1/15
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
Chương trình Mĩ thuật ở THCS bao gồm nhiều phân môn: Vẽ theo mẫu,
vẽ trang trí, vẽ tranh đề tài và thường thức mỹ thuật. Nhưng theo nhận định của
tôi, phân môn vẽ trang trí giúp cho học sinh ứng dụng nhiều trong cuộc sống,
đặc biệt sẽ phát huy tính sáng tạo, khả năng tư duy, trừu tượng của học sinh.
Khi dạy môn mĩ thuật, đặc biệt phân môn vẽ trang trí - trang trí ứng dụng,
ngoài việc truyền thụ kiến thức về mĩ thuật, người giáo viên cần phải biết khơi
gợi hướng dẫn cho học sinh phát huy hết tính tích cực, sáng tạo, ứng dụng các
kiến thức đó để làm ra các sản phẩm sáng tạo của mình, tạo cho các em có sự
hứng thú qua các tiết học.
Bằng những kinh nghiệm và kiến thức đã được học, tôi đã xây dựng ý
tưởng và thực hiện đề tài Kinh nghiệm giúp học sinh hứng thú khi học tiết trang
trí ứng dụng trong môn Mĩ thuật cấp THCS. Thực hiện đề tài này, tôi có mong
muốn sẽ giúp các em phát huy những kỹ năng, sự sáng tạo của các em học sinh
trong việc học bài trang trí ứng dụng trong phân môn vẽ trang trí.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tôi thấy có thể áp dụng sáng kiến này trong tất cả các bài dạy thuộc phân
môn vẽ trang trí với tất cả học sinh ở các trường phổ thông. Bởi lợi ích từ sáng
kiến này mang lại rất nhiều:
+ Các kiến thức trong bài học thuộc phân môn vẽ trang trí được các em áp dụng
tốt trong thực tiễn cuộc sống.
+ Tạo điều kiện học tập tích cực cho các em phát triển thể chất và trí tuệ.
+ Tái sử dụng để làm ra cái mới có thể dùng được .
+ Các em học sinh có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường.
+ Giáo dục các em thêm yêu các vốn quý của dân tộc (các hoa văn, họa tiết dân
tộc), từ đó thúc đẩy các em ý thức giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị nghệ
thuật của người Việt.
III. THỜI GIAN, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Thời gian nghiên cứu
2/15
- Tôi đã nghiên cứu trong khá nhiều năm học, song từ năm 2019 bắt đầu đầu tư thời gian nghiên cứu nhiều hơn với đối tượng học sinh lớp 7 của trường nơi tôi đang công tác. 2. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp 7A,7B trường THCS năm học 2019-2020 - Học sinh lớp 7A, 7B trường THCS năm học 2020- 2021 3. Phạm vi nghiên cứu - Năm học 2019-2020
Lớp thực nghiệm (7B) Lớp đối chứng (7A)
35 học sinh 32 học sinh
- Năm học 2020-2021
Lớp thực nghiệm (7B) 44 học sinh Lớp đối chứng (7A) 38 học sinh
IV. SỐ LIỆU KHẢO SÁT TRƯỚC KHI THỰC HIỆN GIẢI PHÁP
1. Kết quả học tập bộ môn 1.1. Kết quả học tập học kỳ I của các em năm học 2019-2020
Lớp Sĩ số Tỉ lệ đạt Tỉ lệ chưa đạt
% 40.6% 34.3% SL 19 23 7A 7B 32 35 % 59.4% 65.7%
SL 13 12 1.2.Kết quả học tập học kỳ I của các em năm học 2020-2021
Lớp Sĩ số Tỉ lệ đạt Tỉ lệ chưa đạt
7A 7B 38 44 SL 25 36 % 65,7% 82% SL 13 8 % 34,3% 18%
2. Tôi tiếp tục phát phiếu điều tra tìm hiểu sự hứng thú học tập bộ môn thể dục của học sinh kết quả thu được như sau:
2.1.Năm học 2019-2020 Lớp Sĩ số
Số học sinh tham gia điều tra. Số học sinh yêu thích môn học
Số học sinh không thích môn học.
