Mục lục

TT NỘI DUNG TRANG

2 Phần 1. Đặt vấn đề

1 Lý do chọn đề tài nghiên cứu 2

2 Mục đích nghiên cứu 3

3 Nội dung nghiên cứu 3

4 Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu 3

5 Thành phần tham gia nghiên cứu 3

6 Phương pháp nghiên cứu 3

7 Kế hoạch nghiên cứu 4

5 Phần 2. Những biện pháp đổi mới

1 Cơ sở lý luận và thực tiễn 5

2 Thực trạng vấn đề nghiên cứu 7

3 Mô tả, phân tích các giải pháp hoặc cải tiến mới 8

23 Phần 3. Kết luận và khuyến nghị

24 Phần 4. Tài liệu tham khảo

1

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Về mặt lý luận

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn trú trọng đến vấn đề

giáo dục đạo đức, rèn luyện tư cách cho thanh thiếu niên, học sinh trong các nhà

trường. Với phương châm “ Học đi đôi với hành”, chúng tôi những người làm

công tác giáo dục luôn kết hợp tốt giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội,

phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, tự học tập, tự rèn luyện cho học sinh

nhằm xây dựng một tập thể lớp tự quản, nề nếp tốt.

Trải qua nhiều lần cải cách, ngành giáo dục đã phấn đấu có nhiều cố gắng

để đào tạo thế hệ thanh thiếu niên, học sinh có năng lực, làm chủ tri thức khoa

học, có tư duy sáng tạo cho phù hợp với yêu cầu của xã hội.

Trong nhà trường THCS, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc

biệt coi trọng, nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện

sẽ được nâng lên vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác.

Chủ Tịch Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “ Dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả

tài lẫn đức. Đức là đạo đức Cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không

có đạo đức Cách mạng thì có tài cũng vô dụng ”. Hơn nữa Luật giáo dục 2005

đã xác định: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển

toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm

hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách

và trách nhiệm công dân… ( Điều 23-Luật giáo dục).

1.2. Về mặt thực tiễn

Hội nhập kinh tế ngoài mặt tích cực nó còn làm phát sinh những vấn đề mà

chúng ta cần quan tâm: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, hội nhập kinh tế quốc

tế đưa vào nước ta những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, reo rắc lối sống tự

do tư sản, làm xói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Hiện nay một số bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về

2

đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng

đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý chí kém phát triển, không có tính tự chủ

dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu.

Trong nhà trường phổ thông nói chung và trường THCS nói riêng, số học

sinh vi phạm đạo đức có chiều hướng gia tăng, tình trạng học sinh kết thành

băng nhóm bạo hành trong trường học đáng được báo động. Chính vì thế việc

giáo dục đạo đức cho học sinh lớp THCS là một công việc vô cùng cần thiết.

1.3. Về cá nhân

Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, để góp phần vào công tác giáo dục

đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay, qua thực tiễn công tác chủ nhiệm

và giảng dạy học sinh ở trường THCS, tôi nhận thấy việc đề ra những biện pháp

về công tác giáo giáo dục đạo đức cho học sinh THCS là một nhiệm vụ hết sức

quan trọng của người giáo viên chủ nhiệm. Đó là lý do tại sao tôi chọn đề tài

này.

2. Mục đích nghiên cứu

Đưa ra những giải pháp để giáo đạo đức học sinh một cách có hiệu quả

giúp cho các em trở thành những người tốt trong xã hội.

3. Nội dung nghiên cứu

Nghiên cứu một số vấn đề về sơ sở lý luận giáo dục đạo đức, tìm ra những

yếu tố liên quan đến công tác giáo dục đạo đức học sinh để từ đó đề ra các giải

pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu về công tác giáo dục đạo đức học sinh lớp 7 ở trường THCS.

5. Thành phần tham gia nghiên cứu

Học sinh lớp 7 THCS.

6. Phương pháp nghiên cứu

3

Trên cơ sở những kiến thức về tâm lý, giáo dục học và những quan điểm

đường lối của Đảng, các văn bản của Bộ giáo dục và Đào tạo về đánh giá xếp

loại hạnh kiểm của học sinh.

7. Kế hoạch nghiên cứu

Từ tháng 08 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017

4

PHẦN II. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI

1. Cơ sở lý luận

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn

mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi

ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ người và

người và con người với tự nhiên.

Chức năng đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã

hội, đạo đức một mặt quy định bởi cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội ; mặt khác

nó cũng tác động tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội đó. Vì vậy,

đạo đức có chức năng to lớn, tác động theo hướng thúc đẩy hoặc kềm hãm phát

triển xã hội. Đạo đức có những chức năng sau:

- Chức năng giáo dục.

- Chức năng điều chỉnh hành vi của cá nhân, của cộng đồng và là công cụ

tự điều chỉnh mối quan hệ giữa người và người trong xã hội.

- Chức năng phản ánh.

Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học

sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học

sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: của cá nhân với

xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của

cá nhân với chính mình.

