học. b. Khó khăn. - Một số trẻ chưa học qua mẫu giáo nhỡ nên còn thiếu tự tin và bỡ ngỡ còn

chậm chạp, nhút nhát khi tham gia vào hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.

- Khả năng nhận thức của học sinh không đồng đều. - Số học sinh đông, diện tích lớp chật hẹp, ảnh hưởng đến việc tạo môi trường

cho trẻ làm quen với văn học.

- Qua kết quả điều tra lúc đầu khi chưa áp dụng các phương pháp trên thì tỉ lệ

trẻ hào hứng tham gia vào hoạt động văn học của lớp tôi còn thấp:

+ 60% trẻ hào hứng tham gia vào hoạt động văn học. + 50% trẻ thuộc thơ, truyện, ca dao, đồng dao. Từ thực trạng trên tôi đã mạnh dạn áp dụng những giải pháp sau:

2.3. Đề xuất biện pháp: Muốn đạt được kết quả cao trong việc nâng cao chất lượng cho trẻ mẫu giáo 5– 6 tuổi làm quen với các tác phẩm văn học thì trước hết cô giáo cần phải yêu văn học, say mê văn học, thích học hỏi tìm tòi khám phá những cái hay cái đẹp trong từng tác phẩm văn học, tích luỹ kiến thức, hiểu biết về văn học nói chung và cụ thể là các bài thơ câu chuyện, đặc biệt là thơ chuyện Mầm non.

Việc nghiên cứu và thử nghiệm các hình thức được diễn ra song song trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Các tác phẩm văn học cho trẻ làm quen trong hoạt động này thường nằm trong trương trình, có nội dung phù hợp với chủ đề đang

20

thực hiện. Trong quá trình nghiên cứu tối đã sử dụng một số biện pháp để nâng cao chất lượng cho trẻ 5-6 tuổi làm quen với tác phẩm văn học để giúp trẻ làm giàu vốn từ, củng cố vốn từ, hình thành việc phát âm đúng, tập luyện phát âm đúng, hình thành nhịp điệu của ngôn ngữ và dạy trẻ đọc kể diễn cảm, giáo dục văn hoá giao tiếp cho trẻ như sau.

2.3.1. Biện pháp kể chuyện diễn cảm : Khi đọc kể cô giáo phải nhìn xuống các cháu, theo dõi các cháu làm gì khi nghe cô đọc hoặc kể, cô kết hợp cử chỉ điệu bộ nét mặt nhằm cuốn hút, tạo hứng thú cho trẻ. Cô phải tìm hiểu truyện sẽ đọc hoặc kể để hiểu được tư tưởng, nghệ thuật trình bày của tác phẩm, phải tiến hành phân tích tác phẩm về mặt ngữ điệu và rèn luyện cách đọc.

Cô giáo thường gắn kể với nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ vì thế cô giáo có thể thay đổi có dụng ý của câu, của tác phẩm bằng các cấu trúc đồng nghĩa. Ví dụ có thể truyền đạt không phải bằng hình thức đối thoại mà bằng lời nói gián tiếp hoặc ngược lại.

Giáo viên có thể đọc và kể chuyện cho trẻ nghe. Cần phân biệt giữa đọc và kể chuyện. Khi đọc giáo viên phải đọc nguyên văn bài thơ, câu chuyện in trong sách. Đọc có thể theo sách hoặc thuộc lòng theo sách. Khi kể giáo viên truyền đạt tác phẩm một cách tự do nghĩa là không theo từng từ một. Giáo viên chỉ cần nắm chắc nội dung cơ bản, ngoài ra có thể đơn giản hóa truyện, rút ngắn số lượng các tình tiết, có thể giải thích khi kể, có thể sử dụng từ mới.

Ngôn ngữ của người kể phải thay đổi phụ thuộc và nội dung tác phẩm và

đặc biệt vào lứa tuổi của trẻ.

Chuẩn bị cho chuyện kể bao gồm những việc sau:

- Giúp cho trẻ tập luyện phát âm, tập cho trẻ nghe và đọc chính xác đọc rõ ràng, nhịp điệu chậm rãi.Trước khi cho trẻ tập nghe và đọc cô giáo phải cho trẻ nghe và đọc mẫu, cô giáo đọc chậm, rõ ràng, sau đó nghe và đọc nhanh dần. - Đánh đấu ngữ điệu của chuyện, tình cảm của giọng nói. Suy nghĩ về nghệ thuật nói trước trẻ, dáng điệu, nét mặt, cử chỉ. Do đặc điểm của lứa tuổi mẫu giáo nên giáo dục các cháu cần tiến hành theo phương châm: "Học mà chơi - chơi bằng học" theo chương trình giáo dục mầm non. Một giờ học làm quen văn học để cho trẻ nghe và đọc tốt nhất cô xây dựng theo các cách khác nhau, mỗi giờ học chọn một cách gây hứng thú trong một hoạt động để trẻ cảm nhận được tính chất, tình cảm của văn học và hưởng ứng cảm xúc với những trạng thái cảm xúc có trong tác phẩm văn học.

Để thu hút vào giờ học và giúp trẻ làm quen với văn học được tốt hơn, giáo viên cần đầu tư, nghiên cứu, sáng tạo trong phương pháp dạy học. Vào đầu giờ học cô có thể trò chuyện về chủ đề, xem vật thật, tranh ảnh... có chủ đề theo nội dung

21

bài dạy để dẫn dắt trẻ tới tác phẩm văn học một cách nhẹ nhàng, tự tin không gò bó trẻ. Mọi giờ hoạt động làm quen văn học nên lồng ghép trò chơi giúp trẻ thoải mái, vận động chạy nhảy... trẻ sẽ hoạt bát nhanh nhẹn và rất hứng thú trong giờ học.

