SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH BÌNH

TÊN SÁNG KIẾN:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM CÂU NGHỊ LUẬN XÃ HỘI TRONG BÀI THI VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN

Nhóm tác giả: 1. Đỗ Xuân Quyền 2. Nguyễn Thị Lan Hương Đơn vị công tác: Trường THCS Khánh Cường, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình

NINH BÌNH, THÁNG 5 NĂM 2021

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN

Kính gửi: Hội đồng sáng kiến Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình

Tỷ lệ (%)

Trình độ

đóng góp

Ngày tháng

TT

Họ và tên

Nơi công tác

Chức vụ

chuyên

vào việc

năm sinh

môn

tạo ra sáng

kiến

THCS

Phó

1 Đỗ Xuân Quyền

23/3/1973

Đại học

40%

Khánh Cường

Hiệu trưởng

THCS

2 Nguyễn Thị Lan Hương 07/9/1985

Giáo viên

Thạc sĩ

60%

Khánh Cường

Chúng tôi là:

(PHỤ LỤC 1)

1. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng

Là đồng tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Một số giải pháp rèn kĩ năng làm câu nghị

luận xã hội trong bài thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn.

Lĩnh vực áp dụng: Môn Ngữ văn

Thời gian áp dụng: Năm học 2018-2019, năm học 2019-2020 và năm học 2020-2021.

2. Nội dung

Giai đoạn 2010-2020 đánh dấu bước thay đổi của giáo dục Việt Nam gắn với thực hiện Nghị quyết Ðại hội XI, XII của Ðảng, trong đó đột phá chiến lược là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân.

Nhiều năm qua, các tỉnh, thành phố trên cả nước nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng đã từng bước đổi mới cách ra đề thi tuyển sinh lớp 10 theo hướng gắn lý thuyết với thực tiễn. Nội dung đề thi trong chương trình Trung học cơ sở, tập trung ở lớp 9. Tuy nhiên, đề ra theo hướng chủ yếu

kiểm tra khả năng tư duy, vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn của học sinh. Vì vậy, gắn với việc đổi mới cách ra đề thi, cách dạy và học tại trường cũng được đổi mới theo hướng phát huy năng lực học sinh, gắn kiến thức với thực tiễn, giúp học sinh dần làm quen với dạng đề thi này.

Xuất phát từ yêu cầu đổi mới và thực tiễn dạy học, tôi đã lựa chọn thực hiện đề tài: Một số giải

pháp đổi mới rèn kĩ năng làm câu nghị luận xã hội trong bài thi vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn.

2.1. Giải pháp cũ thường làm.

2.1.1. Thực trạng:

Trong kì thi vào lớp 10 THPT trước đây, đề thi thường có ba câu hỏi. Câu nghị luận xã hội 3,0 điểm thường được hỏi theo dạng bài sau: Viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về một vấn đề sự việc, hiện tượng đời sống hoặc một tư tưởng đạo lý.

Ví dụ:

- Viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về tác hại của

việc hút thuốc lá và rút ra bài học cho bản thân.

(Trích Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2014-2015, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh

Ninh Bình)

- Viết một bài văn ngắn (khoảng 01 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về lời nhắn nhủ

trong câu ca dao sau:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

(Trích Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2014-2015, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh

Ninh Bình)

Đây là những dạng đề khá quen thuộc với giáo viên và học sinh. Hơn nữa, câu nghị luận xã hội lại tách bạch nội dung với phần Đọc - hiểu và yêu cầu bàn luận về một vấn đề lớn trong khuôn khổ một bài văn.

Việc ôn tập kĩ năng cho học sinh tập trung vào các bước sau:

Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý

Bước 2: Lập dàn ý

Bước 3: Viết bài

Bước 4: Đọc lại bài và sửa chữa.

(PHỤ LỤC 2)

Giáo viên lên lớp cũng thiên về giảng dạy lý thuyết, đọc – chép bài văn mẫu, kiểm tra học thuộc, chưa chú trọng hướng dẫn kĩ năng, chưa chủ động đổi mới, vận dụng linh hoạt các kĩ thuật hay phương pháp dạy học. Học sinh chỉ cần học thuộc lòng, chưa được rèn nhiều kĩ năng vận dụng.

2.1.2. Hạn chế của giải pháp cũ và những yêu cầu đặt ra cho giải pháp mới:

- Cách ôn tập của giáo viên không có sự đổi mới đã dẫn đến tình trạng học sinh nhàm chán, ngại học văn, ngại đưa ra những bình luận, nhận xét hoặc đánh giá cá nhân, đặc biệt là thiếu tư duy phản biện.

- Hầu hết học sinh đều mệt mỏi khi phải ngồi lắng nghe mà không được chủ động tham gia vào bài giảng. Nhiều học sinh không thể nhớ được hết những gì mà giáo viên trình bày và thậm chí còn nhớ rất ít. Giáo viên cũng mệt mỏi khi nói nhiều, từ tiết này đến tiết khác.

- HS còn thụ động, ít tương tác và tham gia xây dựng bài với giáo viên.

- Khả năng ghi nhớ bài cũ của HS còn yếu.

- HS chưa tự tìm cho mình một phương pháp ghi nhớ hiệu quả.

- Việc học bài chủ yếu là thuộc lòng, máy móc, không liên kết…

2.2. Giải pháp mới cải tiến

Để thấy được đặc điểm và yêu cầu của dạng bài viết đoạn văn nghị luận xã hội, trước hết

chúng ta quan sát lại câu nghị luận xã hội trong các đề thi chính thức của những năm gần đây.

- Từ nội dung phần Đọc hiểu, em hãy nêu cảm nhận về lòng tốt giữa con người với con người

trong cuộc sống hiện nay. (Trình bày trong một đoạn văn khoảng 200 từ).

(Trích Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2019-2020, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh

Ninh Bình)

- Anh (chị) hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về

vai trò của gia đình trong cuộc sống của mỗi người.

(Trích Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2020-2021, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh

Ninh Bình)

Vài năm trở lại đây, cấu trúc đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn đã có sự thay đổi, gồm 2 phần: Phần Đọc – hiểu (3,0 điểm); Phần Làm văn (7,0 điểm, gồm 2 câu: Câu 1 nghị luận xã hội 2,0 điểm, câu 2 nghị luận văn học 5,0 điểm). Dù chỉ chiếm 2,0 điểm/10,0 điểm nhưng câu nghị luận xã hội sẽ giúp học sinh gỡ điểm nếu làm đúng và trúng vấn đề, góp phần nâng điểm số toàn bài thi cao hơn.

Từ cấu trúc ngôn từ quen thuộc trong các đề: "Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu...", nội dung nghị luận có quan hệ hữu cơ với nội dung chính của ngữ liệu đọc hiểu. Đặc điểm này chỉ có từ kỳ thi năm 2017, khi đề bài yêu cầu viết đoạn văn nghị luận xã hội từ một nội dung nào đó trong ngữ liệu đọc hiểu, thay vì bài văn nghị luận xã hội độc lập.

Điều này mang đến thuận lợi cho học sinh trong quá trình làm bài khi các em có được những gợi ý quan trọng ngay từ việc suy nghĩ và trả lời các câu hỏi đọc hiểu trước đó. Tuy nhiên, các em cũng cần lưu ý tránh sự trùng lặp ý giữa câu hỏi đọc hiểu và nội dung đoạn văn nghị luận xã hội.

Câu lệnh trong đề luôn xác định rõ hai yêu cầu của đoạn văn, trước hết là một trong những yêu cầu về hình thức đoạn văn: viết đúng dung lượng theo yêu cầu đặt ra trong câu lệnh của đề bài; sau đó là yêu cầu về nội dung nghị luận, đó là một khía cạnh, một bình diện, một ý nhỏ trong vấn đề lớn. Quan sát các đề đã dẫn phía trên, hầu hết nội dung nghị luận đều hướng tới tư tưởng đạo lý - do vậy cần lưu ý thêm dạng đề nghị luận về một hiện tượng xã hội. Ví dụ: hiện tượng bạo lực học đường/ hội chứng đám đông/ phong trào thiện nguyện trong xã hội thời hiện đại/ các trào lưu sử dụng mạng xã hội...

