Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO AN GIANG TRƢỜNG THPT CHU VĂN AN Tổ: GDCD-HN-NGLL.
ĐỀ TÀI
PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY- HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
( BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG )
PL
CD
Người thực hiện: Ngô Thành Y – ĐT: 0919.716920
Năm học: 2018 - 2019
1
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
MỤC LỤC ------------------------
Nội dung
Trang
I. Sơ lƣợc lý lịch tác giả II. Tên sáng kiến III. Lĩnh vực IV. Mục đích yêu cầu sáng kiến 1. Thực trạng ban đầu trƣớc khi áp dụng sang kiến 2. Sự cần thiết phải áp dụng sang kiến 3. Nội dung sang kiến 3.1. Cơ sở lí luận 3.2. Giải pháp thực hiện Quan niệm về phƣơng pháp nêu vấn đề Tình huống có vấn đề 3.3. Trong dạy học nêu vấn đề môn GDCD có thể phân thành bốn
1 1 1 1 1 2 2 2 3 3 4 6
Số TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
mức độ Mức độ thứ nhất Mức độ thứ hai Mức độ thứ ba Mức độ thứ tƣ V. Hiệu quả đạt đƣợc của sang kiến VI. Mức độ ảnh hƣởng của sang kiến VII. Kết luận
13 14 15 16 17 18 19
7 7 9 10 11 13 13
2
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
PHỤ LỤC 1:
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU ĐĂNG KÝ SÁNG KIẾN
1. Họ và tên ngƣời đăng ký: NGÔ THÀNH Y. 2. Chức vụ: Giáo viên. 3. Đơn vị công tác: Trƣờng THPT Chu Văn An. 4. Nhiệm vụ đƣợc giao trong đơn vị: Giảng dạy lớp 10C1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11; 12C 1, 9, 10.
- Tên đề tài sáng kiến: “PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN – BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”. - Lĩnh vực đề tài sáng kiến: Phƣơng pháp dạy – học.
5. Tóm tắt nội dung sáng kiến:
- Thực trạng ban đầu trƣớc khi áp dụng sáng kiến. - Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến. - Nội dung sáng kiến, bao gồm: + Cơ sở lí luận + Giải pháp thực hiện. - Hiệu quả đạt đƣợc. - Mức độ ảnh hƣởng của sáng kiến. - Kết luận.
7. Thời gian, địa điểm, công việc áp dụng sáng kiến:
- Thời gian: Từ năm 2014 đến nay (2019). - Địa điểm: Tại trƣờng THPT Chu Văn An, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. - Công việc: áp dụng phƣơng pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn GDCD nói chung và nhất là nội dung công dân với pháp luật lớp 12.
Tác giả
8. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Đề tài “PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN – BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG” là những lớp do tôi trực tiếp giảng dạy, chủ yếu là học sinh lớp 12 trƣờng THPT Chu Văn An. 9. Kết quả đạt đƣợc: Đa số học sinh đều thấy thoải mái, thích giờ GDCD, nắm kiến thức và khả năng vận dụng kiến thức pháp luật tốt để giải quyết hiệu quả những vấn đề có liên quan trong cuộc sống. An Giang, ngày 09 tháng 02 năm 2019 Ngô Thành Y
PHỤ LỤC 2:
3
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƢỜNG THPT CHU VĂN AN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
An Giang, ngày 19 tháng 02 năm 2019
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến: “PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY
HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN – BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”.
I. Sơ lƣợc lý lịch tác giả:
- Họ và tên: Ngô Thành Y; Nam, nữ: Nam.
- Ngày tháng năm sinh: 09/9/1969
- Nơi thƣờng trú: ấp Vàm Nao, Xã Tân Trung, Huyện Phú Tân, Tỉnh An Giang.
- Đơn vị công tác: Trƣờng THPT Chu Văn An.
- Chức vụ hiện nay: Tổ trƣởng chuyên môn, giáo viên dạy lớp.
- Lĩnh vực công tác: Tổ trƣởng chuyên môn, giảng dạy.
II. Tên sáng kiến: “PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN – BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”.
III. Lĩnh vực: Phƣơng pháp dạy - học.
IV. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu trƣớc khi áp dụng sáng kiến:
Môn giáo dục công dân (GDCD) là một môn khoa học xã hội có vai trò quan trọng
trong việc trang bị cho học sinh hệ thống tri thức khoa học cơ bản, phổ thông, thiết thực về đạo
đức, pháp luật, đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nƣớc. Qua đó
hình thành và phát triển ở học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiến bộ và từng
bƣớc hình thành cho học sinh thói quen, kỹ năng vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống.
Chúng ta sẽ không đạt đựợc những mục tiêu đó nếu nhƣ ngƣời dạy vận dụng không tốt các
phƣơng pháp trong giảng dạy môn GDCD. Nhất là áp dụng các phƣơng pháp để học sinh liên
hệ, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, trong đó có “phƣơng pháp nêu vấn đề trong
giảng dạy môn GDCD”
Với những mục tiêu, yêu cầu của môn GDCD nhƣ đã nêu thì việc áp dụng các phƣơng
4
pháp dạy học của giáo viên ở trƣờng THPT trong thời gian qua chƣa đạt đƣợc hiệu quả giáo
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
dục của chƣơng trình đã đặt ra. Vì một trong những trọng tâm của đổi mới chƣơng trình, sách
giáo khoa là tập trung vào đổi mới phƣơng pháp dạy – học, thực hiện dạy - học dựa vào hoạt
động tích cực, chủ động của học sinh dƣới sự tổ chức, hƣớng dẫn của giáo viên nhằm phát
triển tƣ duy độc lập, sáng tạo, góp phần hình thành phƣơng pháp và nhu cầu tự học, tạo niềm
tin và hứng thú cho học sinh trong học tập. Thì việc vận dụng “phƣơng pháp nêu vấn đề trong
dạy – học môn GDCD” là cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến:
Để góp phần đào tạo những con ngƣời mới phát triển toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu
của địa phƣơng, của đất nƣớc trong tình hình mới.