Muốn một giờ hoạt động văn học nghe và đọc đạt kết quả cao đòi hỏi cô giáo

phải có giọng kể diễn cảm, biết ngắt nghỉ đúng câu, biết cách gây hứng thú.

Để luyện phát âm đúng “l” và “n” cô giáo có thể dùng những bài thơ sau:

Ví dụ 1:

Mồng một lưỡi trai Mồng hai lá lúa Mồng ba câu liêm Mồng bốn lưỡi liềm Mồng năm liềm gặt Mồng sáu thật trăng…

Ví dụ 2:

Cầu trời mưa xuống Lấy nước tôi uống Lấy ruộng tôi cày Lấy đầy bát cơm Lấy rơm đun bếp….

Ví dụ 3:

Nu na nu nống Cái cống nằm trong Con ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật….

Khi cho trẻ đọc và kể các tác phẩm văn học cần chú ý đến sự chính xác của các âm và cô cần sử dụng ngôn ngữ hoàn chỉnh. Giáo viên nên thường xuyên tổ chức cho các cháu nghe nhạc, nghe đài truyền thanh, nghe đĩa, nghe băng hình…để phát triển vốn từ cho trẻ.

Khi cho trẻ đọc và kể các tác phẩm văn học cô giáo dạy trẻ biết phân biệt nhịp điệu, ngữ điệu của tác phẩm. Bên cạnh đó cô còn sử dụng truyện, thơ ca…phản ánh

22

lại các sự kiện thực tế quen thuộc với trẻ và sự thay đổi giọng điệu là điều rất dễ hiểu đối với trẻ.

Ví dụ: Bài thơ “Trăng ơi từ đâu đến” của Trần Đăng Khoa, cô phải dạy trẻ đọc

chậm rãi, bộc lộ sự băn khoăn tự hỏi ở các câu:

“ Trăng ơi …từ đâu đến ? ...Bạn nào đá lên trời ? ” Bằng biện pháp cho trẻ đọc và kể các tác phẩm văn học sẽ giúp trẻ lĩnh hội diễn đạt phù hợp. Để tập cho trẻ biết thể hiện cảm xúc khi đọc, cô phải đọc mẫu thật diễn cảm cho trẻ nghe, lấy trẻ đọc hay làm mẫu cho các bạn bắt chước và sau đó nhận xét cách đọc của từng trẻ. Bên cạnh đó cô giáo đưa ra những câu hỏi giúp trẻ chú ý nói diễn cảm.

Ví dụ: Con có thể nói như thế nào? Vì sao? Con có thể nói một cách khác được không?... Ở trẻ mẫu giáo lớn hình thức giúp trẻ đọc và kể tốt nhất là động lực đọc để biểu diễn cho mọi người nghe, từ đó thúc giục trẻ phải đọc hay, diễn cảm làm cho chính trẻ thể hiện được xúc cảm và người nghe thấy xúc động.

Đối với phương pháp đọc kể trước hết cô giáo phải xác định được giọng đọc kể của từng tác phẩm thơ, chuyện… đọc kể phải bộ lộ được cảm xúc qua ánh mắt, cử chỉ điệu bộ minh hoạ phù hợp với nội dung câu chuyện. Bởi trong mỗi tác phẩm đều có một nội dung riêng với một tư tưởng, một chủ đề riêng và không phải bài thơ nào cũng có giọng đọc hay điệu bộ minh hoạ giống nhau.

Qua thực hiện phương pháp này tôi thấy đọc kể là một vấn đề rất quan trọng, qua đọc kể giúp trẻ dễ dàng hiểu được nội dung tác phẩm, tập trung chú ý, xuất hiện sự hồi hộp lo lắng chờ đợi được thể hiện trên trẻ. Chính vì thế mà tôi thường xuyên chú ý tới việc luyện tập giọng đọc kể cho mình. Trước hết tôi xác định giọng đọc, phối hợp ánh mắt cử chỉ điệu bộ minh hoạ tự nhiên thoải mái, đơn giản, hấp dẫn phù hợp với nội dung. Tôi cho đây là một vấn đề quan trọng đòi hỏi giáo viên chú ý rèn luyện về khả năng này bằng cách: - Nghe băng đĩa chuyện thơ dành cho trẻ mầm non. - Học hỏi qua các giáo viên dạy giỏi môn làm quen văn học. - Dự giờ dạy mẫu các trường mầm non có chất lượng cao. - Chú ý lắng nghe ý kiến góp ý xây dựng, tiết dạy cần ghi chép những điều tâm đắc để học hỏi đúc rút kinh nghiệm cho bản thân. - Kiên trì chịu khó tự học, tự bồi dưỡng, tập đọc, tập kể nhiều lần, để bộc lộ được cảm xúc, phản ánh đúng nội dung tác phẩm.

2.3.2. Biện pháp đàm thoại.

23

Với biện pháp này khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học giáo viên không nên sử dụng quá nhiều trong tiết dạy, hình ảnh của tác phẩm văn học luôn luôn nói hay hơn, có tính chất khẳng định hơn tất cả những lời giải thích về nó. Chú ý giáo viên không quá say mê đàm thoại về tác phẩm và cả sự giải thích quá thừa.

