A. PHẦN MỞ ĐẦU:

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Ngày nay trong xu thế phát triển và hội nhập của các nền kinh tế giữa các

nước trong khu vực và trên thế giới, nhất là việc Việt Nam chính thức trở thành

thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, thì việc sử dụng ngoại ngữ trong

giao tiếp đã trở nên rất cần thiết và phổ biến. Ngày càng có nhiều người tham gia

vào các lớp học ngoại ngữ ở các trung tâm , có nhiều người không chỉ nói giỏi một

mà còn sử dụng được từ hai đến ba ngoại ngữ. Đối với sinh viên tốt nghiệp đại học

ngoài bằng cấp chuyên môn họ còn có bằng, chứng chỉ ngoại ngữ, tin học. Trong

nhà trường đặc biệt ở cấp học THCS việc dạy và học ngoại ngữ đã được quan tâm

hơn, phương pháp dạy học cũng đã được đổi mới từ phương pháp cũ nặng nề về

luyện đọc viết sang phương pháp mới chú trọng nhiều đến việc rèn luyện các kỹ

năng. Đây là một sự thay đổi tích cực vì học ngôn ngữ là để giao tiếp và hình thức

giao tiếp đầu tiên của con người.

Việc đổi mới nội dung, chương trình và SGK là một nhu cầu tất yếu khách

quan không những đối với ngành giáo dục mà còn phù hợp với sự phát triển của xã

hội.

Cùng với các môn học khác, môn Tiến Anh ở bậc THCS cũng được đổi mới

nội dung, chương trình và SGK. Việc đổi mới nội dung, chương trình và SGK đòi

hỏi phải đổi mới phương pháp dạy và học bộ môn này theo đặc thù riêng của nó.

Mục tiêu của môn tiếng Anh là nhằm hình thành và phát triển ở học sinh những

kiến thức kỹ năng cơ bản về tiếng Anh và những phẩm chất trí tuệ cần thiết để tiếp

tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động.

Để thực hiện đúng mục tiêu đào tạo và từng bước nâng cao hiệu quả dạy

học,việc đổi mới phương pháp là một vấn đề cấp bách và cần thiết. Phương pháp

dạy học mới là lấy học sinh làm chủ thể của hoạt động học tập, học sinh có động

cơ học tập đúng đắn, đóng vai trò tích cực chủ động trong quá trình học tập. Học

- 1 -

sinh được tham gia đóng góp kinh nghiệm hiểu biết của cá nhân mình trong quá

trình học tập, học sinh được tham gia luyện tập thực hành giao tiếp có ý thức chủ

định. Để làm tốt các hoạt động trên giáo viên phải biết tổ chức hoạt động học tập

cho học sinh, tạo cơ hội cho học sinh luyện tập ngôn ngữ qua các hoạt động giao

tiếp. Điều đặc biệt là giáo viên phải biết sử dụng SGK và các phương tiện dạy học,

biết kết hợp hài hoà các phương pháp phù hợp trong một tiết học.

Trong nửa thế kỷ qua nền giáo dục nước ta đã trải qua nhiều lần cải cách, đổi mới

để đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay giáo dục nói chung

và giáo dục THCS nói riêng, trong đó có bộ môn Tiếng Anh đang được đổi mới

thực sự nhằm phục vụ có hiệu quả công cuộc Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước.Từ đổi mới nội dung,yêu cầu dạy học theo mục tiêu của bộ môn, nội dung

SGK mới được biên soạn nhằm khắc phục một số hạn chế trong phương pháp dạy

học cũ và đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ

động của học sinh trong học tập. Từ trước tới nay việc dạy học ở trường THCS đã

có rất nhiều phương pháp, đặc biệt là sau khi thực hiện chương trình đổi mới SGK,

có nhiều phương pháp nhằm khắc phục tình trạng “thầy giảng, trò ghi” bằng những

phương pháp dạy học có tính sáng tạo để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học

sinh trong học tập ở lớp, ở nhà và nhiều hoạt động ngoại khóa khác, bằng cách

hướng dẫn việc tổ chức học tập của các em.