Để nâng cao chất lƣợng dạy - học cho phù hợp với mục tiêu của giáo dục hiện nay trong
tình hình mới, một yêu cầu đƣợc đặt ra cho ngƣời giáo viên là phải đổi mới phƣơng pháp dạy
học, chuyển phƣơng pháp dạy học từ lấy giáo viên làm trung tâm sang lấy học sinh làm trung
tâm, phát huy tích tích cực chủ động của học sinh trong quá trình học. Môn GDCD ở trƣờng
THPT cũng phải đáp ứng yêu cầu đó. Đổi mới phƣơng pháp dạy học đối với môn GDCD thực
chất là giải quyết vấn đề: Làm thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động tìm hiểu kiến thức
của học sinh? Hình thành và phát triển kỹ năng học tập bộ môn GDCD cho học sinh, giáo viên
cần đặt cho học sinh trƣớc những tình huống có vấn đề thực tế, sinh động nhằm kích thích sự
tìm tòi, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập.
Đó là cách dạy học nêu vấn đề, nó đáp ứng đƣợc phần nào yêu cầu của nền giáo dục
hiện đại. Ngƣời thầy giữ vai trò là ngƣời hƣớng dẫn, học sinh chủ động, tự giác trong học tập.
Với một bài soạn đƣợc thiết kế theo nhiều tình huống khác nhau xoay quanh một chủ đề, bài
học với một vài đơn vị kiến thức nhất định, giáo viên sẽ điều khiển toàn bộ quá trình học tập,
tổ chức để học sinh tham gia tích cực vào việc tự tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến thức, đồng thời
cũng tự đánh giá về những kết quả tiếp thu của bản thân. Đây là phƣơng pháp đƣợc vận dụng
nhiều không chỉ riêng bộ môn GDCD mà còn trong các môn khoa học khác nữa.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận đổi mới phƣơng pháp dạy - học và kinh nghiệm của bản
thân trong thực tế giảng dạy vừa qua, tôi xin ghi nhận lại những việc đã và đang làm của bản
thân đạt đƣợc những kết quả nhất định trong việc áp dụng “Phƣơng pháp nêu vấn đề trong
quá trình giảng dạy môn GDCD ở bậc THPT”.
3. Nội dung sáng kiến:
3.1. Cơ sở lí luận: Luật giáo dục nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005
đƣợc Quốc Hội thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 (ở điều 5, khoản 2) đã ghi nhận:
5
“Phƣơng pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tƣ duy sáng tạo của
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
ngƣời học; bồi dƣỡng cho ngƣời học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập
và ý chí vƣơn lên”
Bản chất của dạy - học là quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. Sự
tác động qua lại của quá trình trên làm cho các nhà khoa học sƣ phạm nghiên cứu và xây dựng
thành các phƣơng pháp dạy học. Trong đó phƣơng pháp “Nêu vấn đề” trong giảng dạy là một
thành tựu của lí luận về phƣơng pháp dạy - học. Các phƣơng pháp dạy cũ chủ yếu làm cho học
sinh dễ hiểu, dễ nhớ, thuộc lòng các đơn vị của kiến thức từng bài học, chủ đề nhất định. Giáo
viên dùng mọi cách để tác động vào học sinh sao cho trong một thời gian xác định học sinh
tiếp thu một khối lƣợng tri thức nhất định. Với phƣơng pháp giảng dạy nhƣ vậy, thì học sinh sẽ
tiếp thu tri thức một cách thụ động, không sáng tạo khó vận dụng tri thức đã tiếp thu vào thực
tế lao động, cuộc sống hằng ngày.
“Phƣơng pháp nêu vấn đề” trong giảng dạy sẽ kích thích nhu cầu tiếp nhận tri thức của
học sinh, từng bƣớc hình thành và phát triển tƣ duy độc lập, sáng tạo, biết tự đặt ra và giải
quyết những vấn đề của cuộc sống. “Phƣơng pháp nêu vấn đề trong giảng dạy môn GDCD”
ngoài việc cung cấp tri thức bộ môn cho học sinh, nó còn xây dựng và phát triển thói quen vận
dụng tri thức đã có để giải quyết những vấn đề, tình huống trong cuộc sống và nắm đƣợc bản
chất của sự vật, hiện tƣợng trong thế giới khách quan.
3.2. Giải pháp thực hiện
Giảng dạy môn GDCD ở trƣờng THPT là một trong những hoạt động giáo dục và giáo
dƣỡng của giáo viên, thông qua việc truyền đạt kiến thức để tác động đến học sinh nhằm hình
thành nhân cách cho các em. “Phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD”, có vai
trò góp phần thực hiện thành công mục tiêu đổi mới phƣơng pháp dạy - học môn GDCD. Sử
dụng các phƣơng pháp dạy - học môn GDCD là phải chú ý phát huy tính độc lập, sáng tạo của
học sinh để các em có thể xử lí tốt với mọi tình huống và tự giải quyết các vấn đề của cuộc
sống đặt ra. Giáo viên không chỉ có nhiệm vụ truyền thụ những kết luận có sẵn mà nêu ra
những tình huống có vấn đề để học sinh giải quyết.
* Quan niệm về phƣơng pháp nêu vấn đề:
“Đặt ra” và “giải quyết vấn đề” là những thành tố tất yếu của dạy học nêu vấn đề.
Với tƣ cách là kết quả, giải quyết vấn đề sẽ hình thành ở học sinh sự hiểu biết bản chất của
hiện tƣợng hay sự kiện nào đó. Đƣơng nhiên, việc đặt ra và giải quyết vấn đề học sinh chỉ có
thể đạt đƣợc kết quả dƣới sự hƣớng dẫn của giáo viên và cùng với giáo viên thực hiện. Do đó,
giảng dạy nêu vấn đề là sự giải thích một hiện tƣợng hay một sự kiện nào đó thông qua việc
6
đặt ra và giải quyết vấn đề do học sinh thực hiện cùng với giáo viên và dƣới sự hƣớng dẫn của
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
giáo viên. Nhƣ vậy, hạt nhân của giảng dạy nêu vấn đề là việc hình thành vấn đề, ở đây vai trò
của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên có thể dùng hệ thống câu hỏi phù hợp với nội dung
kiến thức của bài học/chủ đề và đối tƣợng học sinh để đƣa các em vào tình huống có vấn đề,
hoặc dƣới sự hƣớng dẫn của giáo viên học sinh có thể tự đƣa mình vào tình huống có vấn đề.