Cần đặt ra cho trẻ một số câu hỏi giúp trẻ hiểu nhân vật nào trong tác phẩm hành động đúng, những việc làm nào tốt, xấu để trẻ hình dung được rõ hơn ý nghĩa của câu truyện, có thể gợi ý cho trẻ tự đặt mình vào các trường hợp của nhân vật trong chuyện. Trẻ có khả năng xác định được ai tốt ai xấu trong chuyện. Trẻ mẫu giáo lớn có khả năng hiểu động cơ hành động, đánh giá đúng phẩm chất đạo đức của nhân vật trong chuyện.

Ví dụ: Trong chuyện “Cây tre trăm đốt” giáo viên có thể đặt câu hỏi đàm thoại với trẻ rất rõ ràng như: Tên địa chủ là người như thế nào? Qua câu truyện con học tập được điều gì?.....

Ngoài ra trong khi đàm thoại giáo viên có thể cho trẻ xem những bức tranh

vẽ, mô hình, những bức tượng nặn về các tác phẩm quen biết để giúp cho trẻ khi trả lời các câu hỏi của cô cảm thấy tự tin hơn.

Ví dụ: Trong bài thơ “Giữa vòng gió thơm” Cô đặt câu hỏi đàm thoại: + Bạn nhỏ đã làm gì khi thấy bà ốm?... Việc đàm thoại giúp cho trẻ biết cách trả lời các câu hỏi của cô sau khi nghe

cô giáo kể lại câu truyện .

Ví dụ: trong bài thơ “Bó hoa tặng cô”. Cô đàm thoại - Các bạn nhỏ trong bài thơ hái hoa tặng ai? ( Tặng hoa cho cô giáo, nhân

nhịp 8/3)

-Bó hoa của bạn nhỏ có những loại hoa gì? Màu sắc như thế nào?( Trẻ trả

lời)

- Khi tặng hoa các bạn nhỏ hồi hộp như thế nào? - Tình thương của cô giáo đối với các bạn nhỏ như thế nào? - Các cháu sẽ làm gì cho cô giáo vui lòng (Trẻ kể) Giáo dục: Các con phải học ngoan, vâng lời cô, biết giúp cô những công việc vừa sức như phụ cô cất đồ dùng, đồ chơi, xếp bàn ghế gọn gàng, khi thấy sân trường có là vàng rơi các cháu nhặt bỏ vào thùng rác...

- Các bạn nhỏ trong bài thơ đã đi hái hoa tặng cô, bây giờ các con cùng đi hái

hoa tặng cô nhé!

Cô chia 2 đội mỗi đội 5 cháu Đội 1: Hái hoa có chữ u Đội 2: Hái hoa có chữ ư

24

Khi có hiệu lệnh bạn đầu hàng sẽ bật liên tục qua ba vòng lên hái hoa theo quy định bỏ vào giỏ của đội mình và chạy về cuối hàng đứng, bạn đầu hàng tiếp tục lên hái hoa. Khi hái hoa tạo sự hứng thú cho trẻ và còn kết hợp giúp trẻ rèn luyện chữ cái.

Khi cô giáo đàm thoại với trẻ dạy thì các câu hỏi của cô phải chính xác, diễn đạt trôi chảy phù hợp với từng bài, cô phát âm không ngọng. Cô chú ý nghe trẻ đọc và phát hiện ra trẻ nói ngọng, đọc sai để sửa cho trẻ bằng cách cô đọc lại để cho trẻ đọc theo nhiều lần và động viên trẻ “Con đọc gần giỏi rồi, con đọc lại một lần nữa thật rõ ràng cho cô và các bạn cùng nghe nào”. Cho trẻ thi đua giữa các tổ với nhau để phát hiện tổ nào đọc tốt hơn để khuyến khích động viên kịp thời. Dạy trẻ nói đủ câu, cô nói trước và cho trẻ nhắc lại nhiều lần hoặc cho trẻ khác giúp đỡ các bạn.

2.3.3. Biện pháp đọc lại tác phẩm văn học hoặc một phần nào đó của tác

phẩm văn học.

Đối với trẻ, giáo viên không chỉ đọc, kể một lần các tác phẩm mà phải đọc, kể hai ba lần. Có như vậy trẻ mới nhớ được nội dung, ngôn ngữ của tác phẩm văn học. Khi cho trẻ đọc lại tác phẩm văn học hoặc một bộ phận nào đó của tác phẩm văn học có thể tiến hành như sau.

+ Thơ, truyện, đồng dao… được giáo viên đọc và kể một cách diễn cảm. + Để cho trẻ một phút để chúng suy nghĩ, rung cảm với tác phẩm được đọc

và được kể, sau đó giáo viên hỏi chúng có đọc lại nữa không?

+ Giáo viên thoả mãn yêu cầu của trẻ và đọc lại văn bản. Có thể đọc lại ba đến bốn lần, nhưng không làm cho trẻ nhàm chán. Giáo viên phải theo dõi trẻ nếu thấy trẻ không chú ý nữa phải ngừng đọc và kể. Có thể đọc và kể tác phẩm vào một lần khác trẻ sẽ nghe một cách hứng thú hơn.