Như vậy để đạt được mục tiêu của bài học, ngoài việc vận dụng tính ưu việt của

nhiều phương pháp cần phải sử dụng phương pháp thảo luận nhóm vì đó là một

trong những phương pháp hay, nó giúp học sinh phát triển được óc sáng tạo của

mình, tự rút ra được cho mình về những kiến thức của bài học thông qua ý kiến của

các bạn trong nhóm.

Qua quá trình dạy học bản thân tôi nhận thấy rằng: Để nâng cao hiệu quả đào

tạo yếu tố quan trọng nhất là phải xác định và tổ chức thực hiện bằng được trong

quá trình dạy học phải thực sự “Lấy học sinh làm nhân vật trung tâm”, trong học

- 2 -

tập phải biết vận dụng tối đa việc Thực hành theo cặp, nhóm”. Suy nghĩ trên đây là

định hướng quan trọng trong dạy học và chính là đề tài mà bản thân tôi suy nghĩ,

thực hành trong quá trình dạy học và đã thu được hiệu quả nhất định.

II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

- Xuất phát từ những thực tế nêu trên, bất kì một người nào giảng dạy bộ môn

Tiếng Anh cũng cần phải suy nghĩ là làm thế nào để tìm ra những phương pháp

giảng dạy tốt nhất nhằm tạo được sự hứng thú học tập cho người học và mang lại

hiệu quả tối ưu nhất .

- Thông qua việc nghiên cứu này, bản thân tôi sẽ có thêm kinh nghiệm trong

việc dạy học bằng phương pháp thảo luận theo nhóm.

- Phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong gìơ học Tiếng Anh, đặc biệt

trong việc thảo luận nhóm.

- Giúp học sinh có được những kĩ năng trong phương pháp học tập nhóm và

biết cách phối hợp với nhau, phân công nhiệm vụ trong phương pháp học tập theo

nhóm.

III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trong giới hạn phạm vi cho phép đối với một sáng kiến kinh nghiệm của bản thân,

tôi chỉ nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm môn Tiếng Anh THCS, để đưa

ra phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập thảo luận nhóm.

IV. THỰC TRẠNG CUẢ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Thực trạng

Hầu hết học sinh ở trường THCS và cụ thể nơi tôi công tác chỉ mới biết vận

dụng kiến thức rất sơ đẳng so với chương trình ngoại ngữ - môn Tiếng Anh. Học

sinh chỉ học được 2 tiết/ tuần nên thời gian không có nhiều để cho các em thực

- 3 -

hành một cách thoải mái và thành thạo, trong khi đó môn học này đòi hỏi có thời

gian để thực hành nhiều, phát âm đủ to, rõ, vì thế mà các em luyện tập đã gặp

không ít khó khăn trong giao tiếp. Đối với học sinh THCS nói chung đòi hỏi các

em phải thực hành nhiều để nhớ lâu, nói to để người đối thoại nhận ra lỗi của mình

qua cách phát âm của từ, cách dùng của cấu trúc câu để từ đó có thể sửa lỗi cho

nhau. Với yêu cầu này thì việc học tập theo cặp, nhóm giải quyết được rất nhiều

vấn đề.

Trong điều kiện đồ dùng dạy học chưa phong phú thì việc giúp cho học sinh

luyện tập một cách thành thạo kiến thức đã học là một việc làm rất khó đối với

người giáo viên dạy ngoại ngữ. Giáo viên phải giúp các em luyện tập các kỹ năng

nghe, nói, đọc, viết thông qua các họat động và phương tiện dạy học.