Kết quả của việc giảng dạy nêu vấn đề không chỉ là tổng số các đơn vị tri thức mà học sinh thu
nhận đƣợc mà còn hình thành ở học sinh ý nghĩa bên trong của các hiện tƣợng, sự kiện tức là
hiểu bản chất của sự vật, hiện tƣợng, sự kiện. Trong khi giải quyết vấn đề, tùy theo mức độ câu
hỏi và trình độ của học sinh mà giáo viên có thể gợi ý hoặc không gợi ý để học sinh giải quyết
vấn đề. Nhƣng quan trọng nhất là sau khi học sinh giải quyết vấn đề xong, giáo viên phải nhận
xét, đánh giá, hệ thống hóa tri thức cần thu nhận, sản phẩm cần đạt đƣợc là những gì.
* Tình huống có vấn đề: Là sự mâu thuẫn giữa những tri thức đã biết với những tri thức chƣa
biết, mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết đƣợc nhờ vào sự tích cực trong suy nghĩ và sự sáng
tạo của học sinh trong học tập. Việc xác định đƣợc các tình huống có vấn đề trong bài dạy/ chủ
đề giữ vai trò quyết định sự thành công của giáo viên khi thực hiện “phƣơng pháp dạy - học
nêu vấn đề”. Trên cơ sở mục đích - yêu cầu của từng bài học/ chủ đề giáo viên sẽ xác định
những kiến thức nào là trọng tâm mà thầy và trò cùng giải quyết.
Ví dụ 1: Bài 1: “pháp luật và cuộc sống” (lớp 12). Giáo viên có thể nêu vấn đề thế này:
Pháp luật có phải là những điều cấm đoán, làm hạn chế tự do của con ngƣời không?
- Vấn đề đƣợc đặt ra là: thoáng qua thì pháp luật là những điều cấm đoán làm hạn chế,
mất tự do của con ngƣời, nhƣng vấn đề đặt ra cho học sinh giải quyết “Pháp luật có phải là
những điều cấm đoán làm hạn chế tự do của con ngƣời không ?”
- Hƣớng giải quyết vấn đề: giáo viên tiếp tục nêu vấn đề “Trong xã hội hiện nay nếu nhƣ
không có luật giao thông đƣờng bộ thì sẽ thế nào ? Vì sao nhƣ thế ? hoặc giáo viên có thể nêu
vấn đề khác nhƣ: Trong gia đình cha mẹ không quy định gì về thời gian học hành, vui chơi,
giải trí,...nhƣng sau đó bất ngờ kiểm tra đột xuất và phạt nặng vì vi phạm những qui định “Tùy
hứng”, “chủ quan, áp đặt” của cha mẹ hoặc ở trƣờng không có nội qui, qui định thì việc học
tập, vui chơi của các em có thuận lợi không ? Vì sao nhƣ vậy ?
- Sau đó giáo viên kết luận hoặc hƣớng dẫn học sinh kết luận vấn đề: Pháp luật không
phải là những điều cấm đoán, làm hạn chế tự do của con ngƣời mà nó còn tạo điều kiện thuận
lợi để mỗi con ngƣời đều đƣợc tự do trong lao động, học tập, vui chơi - giải trí, nghiên cứu
khoa học, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong khuôn khổ của pháp luật.
Ví dụ 2 : Bài 2: “Thực hiện pháp luật” (lớp 12). Giáo viên có thể nêu vấn đề để củng cố
7
cả bài học: Hãy nêu một tình huống pháp luật có chứa đủ các hình thức thực hiện pháp luật ?
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
- Vấn đề đặt ra là: Học sinh phải vận dụng kiến thức môn Ngữ Văn và kiến thức pháp
luật của môn GDCD để xây dựng một tình huống và chỉ ra bốn hình thức thực hiện pháp luật
trong tình huống đó.
- Hƣớng giải quyết vấn đề: Giáo viên lƣu ý cho học sinh phải hiểu đƣợc nội dung của bốn
hình thức thực hiện pháp để từ đó đƣa vào tình huống cho phù hợp. Từ sử dụng pháp luật, thi
hành pháp luật, tuân thủ pháp luật đến áp dụng pháp luật một cách hợp lôgic, sát thực tiễn cuộc
sống.
- Sau đó giáo viên kết luận hoặc hƣớng dẫn học sinh kết luận vấn đề: Bằng cách lấy một
tình huống của học sinh làm tốt để chia sẻ cho cả lớp tham khảo. Hoặc giáo viên nêu ra một
tình huống pháp luật gợi ý thế này: “Ông Trần Văn T vừa trúng đƣợc hai vé số đặc biệt. Do có
kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng nên Ông quyết định thành lập công ty TNHH MTV xây
dựng “ TVT” và đƣợc cơ quan có thẩm quyền công nhận; Công ty “ TVT” thực hiện việc mở
sổ kế toán đúng quy định của pháp luật và đóng thuế đúng số, đủ kì; do chủ quan tin ngƣời trợ
lí nên Ông Trần Văn T không kiểm tra việc thuê lao động, để cho ngƣời chƣa thành niên làm
những công việc nặng nhọc trên công trƣờng và bị thanh tra xây dựng xử phạt về hành vi
nhận ngƣời chƣa thành niên làm những công việc nặng nhọc trái với luật lao động”.
* Bốn hình thức thực hiện pháp luật trong tình huống trên có thể nêu ra thế nhƣ
thế này:
+ Hình thức thực hiện pháp luật: Là Ông Trần Văn T thành lập công ty TNHH xây dựng
“ TVT” và đƣợc cơ quan có thẩm quyền công nhận - quyền của Ông T.
+ Hình thức thi hành pháp luật: Là Công ty “ Văn T” thực hiện việc mở sổ kế toán đúng
quy định của pháp luật về thuế và đóng thuế đúng số, đủ kì - nghĩa vụ buộc mà Ông T phải
làm khi tham gia kinh doanh.