Giáo dục đạo đức còn có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên và

trong mọi tình huống chứ không phải chỉ được thực hiện khi có tình hình phức

tạp hoặc có những đòi hỏi cấp bách. Để giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu

quả, giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu học sinh, nắm bắt hoàn cảnh sống, tâm

sinh lí của từng em đồng thời phải có sự kết hợp của các lực lượng giáo dục

khác như: nhà trường, gia đình và xã hội. Hơn nữa bản thân mỗi giáo viên chủ

nhiệm phải là tấm gương sáng về đạo đức để học sinh noi theo.

5

2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu

2.1. Thực trạng:

Lớp 7A3 hiện nay tôi đang chủ nhiệm có 46 học sinh. Đa số các em có

đạo đức tốt, biết nghe lời thầy cô, cha mẹ, nghiêm chỉnh chấp hành các nội quy,

quy định của trường của lớp, biết sống tốt và sống đẹp.

Tuy vậy có một số học sinh trong lớp còn có biểu hiện chán nản, không

thích học, thường xuyên gây mất trật tự, nói tục, chửi bậy, vô lễ với thầy cô,

không tự giác thực hiện nội quy lớp học.

2.2. Những thuận lợi và khó khăn:

a) Những thuận lợi

Bản thân tôi đã là chủ nhiệm của các em năm lớp 6 nên trong năm học

này giữa tôi và các em đã phần nào hiểu nhau.

Trong lớp đa số học sinh ngoan hiền, có ý thức rèn luyện đạo đức và học

tập. Các em có ý thức xây dựng tập thể lớp.

Giữa giáo viên chủ nhiệm, phụ huynh học sinh và Ban giám hiệu nhà

trường luôn phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục.

b) Những khó khăn

Sỹ số học sinh trong lớp đông, nhiều học sinh ở xa, thuộc các địa bàn

khác nhau.

Một số học sinh thiếu thốn tình cảm: có em mồ côi cha mẹ, có em ở với

mẹ hoặc bố.

Một số học sinh chưa tự giác, chưa tích cực trong học tập và rèn luyện

đạo đức, giáo viên chủ nhiệm phải nhắc nhở, đôn đốc thường xuyên.

6

3. Mô tả, phân tích các giải pháp

3.1. Giáo viên chủ nhiệm phải gương mẫu trước học sinh và yêu

thương gần gũi các em.

Giáo viên chủ nhiệm là lực lượng chính trong công tác giáo dục đạo đức

cho học sinh là người quản lý mọi hoạt động của lớp học, là người triển khai

mọi hoạt động của trường của nhà trường đến từng lớp, từng học sinh. Do đó sự

gương mẫu của giáo viên chủ nhiệm có sức thuyết phục rất lớn với học sinh.

Trước tiên phải chú ý gương mẫu về tác phong, từ dáng vẻ đi đứng, cách ăn

mặc, đầu tóc, cử chỉ, lời nói, hành động... Có thể nói nhất cử nhất động của giáo

viên đều ít nhiều ảnh hưởng đến học sinh. Lời dạy của thầy cô dù có hay đến

đâu cũng không thể thay thế được những ảnh hưởng trực tiếp của nhân cách

người thầy với học sinh. Bác Hồ đã nói “ … Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức,

tài là văn hóa chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo

viên phải có đức…Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với

trẻ con”. ( trích các lời dạy của Bác về rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức

công dân).

Làm nghề nào muốn thành công đều phải có đầy đủ sự hiểu biết về chuyên

môn, có lòng yêu nghề, yêu công việc. Song nghề giáo dục còn đòi hỏi lòng yêu

mến trẻ em nữa. Một người thầy giáo cần vững kiến thức chuyên môn là một

thầy giáo giỏi. Mà một thầy giáo vừa giỏi chuyên môn, lại yêu nghề yêu học

sinh thì đó là một thầy giáo tốt. Người ta từng ví: thầy giáo như một ngọn nến tự

đốt cháy thân mình để thắp sáng muôn vàn đốm lửa trong tâm hồn học sinh.