2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên:

Với thực trạng trên dẫn đến hiệu quả bộ môn chưa đạt được ở 2 lớp 9A1 và 9A3 như

sau:

Bảng khảo sát

Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu

SL % SL % SL % SL %

34 7 20,6 12 35,2 12 35,2 3 9 9A1

36 8 22,2 11 30,6 13 36,4 4 11 9A3

- 4 -

Từ kết quả khảo sát trên và quá trình theo dõi hoạt động học tập của học sinh

tôi thấy kết quả khảo sát của cả hai lớp đều rất thấp. Theo tôi phải tìm tòi, nghiên

cứu trong nhiều năm, trao đổi với đồng nghiệp tìm ra cái gì mình làm được và cái

gì còn thiếu sót, điều quan trọng là phương pháp tổ chức dạy học của giáo viên, đòi

hỏi giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp, thường xuyên đổi mới

phương pháp hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc điểm nhận thức của học

sinh, tiếp cận gần gũi với học sinh, tìm hiểu ý nghĩ và khó khăn của các em để

cùng các em giải quyết.

- 5 -

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

Để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh,lấy học sinh làm

trung tâm, học sinh là chủ thể hoạt động của học tập, giáo viên là người tổ chức,

hướng dẫn học sinh tiếp nhận tri thức mới, luyện tập ngôn ngữ thông qua các hoạt

động giao tiếp đa dạng dưới hình thức hoạt động cá nhân, hoạt động cặp, nhóm.

Trong quá trình dạy học, để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh thì

hoạt động cặp, nhóm là một hình thức hoạt động học tập tốt. Thông qua hình thức

học tập này các em có điều kiện trình bày, trao đổi và bộc lộ những suy nghĩ của

mình về các lượng thông tin về bài học mà mình hiểu, mình cảm nhận và từ đó trả

lại lượng thông tin mà cá nhân xử lý. Lượng thông tin của từng học sinh có thể

đúng hoặc có thể sai một phần. Thông qua cặp , nhóm các em trả lại thông tin cho

người dạy. Từ đó người dạy nắm bắt được mức độ tư duy, hiểu biết của các em.

Quá trình này được diễn ra theo quan hệ hai chiều. Ngoài ra được trao đổi cặp ,

nhóm học sinh được rèn luyện thêm về kỹ năng và thói quen suy nghĩ, diễn đạt và

trình bày một vấn đề trước một tập thể.

Thông qua hoạt động này, các kỹ năng nghe,nói, đọc, viết của học sinh ngày

càng được nâng cao.

Qua quá trình dạy học, giáo viên giúp học sinh tự khám phá trên cơ sở tự giác,

tự do suy nghĩ và tranh luận rút ra được nhiều bài học bổ ích, để đề xuất vấn đề

đang thảo luận và giải quyết vấn đề một cách cụ thể hơn.

Các em là đối tượng trung tâm, cho các em thực hành theo cặp, nhóm để các

em giao tiếp với nhau giúp các em thực hành dễ dàng và sửa lỗi cho nhau kịp thời.

Thực hành theo cặp, nhóm thì học sinh khá, giỏi sẽ giúp đỡ các học sinh trung

bình, yếu, kém nắm bắt được kiến thức trọng tâm của bài học, dần dần các em sẽ

biết cách tự học và nắm bắt kiến thức cơ bản của bộ môn. Thực hành theo cặp,

nhóm giúp các em có sự thi đua và có sự cố gắng, từ đó giáo viên phát hiện ra

- 6 -

những em có khả năng để bồi dưỡng và giúp các em trở thành học sinh giỏi của bộ

môn mình.

Đồng thời thực hành theo cặp, nhóm giúp cho các em có ý thức tự giác học tập,

mạnh dạn và tự tin, những em học yếu có thể học được từ bạn phương pháp tự học

theo phương châm: “Học thầy không tầy học bạn”.

II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN

1. Các hình thức hoạt động cơ bản trên lớp

Khi tiến hành đổi mới phương pháp nhằm phát huy tính tích cực hoạt động của

học sinh, giáo viên cần tổ chức nhiều hình thức hoạt động cho học sinh chứ không

chỉ sử dụng một hình thức phổ biến là thầy giảng trò nghe hay thầy giảng – trò đáp.