+ Hình thức tuân thủ pháp luật: Là Ông Trần Văn T sử dụng ngƣời chƣa thành niên làm
những công việc nặng nhọc trái với luật lao động đã qui định. Trong khi pháp luật về lao động
cấm sử dụng ngƣời chƣa thành niên làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm - Ông
T đã làm điều mà pháp luật cấm, không đƣợc làm.
+ Hình thức áp dụng pháp luật: Là Ông Trần Văn T, giám đốc công ty TNHH xây dựng “
TVT” bị cơ quan thanh tra xây dựng xử phạt về hành vi sử dụng ngƣời lao động chƣa đủ tuổi
theo qui định của luật lao động để làm công việc nặng nhọc - thanh tra xây dựng là cơ quan có
8
thẩm quyền căn cứ vào qui định của pháp luật để xử lí vi phạm.
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
* Xây dựng hệ thống câu hỏi tình huống có vấn đề. Hệ thống câu hỏi bao gồm câu hỏi tái
hiện, so sánh, phân tích, khái quát hóa, tìm tòi phát hiện....để dẫn dắt học sinh giải quyết vấn
đề do giáo viên đặt ra.
Ví dụ : Bài 2: “Thực hiện pháp luật” (lớp 12) phần “Bản chất xã hội của pháp luật”
Giáo viên có thể nêu các câu hỏi có vấn đề sau và yêu cầu học sinh giải quyết:
- Theo em, hai Nhà nƣớc có cùng một chế độ chính trị - xã hội thì pháp luật có giống
nhau hoàn toàn hay không ? Vì sao?
- Ở một quốc gia, cùng một giai cấp thống trị thì ở những giai đoạn khác nhau pháp
luật có khác nhau hay không ? Vì sao?
Vấn đề đặt ra là: ở hai nhà nƣớc nhƣng có cùng một chế độ chính trị - xã hội pháp luật
có giống nhau không ? Vì sao ? Và ở trong một đất nƣớc, cùng một giai cấp thống trị thì ở
những giai đoạn khác nhau pháp luật có khác nhau hay không ? Vì sao ?
Hƣớng giải quyết vấn đề: Học sinh nắm đƣợc lý luận về Nhà nƣớc và pháp luật đã học
từ phần 2 lớp 11, những kiến thức của lớp 12, liên hệ thực tế nƣớc ta và các vốn kinh nghiệm
sống của các em sẵn có để giải quyết hai câu hỏi nêu trên, để từ đó đi vào nội dung “Bản chất
xã hội của pháp luật”
Sau đó giáo viên kết luận hoặc hƣớng dẫn học sinh kết luận vấn đề:
+ Những Nhà nƣớc có chế độ chính trị - xã hội giống nhau nhƣng pháp luật do các nhà
nƣớc đó ban hành không hoàn toàn giống nhau, vì các nhà nƣớc đó tồn tại trong những điều
kiện kinh tế - xã hội khác nhau, có những điều kiện lịch sử, phong tục tập quán và lối sống
khác nhau. (Nêu ví dụ cụ thể để chứng minh).
+ Ở cùng một quốc gia, cùng một giai cấp thống trị thì ở những giai đoạn phát triển
khác nhau pháp luật luôn có sự thay đổi. Vì thực tiễn đời sống xã hội luôn vận động và không
ngừng thay đổi, làm cho các quan hệ xã hội cũng thay đổi theo. Do đó, pháp luật phải thay đổi
theo cho phù hợp xu thế phát triển của xã hội và những biến đổi trong đời sống. Giáo viên có
thể nêu hoặc yêu cầu học sinh nêu các ví dụ để chứng minh cho sự thay đổi của thực tiễn đời
sống xã hội làm cho pháp luật thay đổi theo.
* Học sinh nêu ra những cách giải quyết tình huống có vấn đề. Giáo viên ghi lên bảng và
cho học sinh chứng minh hay bác bỏ các cách giải quyết của học sinh. Dƣới sự hƣớng dẫn của
giáo viên, học sinh sẽ đối chiếu cách giải quyết của học sinh với kết quả cuối cùng để kết luận
nội dung bản chất xã hội của pháp luật nhƣ ví dụ trên và hƣớng dẫn học sinh ghi bài.
3.3. Trong “dạy - học nêu vấn đề môn GDCD - bậc THPT” có thể phân thành bốn mức
9
độ sau đây:
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
Mức độ thứ nhất: giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện
cách giải quyết vấn đề theo hƣớng dẫn của giáo viên. giáo viên đánh giá kết quả làm việc của
học sinh.
Ví dụ: ở bài 1, lớp 12, phần 1. b- (các đặc trƣng của pháp luật/ tính quyền lực bắt buột
chung), giáo viên nêu vấn đề nhƣ thế này: Nếu không đảm bảo tính quy phạm phổ biến của
pháp luật thì điều gì sẽ xảy ra ? Nhà nƣớc sẽ làm gì đối với những ngƣời xử sự không đúng
với những qui định của pháp luật ?
Sau khi nêu vấn đề, giáo viên hƣớng dẫn học sinh cách giải quyết vấn đề, thông qua thực
tế cuộc sống. Bằng những ví dụ cụ thể hãy nêu ra những việc xảy ra nếu tính quy phạm phổ
biến của pháp luật không đƣợc thực hiện ? Nhà nƣớc làm gì khi có ai đó vi phạm pháp luật ?
Học sinh trả lời theo hƣớng dẫn của giáo viên, giáo viên ghi nhận những ý kiến của các
em trên bảng, cuối cùng giáo viên đánh giá kết quả của học sinh và kết luận nhƣ sau:
+ Nếu không đảm bảo đƣợc tính quy phạm phổ biến của pháp luật sẽ không đảm bảo
đƣợc sự công bằng, bình đẳng trong quá trình thực hiện pháp luật trong xã hội.
+ Những ngƣời xử sự không đúng với những qui định của pháp luật sẽ bị cơ quan Nhà
nƣớc có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả cƣỡng chế, để buộc họ phải tuân
theo hoặc khắc phục hậu quả do việc làm trái pháp luật của họ đã gây ra.
Mức độ thứ hai: giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề.
Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên, khi cần giáo viên và
học sinh cùng đánh giá.