Ở những tiết học đọc và kể các tác phẩm văn học, trẻ nghe và nhớ không chú tâm (hoàn toàn hoặc một phần nào đó) mặc dù mục đích nhớ các cháu không đặt ra đó là trí nhớ không chủ định. Ở tuổi mẫu giáo, ghi nhớ không chủ định giữ vị trí chủ yếu. Nhưng trẻ cần phải học nhớ vì rằng trẻ không biết tự mình cố gắng để nhớ có chủ định.

Để tích cực hoá trẻ đọc lại tác phẩm văn học hoặc một phần nào đó của tác phẩm văn học thì các bài thơ, câu truyện … phải có tính nhạc, phải đẹp về hình tượng, có nội dung đạo đức tốt, phải đem đến cho trẻ niềm vui, tính thẩm mỹ, sự thích thú để sống lại những tình cảm mà bài thơ, câu truyện đó gợi ra.

Khi đọc lại tác phẩm văn học hoặc một phần nào đó của tác phẩm văn học cho phép trẻ nhớ nó theo từng phần. Tiết học có thể bổ sung bằng những công việc khác nhau để trẻ đỡ mệt mỏi.

25

Ví dụ : Cho trẻ nhớ lại các bài thơ đã học trước đây như “ Giúp bà” lớp mãu

giáo nhỡ.

Cô giáo cần biết cháu nào có trí nhớ tốt, cháu nào nhớ chậm để giúp đỡ. Cô giáo cần động viên trẻ bằng cái nhìn, cử chỉ, nhắc từ, ngữ điệu của câu thơ, bài thơ…Giáo viên giúp trẻ nhớ lại cốt truyện, nhớ lại những hình ảnh nào đó của tác phẩm văn học.

Ví dụ : Mô tả đối tượng, mô tả hành vi của nhân vật nào đó thì giáo viên

chọn những câu từ, với ngôn ngữ giàu tính chất biểu cảm.

Ví dụ : Khi đọc câu chuyện “Tấm Cám” giáo viên cho trẻ nhớ lại những câu như: (bống bống bang bang, mày ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người).

Hay (Thị ơi, thị hỡi ! Thị rụng bị bà , thị thơm bà ngửi chứ bà không ăn). Trong mọi tiết học đều có thể sử dụng biện pháp đọc lại tác phẩm văn học hoặc một phần nào đó của tác phẩm văn học, có thể là những bài đã học, những bài chưa học theo từng đề tài bài dạy cô giáo đưa văn học đi vào lòng trẻ cũng rất nhẹ nhàng, gần gũi mượt mà.

Đối với biện pháp đọc lại tác phẩm văn học hoặc một phần của tác phẩm văn học trước hết cô giáo phải xác định được giọng đọc kể của từng tác phẩm thơ chuyện, đọc kể phải bộc lộ được cảm xúc qua ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ minh hoạ phù hợp với nội dung câu chuyện. Bởi trong mỗi tác phẩm văn học đều có một nội dung riêng, một chủ đề riêng.

Ví dụ: Khi đọc bài "Nàng tiên ốc" cô đọc nhẹ nhàng êm dịu thể hiện tình

cảm trìu mến:

“Xưa có một bà già nghèo Chuyên mò cua bắt ốc Một hôm bà bắt được Một con ốc xinh xinh…”

2.3.4. Biện pháp sử dụng tranh minh hoạ, đồ dùng trực quan. Theo kinh nghiệm của bản thân tôi thấy rằng hợp lý nhất là đọc cho trẻ nghe tác phẩm và sau đó xem tranh ảnh minh hoạ hoặc đồ dùng trực quan. Sau khi tác phẩm được đọc, cô tóm tắt nội dung của tác phẩm và chỉ ra tranh ảnh minh hoạ cho tác phẩm đó, sau khi trẻ được xem tranh minh hoạ giáo viên sẽ đọc lại tác phẩm một lần nữa để giúp trẻ dễ hiểu ngôn ngữ của tác phẩm hơn. Từ đó trẻ nhận ra các nhân vật, vật thể, sự kiện và lời nói của nhân vật trong tác phẩm.

Ví dụ : Ai đấy ?, Cái gì? , Ở đâu?.. Dùng tài liệu minh hoạ, đồ dùng trực quan tương ứng câu của tác phẩm với

các bức tranh .

26

Ví dụ: Những từ, những câu nào phù hợp với bức tranh này ? Tại sao thích bức tranh này?... Giáo viên có thể yêu cầu trẻ gọi tên các nhân vật trong truyện và các đối tượng mà giáo viên chỉ định trên tranh. Hoăc giáo viên đọc một đoạn và yêu cầu trẻ chỉ ra phần nào của bức tranh tương ứng với cái cần đọc.

Ở trẻ mẫu giáo lớn có khả năng đánh giá những bức tranh minh hoạ có căn cứ hơn nếu dạy chúng biết so sánh nh ững b ức tranh minh hoạ của các hoạ sỹ khác nhau về cùng một tác phẩm.

Biện pháp dùng tài liệu minh hoạ, đồ dùng trực quan như :Xem phim về các

đề tài truyện cổ tích và chuyện kể:

Chúng ta có thể cho trẻ xem phim về những truyện cổ tích và truyện kể bằng máy chiếu bằng giọng kể của giáo viên hoặc người kể chuyện.So với tranh minh hoạ thì phim không những có hình ảnh mà còn có cả tiếng nói. Cho nên có thể nói xem phim là hình thứ giúp trẻ cảm nhận tiếng mẹ đẻ và nâng cao được chất lượng cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học một cách tốt nhất.