Thầy giáo như một người thợ làm vườn chăm sóc cho cây non xanh tươi, đâm

chồi này lộc. Nếu không có người làm vườn thì vườn cây sẽ trở thành hoang dại,

không mang lại hoa thơm trái ngọt cho đời. Vì vậy muốn xây dựng nhân cách

cho học sinh, người thầy không chỉ gương mẫu mà còn phải biết yêu thương,

gần gũi chăm sóc các em, cần quan tâm trước những biểu hiện mới chớm nở

thiếu lành mạnh, lệch lạc. Giáo viên lấy tình thương để cảm hóa các em như cử

chỉ thân mật, lời nói nhẹ nhàng khuyên bảo, hành động cụ thể thiết thực làm cho

7

các em cảm nhận được tình cảm của cô với các em. Từ đó các em tin yêu và làm

theo những gì cô bảo. Ví dụ như giữa học kì một vừa qua, lớp tôi có trường hợp

một số học sinh mất tiền chỉ là hai nghìn, ba nghìn. Khi học sinh phản ảnh mặc

dù tôi rất không vui nhưng tôi cố trấn tĩnh, theo dõi, phân tích từng đối tượng

qua hành vi, thái độ của từng em. Cuối cùng tôi phát hiện ra em Hùng có hành vi

sai trái này. Tôi không phê bình em trước lớp mà đã giữ kín chuyện và gọi em

Hùng ra phân tích phải trái đúng sai cho em hiểu. Em Hùng đã nhận ra lỗi và tự

sửa chữa. Em nói với tôi là rất ân hận về việc làm ấy của mình. Từ đó đến giờ

lớp tôi không còn xảy ra hiện tượng mất cắp vặt nữa. Hay em Bùi Hiếu có hoàn

cảnh rất đặc biệt đó là không có cha, mẹ bị thần kinh hiện đang ở cùng ông bà

ngoại, đến lớp em luôn mặc cảm sống khép mình, tôi đã động viên gần gũi sẻ

chia và còn nhắc nhở một số học sinh trong lớp gần gũi rủ bạn chơi cùng. Thậm

chí tôi còn mua tặng em vở, đồ dùng học tập. Từ những hành động đó của tôi và

học sinh trong lớp, em Thư đã tự tin hòa đồng với các bạn, vươn lên trong học

tập, cuối kì em đạt học sinh giỏi và xếp hạnh kiểm loại tốt.

Không chỉ yêu thương học sinh tôi còn đi sâu đi sát, để các em có những

định hướng tốt như:

+ Giáo dục học sinh về hành vi tôn sư trọng đạo, sống có tư cách, biết tự

trọng và tôn trọng người khác.

+ Sống bao dung độ lượng, biết sẻ chia, đồng cảm trước những khó khăn.

+ Giới thiệu những mẩu chuyện, những việc làm tốt trong cuộc sống qua

báo chí, qua thông tin đại chúng, hoặc nhà trường...

+ Ngoài ra, tổ chức cho học sinh sưu tầm những bài viết về những tấm

gương tiêu biểu để đọc trước lớp.

+ Thường xuyên theo dõi kiểm tra, nhắc nhở những vi phạm về học tập.

+ Nêu những tấm gương tốt, điển hình để động viên tinh thần, làm nguồn

động lực thúc đẩy các em yêu thích môn học, gắn bó với nhà trường.

8

+ Đối với học sinh chậm tiến: tôi tìm hiểu từng hoàn cảnh nguyên nhân để

có cách giải quyết phù hợp. Tuyệt đối không nóng vội, không vì thành kiến dẫn

đến những hậu quả đáng tiếc. Tạo điều kiện để các em trình bày suy nghĩ của

mình, giúp các em dãi bày tâm sự, từ đó giúp các em từng bước hòa nhập tập

thể.

3.2. Giáo dục đạo đức học sinh thông qua tìm hiểu, nắm bắt hoàn cảnh

gia đình và tâm sinh lí của học sinh

Đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải có những thông tin khái quát về gia

đình học sinh như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình,

giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, sự quan hệ của

gia đình đối với láng giềng... Việc tìm hiểu này sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm kết

hợp tốt với gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Không những

thế giáo viên còn phải nắm được đặc điểm của các em: sức khỏe, đạo đức, năng

lực, năng khiếu...Em Hải Anh trong lớp tôi là một học sinh rất có năng khiếu về

môn Văn nhưng đội tuyển Văn của trường toàn là học sinh nữ. Em thấy rất ngại

và xấu hổ khi tham gia học đội tuyển. Nắm bắt được tâm lí này, tôi đã gặp trực

tiếp phụ huynh của em để trao đổi. Nhờ sự động viên của gia đình, của giáo viên

chủ nhiệm, em Hải Anh đã tự tin tham gia đội tuyển Văn. Và một điều rất đáng

mừng là hiện nay em Hải Anh đang đứng đầu danh sách và là nguồn để tham

gia thi học sinh giỏi môn Văn cấp Quận.

Giáo viên chủ nhiệm không chỉ dừng lại ở việc đọc bản khai sơ yếu lí lịch

của học sinh đầu năm mà còn có những trường hợp cần phải trực tiếp gặp cha

mẹ học sinh để nắm chắc một cách chi tiết cặn kẽ. Từ đó giáo viên mới có biện

pháp giáo dục thích ứng với hoàn cảnh thực tại của các em: gần gũi, động viên,

sẻ chia, nghiêm khắc... Lớp 7A3 của tôi nhiều học sinh có hoàn cảnh đặc biệt ví

dụ như học sinh Lê Anh Thư mồ côi cả cha lẫn mẹ. Hoàn cảnh của em vô cùng

đáng thương, em thường sống khép mình. Tôi đã có những lời động viên, an ủi

kịp thời, gần gũi sẻ chia như: tặng sách vở hay quần áo đồng phục. Chỉ bằng

hành động nhỏ này thôi, em Thư đến lớp đã vui hơn, sống không khép mình

9

nữa. Cuối kỳ một vừa rồi em đạt học sinh giỏi và đang tham gia học đổi tuyển

Văn. Hay em Ngọc Linh có bố mẹ chia tay nhau phải ở với bác, em hay mặc

cảm về hoàn cảnh của mình. Trong lớp em rất là trầm, ít xung phong phát biểu.

Tôi cũng đã động viên khuyến khích kịp thời nên em không còn mặc cảm về

hoàn cảnh của mình nữa và cuối kỳ em cũng đã đạt học sinh giỏi, em cũng đang

tham gia vào đội tuyển môn Tiếng Anh.