Số học sinh chưa hiểu biết sâu hết ý nghĩa môn học.
32 35 32 35 15 14 9 14 8 7
7A 7B 2.2. Năm học 2020-2021
3/15
Lớp Sĩ số
Số học sinh tham gia điều tra. Số học sinh yêu thích môn học.
Số học sinh không thích môn học.
Số học sinh chưa hiểu biết sâu hết ý nghĩa môn học.
7A 7B 38 44 38 44 22 24 8 14 8 6
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.CƠ SỞ LÍ LUẬN
Trang trí được dùng cho tên một phân môn của môn Mĩ thuật ở trường
phổ thông, được học sinh thích thú học tập vì nó gắn liền với cuộc sống, học tập,
vui chơi của các em. Trang trí không chỉ giúp cho học sinh tạo ra cái đẹp muôn
màu, muôn vẻ mà còn phát triển khả năng suy nghĩ, tìm tòi để luôn luôn có cái
mới, cái khác, cái lạ,… Học trang trí các em được rèn luyện, bồi dưỡng, phát
triển phẩm chất của người lao động sáng tạo không ngừng. Khi học phân môn
này lấy thực hành làm hoạt động chủ yếu. Tuy nhiên khi vẽ trang trí hầu hết học
sinh khi vẽ còn phụ thuộc vào sách giáo khoa, trong tranh ảnh có sẵn, nên các
em luôn bị động, ít sáng tạo. Một số em còn coi nhẹ môn Mĩ thuật, chưa ý thức
được vai trò của môn Mĩ thuật trong đời sống, hầu hết các em chưa nhận ra được
giá trị thẩm mĩ của các bài vẽ trang trí, chưa tập trung vào bài vẽ trang trí. Các
em chưa có sự cố gắng, chưa tìm tòi và chưa thực sự yêu thích môn học. Vì vậy
nếu giáo viên không hướng dẫn cụ thể hoặc không có phương pháp rèn luyện kỹ
năng, không tạo được sự yêu thích môn học cho học sinh thì không đạt được kết
quả như yêu cầu.
Vì những nguyên nhân trên mà tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm trong
quá trình giảng dạy đã đúc kết được của bản thân về việc giúp học sinh hứng thú
khi học tiết trang trí ứng dụng để giúp học sinh yêu thích môn học hơn.
Riêng đối với phân môn vẽ trang trí, hầu hết học sinh chưa nhận ra được giá trị
thẩm mĩ của các bài vẽ trang trí, chưa tích cực, chủ động trong học tập, chưa
phát huy được tính sáng tạo trong thực hành bài vẽ của mình (các em thích sao
chép hơn).
4/15
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Ưu điểm: - Nhìn chung các em học sinh khối 7 ở năm học 2019-2020 do có giáo viên chuyên trách giảng dạy nên các em cảm thấy thoải mái không bị căng thẳng, gò bó, tích cực học tập và có hứng thú học tập bộ môn rất tốt. - Học sinh có những hiểu biết cơ bản về lý thuyết và kỹ năng thực hành - Biết vận dụng kiến thức vào trang trí khung cảnh tại nhà - Học sinh gần gũi hoà đồng với nhau . 2. Nhược điểm: - Học sinh chưa hiểu rõ vai trò của môn học, coi đây là môn học phụ nên không hứng thú học tập - Thời gian học còn ít nên các em bị mai một về kỹ năng. III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Mục tiêu của giải pháp:
Giúp học sinh nắm vững được những kiến thức cơ bản về vẽ trang trí:
Những kiến thức chung, cách sử dụng màu vẽ, cách vẽ họa tiết, phân biệt được
và thực hiện được bài trang trí cơ bản và trang trí ứng dụng. Từ đó thúc đẩy khả
năng tư duy, sự sáng tạo, tính tò mò sự hiếu kì của các em trên mọi chất liệu.