Như vậy, ngoài việc thay đổi cách hỏi, yêu cầu về dung lượng và điểm số, câu nghị luận xã hội còn liên quan chặt chẽ đến phần Đọc – hiểu văn bản, được dẫn dắt từ nội dung đọc hiểu. Vậy nên cách đưa vấn đề bàn luận cũng rất đa dạng và đòi hỏi học sinh có kĩ năng viết súc tích, cảm xúc. Theo đánh giá chung của người viết, đây là một dạng câu hỏi thiết thực, gần gũi nhưng cũng khó đạt điểm cao nếu không ôn luyện một cách thành thục.

Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi thấy bên cạnh quá trình giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức về kiểu bài nghị luận xã hội trong sách giáo khoa tập 2 môn Ngữ văn lớp 9 ở hai dạng bài: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống và Nghị luận về vấn đề tư tưởng, đạo lý, thì việc rèn kĩ năng làm bài cho học sinh là vấn đề then chốt.

Trong quá trình ôn luyện, tiếp cận và áp dụng, chúng tôi đã trăn trở, cải tiến và kết hợp nhiều

giải pháp mới:

Giải pháp 1: Cung cấp có hệ thống kiến thức về các dạng bài nghị luận xã hội cho học sinh.

Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh tích lũy tri thức.

Giải pháp 3: Nhận diện một số cách trình bày đoạn văn cơ bản.

Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh nhận diện đề, tìm ý, xây dựng luận điểm bàn luận một khía

cạnh, một bình diện theo yêu cầu của đề bài.

Giải pháp 5: Rèn kĩ năng diễn đạt, phép liên kết (liên kết các câu trong văn bản), cách đưa và

lựa chọn dẫn chứng.

Giải pháp 6: Tổng hợp kĩ năng làm câu nghị luận xã hội trong 2 dạng bài cơ bản thường gặp

trong đề thi vào lớp 10 THPT.

Giải pháp 7: Hướng dẫn học sinh cách triển khai ý của đoạn văn (lập dàn ý) qua phương pháp

Graph.

Giải pháp 8: Tập cách thể hiện cá tính (dấu ấn cá nhân) trong đoạn văn nghị luận xã hội.

(PHỤ LỤC 3)

* Tính mới, tính sáng tạo của các giải pháp:

Giải pháp này đáp ứng một cách tối ưu yêu cầu đổi mới giáo dục trong thời đại ngày nay, đó

là:

- Chuyển từ cách học lý thuyết đơn thuần sang học lý thuyết gắn liền với thực hành, trải

nghiệm nhằm giúp học sinh vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống.

- Cụ thể hóa được nội dung bài học, hệ thống chặt chẽ nội dung bài học.

- Giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy… Cách này giúp các em được rèn luyện một cách liên tục nhằm nâng cao năng lực, phẩm chất của mình.

- Hình thức học tập đa dạng, phong phú sẽ phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động của người học trong quá trình rèn luyện, học tập tại trường học, khắc phục được lối học thụ động, phụ thuộc hoàn toàn vào giờ lên lớp trước đây. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng các giải pháp đổi mới giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.

3. Hiệu quả kinh tế - xã hội dự kiến đạt được

3.1. Hiệu quả kinh tế:

So với các ngành nghề khác, hiệu quả kinh tế thể hiện qua bộ môn Ngữ văn không rõ ràng cụ thể, không nhìn thấy ngay được. Nhưng với cách thức đổi mới rèn kĩ năng làm câu nghị luận xã hội trong đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT như đã trình bày ở trên, chúng tôi nhận thấy học sinh hiểu bài tốt hơn, các em hào hứng, say mê học văn và làm tốt câu nghị luận xã hội hơn trước. Các em đã có kĩ năng làm bài nên việc học tập các môn học khác của các em cũng khác trước. Trong các kì thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT, có nhiều học sinh đạt điểm cao môn Ngữ văn, góp phần tăng tỉ lệ đỗ vào trường THPT công lập của nhà trường. Chi phí học tập cho các em giảm bớt rõ rệt. Các em nhận được sự động viên khen thưởng về tinh thần và vật chất của Hội khuyến học trong nhà trường, ở địa phương và các dòng họ.

3.2. Hiệu quả xã hội:

a. Đánh giá chung:

Việc xếp nghị luận xã hội là một dạng văn bản quan trọng nhất không thể thiếu trong chương trình giáo dục văn học bậc phổ thông đã nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục học sinh. Trước hết, mục đích của bài văn nghị luận xã hội là đưa ra bàn bạc, làm rõ những mặt tích cực- tiêu cực, đúng-sai, tốt-xấu trong xã hội với mục đích tuyên truyền, kêu gọi mọi người đứng ra giải quyết các vấn đề bất công trong xã hội, vì vậy bài văn nghị luận xã hội góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh, giáo dục học sinh về ý thức xây dựng lối sống công bằng, văn minh, thông qua việc thể hiện tư tưởng, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá với vấn đề. Ngoài ra, bài văn nghị luận xã hội giáo dục cho học sinh cách hình thành tư duy hợp lý, khoa học, biết cách bày tỏ cách quan điểm, tư tưởng của mình một các rành mạch, rõ ràng, biết cách tìm hiểu, khám phá và xác định chân lý trong cuộc sống.

Bài văn nghị luận xã hội có vai trò không nhỏ trong việc giáo dục, hình thành nhân cách, phát triển tư duy cho học sinh, vì vậy việc rèn luyện, bồi dưỡng các kỹ năng trong việc làm văn nghị luận xã hội là rất cần thiết và quan trọng đối với việc giáo dục văn học cấp trung học cơ sở.

Với những kinh nghiệm hướng dẫn trên, tôi nhận thấy có sự biến chuyển rõ rệt trong chuyên đề ôn tập rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh. Giáo viên không phải mất nhiều thời gian hướng dẫn học sinh giải từng đề cụ thể mà chỉ cung cấp cho các em “chìa khóa” để làm bài. Chìa khóa đó là một hệ thống những kiến thức, kĩ năng cần thiết mà học sinh phải có để sử dụng trong quá trình viết một đoạn văn nghị luận thông thường. Khi học sinh đã có nền tảng kiến thức cơ bản, giáo viên chỉ cần minh họa bằng một số đề, từ đó, hoàn toàn có thể chủ động, tự tin thực hiện bất kì một yêu cầu nào.

Khi áp dụng sáng kiến này vào giảng dạy tôi nhận thấy hiệu quả xã hội là quan trọng nhất. Học sinh say mê yêu thích môn học, học sinh gắn bó với trường lớp, với bạn bè, không vi phạm các vấn đề về đạo đức hay các tệ nạn xã hội. Cũng từ đó, phụ huynh học sinh đã có những nhận thức đúng đắn hơn, tích cực hơn với bộ môn Ngữ Văn. Nhiều phụ huynh đã khuyến khích con em mình học Văn cũng như các bộ môn Khoa học Xã hội khác. Bởi môn nào cũng quan trọng và đều giúp ích cho học sinh sau này.

b. Kết quả cụ thể:

Thực hiện sáng kiến của mình, trên cơ sở bám sát chương trình phân môn, trong các bài kiểm tra thường xuyên và định kì của học sinh, chúng tôi đã kiểm chứng bằng một số yêu cầu viết đoạn văn cụ thể.

Bảng so sánh kết quả trước và sau thực nghiệm:

Trước khi vận dụng các giải pháp đổi mới:

Năm

Lớp

Số HS nắm chắc lý thuyết, kĩ năg tự tin làm bài (em)

Số HS nắm được một phần lý thuyết, kĩ năng, biết làm bài (em)

Số HS không nắm rõ lý thuyết, lúng túng khi làm bài (em)

học

SL

Tổng số HS thực nghiệm (em)

SL

%

SL

%

%

2018-2019

9A

31

15

48,4 % 10

32,3%

06

19,3 %

2019-2020

9A

36

17

47,2 % 11

30,6 % 08

22,2 %

2020-2021

9A

40

19

47,5 % 12

30,0 % 09

22,5 %

7

9A (18-19) 9A (19-20) 9A (20-21)

50% 45% 40% 35% 30% 25% 20% 15% 10% 5% 0%

Tự tin làm bài

Biết làm bài

Lúng túng

Biểu đồ thể hiện kĩ năng thực hành viết đoạn văn nghị luận xã hội của học sinh trước khi giáo

viên vận dụng các giải pháp đổi mới.