Ví dụ 1: ở bài 4, lớp 12, phần 3. bình đẳng trong kinh doanh, giáo viên nêu vấn đề: chính
sách và luật bình đẳng giới nƣớc ta qui định “Ƣu tiên hỗ trợ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ”,
theo em có mâu thuẫn với qui định nam, nữ bình đẳng trong kinh doanh hay không ? Vì sao ?
Giáo viên gợi ý để học sinh hiểu đựợc chính sách, luật luật đẳng giới và thực tế trong gia
đình và ngoài xã hội để các em giải quyết vấn đề, giáo viên kịp thời hỗ trợ để các em đi đúng
hƣớng và tự đánh giá, khi cần thì giáo viên có thể cùng học sinh đánh giá kết quả.
Học sinh và giáo viên đánh giá theo các nội dung sau đây: Chính sách bình đẳng giới
nƣớc ta quy định “Ƣu tiên hỗ trợ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ”, không mâu thuẫn với quy
định bình đẳng nam, nữ trong kinh doanh. Bởi vì, ngƣời phụ nữ có những đặc điểm về cơ thể,
sinh lí và các chức năng làm mẹ, làm vợ trong gia đình đã ảnh hƣởng không nhỏ đến việc tham
gia hoạt động kinh doanh của phụ nữ. Nên chính sách nhà nƣớc qui định nhƣ thế để đảm bảo
10
bình đẳng giữa nam và nữ trong kinh doanh.
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
Ví dụ 2: ở bài 2, lớp 12, phần 2. vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí, giáo viên nêu
vấn đề để kiểm tra kiến thức cũ hoặc củng cố bài: Hãy nêu một tình huống pháp luật và chỉ ra
các dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong tình huống đó.
Vấn đề đặt ra là: Học sinh phải vận dụng kiến thức liên môn để xây dựng một tình huống
và chỉ ra ba dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong tình huống đó.
Hƣớng giải quyết vấn đề: Giáo viên lƣu ý học sinh phải hiểu thế nào là hành vi trái pháp
luật, thế nào là ngƣời có năng lực trách nhiệm pháp lí và ngƣời vi phạm pháp luật phải có lỗi là
thế nào, từ đó xây dựng một tình huống sát thực tế cuộc sống nhƣng có đủ ba dấu hiệu của vi
phạm pháp luật trong đó.
Sau đó giáo viên kết luận hoặc hƣớng dẫn học sinh kết luận vấn đề: Bằng cách lấy một
tình huống của học sinh làm tốt, yêu cầu học sinh đó chia sẻ cho cả lớp hoặc giáo viên nêu ra
một tình huống pháp luật gợi ý thế này: “Nguyễn Lê Trần, 21 tuổi là thợ hồ ở quê. Một hôm,
sau khi dự tiện mừng nhà mới, anh chạy xe gắn máy về nhà cùng một ngƣời bạn tên là Phan,
giữa đƣờng Trần gặp một ngƣời bạn cũ và kêu ngƣời bạn đó lên xe để trở về. Lâm nói: Anh ấy
không có nón bảo hiểm và nếu trở thêm một ngƣời nữa là quá số ngƣời qui định sẽ bị phạt,
nhƣng Trần không nghe và nói: Lúc này trƣa rồi chắc không còn cảnh sát nữa đâu và cứ chạy
tiếp. Sau một đoạn đƣờng thì bị cánh sát giao thông dừng xe, lập biên bản xử phạt vi phạm
hành chánh”
* Ba dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật trong tình huống trên có thể nêu ra nhƣ sau:
+ hành vi trái pháp luật: Là Nguyễn Lê Trần, 21 tuổi lái xe khi đã uống rƣợu, chở ba,
chở ngƣời không đội nón bảo hiểm. Đã vi phạm qui định luật giao thông đƣờng bộ;
+ Do ngƣời có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện: Là Nguyễn Lê Trần, 21 tuổi, bình
thƣờng (làm thợ xây dựng) là ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm pháp lí theo qui định của pháp
luật;
+ Ngƣời vi phạm pháp luật phải có lỗi: Nguyễn Lê Trần biết lái xe khi đã uống rƣợu, chở
ba, chở ngƣời không đội nón bảo hiểm là vi phạm luật giao đƣờng bộ, nhƣng vẫn cứ vi phạm.
(Trần không nghe Phan khuyên và nói: “lúc này trƣa rồi chắc không còn cảnh sát nữa đâu”
và cứ chạy tiếp)
Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh hiểu thế nào là hành vi trái pháp luật, ngƣời có năng
lực trách nhiệm pháp lí và thế nào là có lỗi, để củng cố bài thông qua ba dấu hiệu vi phạm
11
pháp luật trong tình huống.
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
Mức độ thứ ba: giáo viên cung cấp thông tin có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định
vấn đề nảy sinh , tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp, học sinh thực hiện cách giải
quyết vấn đề, giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Ví dụ 1: ở bài 6, lớp 12, phần 1.b- quyền đƣợc pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của công dân, giáo viên nêu vấn đề: Tính mạng, sức khỏe có vai trò nhƣ
thế nào đối với đời sống con ngƣời ? Nếu tính mạng của con ngƣời bị đe dọa thì dẫn đến
những hậu quả gì ?
Học sinh suy nghĩ, phát hiện vấn đề, tự tìm giải pháp để giải quyết vấn đề theo những
thông tin mà giáo viên nêu và đi đến tự kết kuận.
Cuối cùng giáo viên và học sinh cùng đánh giá kết quả nhƣ sau:
+ Tính mạng, sức khỏe có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống con ngƣời, nó là tiền
đề cho tất cả các hoạt động của con ngƣời. Nếu tính mạng, sức khỏe của con ngƣời bị đe dọa
thì mọi ngƣời trong xã hội sẽ không an tâm lao động, học tập và vui chơi giải trí và sẽ dẫn đến
xã hội mất ổn định, thiếu lành mạnh, không phát triển đƣợc.
+ Trong xã hội chúng ta tính mạng và sức khỏe của con ngƣời đƣợc đảm bảo an toàn,
không ai đƣợc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của ngƣời khác.