Không chỉ dừng lại ở tìm hiểu hoàn cảnh học sinh mà người giáo viên chủ

nhiệm cần phải chú ý đến tâm sinh lí của các em. Đặc thù của lớp tôi đang phụ

trách, tuy không quá phức tạp nhưng cũng có nhiều vấn đề cần suy nghĩ. Các em

đang ở lứa tuổi còn nhiều biến đổi tâm sinh lí. Không còn là trẻ con để cần được

vỗ về chăm sóc, nhưng cũng chưa là người lớn để mình giải quyết mọi tình

huống. Để khẳng định mình, các em dễ có những hành xử bột phát, bất ngờ mà

chính các em cũng chưa ý thức một cách đầy đủ hậu quả sẽ đến. Vì vậy một sự

định hướng đúng đắn để giúp các em hình thành tính cách của mình là điều hết

sức quan trọng. Không chỉ truyền đạt kiến thức trong học tập, tôi còn giúp các

em được trao đổi mọi điều về chính bản thân, về những gì chân – thiên – mĩ

trong cuộc sống. Học sinh THCS nhất là học sinh lớp 7, tâm sinh lí đang ở thời

kì quá độ nên rất phức tạp và có nhiều mâu thuẫn vì vậy người giáo viên phải đi

sâu, đi sát, nắm được điểm yếu, điểm mạnh của từng em để từ đó có những

phương pháp giáo dục cho thích hợp. Trong lớp qua quan sát, tôi thấy có một số

em đã nảy sinh tình cảm với bạn khác giới làm ảnh hưởng đến học tập. Trước

tình hình như thế, tôi không phê bình, nhắc nhở các em trước lớp. Bởi nếu làm

như vậy, các em sẽ dễ tự ái hoặc gây ra phản ứng tiêu cực. Tôi đã gọi từng học

sinh ra để tâm sự với các em nhẹ nhàng như một người bạn, người chị. Tôi phân

tích những thiệt hơn, đúng sai để các em hiểu việc gì nên làm việc gì không nên

làm. Chính vì thế trong lớp tôi làm chủ nhiệm hiện nay không có một học sinh

nào bị chi phối nặng nề về tình cảm với bạn khác giới.

10

3.3. Giáo dục đạo đức học sinh bằng cách động viên khuyến khích,

tuyên dương những hành vi đạo đức tốt.

Đặc điểm tâm lý của học sinh THCS là thích được khen, thích được thầy,

bạn bè, cha mẹ biết đến những mặt tốt, những ưu điểm, những thành tích của

mình. Nếu giáo dục đạo đức quá nhấn mạnh về khuyết điểm của học sinh, luôn

nêu cái xấu, những cái chưa tốt trong đạo đức của các em thì sẽ đễ đẩy các em

vào tình trạng tiêu cực, chán nản, thiếu tự tin, thiếu sức vươn lên.

Để thực hiện giải pháp này đòi hỏi người thầy phải hết sức trân trọng những

mặt tốt, những thành tích của học sinh dù chỉ là những thành tích nhỏ, dùng

những gương tốt của học sinh trong trường và những tấm gương người tốt việc

tốt khác để giáo dục các em. Giáo viên cân nhắc lựa chọn hình thức động viên,

khích lệ tuyên dương những hành vi tốt của học sinh trước tập thể nhằm kích

thích, khơi gợi các em cùng thi đua làm việc tốt, rèn luyện đạo đức. Ví dụ: trong

tất cả các đợt thi đua của trường tôi luôn lựa chọn những học sinh có nhiều hoa

điểm 9, 10 để tuyên dương trước trường và trước lớp. Chính vì thế trong lớp tôi

phong trào học tập rất là sôi nổi. Hay tuần trước học sinh Anh Dũng trong lớp

nhặt được hai mươi nghìn trả bạn bị mất, tôi cũng tuyên dương việc làm đó của

em. Em rất phấn khởi tự hào với các bạn hoặc em Ngọc Minh là học sinh có lực

học chỉ đạt trung bình khá, ít khi được điểm cao. Nhưng khi tôi thấy em được

điểm 8 hoặc 9 ở một môn nào đó, tôi khen ngợi và kèm theo những câu khích lệ

kịp thời như: cô thấy em học cũng được, nếu em cố gắng thì kết quả sẽ còn tốt

hơn nữa. Nghe được những sự khích lệ đó của tôi, em Ngọc Minh dần tiến bộ,

cuối kì một vừa rồi em đã đạt học sinh tiên tiến.

3.4. Giáo dục đạo đức học sinh thông qua tập thể và đôi bạn cùng tiến

đặc biệt là chú trọng giáo dục học sinh chậm tiến.

Để giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả, yếu tố tập thể giữ vai trò hết

sức quan trọng. Tập thể tốt sẽ có tác động rất mạnh trong việc rèn luyện đạo đức

cho học sinh. Nhất là với tâm lí học sinh lớp 7 thì yếu tố tập thể là vô cùng cần

thiết, chúng ta thấy đấy em học sinh nào bị cô lập, chơi một mình là một điều rất

11

tủi hổ. Vì vậy giáo viên chủ nhiệm cần phát huy tối đa sức mạnh của tập thể lớp.