Sau khi vận dụng các giải pháp đổi mới:

Năm

Lớp

Số HS nắm chắc lý thuyết, kĩ năg tự tin làm bài (em)

Số HS nắm được một phần lý thuyết, kĩ năng, biết làm bài (em)

Số HS không nắm rõ lý thuyết, lúng túng khi làm bài (em)

học

SL

Tổng số HS thực nghiệm (em)

SL

%

SL

%

%

2018-2019

9A

31

28

90,3 % 3

9,67 % 0

0 %

2019-2020

9A

36

32

88,9 % 4

11,1 % 0

0 %

2020-2021

9A

40

38

95,0 % 2

5,0 %

0

0 %

100%

90%

80%

70%

60%

9A (18-19)

50%

9A (19-20)

7

40%

9A (20-21)

30%

20%

10%

0%

Tự tin làm bài

Biết làm bài

Lúng túng

Biểu đồ thể hiện kĩ năng thực hành viết đoạn văn nghị luận xã hội của học sinh sau khi giáo

viên vận dụng các giải pháp đổi mới.

Từ bảng số liệu trên cho thấy, sau khi chúng tôi tiến hành ôn luyện cho học sinh lớp 9 kĩ năng làm câu nghị luận xã hội, theo các giải pháp đã trình bày trong sáng kiến, nhiều học sinh nắm chắc tại lớp phần lý thuyết và vận dụng thực hành, viết đoạn văn nghị luận xã hội đạt kết quả cao.

Nhận thấy khả quan mà sáng kiến mang lại, chúng tôi đã mạnh dạn vận dụng trong quá trình bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi lớp 9 của huyện Yên Khánh. Đây cũng là một trong những yếu tố làm nên thành công của đội tuyển Ngữ văn trong kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh những năm vừa qua. Kết quả cụ thể như sau:

Năm học Nhất Nhì Ba

Khuyến khích Xếp chung

2 0 2 1 2 2016 - 2017

1 0 6 1 2 2017 - 2018

3 0 3 2 1 2018 - 2019

Không tổ chức thi 2019-2020

2 0 4 3 2 2020-2021

Kết quả thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT môn Ngữ văn trong những năm học gần đây của các

lớp tôi trực tiếp giảng dạy cũng cho thấy rõ tính hiệu quả của sáng kiến.

Năm học

Xếp thứ các trường THCS trong huyện môn Ngữ văn

Điểm TB môn Ngữ văn của nhà trường

2018 - 2019 6,0 4/20

2019 - 2020 6,06 3/19

2020 - 2021 7,0 1/19

Sáng kiến đã được học sinh và giáo viên, cán bộ quản lý đánh giá cao.

(PHỤ LỤC 4)

Kết quả thiết thực của sáng kiến là hình thức tuyên truyền tốt nhất đến cán bộ, giáo viên trong trường, trong huyện, là động lực giúp cho các cán bộ, giáo viên có nhận thức đúng đắn về sự đổi mới, trong đó chú trọng công tác quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và phương pháp giảng dạy. Nhà trường đã chủ động đưa học sinh đến với thực tế nhiều hơn; tổ chức cho cán bộ, giáo viên tiếp thu việc đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục theo hướng tăng cường năng lực thực hành, vận dụng kiến thức, định hướng năng lực cho học sinh. Giáo viên hạn chế được sự giảng giải, thuyết trình để tập trung vào tổ chức, hỗ trợ quá trình học tập của học sinh. Học sinh cơ bản thay đổi được thói quen học tập thụ động, được rèn luyện nhiều hơn về kỹ năng sống…

4. Điều kiện và khả năng áp dụng

4.1. Điều kiện áp dụng:

* Đối với giáo viên:

- Nghiên cứu kĩ nội dung, chương trình sách giáo khoa, nắm vững những kiến thức của từng bài

và những kiến thức liên quan để thiết kế các hoạt động phù hợp.

- Vận dụng các kĩ thuật dạy học tích cực để kích thích tư duy và khả năng sáng tạo của học sinh,

tạo cơ hội cho học sinh phát biểu ý kiến, phản biện.

- Tích cực học hỏi, tham gia chuyên đề của tổ, nhóm chuyên môn, tích cực bồi dưỡng thường

xuyên.

- Thường xuyên đánh giá kết quả của học sinh, kết quả giảng dạy của mình, có phương án điều

chỉnh cho phù hợp cho những giờ dạy sau.

* Đối với học sinh:

- Nắm vững kiến thức cơ bản và trau dồi khả năng hiểu biết xã hội.

- Có lòng đam mê, yêu thích môn học.

- Phải có ý thức cố gắng, kiên trì, chịu khó trong học tập.

- Trong giờ học trên lớp, cần nắm vững lí thuyết, có kĩ năng vận dụng, thường xuyên trao đổi

cùng bạn bè để nâng cao kiến thức cho học sinh.

4.2. Khả năng áp dụng:

Sáng kiến có tính thực tiễn cao, có thể vận dụng rộng rãi trong quá trình dạy và học ở cấp THCS và THPT. Đặc biệt, sáng kiến này có thể áp dụng với nhiều đối tượng học sinh, kể cả học sinh đại trà

cũng như học sinh khá giỏi. Các thầy giáo, cô giáo và học sinh có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn thi các cấp… để đạt hiệu quả thiết thực, phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục theo hướng phát triển năng lực học sinh hiện nay.

Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn

chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Yên Khánh, ngày 05 tháng 5 năm 2021 Người nộp đơn XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO

ĐƠN VỊ CƠ SỞ

Đỗ Xuân Quyền

Nguyễn Thị Lan Hương

PHỤ LỤC 1

Thông tin nhóm tác giả sáng kiến

1. Đỗ Xuân Quyền

Chức danh: Phó Hiệu trưởng

Đơn vị công tác: Trường THCS Khánh Cường, Yên Khánh, Ninh Bình

Trình độ chuyên môn: Đại học Ngữ văn

Email: quyenpyk@gmail.com

Số điện thoại: 0915922919

2. Nguyễn Thị Lan Hương

Chức danh: Giáo viên

Đơn vị công tác: Trường THCS Khánh Cường, Yên Khánh, Ninh Bình

Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ Ngữ văn

Email: lanhuongyk1985@gmail.com

Số điện thoại: 0948157079

PHỤ LỤC 2

CÁC BƯỚC LÀM BÀI, BỐ CỤC THƯỜNG LÀM

Các bước làm bài văn nghị luận xã hội.

Bố cục bài văn nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống.

Bố cục bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý.

PHỤ LỤC 3

NỘI DUNG CÁC GIẢI PHÁP MỚI CẢI TIẾN ĐỂ RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI CÂU

NGHỊ LUẬN XÃ HỘI TRONG BÀI THI VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN

Giải pháp 1: Cung cấp có hệ thống kiến thức về các dạng bài nghị luận xã hội cho học

sinh.

Trong phân môn Làm văn, lý thuyết là nền tảng vô cùng quan trọng bởi lý thuyết là kinh nghiệm, kiến thức, tri thức, trí tuệ của các thế hệ tích lũy lại, cung cấp cho người viết cơ sở kiến thức để lập luận và kiến giải các vấn đề trong bài viết. Vì lẽ đó, sẽ không quá nếu nói hệ thống lý thuyết chính là “quỹ đạo” của người viết. Và để kết quả bài làm đảm bảo không lạc đề, triển khai đúng vấn đề, thì quá trình triển khai bài viết, người viết không thể đi chệch cái “quỹ đạo” đó.

Những kiến thức, kĩ năng và thao tác lập luận về Làm văn nghị luận ở phổ thông không phải hoàn toàn mới mà là sự lặp lại có nâng cao, xoay quanh hai kiểu bài chính: Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội. Đối với kiểu bài Nghị luận xã hội tập trung vào hai dạng chính: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống. Nghị luận xã hội nhằm hướng đến những suy nghĩ của HS vào các vấn đề chính trị, xã hội. Mục tiêu cần đạt là giúp HS huy động được kiến thức và kĩ năng để tạo lập được một văn bản nghị luận xã hội hoàn chính, đúng hướng. Chính vì vậy, các đơn vị bài học trong chương trình không chỉ cung cấp những kiến thức, mà còn rèn luyện các kĩ năng bổ trợ cho HS trong việc tạo lập văn bản.

* Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống:

* Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý:

Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh tích lũy tri thức.