+ Giáo viên có thể dẫn chứng các quy định của pháp luật nƣớc ta về quyền đƣợc đảm bảo
an toàn về tính mạng, sức khỏe để tăng thêm tính thuyết phục của phần kết luận.
Ví dụ 2: ở bài 8, lớp 12, phần 1. quyền học tập sáng tạo và phát triển của công dân, giáo
viên nêu vấn đề: em có nhận xét gì về quyền quyền học tập của công dân ở nƣớc ta hiện nay ?
Học sinh suy nghĩ, phát hiện vấn đề, tự tìm giải pháp để giải quyết vấn đề theo những
thông tin mà giáo viên nêu và đi đến tự kết kuận.
Cuối cùng giáo viên và học sinh cùng đánh giá kết quả nhƣ sau:
+ Mọi công dân nƣớc ta đều có quyền học tập không hạn chế, từ bậc tiểu học, trung học,
đại học và sau đại học;
+ Mọi công dân nƣớc ta đều có quyền học bất cứ ngành nghề nào nếu phù hợp với năng
khiếu, sở trƣờng và điều kiện của gia đình của mình;
+ Mọi công dân nƣớc ta đều có quyền học thƣờng xuyên, học suốt đời. Với các loại
hình đào tạo khác nhau trong hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam;
+ Mọi công dân đều đƣợc Nhà nƣớc và xã hội đối xử công bằng về cơ hội học tập, không
phân biệt dân tộc, tôn giáo, giới tính, thành phần, điạ vị xã hội...Nhà nƣớc và xã hội có chính
12
sách khuyến học, khuyến tài.
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
Mức độ thứ tư: học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình
hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất
lƣợng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
Ví dụ 1: ở bài 7, lớp 12, phần 1.b- nội dung quyền bầu cử và ứng vào các cơ quan đại
biểu của nhân dân, học sinh có thể nêu vấn đề thế này: Tại sao pháp luật lại hạn chế quyền
bầu cử, ứng của ngƣời bị tƣớc quyền bầu cử, ngƣời đang chấp hành hình phạt tù, ngƣời mất
năng lực hành vi dân sự,....?
Giáo viên yêu cầu học sinh trong lớp giải quyết vấn đề mà bạn mình vừa nêu, giáo viên
chỉ định một vài học sinh phát biểu ý kiến, kể cả học sinh nêu vấn đề này để xem cánh giải
quyết của em nhƣ thế nào. Sau đó giáo viên yêu cầu một học sinh phát biểu tốt nhất kết luận
vấn đề, cho cả lớp góp ý bổ sung nếu có.
Sau cùng giáo viên nhận xét, nhấn mạnh vấn đề theo hƣớng sau đây: Hạn chế không cho
những đối tƣợng nêu trên bầu cử và ứng cử nhằm đảm bảo tính hiệu quả, chất lƣợng của mỗi
phiếu bầu cũng nhƣ ngƣời ra ứng cử. Phải đảm bảo cho việc bầu cử và ứng cử đạt đƣợc mục
đích đề ra là chọn đƣợc những ngƣời có tài, có đức thay mặt cho cử tri, cho nhân dân để quyết
định những vấn đề trọng đại và quản lí tốt những công việc của địa phƣơng, của đất nƣớc một
cách hiệu quả.
Ví dụ 2: ở bài 9, lớp 12, phần 2.d- nội dung nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ môi
trƣờng, học sinh có thể nêu vấn đề thế này: Hiện nay tình trạng đổ rác xuống sông rạch ở
vùng nông thôn là tƣơng đối phổ biến. Vậy thực trạng này nguyên nhân là do đâu ? Trách
nhiệm thuộc về ai và cần phải làm gì để chấm dứt ?
Giáo viên yêu cầu học sinh trong lớp giải quyết vấn đề vừa nêu, chỉ định một vài học sinh
phát biểu ý kiến để giải quyết vấn đề, kể cả học sinh nêu vấn đề này xem cánh giải quyết của
em thế nào, vấn đề này tƣơng đối dễ giáo viên nên chỉ định những học sinh ít phát biểu để rèn
luyện cho các em này kỹ năng nói. Sau đó giáo viên yêu cầu một học sinh phát biểu tốt nhất
kết luận vấn đề, cho cả lớp góp ý bổ sung nếu có.
Sau cùng giáo viên nhận xét, nhấn mạnh vấn đề theo hƣớng sau đây:
+ Xác định lại thực trạng đó có phải là phổ biến ở vùng nông thôn hiện nay không ? Yêu
cầu học sinh cả lớp xác định.
+ Nếu đúng thì tìm nguyên nhân: do ý thức về bảo vệ môi trƣờng của ngƣời dân ở vùng
nông thôn chƣa tốt; do công tác tuyên truyền, giáo dục của nhà nƣớc chƣa làm hoặc làm chƣa
13
tốt; do chƣa tổ chức các xe thu gom rác ở những nơi đó... và yêu cầu học sinh xác định lại xem
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
nguyên nhân nào là cơ bản và phổ biến để xác định trách nhiệm thuộc về ai và tìm cách khắc
phục, để tiến đến chấm dứt tình trạng đổ rác xuống sông rạch ở vùng nông thôn.
Nhƣ vậy, ở mức độ thứ tƣ này là mức độ cao nhất là học sinh tự nêu vấn đề và cách giải
quyết, tự đánh giá chất lƣợng, hiệu quả, giáo viên có ý kiến khi kết thúc. Mức độ này sẽ giúp
cho học sinh chủ động, tích cực trong tiếp thu lĩnh hội tri thức của môn GDCD và các kiến
thức xã hội khác đƣợc dễ dàng hơn, thuận lợi hơn.
Trên đây là những giải pháp bản thân tôi đã áp dụng “Phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy
– học môn GDCD” lớp 12 ở trƣờng THPT Chu Văn An đạt hiệu quả trong thời gian vừa qua.
V. Hiệu quả đạt đƣợc của SKKN
Thực tế cho thấy việc áp dụng kinh nghiệm “Phƣơng pháp nêu vấn đề” trong giảng dạy
môn GDCD ở trƣờng trung học phổ thông đã giúp cho tiết dạy sinh động và hiệu quả hơn.
Giáo viên làm việc trên lớp nhẹ hơn trƣớc.