Tuy nhiên cần nhớ rằng thường xuyên dùng phương thức học tập tác động mạnh đến lĩnh vực cảm xúc của trẻ sẽ nhanh chóng làm mất đi tác dụng của chúng.Vì vậy chỉ nên cho trẻ xem phim nhiều nhất là mười lần trong một năm học. Như chúng ta đã biết trẻ Mầm non nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng tư duy của trẻ trực quan hành động trẻ chỉ tập trung chú ý và ghi nhớ nhừng gì mà trẻ cảm thấy thích thú vì thế giáo viên nên chuẩn bị đồ dùng học tập gồm các loại tranh ảnh mô hình, vật thật đầy đủ, đa dạng, phong phú, sinh động phù hợp với nội dung của từng bài dạy.

Ví dụ: Bài thơ " Em yêu nhà em", sử dụng tranh ảnh kết hợp mô hình Ví dụ: Bài thơ " Cây dừa", sử dụng tranh ảnh kết hợp mô hình Chuyện: "Truyện của dê con", sử dụng tranh ảnh kết hợp rối Thơ: "Bác bầu bác bí" sử dụng vật thật Ngoài ra cô giáo cần chú ý tạo môi trường học tập cho trẻ hàng ngày được

trực tiếp quan sát không chỉ trong tiết học mà còn mọi lúc mọi nơi. 2.3.5. Biện pháp dùng thủ thuật rèn luyện lời nói Khi đọc kể các tác phẩm văn học giáo viên giúp trẻ hiểu tốt hơn, làm giàu

vốn từ cho trẻ bằng những từ mới. Những thủ pháp này là:

Giải thích cho trẻ những từ khó đối với trẻ, giúp trẻ hiểu các từ mới trong

tác phẩm.

Chú ý đến các cấu trúc của tác phẩm văn học

27

Bên cạnh sự giải thích từ mới, từ khó nếu không giảng giải thì trẻ sẽ không hiểu trọn vẹn tác phẩm .

Ví dụ: Những từ như: “Ầm ĩ, rung rinh….. ” Ngoài ra có rất nhiều từ không cần giải thích như những từ đánh giá đạo đức

của nhân vật.

Ví dụ: Những từ như: “Nhát gan, dũng cảm, chăm chỉ …”

Bên cạnh đó những từ đánh giá mối quan hệ giữa người và người. Ví dụ: Những từ như: “Quan tâm, chăm sóc, yêu thương …” Qua đó trẻ hiểu được những từ này như là tổng kết sự đánh giá những nhân vật, những mối quan hệ giữa các nhân vật trong quá trình trẻ cảm thụ các tác phẩm văn học.

Các thủ pháp nhớ có chủ định là: Lặp lại văn bản và nhớ lại văn bản.Và

nguyên nhân của trẻ là tính hay quên và lười nhớ lại cái bị quên. Với trẻ mầm non hoạt động chung chiếm một thời gian rất ngắn so với thời gian của các hoạt động khác. Do đó tôi đã tận dụng thời gian đón trẻ, trả trẻ, hoạt động ngoài giờ, hoạt động vui chơi hay trong hoạt động chuyển tiếp để giới thiệu hay ôn luyện các bài thơ, bài đồng dao, câu chuyện.

Bản thân tôi luôn học hỏi các đồng nghiệp và thực hành, kiến tập các chuyên đề ở trường, thành phố và tự bồi dưỡng mình để có thêm nhiều kinh nghiệm. Qua việc áp dụng một số biện pháp trong và ngoài giờ học, lớp tôi chất lượng về môn làm quen với văn học tăng lên khá rõ, các cháu rất thích học môn này. Rất mạnh dạn tham gia vào các hoạt động không chỉ có làm quen với văn học mà ở cả các môn học khác. Quan điểm giáo dục trẻ theo hướng đổi mới giáo viên là người hướng dẫn, tạo cơ hội cho trẻ hoạt động vui chơi tìm tòi khám phá. Trẻ hoạt động không bị áp đặt để phát huy năng lực bản thân, được trao đổi, được nhận xét nên trẻ trở nên năng động hơn.

Cùng với từng bài dạy, tôi dùng các thủ thuật khác nhau để dẫn dắt vào bài chuyển hoạt động một cách linh hoạt ví dụ như trong một tiết kể chuyện: “Quả bầu tiên” vào đầu tôi cho trẻ hát: “Bầu và bí”. Hỏi trẻ: “Chúng mình vừa hát bài hát nói về quả gi?”. Cô giới thiệu chuyện và kể cho trẻ nghe, sau đó cô kể kết hợp cho trẻ tri giác bằng hình ảnh, con rối, cho trẻ xem “Chương trình bông hoa nhỏ” từ đó trẻ dễ nhận thấy tính cách nhân vật, biết đâu là thiện - ác, đâu là tốt - xấu để trẻ hướng tới cái đích mà trẻ cần làm đó là biết yêu thương, giúp đỡ mọi người xung quanh. Hay với tiết dạy thơ: “Bó hoa tặng cô” đầu tiên cô cho trẻ chơi trò chơi “Gieo hạt”. Cô dẫn dắt vào bài: “Bác nông dân vừa trồng vườn hoa rất đẹp mời lớp mình đến thăm quan, nào chúng mình cùng đi. Các cháu vừa đi vừa làm bác nông dân quốc đất”. Khi cho trẻ tham quan vườn hoa giúp trẻ nhận biết được các loại hoa,

28

cách chăm sóc hoa, ích lợi của hoa. Trẻ vừa được tham quan vườn hoa vừa được nghe cô đọc thơ làm cho trẻ thích thú. Khi đọc thơ lần 1 cô hỏi:

Cô vừa đọc bài thơ gì? do ai sáng tác? Trong bài thơ các bạn nhỏ hái hoa tặng cô nhân ngày gì? ( ngày 8/3)

Cô đọc lần 2 theo tranh.