Các lĩnh vực xã hội làm đề tài cho bài văn nghị luận xã hội rất đa dạng, nên kiến thức phục vụ cho bài làm của học sinh là rất phong phú. Nhưng, điều quan trọng, học sinh phải có ý thức quan sát, tìm hiểu, ghi chép, để vận dụng (giáo viên cần hướng dẫn để học sinh biết để ý, để tâm những vấn đề của đời sống, xã hội)

Có thể định hướng học sinh huy động kiến thức từ các nguồn:

Kiến thức từ sách vở: Chủ yếu từ báo chí, sách tham khảo về các lĩnh vực của cuộc sống, từ văn học, lịch sử, khoa học, tôn giáo, sách về gương người tốt việc tốt …" Hạt giống tâm hồn", "Hạt giống hạnh phúc", "Suy nghĩ của những người trẻ",… Điều quan trọng cùng các em tìm và lựa chọn sách cần thiết để học, biết cách đọc, hệ thống hóa kiến thức.

Kiến thức từ đời sống: Hiểu biết, tích lũy hoặc từ đời sống hàng ngày của bản thân người viết, yêu cầu học sinh có thói quen quan sát cuộc sống, những hoạt động, sự việc, những vấn đề từ cuộc sống xung quanh quan trọng hơn là biết suy nghĩ, suy xét những gì mình nghe được, quan sát được. Trên cơ sở đó, biết lựa chọn, nắm bắt lấy bản chất vấn đề.

Chuyên mục “Việc tử tế” trong chương trình VTV1 đã tái hiện

nhiều tấm gương tốt.

Kiến thức từ trải nghiệm bản thân, đây sẽ là ví dụ minh họa sống đúng, có sức thuyết phục nếu

nó được vận dụng vào bài văn một cách tự nhiên, chân thành.

Giải pháp 3. Nhận diện một số cách trình bày đoạn văn cơ bản. Giáo viên nhấn mạnh cho học sinh ba cách trình bày cơ bản sau: - Phương pháp diễn dịch: câu chủ đề, câu nêu ý khái quát đặt ở đầu đoạn; các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ, cụ thể. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.

(1) (Câu chủ đề)

(2) (3) (4) …

- Phương pháp quy nạp: câu chủ đề, câu nêu ý khái quát đặt ở cuối đoạn.

(2) (3) (1) ...

(4) (Câu chủ đề)

- Phương pháp tổng - phân - hợp: Câu mở đầu đoạn văn nêu lên một nhận định chung. Các câu sau khai triển đoạn đưa ra các biểu hiện cụ thể minh họa cho nhận định chung. Từ những chứng cớ cụ thể này, câu kết đoạn đúc kết thành một nhận định mới vừa phù hợp với nhận định ban đầu, vừa được nâng cao hơn. Đó là mô hình tổng hợp - phân tích - tổng hợp (tổng - phân - hợp). (Khuyến khích học sinh trình bày theo mô hình này).

Ví dụ: Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ trình bày quan điểm của em về hậu quả

của việc “phán xét người khác một cách dễ dàng”.

- Câu 1: Câu chủ đề:

Trong cuộc sống, nhiều người có thói quen phán xét người khác nhưng đã bao giờ họ nghĩ đến hậu quả của việc “phán xét người khác một cách dễ dàng” hay chưa?

- Câu 2 -> Câu 7: Hậu quả của việc phán xét người khác một cách dễ dàng

Những lời phán xét được thốt ra một cách dễ dàng thường thiếu đúng đắn, khách quan vì người thốt ra chúng chỉ dựa trên một khía cạnh nào đó với cái nhìn phiến diện, chủ quan. Với sự phát triển của mạng internet và các trang mạng xã hội, việc buông lời phán xét người khác càng trở nên dễ dàng hơn, gây ra những hệ luỵ không nhỏ trong mối quan hệ con người với con người. Người hay phán xét người khác một cách dễ dàng dần trở thành những con người ích kỉ, hẹp hòi, bị mọi người xa lánh.

Người bị phán xét thiếu cẩn trọng thì bị tổn thương về mặt tinh thần (trầm cảm, stress,…) thậm chí có thể ảnh hưởng tới thể xác. Nhiều cô cậu học trò vì bị bạn bè phán xét mà dẫn đến xô xát, nhẹ thì khẩu chiến nặng thì huyết chiến. Đáng sợ hơn cả là những người nổi tiếng trong cộng đồng mạng hay trong đời sống xã hội, khi không chịu nổi những lời gièm pha ác ý, thiếu chính xác, họ đã chấm dứt sự sống của bản thân (U-Nee: nữ diễn viên kiêm ca sĩ Hàn Quốc tự sát tại nhà ngày 21/1/2007 vì những lời bình luận không hay trên mạng…)

- Câu 8 –> Câu 10: Bình luận

Có thể thấy, thực tế cuộc sống luôn có những người tự cho mình quyền phán xét người khác, phát huy triệt để khả năng “bới lông tìm vết”, khen thì ít mà chê thì nhiều. Chúng ta cần phân biệt sự khác biệt giữa sống có chính kiến: biết khen – biết chê với lối sống phán xét người khác một cách tuỳ tiện. Khi phán xét một người nào đó ta cần có tấm lòng trong sáng, đức tính trung thực, chân thành, thẳng thắn góp ý như Tuân Tử từng nói: “người chê ta đúng là thầy của ta”.

- Câu 10 –> Câu 11: Bài học cho bản thân:

Ai trong chúng ta cũng có thiếu sót, cũng có lúc buông lời phán xét người khác. Bởi vậy, hãy nhớ rằng: không nên tuỳ tiện phán xét người khác; bình tĩnh lắng nghe, tỉnh táo xử lí những lời phán xét về mình.

Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh nhận diện đề, tìm ý, xây dựng luận

điểm bàn luận một khía cạnh, một bình diện theo yêu cầu của đề bài.

Trong đoạn văn nghị luận xã hội, học sinh phải phát biểu những suy nghĩ nghiêm túc, chín chắn, sâu sắc của mình về một hiện tượng tốt, xấu trong đời sống xã hội, về những vấn đề của cuộc sống từ chân lývĩnh hằng đến thời sự nóng hổi.

Muốn vậy, trước hết học sinh phải nhận thức đúng vấn đề mà đề bài yêu cầu nghĩa là việc xác định vấn đề phải trúng, vì thế khâu tìm hiểu đề hết sức quan trọng. Chúng tôi thường yêu cầu học sinh chú ý đến các từ khóa (từ ngữ quan trọng) để xác định:

- Kiểu bài: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống hay nghị luận

về một vấn đề tư tưởng, đạo lý.

- Vấn đề nghị luận: Bàn về vấn đề gì, khía cạnh nào?

- Thao tác lập luận, hình thức thể hiện…

Nhận thức đề là cơ sở cho việc tìm ý và xây dựng hệ thống ý lớn cho bài viết. Tư tưởng, suy nghĩ của người viết trước vấn đề cần nghị luận phải là tư tưởng phù hợp đạo lý, lẽ phải thể hiện trách nhiệm của người viết trước những vấn đề của đời sống.

Tư tưởng trong bài văn được thể hiện thông qua các luận điểm, luận điểm là sợi chỉ đỏ, là xương sống của bài nghị luận, người viết phải xác định được hệ thống luận điểm rõ ràng thì bài văn mới có phương hướng, có nội dung đúng, đủ và sâu sắc.

Luận điểm trong bài nghị luận xã hội phải đạt các yêu cầu: Chính xác, rõ ràng, sâu sắc và mới mẻ. Điều đó có nghĩa là: Luận điểm phải phản ánh đúng bản chất vấn đề, phù hợp với đối tượng bàn luận, luận điểm được xây dựng phải sáng rõ, nổi bật, nhờ luận điểm mà người đọc nhận thức vấn đề sâu sắc; luận điểm cần đưa ra được những ý mới, ý hay, đem đến cho người đọc những nhận thức mới.

Trong quá trình xây dựng luận điểm cho bài viết, học sinh luôn phải biết tự đặt ra các câu hỏi: Vì sao, cần phải làm như thế nào, những hiện tượng nào cần phê phán trong thực tế cuộc sống, bài học mỗi người tự rút ra được sau các vấn đề bàn luận là gì?

Rèn cho học sinh trong quá trình làm bài, luôn có ý thức bám sát yêu cầu của đề. Triển khai các luận điểm để nội dung toàn bài cùng tập trung hướng tới làm rõ một vấn đề xã hội từ đó cần bàn luận. Một trong những thủ pháp để tìm được luận điểm mới, sâu sắc là người viết phải biết lật đi, lật lại vấn đề, bên cạnh chính đề cần tìm ý phản đề hay giả định trong những trường hợp cần thiết. Điều đó giúp cho vấn đề bàn luận được nhìn nhận, đánh giá ở nhiều góc độ và tăng thêm sức thuyết phục. Yêu cầu này phải được đặt ra đối với các em và cần để luyện tập để các em thấy nó cần thiết, không thể thiếu đối với tư duy, giải quyết vấn đề của người học sinh giỏi (tránh được lối viết hời hợt, thuận chiều).