Một tiết học thời gian rất ít so với nội dung kiến thức của bài học, nhƣng sau khi áp
dụng đề tài này vào thực tiễn giảng dạy của mình thì mâu thuẫn giữa thời gian và nội dung
đƣợc giải quyết. Vì vậy, đây là một trong những phƣơng pháp rất phù hợp với việc dạy – học
GDCD trong trƣờng phổ thông hiện nay, nó kích thích đƣợc tính tò mò, muốn tìm hiểu, có thể
xem là một biện pháp góp phần phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
Góp phần nâng cao ý thức tuân theo pháp luật cho học sinh trong nhà trƣờng và ngoài
xã hội, đồng thời các em còn vận động, tuyên truyền cho ngƣời thân, bạn bè cùng thực hiện
những qui định của pháp luật .
Từ đây cũng nhận thấy đƣợc rằng thái độ, cách nhìn nhận của học sinh về bộ môn
GDCD đã đƣợc thay đổi dần, các em không cảm thấy quá nặng nề, quá khô khan mỗi khi vào
tiết học GDCD. Mà ngƣợc lại các em cảm thấy hứng thú khi đƣợc tự mình khám phá những
kiến thức có liên quan đến cuộc sống hằng ngày, hình huống gần gũi đối với học sinh đƣợc
giải quyết dễ dàng.
Nhờ việc áp dụng “phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD” giúp học sinh
hiểu bài, tiếp thu kiến thức nhanh và vận dụng kiến thức tốt hơn. Kết quả qua các năm học
đƣợc thể hiện qua các số liệu thống kê sau :
Năm học 2015 – 2016 áp dụng « phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy – học môn GDCD
bậc THPT thì kết quả đƣợc nâng lên về khả năng tƣ duy, vận dụng kiến thức của học sinh để
giải quyết những vấn đề cụ thể mà cuộc sống đặt ra khá tốt và kết quả điểm số nhƣ sau :
14
NĂM HỌC 2015 – 2016:
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
Khối Tổng số Trung bình khá Giỏi lớp Học sinh
10 210 47 ~ 22.38 % 98 ~ 44.7 % 74 ~ 33.8 %
11 140 02 ~ 1.4 % 109 ~ 77.9 % 29 ~ 20.7 %
Với kết quả vừa nêu, chứng tỏ việc vận dụng « phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy – học
môn GDCD bậc THPT » bản thân tôi áp dụng mang lại kết quả khả quan trong việc giáo dục
học sinh theo phƣơng châm « học đi đôi với hành », gắn lý luận với thực tế cuộc sống. Năm
2016-2017 loại giỏi tăng cao và tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học tốt hơn, các
em ham thích học giờ GDCD hơn kết quả nhƣ sau :
NĂM HỌC 2016 – 2017:
8.0-10
6.5-7.9
5.0-6.4
3.5-4.9
0-3.4
TB trở lên
STT
Lớp
Giáo viên
Tổng số HS
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
37
94,87
2
5,13
0
0
0
0
0
0
10C1
39
38
90,48
4
9,52
0
0
0
0
0
0
12C1
42
42
34
85
6
15
0
0
0
0
0
0
10C2
40
40
38
92,68
3
7,32
0
0
0
0
0
0
12C2
41
41
37
84,09
7
15,91
0
0
0
0
0
0
10C3
44
44
38
97,44
1
2,56
0
0
0
0
0
0
12C3
39
39
35
83,33
7
16,67
0
0
0
0
0
0
10C4
42
42
30
75
10
25
0
0
0
0
0
0
12C4
40
40
30
73,17
11
26,83
0
0
0
0
0
0
10C5
41
41
1
36
87,8
5
12,2
0
0
0
0
0
0
12C5
41
41
Ngô Thành Y
24
58,54
17
41,46
0
0
0
0
0
0
10C6
41
41
20
54,05
17
45,95
0
0
0
0
0
0
10C7
37
37
18
45
22
55
0
0
0
0
0
0
10C8
40
40
14
35,9
22
56,41
3
7,69
0
0
0
0
10C9
39
39
18
50
15
41,67
3
8,33
0
0
0
0
10C10
36
36
18
54,55
14
42,42
1
3,03
0
0
0
0
33
33
SL % 100 39 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
635
465 73,2 163
25,7
7
1,1
0
0
0
0
635
100
10C11 Tổng số
NĂM HỌC 2017 – 2018:
Vận dụng « phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy – học môn GDCD bậc THPT » mang lại
hiệu quả trong việc giáo dục học sinh sẽ góp phần đổi mới phƣơng pháp dạy học môn GDCD,
gúp học sinh gắn lý luận với thực tiễn đƣợc thuận lợi và hiệu quả hơn. Cụ thể nhƣ sau :
THỐNG KÊ ĐIỂM TRUNG BÌNH MÔN MÔN GDCD - NĂM HỌC: 2017-2018 Giáo viên: Ngô Thành Y
15
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
8.0-10
6.5-7.9
5.0-6.4
0-3.4
TB trở lên
3.5- 4.9
Lớp
Giáo viên chủ nhiệm
S T T
SL %
SL %
SL %
%
% SL %
Tổ ng số HS
S L
S L
534 249 46.63 254 47.57
31
0 0 0 534 100
0
Tổng cộng
5.8 1
7.93
391 179 45.78 181 46.29
31
0 0 0 0 391 100
1
Trần Văn Lâm
Nguyễn Thị Hiền
0 0 0
37 92.5 34 82.93 26 60.47
3 7.5 7 17.07 17 39.53
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
100 100 100
Khối 11 1 11C1 2 11C2 Mai Văn Quí 3 11C4
40 41 43
40 41 43
Trần Thị Ngọc Hà
1
4 11C5
43.9
22 53.66
18
0 0 0 0
100
41
41
Nguyễn Hoài Ân
3
16
40
21
52.5
0 0 0 0
100
5 11C6
40
40
Nguyễn Thuỳ Nhi
5
12
30
23
57.5
0 0 0 0
100
6 11C7
40
40
Ung Thị Tú Trinh
5
7 11C8
8 20.51
26 66.67
0 0 0 0
100
39
39
Trần Thị Kim Bồng
5
0 0 0 0
100
8 11C9
12 33.33
19 52.78
36
36
7
8 22.86
20 57.14
0 0 0 0
100
35
35
11C11 Huỳnh An Lân
5
8 22.22
23 63.89
0 0 0 0
100
36
36
0 0 0 2.4 4 7.5 12. 5 12. 82 13. 89 20 13. 89
9 11C10 Nguyễn Văn Lâm 1 0
0
0
143
70 48.95
73 51.05
0 0 0 0 143 100
2
Khối 12
Nguyễn Thị Thuỳ Trang
12C1
0
0
20 64.52
11 35.48
0 0 0 0
100
31
31
12C6 Mai Thanh Hoàng
0
0
12
37.5
20
62.5
0 0 0 0
100
32
32
Phạm Thị Bích Thuỷ
12C7
0
0
7 18.42
31 81.58
0 0 0 0
100
38
38
12C11 Dƣơng Phƣớc Sang
0
0
31 73.81
11 26.19
0 0 0 0
100
42
42
1 1 1 2 1 3 1 4
VI. Mức độ ảnh hƣởng:
- Với những giải pháp vừa nêu, có thể áp dụng đối với giáo viên dạy môn GDCD bậc
THPT nói riêng và giáo viên dạy các môn GDCD ở cấp trung học nói chung. đề tài này còn
đƣợc áp dụng rộng rãi cho các môn khoa học xã hội khác. Mà cụ thể và thiết thực nhất là môn
GDCD các khối lớp 10, 11 và 12.