Giúp học sinh hứng thú hơn khi học tiết học trang trí ứng dụng.
2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp:
Trong quá trình thực hiện đề tài, giáo viên cần nhấn mạnh và khái quát lại
một số nội dung sau:
2.1. Khái niệm về trang trí:
Trang trí là nghệ thuật sắp xếp đường nét, hình mảng, hình khối, đậm
nhạt, màu sắc lên mặt phẳng hay trong không gian để tạo nên sản phẩm hay hình
thể đẹp với nội dung, yêu cầu của từng loại.
2.2. Bố cục trang trí:
Bố cục trang trí là sự sắp xếp các yếu tố trang trí (hình mảng, đường nét,
đậm nhạt, màu sắc) theo những quy tắc của trang trí, phù hợp với từng thể loại
trang trí, góp phần tạo ra những sản phẩm trang trí có giá trị thẩm mỹ phục vụ
nhu cầu tinh thần ngày càng cao của con người.
2.3. Một số hình thức bố cục trong trang trí:
5/15
- Nhắc lại: Một hoạ tiết hay một nhóm hoạ tiết được vẽ lặp lại nhiều lần, có thể
đảo ngược theo một trật tự nhất định để tạo nên sự sinh động, nhịp nhàng.
- Xen kẽ: Hai hay nhiều hoạ tiết được vẽ xen kẽ nhau và lặp lại.
- Đối xứng: Hoạ tiết được vẽ giống nhau qua một hay nhiều trục.
- Mảng hình không đều: Các mảng hình, hoạ tiết tuy không đều nhưng vẫn tạo
ra sự thăng bằng, cân xứng, thuận mắt trong bài vẽ.
2.4. Các yếu tố của nghệ thuật trang trí:
6/15
- Nền:
+ Là khoảng trống giữa các họa tiết.
+ Phần nền có khi là các khoảng trống thoáng, rộng rãi mà các họa tiết chỉ là
những điểm phụ, đơn giản hay có khi là những khoảng trống nhỏ còn sót lại do
các họa tiết tạo ra.
+ Màu của nền thường là một màu thống nhất sắc tố chính cho sự hòa sắc.
- Hoạ tiết:
+ Là một kiểu hình thể nào đó được sáng tạo, chọn lựa để trang trí. Đó có thể là
hình hoa, lá, con vật được cách điệu hay các hình ảnh khác lấy thực tế cuộc
sống.
+ Màu của các họa tiết thường không giống màu của nền.
- Màu sắc:
+ Là yếu tố thiết yếu trong nghệ thuật trang trí.
+ Trong một mặt phẳng trang trí cần lưu ý đến các sắc chính (chủ sắc) không
nên phối hợp hai sắc trái ngược như nóng - lạnh chiếm cùng diện tích như nhau.
Sự phối hợp màu sắc tùy theo sở thích của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc nhưng cần
phải tránh bớt dùng nhiều màu nguyên chất như đỏ, vàng, xanh lam... để bài vẽ
bớt sự nặng nề hay nhìn chói mắt, khó xem.
+ Hình thể trong trang trí rõ ràng, dứt khoát. Do đó, màu sắc lúc nàu cũng phải
nằm gọn trong một mảng hình nào đó. Các mảng màu thường ở dạng bẹt, không
vờn bóng sáng - tối. Tuy nhiên đôi khi hoạ sĩ cũng thích dùng kỹ thuật vờn bóng
sáng - tối để làm họa tiết có chiều sâu không gian nhưng điều đó cũng không
làm mất đi tính dứt khoát của mảng trang trí.
+ Dù dùng loại hòa sắc nào, nhẹ nhàng hay gay gắt, vui tươi hay trầm lặng cũng
cần phải thể hiện được một hòa sắc thuận mắt, ưa nhìn, hòa được với hoàn cảnh
xung quanh, với tự nhiên.