Ví dụ: Cho đoạn văn sau:

…(1) Một viên sỏi nhỏ cũng có thể làm xáo động cả một vùng nước. Nhỏ thôi, nhưng khi ta biết gieo một điều tốt, sự lan tỏa của nó là gần như không thể giới hạn. Nhỏ thôi, nhưng khi ta làm một điều xấu, tiếng của nó lan xa chẳng gì có thể ngăn được. Người xưa nói; Đừng thấy việc ác nhỏ mà làm. Đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm. Khi ta biết tránh làm điều ác, biết gieo mầm thiện, cho dù nhỏ thôi, thì ta cũng có cơ hội để thành người tử tế qua mỗi ngày lớn lên. Như những vòng tròn đồng tâm lan rộng, ta startup cuộc đời mình theo cách nhẹ nhàng và lãng mạn, tỏa lan năng lượng tích cực, tạo nên những con sóng dù nhỏ nhưng có thể đánh động cả tự nhiên để tất cả biết rằng ta đang thực sự sống.

(2) Cuộc sống cũng nhắc ta không ngừng hành động. Ta khởi sự một việc dù nhỏ thì cũng có thể tạo những làn sóng tỏa lan, những vòng tròn đồng tâm nối nhau sống động. Đôi khi ta ném xuống mặt bến sông tĩnh lặng là tâm hồn ta một viên sỏi nhỏ để nhắc mình sống, nhắc những điều tốt cần được thể hiện, nhắc dám đối đầu với những kẻ ác và những hành động không tử tế. Khi còn trẻ là khi ta cần lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực cho người xung quanh, cho bạn bè, cho ánh sáng đẩy lùi bóng tối… (Trích Bay xuyên những tầng mây – Hà Nhân, NXB Văn học, 2016, tr.191, 192)

Với đoạn trích trong phần Đọc - hiểu như trên thì câu NLXH là: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về ý nghĩa của việc lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực cho người xung quanh.

Chúng ta tiến hành bước Xác định yêu cầu đề như sau:

Đọc kĩ đề: đoạn văn trên truyền tải thông điệp làm điều thiện hay điều ác dù nhỏ thôi nhưng nó cũng có sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng. Qua đó tác giả cũng khẳng định mỗi việc chúng ta làm, dù nhỏ hay lớn đều có tác động rất lớn đến xung quanh. Bởi vậy làm bất cứ điều gì cũng cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt nhấn mạnh chúng ta cần lan truyền những điều tốt đẹp đến mọi người xung quanh. Vì thế chúng ta cần gạch chân những từ ngữ quan trọng, tìm mối liên hệ với nội dung đoạn đọc

hiểu để hiểu rõ nội dung cần nghị luận: với đề trên chúng ta cần chú ý các từ ngữ quan trọng là: trình bày suy nghĩ, ý nghĩa bản thân, lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực.

Xác định: dạng đề là nghị luận về một tư tưởng đạo lí, đối tượng và nội dung nghị luận là ý nghĩa của việc lan tỏa nguồn năng lượng tích cực, các thao tác nghị luận sẽ sử dụng có thể là giải thích, phân tích, bác bỏ…

Làm tốt bước này sẽ giúp các em hiểu rõ vấn đề cần nghị luận, tránh lạc đề, sai đề.

Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận.

Tức là dẫn dắt người đọc đến vấn đề mà em cần nghị luận. Nếu dẫn dắt tốt sẽ truyền cảm hứng giúp các em đi vào bàn luận tốt hơn, hơn nữa ngay phần dẫn dắt sẽ phần nào cho biết các em có đi đúng hướng hay lạc đề hay không. Nhưng vì chỉ viết một đoạn văn 200 từ nên phần dẫn dắt nên đi trực tiếp vấn đề.

Ví dụ: Với đề trên ta có thể dẫn dắt như sau: Lối sống lan tỏa nguồn năng lượng sống tích cực

cho người xung quanh được đề cập trong ngữ liệu phần Đọc hiểu mang lại nhiều giá trị và ý nghĩa.

Thân đoạn:

Giải thích: giải thích khái niệm, hình ảnh, câu nói từ đó suy ra nội dung, ý nghĩa vấn đề mà đề yêu cầu. Với đề trên chúng ta cần giải thích: Năng lượng sống tích cực: có thể hiểu là những suy nghĩ, hành động, thái độ sống tích cực, lạc quan của mỗi cá nhân đối với các vấn đề trong cuộc sống. Tạo ra năng lượng sống tích cực, để lan tỏa đến những người xung quanh là việc làm hết sức có ý nghĩa và cần thiết.

Phân tích – chứng minh: tìm cách đặt câu hỏi vì sao? Lí giải biểu hiện? Nguyên nhân?... để từ

đó giảng giải, làm rõ bản chất vấn đề.

Với đề trên, chúng ta cần tập trung phân tích - Ý nghĩa khi lan tỏa năng lượng sống tích cực. Muốn làm rõ điều đó chúng ta cần chỉ rõ việc lan tỏa lan tỏa năng lượng sống tích cực đối với bản thân sẽ giúp ta luôn cảm thấy lạc quan, yêu đời, dễ dàng vượt qua được mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Đối với người xung quanh: Khi lan tỏa năng lượng sống tích cực đến những người xung quanh sẽ giúp họ có niềm tin vào cuộc sống và vượt qua thử thách; Không chỉ vậy, năng lượng tích cực khi được lan tỏa sẽ khiến cho cộng đồng sống đẹp hơn, có ý nghĩa hơn; Năng lượng tích cực sẽ tạo nên một xã hội vững mạnh, văn minh và nhân ái.

Dẫn chứng: với yêu cầu của một đoạn văn 200 chữ các em không cần phải dẫn quá nhiều dẫn chứng hoặc kể lể dài dòng… Dẫn chứng không nên quá cũ cũng không nên quá mơ hồ, càng gần thời đại càng tốt (Đảm bảo tính tiêu biểu và cập nhật). Với đề trên tốt nhất là các em nên lấy dẫn chứng từ những con người, việc làm xung quanh chúng ta, nhỏ bé, bình dị nhưng đủ sức lan tỏa (những bác sĩ tuyến đầu chống dịch Covid, ước mơ của Thúy…) thì bài sẽ sâu sắc và đủ sức thuyết phục.

Bàn bạc mở rộng vấn đề: ở phần này chúng ta cần đánh giá vấn đề cần nghị luận tức là chỉ rõ vấn đề đúng hay sai, đồng tình hay không đồng tình, đưa ra giải pháp… từ đó chúng ta có thể đưa ra phản đề (phê phán, bác bỏ những vấn đề ngược lại), để cuối cùng chúng ta rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân.

Với đề trên, chúng ta cần đồng tình việc lan tỏa những năng lượng tích cực là vô cùng cần thiết. Nhưng không có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng ép mình phải vui vẻ, giả tạo hay che đậy cảm xúc thật của bản thân… Và dù thế nào hãy luôn nhớ giữ thái độ sống lạc quan, yêu đời; Luôn ghi nhận và khen ngợi trước những thành tích người khác đạt được; Luôn mỉm cười, sống thân thiện, chan hòa. …

(Có thể sử dụng cách viết phần bài học nhận thức và bài học hành động để kết đoạn cho ngắn

gọn và súc tích).

Giải pháp 5: Rèn kĩ năng diễn đạt, phép liên kết (liên kết các câu trong văn bản), cách đưa

và lựa chọn dẫn chứng.

Vận dụng phép liên kết câu trong đoạn văn cũng là một đơn vị kiến thức không dễ đối với học sinh. Để học sinh nắm tốt và biết vận dụng, khi ôn tập, tôi thường yêu cầu học sinh kẻ bảng tên các phép liên kết và đặc điểm nhận diện trên bảng nhóm. Sau đó, tôi yêu cầu các nhóm trao đổi bảng phụ để nhận xét, bổ sung.

Kết quả đạt được trên bảng nhóm như sau:

Các phép liên kết Đặc điểm nhận diện

Phép lặp từ ngữ Lặp lại ở câu đứng sau những từ ngữ đã có ở câu trước.