Ví dụ đầu năm ở lớp tôi có em Trung luôn đi học muộn làm lớp bị trừ điểm thi

đua rất nhiều nhưng một hôm em đến sớm, vào lớp tôi đã khen ngợi sự tiến bộ

của em và đề nghị cả lớp biểu dương bằng một tràng pháo tay. Em Trung hơi

ngượng song chính vì cái lời động viên của cô giáo và các bạn là nguồn cổ vũ

lớn cho em có sự tự tin và từ đó em biết điều chỉnh hành vi của mình.

Mặt khác giáo dục đạo đức học sinh tôi còn quan tâm tới đôi bạn cùng tiến,

ngồi cùng bàn, cùng tổ. Tôi lựa chọn những học sinh có đạo đức tốt, học giỏi

kèm giúp những bạn chậm tiến. Hàng ngày kiểm tra bài tập của bạn, nhắc nhở

uốn nắn những hành vi lệch lạc. Thậm chí có những học sinh hay quên như quên

đeo khăn đỏ, quên mặc đồng phục những bạn có nhiệm vụ không chỉ nhắc ở lớp

mà còn nhắc nhở qua điện thoại. Kiên trì một vài lần học sinh chậm tiến đã có

sự tiến bộ rõ rệt. Ví dụ trong lớp tôi có rất nhiều học sinh vừa ngoan vừa học

giỏi như học sinh Vân, Triều, Công Thành... Tôi đã cho các em này ngồi bên

cạnh để kèm những học sinh chưa ngoan, chưa chăm học. Hiệu quả tôi thấy rõ

rệt là những học sinh chưa ngoan được các bạn đó kèm cặp đều tiến bộ không

ngừng về cả đạo đức và học tập. Cuối tuần vào giờ sinh hoạt tôi thường biểu

dương khen ngợi các đôi bạn cùng tiến đồng thời ghi nhận để cuối kì đề nghị

cha mẹ học sinh khen thưởng. Cuối kì một vừa rồi tôi đã khen thưởng được 5

đôi bạn cùng tiến như: Vân – Bùi Hiếu; Huy Hùng – Công Thành; Cảnh Triều –

Quang Vũ; Trần Anh – Khánh Minh; Quang Anh – Trang. Việc làm này tôi thấy

rất có hiệu quả ở lớp tôi vừa giáo dục đạo đức học sinh vừa xây dựng được tập

thể lớp đoàn kết vững mạnh.

Đặc biệt trong lớp tôi rất chú trọng đến việc giáo dục học sinh chậm tiến.

Có thể nói lớp học nào cũng có học sinh chậm tiến, mà những học sinh này đa

số gây không ít khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm. Nhiều lúc tôi thấy rất mệt

mỏi vì nói mãi mà các em không nghe, càng phạt thì các em càng lì hơn hoặc

thậm chí các em chống đối và đôi lúc còn phá phách. Điều này không những gây

khó khăn cho giáo viên mà còn rất ảnh hưởng đến việc thi đua của cả lớp. Trước

12

tình hình đó tôi không nóng vội mà quan sát, tìm hiểu kĩ nguyên nhân lí do nào

mà dẫn đến các em có những hành vi chậm tiến. Hơn nữa tôi thật sự phải mở

lòng thương yêu, cố gắng giúp để giúp các em vượt qua những biến cố, những

vấn đề đã xảy ra trong quá trình học tập và rèn luyện. Mặt khác tôi đưa ra những

nề nếp kỉ cương để các em tự nhận thức, tự khép mình trong những nội qui, qui

chế chặt chẽ nhưng luôn được dân chủ bàn bạc, trao đổi. Tôi còn giáo dục các

em trong tập thể và bằng tập thể, thuyết phục các em bằng lời lẽ có lí có tình,

bằng tình cảm và phép tắc tác động lên nhận thức, tình cảm của học sinh như:

trò truyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt. Ngoài ra tôi còn đưa các em vào hoạt

động tập thể thực tiễn như vui chơi, tham quan du lịch... Qua đó để hiểu thêm

học sinh, giúp các em gắn bó với tập thể và khắc phục dần những thiếu sót. Bên

cạnh đó tôi còn khuyến khích, khen chê đúng mục đích, đúng việc, đúng lúc, tế

nhị mà hiệu quả. Chính từ những biện pháp này mà trong học kì một vừa rồi

trong lớp tôi không còn học sinh chậm tiến, không có học sinh nào xếp hạnh

kiểm trung bình.

3.5. Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh thông qua sổ liên lạc để giáo

dục đạo đức học sinh.

Các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của con người nói chung, học

sinh nói riêng được hình thành và phát triển trong các môi trường: gia đình, nhà

trường và xã hội. Lúc sơ sinh vai trò của gia đình là chủ đạo, tuổi học mầm non

gia đình và nhà trường góp phần quyết định, tuổi học phổ thông (từ tiểu học tới

trung học) càng lớn vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội càng cân đối. Để

làm tốt việc giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh THCS

phải kết hợp chặt chẽ với gia đình.

Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với sự

hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của học sinh.

Trong mối quan hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định

hướng trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường

giáo dục toàn diện nhất, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục

13

chuyên nghiệp nhất nên nhà trường nhà trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả

nhất, hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ

phía gia đình và xã hội.