* Một số kinh nghiệm giúp học sinh hứng thú khi học tiết trang trí ứng dụng:
7/15
Phân môn vẽ trang trí trong trường THCS được chia là 2 loại: Trang trí cơ
bản và trang trí ứng dụng theo cấp độ tăng dần từ dễ đến khó (Từ lớp 6 đến lớp
9). Tuy nhiên các bài học mới dừng lại ở mức học sinh hoàn thành bài. Để phát
huy hết khả năng sáng tạo của học sinh và giúp các em thấy hứng thú trong khi
học những tiết học này thì giáo viên phải biết cách khơi gợi óc sáng tạo, truyền
cảm hứng cho học sinh bằng cách trong các bài dạy giáo viên có thể hướng dẫn
trực tiếp, hoặc cho học sinh xem video hướng dẫn làm đồ vật ứng dụng dựa trên
kiến thức bài học để học sinh thấy hứng thú và nghĩ rằng mình cũng có thể làm
được và thậm chí có thể làm tốt hơn, hay hơn.
- Đối với lớp 7:
+ Bài trang trí đường diềm:
Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng giấy màu, vải, hạt cườm hoặc hoa
khô cắt dán trang trí thành đường diềm lên những chiếc quần áo, vỏ gối cũ,
những hộp bánh đã sử dụng sau đó dán hoặc khâu theo nét vẽ hoặc sử dụng màu
vẽ để làm mới các đồ vật. Nếu giúp các em tạo ra những sản phẩm này, chắc
chắn các em sẽ thấy thích thú hơn với môn học, đồng thời hiểu được các chất
liệu trong trang trí.
Trang trí đường diềm trên cổ áo và khung ảnh
+ Bài trang trí chiếc khăn để đặt lọ hoa:
GV hướng dẫn học sinh sử dụng các chất liệu sẵn có, có thể tái sử dụng
như vải vụn, hoa khô, dây ruy băng, cúc áo các loại,… Hay sử dụng sợi len để
đan hay móc thành chiếc khăn.
8/15
Khăn đặt lọ hoa bằng len móc họa tiết theo cách sắp xếp đối xứng
- Lớp 7:
+ Bài tạo dáng và trang trí lọ hoa:
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách tạo các kiểu lọ hoa từ các loại chai, lọ,
+ Bài trang trí đồ vật có dạng hình chữ nhật:
Thiệp chúc mừng làm từ giấy, vải và len sợi.
cốc, hộp sữa,… sau đó có thể trang trí các họa tiết trên các lọ hoa (tái chế) đó.
Hộp quà được trang trí bằng giấy màu, dây ruy băng và hạt cườm
9/15
+ Bài chữ trang trí:
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh vẽ một số mẫu chữ trên vải hoặc giấy
sau đó tiến hành thêu, hoặc kết hạt vào mẫu chữ đó. Có thể trang trí thêm hoa
khô cho phần chữ thêm sinh động:
+ Bài trang trí bìa lịch treo tường:
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm ra một sản phẩm bìa lịch treo tường
cho năm mới từ bìa thùng cat - tông, giấy màu,..
10/15
+ Bài trang trí đĩa tròn:
Các em có thể sử dụng đĩa giấy trắng, sau đó vẽ họa tiết trang trí trên đĩa
+ Bài trang trí đầu báo tường và trang trí tự do:
theo các hình thức bố cục trang trí mà đã được học:
Ngoài cách vẽ báo tường thông thường giáo viên hướng dẫn khơi gợi sự sáng
tạo của học sinh, sử dụng rơm, dây ruy băng, giấy xốp, dây dù, lá cây để làm
đầu báo tường theo lối trang trí tự do:
+ Bài trang trí tự do: Với sự hướng dẫn của giáo viên, các em đã sử dụng ống
hút và chai nhựa để sáng tạo ra một chiếc đèn ngủ đẹp mắt và tiện dụng. Hoặc từ
những tờ giấy xốp các em có thể cắt dán tạo thành lọ hoa xinh xắn:
11/15
Hoặc cũng có thể với một hộp bánh đã bỏ đi, các em đã sử dụng giấy xốp
màu, bút dạ, kéo, keo dán đã tạo ra một chậu cảnh đẹp mắt dưới đây:
+ Bài trình bày bìa sách:
Giáo viên gợi ý học sinh tạo ra các cuốn sách cho riêng mình bằng cách
sưu tầm các nhân vật hay hình ảnh trong các cuốn sách đã cũ, sau đó cắt những
hình ảnh đã sưu tầm được đó để trang trí cho bìa sách của mình.