Phép liên tưởng (đồng nghĩa / trái nghĩa) Sử dụng ở câu đứng sau những từ ngữ đồng nghĩa/ trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu trước.

Phép thế

Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay thế các từ ngữ đã có ở câu trước.

Phép nối Sử dụng ở câu sau các từ ngữ biểu thị quan hệ (nối kết) với câu trước.

Song song với việc liên kết câu trong đoạn văn thì khâu lựa chọn và đưa dẫn chứng cũng là một nghệ thuật trong đoạn văn nghị luận. Trong đoạn văn, có thể đưa từ 1 đến 2 dẫn chứng, dẫn chứng cần đảm bảo tiêu chí: tiêu biểu và cập nhật. Chúng tôi thường hướng dẫn học sinh những cách đưa dẫn chứng sau:

Cách 1: Lấy dẫn chứng vào bài văn nghị luận bằng những câu nói nổi tiếng:

Khi những câu nói nổi tiếng trở thành dẫn chứng vào bài văn nghị luận, chúng sẽ là công cụ hữu hiệu để gia tăng tính xác thực. Ngoài ra, những câu nói này sẽ khiến cho bài văn tăng tính hấp dẫn và không hề khô khan. Ví dụ: Khi bình luận về vấn đề tình yêu thương, người viết có thể trích dẫn những câu nói: “Tình thương là hạnh phúc của con người”, “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương”, “Chỉ có trái tim yêu thương mới gieo mầm hạnh phúc” (Đặng Thùy Trâm). Hoặc đưa những câu văn, câu thơ có giá trị vào bài làm:

“Tôi hỏi đất: Đất sống với nhau như thế nào?

Chúng tôi tôn cao nhau.

Tôi hỏi nước: Nước sống với nhau như thế nào?

Chúng tôi làm đầy nhau.

Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với nhau như thế nào?

Chúng tôi đan vào nhau tạo thành những chân trời.

Tôi hỏi người: Người sống với nhau như thế nào?

Tôi hỏi người: Người sống với nhau như thế nào?

Tôi hỏi người: Người sống với nhau như thế nào?”

(Hỏi – Hữu Thỉnh)

Với những câu nói đầy cảm xúc này, chắc chắn bài văn nghị luận có thể tăng thêm sự sâu sắc, thuyết phục độc giả một cách “thấu tình đạt lí”. Đó chính là nghệ thuật đi vào lòng người bằng con đường tình cảm, cảm xúc.

Cách 2: Lấy dẫn chứng vào bài văn nghị luận bằng những nhân vật nổi tiếng

Nhân vật nổi tiếng là những người đã được dư luận công nhận, đánh giá về phẩm chất cũng như năng lực. Khi lấy nhân vật nổi tiếng làm dẫn chứng trong bài văn nghị luận, những dẫn chứng này sẽ làm tạo nên một hiệu ứng bất ngờ trong việc đi vào lòng độc giả. Đây cũng là cách đưa dẫn chứng tiêu biểu thường xuyên xuất hiện trong bài văn nghị luận. Khi đưa dẫn chứng là nhân vật nổi tiếng, cần lưu ý câu chuyện của nhân vật cần liên quan chặt chẽ đến vấn đề cần nghị luận. Và mỗi một câu chuyện có thể trở thành dẫn chứng cho nhiều vấn đề nghị luận khác nhau. Đồng thời, chúng ta có thể lấy dẫn chứng là những nhân vật nổi tiếng trong đời sống lẫn trong văn học. Ví dụ: Dẫn chứng Nguyễn Hải An- cô bé 7 tuổi hiến giác mạc: “Mặc dù chỉ mới 7 tuổi nhưng em đã mang trong mình căn bệnh ung thư. Biết mình sẽ qua đời, An quyết định hiến giác mạc đem lại ánh sáng cho người khác”. Với câu chuyện cảm động trên, các em có thể đưa vào những bài viết về chủ đề “tình yêu thương”, “sống đẹp” hoặc “cho đi là còn mãi”…

Cách 3: Lấy dẫn chứng là những sự thật hiển nhiên

Trong bài văn nghị luận, những sự thật hiển nhiên chính là những biểu hiện cụ thể, tiêu biểu đã được công nhận rộng rãi trong dư luận. Khi chọn những sự thật hiển nhiên làm dẫn chứng vào bài văn nghị luận, tính chính xác sẽ được đảm bảo, khiến người đọc hoàn toàn tin tưởng hơn nữa vào những lí lẽ mà người đọc nêu ra. Ví dụ: Khi nghị luận về vấn đề ô nhiễm môi trường, ngoài việc đưa số liệu, chúng ta có thể đưa vào bài những biểu hiện, sự thật về tình trạng ô nhiễm như: “hiện tượng Trái Đất đang nóng lên, hiện tượng biến đổi khí hậu”, “nguồn nước bị ô nhiễm, nhiều con sông đã qua đời, và nhiều con sông đang kêu cứu”, “môi trường sinh thái đang mất cân bằng và bị phá hủy”…

Cách 4: Lấy dẫn chứng là những số liệu cụ thể, rõ ràng

Khi đưa dẫn chứng vào bài văn nghị luận là những số liệu cụ thể, rõ ràng vào bài viết, chúng sẽ trở thành những “con số biết nói” gia tăng sức thuyết phục của lí lẽ. Đó là những số liệu thống kê, những con số,… nói lên thực trạng của vấn đề nghị luận. Ví dụ: Khi nghị luận về vấn đề tác hại của việc hút thuốc lá đối với đời sống con người, người viết có thể vận dụng những con số sau:

- Đưa ra con số về tỉ lệ số người hút thuốc lá: “Ở Việt Nam, có khoảng 18 triệu người hút thuốc lá. Trong đó có khoảng 50% nam giới đang hút thuốc lá, và có 85% trong số đó hút thuốc mỗi ngày”.

- Đưa ra số liệu thống kê về số người bị chết do thuốc lá: “Tại Việt Nam, trung bình mỗi năm có khoảng 40.000 người chết vì khói thuốc. Tỷ lệ này cao gấp 4 lần so với số người thương vong vì tai nạn giao thông”.

Rõ ràng, với những con số trên, tác hại của hút thuốc lá sẽ được nhấn mạnh hơn. Do đó, hồi

chuông cảnh tỉnh về việc hút thuốc sẽ tăng thêm tính báo động.

Khi nghị luận về vấn đề ô nhiễm môi trường, người viết có thể đưa vào bài những dẫn chứng

về:

- Những con số, số liệu về số lượng rác thải: “Mỗi ngày có 35 tấn rác đổ ra các đại dương”, “9 triệu là con số tử vong mỗi năm do ô nhiễm”, “Mỗi năm, nước ta sử dụng hơn 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật, trung bình mỗi ngày thải ra hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, trong đó số lượng rác thải nguy hại là 630.000 tấn”,….

- Những con số về số người chết do ảnh hưởng từ ô nhiễm môi trường: “Trong năm 2015, có gần 9 triệu người chết vì các căn bệnh từ ô nhiễm môi trường (Theo thống kê của của tạp chí Lancet).”

Qua những con số này, độc giả có thế thấy được tình trạng báo động của vấn đề ô nhiễm môi trường. Như vậy, việc đưa những số liệu, con số thống kê chính xác, cụ thể sẽ khiến cho lập luận của bài văn nghị luận trở nên chặt chẽ, thuyết phục, lí lẽ xác đáng.

Giải pháp 6: Khái quát cách làm câu nghị luận xã hội trong 2 dạng bài cơ bản thường gặp

trong đề thi vào lớp 10 THPT.

Dạng 1: Kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống tích cực, đáng

ngợi ca, suy ngẫm.

Ngắn gọn, đi trực tiếp vào vấn đề nghị luận, giới thiệu được vấn đề nghị luận.

Viết phần mở đoạn

Viết phần thân đoạn

Giải thích ngắn gọn và làm rõ vấn đề nghị luận (nếu cần thiết, đặc biệt là với những vấn đề, hiện tượng được khái quát từ văn bản đọc hiểu hoặc những vấn đề hàm súc, ít phổ biến).

Bàn luận/đánh giá về bình diện, yếu tố, khía cạnh (của vấn đề lớn) mà đề bài yêu cầu.

- Những biểu hiện: trong các lĩnh vực của đời sống, trong các hoạt động của con người.

- Nguồn gốc tạo thành: nguồn gốc xã hội, ý thức cá nhân, truyền thống hay thời đại.