Giáo dục đạo đức cho học sinh kết hợp với gia đình là điều khổng thể thiếu

được, nó vừa mang tính lí luận đồng thời hết sức thực tiễn. Việc trao đổi thông

tin thường xuyên giữa giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh là cần thiết để

tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Thông qua sổ liên lạc phụ

huynh học sinh nắm được tình hình học tập, đạo đức của học sinh và ngược lại

giáo viên chủ nhiệm nắm chắc hơn những biểu hiện hành vi tích cực hoặc tiêu

cực của các em để cùng giáo dục. Đầu năm tôi phát cho mỗi học sinh một quyển

sổ liên lạc theo dõi từng tuần, từ tuần 1 cho đến tuần 37 của năm học. Trong

quyển sổ liên lạc tôi đưa ra các tiêu chí cụ thể rồi hướng dẫn học sinh thực hiện

các tiêu chí đó như thế nào là đạt, như thế nào là vi phạm. Các bạn tổ trưởng và

tổ phó, lớp trưởng, lớp phó có trách nhiệm theo dõi những hành vi, những vi

phạm hàng ngày. Cuối tuần tổ trưởng và tổ phó tập hợp lại rồi nhận xét từng

ngày vào sổ liên lạc. Trên cơ sở đó cùng với sự theo dõi của tôi, tôi cũng nhận

xét vào thông báo cho mẹ học sinh biết về quá trình học tập và rèn luyện đạo

đức của con trong một tuần. Cha mẹ học sinh có nhiệm vụ đọc sổ liên lạc vào

cuối tuần rồi cho ý kiến để từ đó phối kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm

giáo dục đạo đức cho học sinh. Không những thế thông qua sổ liên lạc tôi có thể

thông tin cho phụ huynh học sinh nhiều thông báo của trường, của lớp để gia

đình còn quản lí chặt chẽ con em của mình, tránh tình trạng con nói dối đi chơi.

Với biện pháp này tôi thấy rất có hiệu quả trong việc giáo dục đạo đức và học

tập cho học sinh. Mọi hành vi sai lạc của các em được tôi và phụ huynh học sinh

uốn nắn sữa chữa rất kịp thời. Chính vì thế hầu hết tôi thấy không một học sinh

nào trong lớp mắc một khuyết điểm tái phạm sang tuần thứ hai.

14

BẢNG THEO DÕI TUẦN ... (từ ..... đến...)

THEO DÕI VI PHẠM

Các thứ trong

Điểm kiểm tra trong tuần

HÀNG NGÀY

tuần

15’ TH 1T

2 3 4 5 6 7 Môn M

Đi học muộn

Toán

Đồng phục sai quy định

Nghỉ học không phép

Hóa

Bỏ tiết học

Sinh

Không làm bài tập

Văn

Không thuộc bài

Sử

Điểm KT miệng dưới 5

Địa

Không trực nhật

Anh

Mất trật tự, làm việc riêng

GDCD

Đổi chỗ chưa chú ý học

Công

nghệ

Ý thức xây dựng bài

Thể

dục

Bị ghi sổ đầu bài

Âm

nhạc

Quay cóp khi kiểm tra, thi

Mỹ

thuật

Thái độ sai với thầy cô

Tin

Thái độ sai với bạn

Điểm thưởng (9, 10, phát biểu

xây dựng bài

Mất vệ sinh, phá hoại của

Điểm trừ

công

Ý thức ăn trưa, nghỉ trưa

Số điểm 9, 10

Tổng điểm của tuần

Xếp loại cả tuần:

15

Họ và tên: .........................................................

KIỂM TRA VÀ NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA TỔ TRƯỞNG, TỔ PHÓ:

Thứ 2:......................................................................................................................

Thứ 3:......................................................................................................................

Thứ 4:......................................................................................................................

Thứ 5:......................................................................................................................

Thứ 6:......................................................................................................................

Thứ 7:......................................................................................................................

NHẬN XÉT CHUNG:

.................................................................................................................................

................................................................................................................................

PHẦN NHẬN XÉT VÀ THÔNG BÁO CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

Ý KIẾN VÀ CHỮ KÍ CỦA CHA MẸ HỌC SINH

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

.................................................................................................................................

16

Nếu học sinh không vi phạm bất cứ lỗi nào thì mỗi ô sẽ được cộng 1 điểm.

Riêng các lỗi bị ghi sổ đầu bài, điểm kiểm tra miệng dưới 5, quay cóp khi kiểm

tra, khi thi vi phạm thì sẽ bị trừ 5 điểm; các lỗi còn lại nếu vi phạm sẽ bị trừ 1

điểm. Điểm 9, 10 sẽ được cộng 2 điểm; Điểm phát biểu xây dựng bài cũng sẽ

được 2 điểm.

Tiêu chí đánh giá hạnh kiểm trong tuần:

- Học sinh đạt 96 điểm trở lên: xếp hạnh kiểm Tốt A.

- Học sinh đạt 92-95 điểm: xếp hạnh kiểm Tốt B.

- Học sinh đạt 85-92 điểm: xếp hạnh kiểm Khá.

- Học sinh đạt dưới 85 điểm: xếp hạnh kiểm Trung bình.