Ngoài ra giáo viên cũng có thể hướng dẫn các em sử dụng những tấm bìa
cứng cát tông, hộp bánh bằng giấy, giấy màu, keo dán tạo nên những cuốn sách
đẹp mắt, hấp dẫn người xem.
- Lớp 9:
+ Bài tạo dáng và trang trí túi xách:
Chiếc túi xách từ vải, dây len,…
12/15
+ Bài trang trí hội trường:
Giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức bài vẽ trang trí hội
trường để sử dụng các vật liệu có thể tái chế để trang trí nhà cửa, phòng
học…
Có thể các em vận dụng kiến thức để ứng dụng trang trí lớp học, trong các
giờ sinh hoạt chi đội, ngoại khóa giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm,…
IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
1.Kết quả học tập của học sinh hai lớp 7A-7B năm học 2019-2020
Lớp
Sĩ số Tỉ lệ đạt Tỉ lệ chưa đạt
7A 7B 32 35 SL 28 30 % 87. 5% 85. 7% SL 4 5 % 12. 5% 14. 3%
Nhìn vào bảng trên tôi thấy: Tỉ lệ học sinh xếp loại đạt tương đối cao so với học kỳ I. Rõ ràng so với đầu năm thì chất lượng bộ môn có sự chuyển biến rõ rệt. Từ đó góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục ở trường THCS.
13/15
2. Kết quả về sự hứng thú học tập môn MT của các em. 2.1. Kết quả năm học 2019-2020.
Lớp Số HS tham gia điều tra Số học sinh yêu thích môn học Số học sinh không thích môn học .
7A 7B 28 30 4 5 Số HS chưa hiểu biết sâu sắc về ý nghĩa môn học. 0 0
32 35 2.2. Kết quả năm học 2020-2021
Lớp Số HS tham gia điều tra Số học sinh yêu thích môn học Số học sinh không thích môn học .
7A 7B 38 44 36 42 2 2 Số HS chưa hiểu biết sâu sắc về ý nghĩa môn học. 0 0
Qua bảng khảo sát chứng tỏ rằng tôi đã áp dụng đổi mới phương pháp dạy
học nội dung giảng dạy môn mĩ thuật lớp 7 trong quá trình dạy học là đúng đắn.
Bởi lẽ đã giúp các em hiểu rõ vai trò của môn học vì vậy các em hứng thú học
tập và học tập đạt kết quả cao
- Kết quả khảo nghiệm:
Sau một thời gian áp dụng, tôi nhận thấy chất lượng của phân môn vẽ
trang trí nói chung, đối với bài trang trí ứng dụng nói riêng đã có sự chuyển biến
ngày càng tích cực hơn, học sinh cảm thấy hứng thú hơn khi học những tiết học
này, vì tạo ra được những sản phẩm đẹp và tiện dụng từ những bàn tay khéo léo
và óc sáng tạo của mình. Cụ thể, tôi đã khảo sát chất lượng học sinh qua “Trang
trí đĩa tròn” và đã thu được kết quả như sau:
Bảng thống kê cho thấy số lượng học sinh đạt sau các bài vẽ trang trí đã
có sự gia tăng so với bài khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến. Có những em rất
sáng tạo, có trí tưởng tượng vô cùng phong phú và tinh tế, tạo ra những sản
phẩm đẹp, vô cùng ý nghĩa, có ích và tiện dụng, đặc biệt hơn là các em vô cùng
hứng thú khi học những tiết học này.