- Triển khai trong tổ chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề hội đồng bộ môn trong các cụm địa
bàn. Đề tài “Phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy- học môn GDCD- bậc THPT” của tôi chỉ giới
hạn trong phạm vi các bài học công dân với pháp luật của khối lớp 12 và việc vận dụng
phƣơng pháp nêu vấn đề trong quá trình giảng dạy môn GDCD với một số lớp 12 của trƣờng
THPT Chu Văn An, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
- Điều kiện cần thiết để áp dụng “phƣơng pháp nêu vấn đề” trong dạy - học môn GDCD
không yêu cầu phải sử dụng các phƣơng tiện hiện đại, rất phù hợp cho điều kiện dạy
thƣờng ngày của giáo viên trên tất cả các phòng học; ngƣời giáo viên phải biết rèn luyện, 16
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông”
trao dồi thêm kiến thức chính trị - xã hội. Luôn chủ động tìm hiểu và nắm bắt những thông tin
mới có liên quan để nêu ra đƣợc các vấn đề hay phù hợp với các nội dung của mỗi chủ đề, bài
dạy.
VII. PHẦN KẾT LUẬN
“Phƣơng pháp nêu vấn đề” yêu cầu giáo viên đầu tƣ nhiều công sức và thời gian vào việc
soạn giáo án, phải đặt ra đƣợc tình huống có vấn đề, dự kiến các hƣớng giải quyết vấn đề của
học sinh và các phƣơng án để điều chỉnh học sinh vào những phƣơng án giải quyết vấn đề
đúng; Tiết học ngắn nhƣng lƣợng kiến thức thì tƣơng đối nhiều. vì vậy, khi áp dụng “phƣơng
pháp dạy học nêu vấn đề”, giáo viên cần suy nghĩ để đƣa ra những vấn đề vừa sức với học
sinh, tránh việc đƣa các các vấn đề quá cao hoặc nêu ra những vấn đề quá dễ không kích thích
tƣ duy của học sinh và làm cho các em nhàm chán trong giờ học; Giáo viên cần có những gợi
mở, định hƣớng giúp học sinh giải quyết đƣợc vấn đề, cần hƣớng dẫn các em đi đúng hƣớng;
Sau khi học sinh giải quyết vấn đề, giáo viên cần có một nhận xét, kết luận cụ thể, chính xác,
về vấn đề đã nêu ra cho học sinh giải quyết hoặc khẳng định phát biểu của học sinh là đúng để
cả lớp biết mà học tập, làm theo.
Muốn vậy ngƣời giáo viên phải không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của mình. Trong thực tế tôi luôn tìm tòi, sƣu tầm các hình huống, ví dụ trong cuộc
sống để minh hoạ cho bài giảng hoặc lấy các tƣ liệu trên báo, đài, mạng Internet để làm tăng
tính hấp dẫn cho bài giảng. Với việc vận dụng phƣơng dạy học “nêu vấn đề trong dạy - học
môn GDCD”, giáo viên làm cho học sinh suy nghĩ, tham gia vào tình huống, chủ động tìm
cách giải quyết vấn đề và thông qua đó, giúp cho giáo viên thu nhận đƣợc những thông tin
phản hồi từ phía học sinh để giáo viên kịp thời điều chỉnh phƣơng pháp dạy học phù hợp hơn.
“Phƣơng pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD” phát huy đƣợc tính tích cực, tự
giác học tập của học sinh, giúp hình thành tính độc lập và sáng tạo trong tƣ duy, khắc phục
đƣợc tình trạng thụ động trong việc tiếp nhận tri thức của học sinh;
Tôi nghĩ rằng mình không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận đƣợc góp ý
chân thành của mọi ngƣời để cho đề tài ngày càng hoàn thiện, góp phần cho việc dạy - học
môn GDCD hiệu quả hơn.
Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.
Phú Tân, ngày 09 tháng 2 năm 2019
Người viết
17
Ngô Thành Y
Người thực hiện: Ngô Thành Y – Đơn vị: THPT Chu Văn An - Phú Tân.
Đề tài: “Phương pháp nêu vấn đề trong dạy - học môn GDCD - Bậc trung học phổ thông” TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phƣơng pháp giảng dạy giáo dục công dân – của PTS. VƢƠNG TẤT ĐẠT-
Trƣờng ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI I chủ biên, xuất bản năm 1994.
2. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn GDCD, do Đinh Văn Đức- tổng chủ
biên, do nhà xuất bản Đại học sƣ phạm xuất bản năm 2010.
3. Sách giáo khoa, sách giáo viên môn GDCD lớp 12.
4. Kinh nghiệm “PHƢƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
– BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”. môn GDCD- của Ngô Thành Y.
18