3.6. Giáo dục đạo đức học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm.

Theo qui định, tiết chủ nhiệm chỉ dành khoảng 15 phút để GV tổng kết tình

hình học tập, vệ sinh, chuyên cần... của lớp; 30 phút còn lại tổ chức cho học sinh

sinh hoạt và mỗi tiết sinh hoạt chủ nhiệm đều phải có biên bản.

Giờ sinh hoạt bắt đầu bằng những tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện của

cả lớp trong tuần của ban cán sự lớp. Thông qua sổ đầu bài, sổ theo dõi của cán

bộ lớp, các GVBM, tôi nhận xét, đánh giá từng học sinh. Tôi luôn luôn nhắc nhở

và động viên tinh thần các em, tạo động lực giúp cả lớp cố gắng hơn (dù lớp tôi

thường xuyên xếp thứ nhất).

Tôi luôn dạy các em cách học làm người, cách sống, cách ứng xử với mọi

người. Có những hôm tôi không nói gì cả mà chỉ kể cho các em nghe một mẩu

chuyện trong sách, báo, internet mà tôi sưu tầm được về những tấm gương

người tốt việc tốt, những tấm gương vươn lên vượt khó... để các em tự rút ra bài

học cho mình.

3.7. Giáo dục đạo đức học sinh thông qua dạy kĩ năng sống cho các em.

Có thể nói giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ học đường là cần thiết. Từ

trước đến nay, song song với việc dạy chữ, dạy đạo đức chúng ta đã từng giáo

17

dục kĩ năng sống cho dù chưa gọi nó thành tên một cách cụ thể. Này nay xã hội

ngày càng đi lên với tốc độ chóng mặt, nhu cầu sống đòi hỏi việc giáo dục kĩ

năng sống cho thế hệ trẻ phải cấp bách và hiệu quả hơn để cho thế hệ trẻ tự hiểu

mình, hiểu xã hội hiểu mọi người, có những thái độ suy nghĩ, tư duy, quan điểm

và hành vi đúng đảm bảo sự phát triển lành mạnh và bền vững.

Thực tế cho thấy, thế hệ trẻ ngày nay rất cần kĩ năng cho mục tiêu sống tự

lập sau này. Nhiều em còn quá non ớt trong nhận thức, quá rụt rè, nhút nhát

trong giao tiếp. Nhiều em lại quá tự do coi thường kỉ cương, có những học sinh

không tự điều chỉnh được hành vi của bản thân dẫn đến những hậu quả đau lòng.

Chính vì thế là một giáo viên chủ nhiệm tôi thấy việc giáo dục kĩ năng sống cho

học sinh là vô cùng cần thiết. Tôi thường xuyên trước mỗi tiết dạy yêu cầu các

em chỉnh đốn tác phong, quần áo, nhắc nhở các em cách thưa gửi với giáo viên,

cách đưa vở cho thầy cô bằng hai tay, cách trả lời, cách trình bày bảng, tư thế

đứng trước lớp. Đặc biệt trong những giờ tiến hành các hoạt động ngoài giờ lên

lớp tôi đã lồng ghép nhiều cách để các em có điều kiện tham gia vào các hoạt

động, có môi trường để thể hiện bản thân một cách tốt nhất. Đây chính là thời

điểm để các em học mà chơi, chơi mà học. Các em có thể tham gia các trò chơi

với nhóm, với tập thể, dần giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp, nhạy bén hơn

trong việc xử lý các tình huống, phản xạ nhanh hơn trong các vấn đề giải quyết.

Hoạt động ngoài giờ lên lớp với nhiều hình thức thông qua nhiều nội dung

phong phú chính là mảnh đất màu mỡ để giáo viên chủ nhiệm giáo dục đạo đức

học sinh phù hợp nhất, hiệu quả nhất.

Khi giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tôi chú trọng các kĩ năng sau:

+ Kĩ năng ứng xử học đường.

+ Kĩ năng học và tự học.

+ Kĩ năng quản lí bản thân và tinh thần tự tôn.

+ Kĩ năng thích ứng với môi trường.

+ Kĩ năng xác lập mục tiêu và tạo động lực trong công việc.

18

+ Kĩ năng giải quyết vấn đề.

+ Kĩ năng làm việc đội nhóm.

+ Kĩ năng trình bày và chia sẻ thông tin.

+ Kĩ năng tạo lập quan hệ trong thực tế xã hội.

+ Kĩ năng chịu trách nhiệm và tổ chức công việc hiệu quả.

+ Kĩ năng lãnh đạo và hành vi tích cực

Có thể nói giáo dục đạo đức cho học sinh là viên gạch đầu tiên cho sự

hình thành nhân cách của người công dân, người chủ của xã hội tương lai. Để

các em có được những hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức thì việc giáo dục

và rèn luyện đạo đức là vô cùng cần thiết. Trên đây là một số giải pháp mà trong

quá trình làm chủ nhiệm tôi đã mạnh dạn đưa ra và tôi thấy khi áp dụng những

biện pháp này thì học sinh của lớp tôi đã có những biến chuyển rất đáng mừng

về đạo đức.