Giảng giải, trích dẫn giúp trẻ hiểu nội dung bài thơ. Sau khi thực hiện chuyên đề làm quen với văn học bản thân tôi không ngừng phấn đấu học tập, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp. Qua các tiết học trẻ rất hứng thú tham gia vào các hoạt động học tập, ngôn ngữ của trẻ trở nên mạch lạc hơn so với trước đây.

2.4. Kết quả thực hiện Sau quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, qua các tiết dạy trực tiếp trên lớp, trẻ lớp tôi rất hào hứng tham gia hoạt động học tập. Trẻ rất thích nghe kể truyện, đọc thơ, biết đọc thơ diễn cảm, thuộc nhiều truyện và kể rất hay, ngôn ngữ của trẻ rõ ràng mạch lạc hơn, trẻ hứng thú tham gia đóng kịch các nhân vật trong truyện, tự tin mạnh dạn hơn nhiều so với trước đây. Để thấy rõ kết quả này tôi đã lập biểu bảng so sánh để khảo sát trẻ trong tổng giai đoạn:

* Đối với trẻ:

Kết Quả

Số lượng trẻ Trước khi áp dụng biện pháp đổi mới Sau khi áp dụng

Nghe - Đọc diễn cảm 25 50%-60% 80-90%

Thuộc nhiều, nhanh 25 50-55% 80-95%

Phát triển ngôn ngữ ,diễn đạt tốt 25 50-60% 80-90%

Qua việc khảo sát trong hai lần, lần một vào tháng 10, lần hai vào tháng 4 đã cho thấy tỉ lệ đạt khá, tốt cao. Trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động làm quen với văn học nhanh thuộc truyện, thuộc thơ, biết đọc kể diễn cảm, kỹ năng giao tiếp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc có nhiều tiến bộ. Nhiều cháu có năng khiếu: Bảo Ngân, Hồng Ngọc, Như Quỳnh, Phan Minh Quang, Phi Anh, Minh Anh, Kim Anh, Bảo Ngọc…

* Đối với cha mẹ trẻ: Nhiều phụ huynh đã tích cực phối hợp với giáo viên trong việc cho trẻ làm quen với văn học và chữ viết bằng việc sử dụng các tờ rơi để ôn luyện, bằng các trò chơi để củng cố cho trẻ, tích cực hưởng ứng sáng tác và sưu tầm thơ truyện.

* Đối với giáo viên: Qua việc thực hiện đề tài này, kết quả trên trẻ cho thấy hiệu quả của việc thay đổi, vận dụng một số hình thức cho trẻ làm quen với văn học và chữ viết là rất cần thiết và không thể thiếu trong quá trình tổ chức hoạt động của

29

cô và trẻ. Tôi thấy việc thực hiện đề tài này không chỉ phù hợp với lớp tôi mà còn có thể triển khai ở các lớp mẫu giáo lớn khác nói riêng cũng như các lứa tuổi mẫu giáo nói chung và có thể tiếp tục thực hiện trong những năm sau. Việc nghiên cứu đề tài này đã giúp tôi dễ dàng trong việc thực hiện các yêu cầu, kỹ năng cần đạt phù hợp với trẻ 5-6 tuổi, tạo cho trẻ niềm vui, sự hứng thú khi tham gia các hoạt động cũng như tạo sự gần gũi, yêu thương giữa cô và trẻ. Qua áp dụng thực hiện chuyên đề: Làm quen văn học trong trường mầm non tôi thấy đây là một chuyên đề lớn không kém phần quan trọng, khi thực hiện chuyên đề này giáo viên cần nghiên cứu kỹ tài liệu chuyên đề, bồi dưỡng thường xuyên, tham gia dự giờ các tiết dạy thơ, truyện để đúc rút kinh nghiệm cho bản thân. Từ đó tôi nhận thấy rằng bộ môn làm quen văn học có tầm quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và qua đọc thơ kể chuyện làm giàu vốn từ cho trẻ, rèn luyện khả năng phát âm và cách diễn đạt mạch lạc. Các tác phẩm thơ chuyện chỉ có thể phát huy tác dụng của nó khi cô biết chuyển tải được tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thông qua các hình thức nghệ thuật hấp dẫn, phong phú, đa dạng. Qua đó giúp trẻ phát huy được tính tích cực cá nhân - tự tin - độc lập - sáng tạo - hình thành tư duy - khả năng ghi nhớ có chủ đích.

Thường xuyên nghiên cứu kỹ các bài soạn, soạn bài trước khi giảng dạy. Làm, mua sắm, sưu tầm đủ đồ dùng, đồ chơi phong phú hấp dẫn với trẻ và đảm bảo tính khoa học như: Tranh, con rối, vật thật …. Để thu hút, lôi cuốn trẻ vào giờ học tôi lựa chọn các hình thức tổ chức phù hợp, hấp dẫn như qua tổ chức hội thi: “Bé yêu thơ”; câu đố, tham quan và đặc biệt là chọn những hình ảnh thật, đẹp và những nhân vật ngộ nghĩnh sáng tạo đưa vào công nghệ thông tin để trẻ hòa nhập , hóa thân vào các nhân vật trong tác phẩm mà tôi lồng ghép được. Đề rồi từ chở trẻ trăm chú xem, lắng nghe cô giới thiệu dẫn đến trẻ nắm bắt được nội dung tiết học một cách chủ động.