14/15
- Giá trị khoa học: Với đề tài tôi chọn nghiên cứu hy vọng được đóng góp một
phần nhỏ bé của mình vào việc dạy và học môn Mĩ thuật ở Trường THCS đạt
kết quả cao. Mặt khác sẽ là cơ sở cho các đồng nghiệp của tôi ở trong huyện,
tỉnh vận dụng vào từng bài để nâng cao chất lượng bộ môn Mĩ thuật.
C. PHẦN KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ:
I. KẾT LUẬN
Qua quá trình áp dụng sáng kiến vào trong các bài dạy tôi thấy các em học
sinh thích thú, yêu thích môn học hơn, các em say mê tìm tòi sáng tạo để làm
mới các đồ vật và số lượng các đồ vật được các em tái chế, làm mới ngày một
nhiều lên. Qua một thời gian áp dụng sáng kiến, tôi đã nhận được sự động viên,
quan tâm khích tệ từ các đồng nghiệp, các bậc phụ huynh học sinh. Và thực sự
các đồ vật được các em làm ra có giá trị sử dụng rất hiệu quả trong cuộc sống,
cho chính bản thân và gia đình các em.
Tôi hi vọng khi đọc xong đề tài này các bạn cũng sẽ tìm ra cho mình cách
hướng dẫn học sinh vận dụng các phương pháp vào bài một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên với thời gian không nhiều và tài liệu tham khảo chưa được
phong phú chắc chắn rằng đề tài này còn có những thiếu sót, hạn chế mà bản
thân tôi không phát hiện ra. Để đề tài này thực sự hoàn thiện và có hiệu quả cao
hơn tôi mong rằng các bạn sẽ có những ý kiến đóng góp xây dựng và chỉnh sửa
sau khi đã đọc và nghiên cứu kĩ đề tài.
II. KHUYẾN NGHỊ
Để việc dạy và học Mĩ thuật được tốt hơn, tôi mong muốn các cấp quan
tâm giúp đỡ chúng tôi:
- Cung cấp thêm nhiều tư liệu, các dụng cụ thiết bị, tranh ảnh ngoài tranh ảnh
trong sách giáo khoa để tăng thêm sự hứng thú trong các tiết dạy.
- Tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc thi vẽ tranh để các em có cơ hội học hỏi lẫn
nhau.
15/15
- Duy trì việc tổ chức các chuyên đề Mỹ thuật để giáo viên được giao lưu, trao
đổi kinh nghiệm với nhau.
- Cần tăng thời lượng các tiết học phân môn vẽ trang trí để học sinh có nhiều
thời gian thực hành sáng tạo.
- Để sáng kiến này có cơ hội được nhân rộng, tôi đề xuất với các cấp cơ sở, cấp
quản lí lên tổ chức các cuộc thi sáng tạo đồ dùng dạy học, đồ dùng phục vụ sinh
hoạt, cuộc sống hàng ngày, bằng các vật dụng bỏ đi xung quanh cuộc sống cho
cả giáo viên và học sinh để mọi người có cơ hội giao lưu để cùng tạo ra các
phương pháp làm hay trong việc thúc đẩy sự sáng tạo không ngừng của con
người.
Trên đây là sáng kiến nhỏ mà tôi đã và đang thực hiện thu được nhiều
hiệu quả rõ rệt. Hiện tại, trong quá trình giảng dạy tôi vẫn đang tiếp tục hoàn
thiện, tìm tòi và phát huy hơn nữa nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục. Tôi rất
mong được sự quan tâm, đóng góp xây dựng của đồng nghiệp để những bài
giảng ngày càng hiệu quả hơn.