- Vai trò, ý nghĩa, giá trị: đối với cá nhân, gia đình, xã hội/đối với đời sống vật

chất/đời sống tinh thần…

- Cách thức, biện pháp phát huy hiện tượng: các giải pháp để gia tăng hiện tượng trong đời sống.

Bài học về nhận thức và bài học hành động, bản thân đã và sẽ làm gì, cách thức làm để học tập hoặc phát huy hiện tượng.

Viết trong 1- 2 câu để khái quát, nhấn mạnh yếu tố, khía cạnh bàn luận.

Viết phần kết đoạn

Ví dụ: Hãy viết đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ bàn về ý nghĩa của lối sống trung thực.

Viết phần mở đoạn Lối sống trung thực được đề cập đến trong văn bản Đọc - hiểu mang lại nhiều ý nghĩa, giá trị.

Viết phần thân đoạn Trung thực là tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lý, lẽ phải; sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm đối mặt để nhận ra sai lầm, khuyết điểm của bản thân.

* Đối với cá nhân:

- Giúp mỗi người sống một cách chân thành, thẳng thắn, hoàn thiện nhân cách cá nhân.

- Làm cho mỗi người có cách nhìn nhận vấn đề toàn diện hơn, thấu đáo hơn…

- Là người có đạo đức tốt, được mọi người yêu mến, kính trọng, tin tưởng giao cho những công việc quan trọng và sẵn sàng giúp đỡ.

* Đối với gia đình, xã hội:

- Lan tỏa những lối sống cao đẹp trong cộng đồng.

- Có thể đem đến nhiều điều kì diệu.

- Truyền thống, phẩm chất tốt của con người.

- Góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.

Bài học về nhận thức: Sống trung thực không phải là một vấn đề đơn giản nhưng tôi luôn tin rằng điều đó thực sự có ích.

Bài học hành động: Bản thân tôi cũng luôn nỗ lực để nhìn và đánh giá đúng về những điều xung quanh mình, nỗ lực học hỏi để hoàn thiện hơn bản thân mình.

Viết trong 1- 2 câu để khái quát, nhấn mạnh yếu tố, khía cạnh bàn luận.

Viết phần kết đoạn

Dạng 2: Kĩ năng viết đoạn văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống tiêu cực, đáng

phê phán.

Ngắn gọn, đi trực tiếp vào vấn đề nghị luận, giới thiệu được vấn đề nghị luận.

Viết phần mở đoạn

Viết phần thân đoạn

Giải thích ngắn gọn và làm rõ vấn đề nghị luận (nếu cần thiết, đặc biệt là với những vấn đề, hiện tượng được khái quát từ văn bản đọc hiểu hoặc những vấn đề hàm súc, ít phổ biến).

Bàn luận/đánh giá về bình diện, yếu tố, khía cạnh (của vấn đề lớn) mà đề bài yêu cầu.

- Thực trạng của hiện tượng: Đang diễn ra trên phạm vi nào, lĩnh vực nào? Mức độ phổ biến của hiện tượng (lứa tuổi, vùng miền) nào? Tốc độ tăng giảm của hiện tượng? Một số dẫn chứng, số liệu chứng minh (nếu ghi nhớ chính xác, tránh việc bịa đặt thông tin).

- Nguyên nhân của hiện tượng: Nguyên nhân chủ quan (do ý thức con người, do nhận thức hạn chế, do lòng tham, sự đố kị, do muốn thể hiện...); nguyên nhân khách quan (do một số chính sách chưa phù hợp, do sự phát triển của công nghệ, do sự phát triển chưa cân đối giữa cơ sở hạ tầng và sự gia tăng dân số).

- Hậu quả (tác hại, hệ lụy, những ảnh hưởng tiêu cực) của hiện tượng: Có thể trình bày theo hướng cá nhân, gia đình, xã hội.

- Cách thức, biện pháp khắc phục, hạn chế, giảm thiểu hiện tượng: giải pháp cần tương xứng với nguyên nhân, hậu quả; đảm bảo tính thiết thực, gần gũi (Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vấn đề của người dân (xã hội), nỗ lực học hỏi, rèn luyện kĩ năng (cá nhân)).

- Liên hệ, rút ra bài học cho bản thân: Bài học về nhận thức (mức độ, hậu quả, sự trầm trọng, tác hại của vấn đề như thế nào) và bài học hành động (đã làm gì để góp phần lên án, phê phán, khắc phục, giảm thiểu hiện tượng) bản thân đã và sẽ làm gì, cách thức làm để học tập hoặc phát huy hiện tượng).

Viết trong 1- 2 câu để khái quát, nhấn mạnh yếu tố, khía cạnh bàn luận.

Viết phần kết đoạn

Ví dụ: Hậu quả của lối sống thờ ơ, vô cảm với những người xung quanh mình của giới trẻ

trong cuộc sống hôm nay.

Viết phần mở đoạn

Hiện tượng sống thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm với người thân, gia đình của thế hệ trẻ hiện nay thu hút mối quan tâm và gây ra nhiều bức xúc, nhiều hậu quả trong đời sống xã hội.

Vô cảm là gì?

Viết phần thân đoạn (Không nêu biểu hiện, thực trạng)

Hậu quả: Các bạn trẻ trở thành ích kỉ, vô trách nhiệm, vô lương tâm, chỉ biết sống cho mình, không quan đến người thân và những người xung quanh.

Không biết cảm thông, chia sẻ, yêu thương với những cảnh ngộ bất hạnh trong cuộc đời.

Ảnh hưởng tới nền tảng đạo đức của xã hội.

Bài học về nhận thức: Thờ ơ và vô cảm, đó là thái độ làm tổn thương người khác và tổn thương chính mình.

Bài học hành động: Bản thân tôi luôn nỗ lực học tập, học hỏi cũng như lắng nghe và chia sẻ với những người xung quanh để cuộc sống thực sự trở nên có ý nghĩa.

Viết trong 1- 2 câu để khái quát, nhấn mạnh yếu tố, khía cạnh bàn luận.

Viết phần kết đoạn

Giải pháp 7: Hướng dẫn học sinh cách triển khai ý của đoạn văn (lập dàn ý) qua phương

pháp Graph.

Vận dụng lí thuyết Graph là một cách tiếp cận mới thuộc lĩnh vực phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, tư duy sáng tạo của người học. Graph là một phương pháp chuyển hóa từ một phương pháp riêng của toán học, trở thành một phương pháp chung của nhiều ngành khoa học khác nhau trong đó có phương pháp dạy học cả tự nhiên và xã hội. Theo Từ điển tiếng Anh, Graph với tư cách là một danh từ, có nghĩa: sơ đồ, đồ thị; mạng, mạch; khi là động từ, graph có nghĩa là: vẽ sơ đồ, vẽ đồ thị, minh hoạ bằng đồ thị; vẽ mạng, vẽ mạch; còn khi là tính từ, graphic có nghĩa là: thuộc về sơ đồ, thuộc về đồ thị, thuộc về mạng mạch... Đây được xem như là một bước tiến đổi mới và ứng dụng toán học vừa tiếp cận, vừa bổ sung vào hệ thống các phương pháp dạy học truyền thống.

Quá trình Làm văn nghị luận xã hội là quá trình chuyển hóa kiến thức đã học thành một sản phẩm kiến thức mới của HS. Tuy nhiên, việc tạo lập văn bản của HS thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc triển khai và sắp xếp ý cho bài viết. Hạn chế này một phần do HS chưa nắm vững kĩ năng lập dàn ý (Bước 2).

Lập dàn ý (bước 2) là kĩ năng rất quan trọng, là bước để HS chắt lọc ý tưởng. Dàn ý là những ý chính của bài viết được sắp xếp theo một hệ thống nhất định nhằm nêu bật vấn đề cần nghị luận. Vì vậy, việc lập dàn ý sẽ giúp bài viết trôi chảy, mạch lạc đi đúng hướng và mang tính thuyết phục cao. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hình thành và hoàn thiện kĩ năng này cho HS, giúp người học phát triển năng lực tư duy logic, xác lập được hệ thống các luận điểm, luận cứ, và hiện thực hóa các bước triển khai để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. Từ thực tế trên, có thể thực hiện quy trình hướng dẫn HS

lập dàn ý bằng phương pháp Graph. Lập Graph là một “điểm tựa” cho việc tái hiện mối quan hệ của các luận điểm, luận cứ, hoạch định được các cấp độ của chúng bằng hình thức biểu bảng, sơ đồ, mạng mạch. Vận dụng lí thuyết Graph trong dạy học lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội để mô hình hóa các mối quan hệ sẽ nâng cao được hiệu quả dạy học, thúc đẩy quá trình hệ thống hóa kiến thức và sáng tạo của HS trong việc vận dụng thực hành tạo lập văn bản.