Với từng bài dạy, thể loại tôi đưa ra hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị có tính lôgic, để đàm thoại với trẻ một cách sôi nổi theo phương trâm: “lấy trẻ làm trung tâm” để phát huy trí tưởng tượng, những cảm xúc của trẻ, tính liên hệ thực tiễn, sáng tạo phù hợp với từng nội dung của bài mà trẻ không bị áp đặt một cách gò bó. Bản thân tôi luôn học hỏi các đồng nghiệp và thực hành, kiến tập các chuyên đề ở trường, thành phố và tự bồi dưỡng mình để có thêm nhiều kinh nghiệm. Qua việc áp dụng một số biện pháp trong và ngoài giờ học, lớp tôi chất lượng về môn làm quen văn học tăng lên rõ rệt, các cháu rất thích học môn này, rất mạnh dạn, chủ động tham gia vào các hoạt động không chỉ có làm quen văn học mà ở cả các môn học khác.

30

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:

3.1. Kết luận: Sau sáu tháng nghiên cứu và thử nghiệm đề tài, tôi thấy việc lựa chọn hình thức cho trẻ làm quen với văn học là rất quan trọng. Nó quyết định đến sự thành công của giáo viên khi tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với văn học, đồng thời giáo viên cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm sau mỗi lần tổ chức những hoạt động đó. Và trong những năm tiếp theo, khi tiếp tục thực hiện đề tài này, kết quả trên trẻ cũng như mục đích của các hoạt động sẽ đạt tốt hơn. Tôi thấy rằng vận dụng một số hình thức đó sẽ giúp cho trẻ năng động, tích cực, tự tin, mạnh dạn hơn trong cuộc sống, vốn kinh nghiệm, vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh, về tình cảm, về mối quan hệ trong xã hội phong phú hơn. Đặc biệt là khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học, khả năng đọc, kể diễn cảm tác phẩm ở trẻ được tiến bộ rõ rệt. Thông qua các tác phẩm văn học giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, làm phong phú vốn từ và khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ. Đa số trẻ đã thuộc tác phẩm và thể hiện tác phẩm diễn cảm, rõ ràng và 100% số trẻ rất hứng thú với các hoạt động có liên quan đến văn học.

Trong quá trình thực hiện đề tài tôi thấy có một số tồn tại như sau: Đề tài này không chỉ được thử nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động của tôi mà còn dựa trên sự đánh giá góp ý của hiệu phó phụ trách chuyên môn và một số giờ hoạt động chung của giáo viên cùng lớp, do đó việc đánh giá có thể còn chung chung. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài này vào những năm tiếp theo sẽ giúp tôi đánh giá được kết quả của đề tài một cách cụ thể hơn. Trong năm nay, đề tài được thử nghệm chủ yếu ở một lớp và trong những năm sau, khi tiếp tục thực hiện đề tài này tôi sẽ có sự thử nghiệm đối với trẻ lớp khác trong khối.

Từ những vốn kinh nghiệm tích luỹ ấy, tôi đã áp dụng và có hiệu quả ở lớp mình nhằm hình thành ở trẻ những yếu tố của một nhân cách phát triển toàn diện, hài hoà, đó là sự phát triển về thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Góp phần đào tạo thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước thành những con người phát triển toàn diện, vì trẻ em hôm nay là thế giới của ngày mai.

Chúng ta hãy hành động bằng những việc làm cụ thể để bảo vệ và giữ gìn di sản văn hoá tinh thần của dân tộc và như vậy một thế giới trẻ thơ mới thực sự được phát triển toàn diện về mọi mặt Đức - Trí - Thể - Mỹ

Giáo viên phải học tập, rèn luyện bằng nhiều hình thức trong chuyên môn, kịp

thời cập nhật các thông tin làm phong phú tâm hồn và nâng cao về mọi mặt.

Phải có lòng yêu nghề mến trẻ, hiểu được tâm lý trẻ và khả năng nhận biết của

trẻ từ đó để có biện pháp giáo dục phù hợp với từng cá nhân trẻ.

31

Giáo viên phải yêu thích văn học, có khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học, có khả năng cảm nhận cái hay cái đẹp trong các tác phẩm thơ chuyện, hiểu và biết thể hiện bằng chính cảm xúc của mình, phải xác định được giọng đọc của từng bài thơ, từng câu chuyện.

Bản thân phải rèn luyện giọng đọc kể diễn cảm phối hợp với ánh mắt cử chỉ điệu bộ minh hoạ phù hợp với nội dung tác phẩm. Nhằm thu hút sự chú ý tập trung của trẻ.

Phải chú ý đầu tư nghiên cứu tìm ra các phương pháp hướng dẫn trẻ có sáng

tạo phù hợp mang lại hiệu quả cao và lồng ghép vào các lĩnh vực khác phù hợp.