19

4. Kết quả và đánh giá việc thực hiện đề tài

4.1. Kết quả

Bảng xếp loại loại hạnh kiểm tháng của học sinh lớp 7

Tháng 9

Hạnh kiểm

Tháng 8

Tháng 10

Tháng 11

Tháng 12

Tháng 1

Tháng 2

Tháng 3

Tháng 4

Tốt

40 (85,5%)

43 (92%)

44 (96%)

45 (98%)

45 (98%)

46 (100%)

46 (100% )

46 (100% )

Khá

5 (10%)

3 (8%)

2 (4%)

1 (2%)

1 (2%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

39 (84,7 %) 5 (10,9 %) 2 (4,4%)

1 (4,5%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

0 (0%)

Trung bình

Bảng so sánh kết quả hạnh kiểm trong các năm học lớp 6,7

Hạnh kiểm tốt Hạnh kiểm khá

Lớp Sĩ số

% % %

Số lượng 42 95,5% Số lượng 2 4,5% Hạnh kiểm trung bình Số lượng 0 % 44

Lớp 6A3 (2015-2016):

46 46 100% 0 12,5% 0 4%

Lớp 7A3 (2016-2017)

4.2. Đánh giá việc thực hiện giải pháp giáo dục đạo đức học sinh

Từ một lớp còn có một số học sinh chưa chăm ngoan, chưa cố gắng vươn

lên trong học tập. Là một giáo viên chủ nhiệm tôi nhận thấy việc giáo dục đạo

đức cho các em là vô cùng cần thiết. Vì vậy tôi đã trăn trở rất nhiều, đã đưa ra

một số giải pháp để giáo dục đạo đức cho các em. Và sau khi thực hiện những

biện pháp trên với lớp 7A3, chỉ qua một học kì một năm học 2016-2017 nhưng

lớp đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Các em đã biết phát huy tinh thần làm

chủ tập thể của tuổi trẻ học đường, thực hiện tốt năm điều Bác Hồ dạy, chất

20

lượng văn hoá thực chất từng bước ổn định và đi lên. Đại đa số các em đã biết

vâng lời thầy cô giáo, bố mẹ học sinh và người lớn, chấp hành các nội quy của

nhà trường đề ra, không có học sinh vi phạm cá biệt. Có nhiều học sinh được coi

là con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ.

Các em thực hiện nhiệm vụ đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao. Có những

trường hợp GVCN không cần có mặt nhưng các em vẫn quản lí lớp tốt. Đây là

một trong những nhân tố quyết định thành tích lớp 7A3 đạt được. Cùng với việc

duy trì nề nếp sinh hoạt 15 phút đầu giờ đã giúp học sinh chủ động trong học

tập.

Việc đưa ra giải pháp đôi bạn cùng tiến đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong vấn

đề rèn luyện học tập đạo đức của học sinh. Những học sinh còn vi phạm về kỉ

luật được các bạn quan tâm theo dõi và giúp đỡ nên đã có nhiều tiến bộ.

21

PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Trước thực trạng đạo đức hiện nay của học sinh trường THCS có chiều

hướng giảm sút nghiêm trọng, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là đòi hỏi cấp

bách của xã hội để xây dựng hoàn thiện những giá trị cơ bản của con người Việt

Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế tri thức.

Với nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của việc giáo

dục đạo đức học sinh THCS nói chung và lớp 7 nói riêng, tôi luôn phải kiên trì

nhẫn nại và giáo dục các em một cách thường xuyên liên tục, không vội vàng,

nản lòng. Đồng thời phải có những giải pháp linh hoạt, mềm dẻo bám sát thực tế

từ lời ăn, tiếng nói, cử chỉ, bằng tình yêu thương cùng với những lời động viên,

khích lệ kịp thời. Chính vì thế kết quả đạt được về phía học sinh lớp tôi là phần

lớn các em có đạo đức tốt, biết nghe lời cha mẹ, thầy cô, nghiêm chỉnh chấp

hành các quy định của lớp, nội quy của trường, biết sống tốt và sống đẹp.

2. Khuyến nghị

Giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát

triển nhân cách của học sinh. Tôi rất mong trong các trường Đại học sư phạm,

Cao đẳng sư phạm có khoa đào tạo chuyên ngành về giáo viên chủ nhiệm.

Do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu chỉ là một lớp của

THCS nên các giải pháp đưa ra chưa đầy đủ, toàn diện, nhưng ít nhiều nó cũng

giúp cho ta định hướng được một số việc cần làm trong việc giáo dục đạo đức

học. Tôi cũng rất mong nhận được các đóng góp quý báu của Hội đồng xét

duyệt sáng kiến kinh nghiệm cùng các đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm

của tôi thêm hoàn thiện. Tôi xin trân trọng cảm ơn!

22

PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạp chí Thế giới trong ta – số 79+80 năm 2008-Hội khoa học tâm lý giáo

dục Việt Nam.

2. Một số kinh nghiệm giáo dục đạo đức của giáo viên chủ nhiệm trong

trường THCS- nhà xuất bản giáo dục 1998.

3. Tâm lí học đại cương - Hà Nội 1995 - PGS. Nguyễn Quang Uẩn (chủ

biên).

4. Th.s Nguyễn Thị Cúc – Lý luận giáo dục – Khoa sư phạm trường ĐH An

Giang. năm 2006.

5. Thực hành về giáo dục học - Hà Nội 1995 - PTS. Nguyễn Đình Chỉnh.

23