Ví dụ:

Đề bài: Anh (chị) hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản

thân về vai trò của gia đình trong cuộc sống của mỗi người.

GV có thể dùng Graph để hệ thống các bước lập dàn ý như sau:

Mô hình hóa dàn ý sẽ giúp HS nắm được bố cục cũng như mối quan hệ của các luận điểm và luận cứ để làm rõ vấn đề nghị luận. Thông qua mẫu sơ đồ Graph, lập dàn ý cho một đề bài minh họa sẽ là định hướng quan trọng giúp HS hình thành lí thuyết và kĩ năng chung cho việc lập dàn ý bài văn nghị luận. Dạy học lập dàn ý bằng sơ đồ Graph đòi hỏi phải có sự tham gia hoạt động của cả GV và HS. Trong quá trình học tập, HS phải chủ động, độc lập trong tư duy, phải biết xem xét và rút ra các luận điểm, luận cứ phù hợp với yêu cầu đề. Đi vào tìm hiểu kiểu bài Nghị luận về một tư tưởng đạo lí, vấn đề được bàn bạc tập trung vào những tư tưởng, đạo lí có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống con người. Các tư tưởng, đạo lí đó thường được đúc kết trong những câu tục ngữ, danh ngôn, ngụ ngôn, khẩu hiệu hoặc khái niệm. Tuy nhiên, kiến thức xã hội và khả năng tư duy logic của HS là khác nhau nên GV phải khơi dậy được tiềm năng, trí tuệ, cũng như niềm vui, hứng thú của HS khi học tập bằng cách thiết lập Graph.

Đề bài: Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ bàn về ý nghĩa của lối sống giản dị.

GV có thể hướng dẫn HS triển khai từng bước theo sơ đồ sau:

Trong quá trình thực hành, GV có thể định hướng bằng cách để HS chủ động lập dàn ý bằng sơ đồ Graph. Dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển, điều chỉnh của GV, HS sẽ phát huy được tính tích cực, sáng tạo để nghiên cứu, tìm hiểu, xây dựng Graph nội dung bài học theo cách hiểu của mình. Thông qua thực hành các mẫu ngữ liệu lập dàn ý bằng sơ đồ, HS có thể nhận diện và ghi nhớ được cách làm về kiểu bài này. Đối với kiểu bài Nghị luận về một hiện tượng đời sống, vấn đề được xem xét chủ yếu là những sự việc, hiện tượng trong đời sống hàng ngày. Các sự việc, hiện tượng này HS có thể thấy ở xung quanh, nhưng ít khi có dịp suy nghĩ, phân tích, đánh giá chung về các mặt đúng - sai, lợi - hại, tốt - xấu,… Bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống, một mặt tập cho HS thói quen suy nghĩ về các sự việc, hiện tượng, xung quanh, mặt khác, từ những suy nghĩ có thể tạo lập một văn bản nghị luận nêu tư tưởng, quan niệm, sự đánh giá đúng đắn về những hiện tượng được nêu ra.

Như vậy, sơ đồ Graph sẽ giúp HS cấu trúc hóa ý tưởng, sắp xếp nội dung thành dàn ý trong một hệ thống nhất định. Những kiến thức, kĩ năng mang tính hệ thống mà HS tự chiếm lĩnh được sẽ nhớ lâu hơn, tái hiện chính xác hơn, vì sự chiếm lĩnh những kiến thức đó gắn liền với sự tự nhận thức có ý nghĩa.

Giải pháp 8: Tập cách thể hiện cá tính (dấu ấn cá nhân) trong đoạn văn nghị luận xã hội.

Việc chúng ta đưa ra ý kiến cá nhân (không nên gay gắt) theo nhiều chiều về vấn đề nghị luận

là cách làm khá ăn điểm.

Thực tế cho thấy, không có học sinh nào ngay từ đầu đã tỏ ra có "năng khiếu" với kiểu bài

này, mà phải qua rèn luyện, trau dồi mới dần hoàn thiện.

Giáo viên phải định hướng cho các em từ phát hiện, tư duy vấn đề đến cách diễn đạt sao cho vừa khoa học, logic mà vẫn phải đượm "chất văn". Bởi lẽ, một bài văn nghị luận được coi là đạt, là hay ngoài lập luận lí lẽ, dẫn chứng vẫn rất cần cái tình của người viết, cách diễn đạt phải "thấu tình đạt lí".

PHỤ LỤC 4

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA HỌC SINH VÀ GIÁO VIÊN

“Em thấy các giải pháp sử dụng để rèn kĩ năng làm câu nghị luận xã hội trong bài thi môn Ngữ văn rất hiệu quả, nội dung bài được tóm tắt ngắn gọn, em nắm chắc được bài và hiểu bài nhanh hơn, em cảm thấy rất thích thú khi học.”

(Phạm Thùy Dịu – Học sinh lớp 9A, năm học 2018-2019, giải Nhì môn Ngữ văn cấp tỉnh

trong kì thi học sinh giỏi lớp 9)

“Học cách làm bài câu nghị luận xã hội với phương pháp này em thấy giống như học những môn tự nhiên, nó giúp em hiểu bài nhanh hơn, nắm được trọng tâm cốt lõi. Nó còn giúp em dễ dàng trình bày trước tập thể lớp.”

(Bùi Thị Thanh Nhàn – Học sinh lớp 9A, năm học 2019-2020)

“Thời gian thi vào THPT của chúng em sắp đến gần, em cảm thấy rất tự tin khi làm bài nghị luận xã hội trong các đề thi thử tuyển sinh vào lớp 10 lần 1 và 2 của Sở Giáo dục. Em thấy cách truyền đạt của thầy cô rất dễ tiếp thu và vận dụng sáng tạo”.

(Hoàng Đức Hiếu – Học sinh lớp 9A, năm học 2020-2021, giải Khuyến khích cấp quốc gia

môn Toán học qua mạng Internet)

“Được học các phương pháp giảng dạy của thầy cô trong môn Ngữ văn, em thấy dễ hiểu, dễ nhớ và yêu văn chương hơn. Từ một học sinh cảm thấy “ngại” với bài văn nghị luận xã hội, em đã nhận ra sự hấp dẫn của kiểu bài này. Nhờ có cách truyền đạt thú vị, sáng tạo nhưng vẫn đậm chất văn chương của cô giáo mà em đã tự tin trong các kì thi học sinh giỏi môn Ngữ văn.”

(Phạm Thanh Huyền – Học sinh lớp 9A, năm học 2020-2021, giải Nhất cấp huyện, Nhì cấp

tỉnh môn Ngữ văn trong kì thi học sinh giỏi lớp 9)

“Đây là một đề tài có tính khả thi, có thể áp dụng cho cả khối 7 và 8. Dù vậy, giáo viên cũng cần biết chọn lọc để ứng dụng sao cho đạt hiệu quả cao nhất với đối tượng học sinh mình giảng dạy.” (Cô giáo Vũ Thị Tố Loan, Giáo viên môn Ngữ văn trường THCS Khánh Cường, đạt danh hiệu Giáo viên dạy giỏi môn Ngữ văn huyện Yên Khánh năm học 2020-2021).

PHỤ LỤC 5

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngô Thị Thu Hà (2011). “Hiệu quả của việc sử dụng Graph trong dạy học Ngữ văn”. Tạp chí Giáo dục, số 256, tr 30-31.

2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006). “Từ điển thuật ngữ Văn học”. NXB Giáo dục.

3. Đỗ Ngọc Thống, Phạm Minh Diệu, Nguyễn Thành Thi (2007). “Làm văn”. NXB Đại học sư phạm Hà Nội.

4. Trịnh Quang Từ (2006). Sử dụng Graph trong thiết kế phương pháp dạy học. Tạp chí Giáo dục, số 131, tr 18-20.

5. Trần Đình Sử (2002), “Đọc Văn, học Văn”. NXB Giáo dục.

6. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, NXB Giáo dục, H.2015

7. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8, NXB Giáo dục, H.2015

8. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9, NXB Giáo dục, H.2015

9. Các tài liệu trên Internet.