Phải biết xử lý các tốt các tình huống sư phạm ,luôn tìm cách tạo tình huống cho trẻ để trẻ có cơ hội bộc lộ năng khiếu, tạo cơ hội để trẻ được thực hiện sở thích của mình và tạo cơ hội cho trẻ. Biết phối hợp tốt với phụ huynh học sinh trong việc giáo dục trẻ.

Khả năng cảm thụ văn học của trẻ được nâng cao. Vốn từ của trẻ tăng lên rõ rệt, trẻ tự tin trong giao tiếp, trẻ mạnh dạn hơn. Trẻ thích xem sách và khám phá thế giới xung quanh thông qua sách và các câu chuyện mà trẻ được nghe, được làm quen. Thông qua hoạt động làm quen văn học trẻ linh hoạt, nhanh nhẹn và tiếp thu các kiến thức ở các hoạt động học khác một cách dễ dàng hơn.

Giáo dục trẻ ở độ tuổi mầm non là một việc làm khó, giáo dục trẻ có chất lượng lại càng khó hơn. Là một giáo viên đứng lớp, tôi hết sức tâm huyết với công việc của mình và cố gắng tìm tòi những giải pháp hữu hiệu để cùng với tập thể nhà trường thực hiện tốt đề tài. Có thể những giải pháp trên chưa phải là giải pháp có hiệu quả tuyệt đối nhưng đối với bản thân tôi nó đã mang lại kết quả tương đối tốt, nó làm thay đổi chất lượng hoạt động làm quen văn học trong lớp. Chất lượng học sinh làm quen với tác phẩm văn học được nâng cao, phụ huynh quan tâm tới việc hết hợp giáo dục con trẻ. Trẻ hứng thú, hoạt bát, nhanh nhẹn, giao tiếp mạnh dạn hơn, sử dụng vốn từ có biểu cảm, tinh tế hơn..

Qua thời gian nghiên đề tài bản thân tôi đá có số kinh nghiệm như sau: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo chuyên đề cụ thể, hợp lý và khoa học. -Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên thực hiện chuyên đề

thông qua tập huấn lý thuyết và xây dựng các tiết dạy thực hành.

-Chú trọng công tác đầu tư và chỉ đạo điểm để triển khai ra đại trà. -Tích cực tuyên truyền vận động phụ huynh và cộng đồng cùng phối hợp

trong quá trình thực hiện chuyên đề.

-Trang bị cơ sở vật chất, phát động làm đồ dùng đồ chơi, sưu tầm, sáng tác thơ, truyện trong giáo viên, phụ huynh, cộng đồng và trẻ để tổ chức hoạt động và xây dựng môi trường học tập có chất lượng.

32

-Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chuyên đề của giáo viên để kịp thời bổ

sung, điều chỉnh.

-Tích cực tổ chức thao giảng, hội thi, hội thảo chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng và vận động nhiều thành phần tham gia, có khen thưởng kịp thời, đúng mức.

-Sau mỗi giao đoạn đều tổ chức sơ kết, tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm

nghiêm túc và xây dựng phương hướng hoạt động hợp lý hơn cho thời gian tới.

-Trên đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong trong lớp 5TB và thu được một số thành công nhất định trong quá trình thực hiện đề tài. Có thể trong quá trình thực hiện còn thiếu sót kính mong quý cấp bổ sung, góp ý để việc thực hiện đề tài của tôi được hoàn thiện hơn

3.2. Kiến nghị: Tổ chức các chuyên đề giáo dục làm quen vơi văn học, tổ chức hội giảng, các lần sinh hoạt chuyên đề, thường xuyên tổ chức các ngày hội, ngày lễ cho học sinh được tham gia để phát huy được năng khiếu ở trẻ. Từ đó chị em có điều kiện bổ sung thêm những kinh nghiệm nhằm giáo dục trẻ được tốt hơn.

Đề nghị nhà trường tham mưu với cấp trên bổ xung thêm Máy tính, máy

chiếu, các trang thiết bị phục vụ cho môn học : Tranh, ảnh, thơ truyện …

Phòng Giáo Dục cần mở thêm lớp tập huấn, chuyên đề, bồi dưỡng mẫu cho

giáo viên học hỏi chuyên môn nghiệp vụ nâng cao trình độ

Phòng Giáo Dục- Ban Giám Hiệu nhà trường cần tổ chức các cuộc thi “Đóng kịch, kể truyện, đọc thơ diễn cảm” cho trẻ tham gia, học hỏi thể hiện khẳng định mình.

Để trẻ tiếp thu văn học ngày càng tốt hơn, hứng thú hơn. Bản thân tôi rất mong muốn các cấp lãnh đạo quan tâm nhiều hơn nữa trong việc bổ sung thêm trang thiết bị, đồ dùng cho môn văn học để giáo viên có điều kiện tổ chức tôt các hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.

Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, mặc dù được sự quan tâm giúp đỡ của các chị em đồng nghiệp và đặc biệt của giáo viên chủ nhiệm lớp. Nhưng không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của ban lãnh đạo cấp trên và các bạn đồng nghiệp để sáng kiến ngày càng tốt hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Định Trung, ngày 10 tháng 12 năm2013 Người viết sáng kiến

33

Nguyễn Thị Thu Kim Hà

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục trẻ mầm non cho trẻ 5 - 6 tuổi. Nhà xuất bản giáo dục. 2. Trang www Mầm non. Com.vn 3. Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học. 4.Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua bộ môn LQVH.

5. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý và giáo viên mầm non 2 năm học 2012-2013. . Nhà xuất bản giáo dục.

34

35