Có 4 hình thức tổ chức các hoạt động trên lớp: làm việc cá nhân, làm việc theo cặp,

làm việc theo nhóm và làm việc cả lớp. Dưới đây tôi chỉ xét về ưu và nhược điểm

của làm việc theo cặp và theo nhóm

Hình thức Ưu điểm Nhược điểm

hoạt động

Làm việc theo - Nhiều học sinh được tham - Lớp ồn, khó kiểm soát việc

cặp gia luyện tập cùng một lúc. luyện tập của học sinh.

- Học sinh có cơ hội làm việc - Một số học sinh khá, giỏi

tương tầcm không cần đến sự không thích làm việc với các

hướng dẫn của giáo viên. bạn kém hơn mình.

- Học sinh được chia sẽ trách - Làm việc không hiệu quả

nhiệm. khi học sinh trong nhóm

không hợp nhau. - Cho phép giáo viên để ý đến

các cặp khác vẫn làm việc bình - Do không kiểm soát được

- 7 -

thường. tất cả các cặp cùng một lúc

nên nhiều cặp làm việc chểnh - Dễ tổ chức, dễ thực hiện

mảng hoặc nói chuyện riêng.

Làm việc - Nhiều học sinh được tham - Lớp ồn, khó kiểm soát

theo nhóm gia luyện tập cùng một lúc. - Nhiều học sinh không thích

- Do có nhiều thành viên trong vì không muốn chứng tỏ khả

nhóm nên giảm mối quan hệ năng của mình với giáo viên

cá nhân và tăng sự đống góp ý hơn là bạn.

kiến trong luyện tập so với làm - Trong nhóm có thể có một

việc theo cặp. số học sinh tích cực, số khác

- Học sinh tự tin hơn khi đưa ỷ lại vào các bạn trong nhóm.

ra quyết định. - Việc phân nhóm khó khăn

và mất nhiều thời gian.

2. Tổ chức hoạt động theo cặp nhóm

Tổ chức hoạt động theo cặp nhóm như thế nào cho đạt hiệu quả cao là vấn đề

cần được quan tâm. Chúng ta nên chọn một trong số các cách tổ chức cặp, nhóm

sau:

a. Theo cặp, nhóm bạn bè

Đây là hình thức cơ bản nhất để tạo không khí thoải mái trong các cặp và

nhóm. Có hai cách thành lập cặp và nhóm. Thứ nhất là hãy để các em tự thành lập

các cặp và nhóm của mình. Nếu cách thứ nhất gặp khó khăn, giáo viên có thể chọn

cách thứ hailà yêu cầu học sinh viết tên các bạn theo cặp nhóm, trên cơ sở đó giáo

viên sẽ quyết địnhcác cặp hoặc nhóm cho luyện tập.

b. Theo khả năng của học sinh.

- 8 -

Cũng có hai cách tổ chức cặp nhóm theo trình độ của học sinh. Thứ nhất là tổ

chức cặp nhóm hỗn hợp giữa học sinh khá, giỏi với học sinh kém, trung bình. Hình

thức này có điều kiện cho các học sinh giúp đỡ nhau trong học tập. Cách thứ hai là

tổ chức các cặp nhóm học sinh có cùng trình độ giỏi, khá, trung bình, kém. Hình

thức này có ưu điểm là giáo viên có thể giao các loại hình bài tập phù hợp với trình

độ của các loại học sinh, mặt khác giáo viên có điều kiện giúp đỡ học sinh yếu

kém.

c. Theo nhóm ngẫu nhiên.( by chance)

Giáo viên có thể tổ chức cặp nhóm một cách ngẫu nhiên, không theo một quy

định cụ thể nào

Ví dụ: Tổ chức cặp nhóm theo chỗ ngồi như: các em ngồi sát nhau, theo bàn

học, theo hai bàn học, theo cặp, nhóm ngồi xa nhau....

Cần lưu ý rằng sự thay đổi giữa các hình thức thành lập cặp, nhóm là hết sức

cần thiết để tránh sự nhàm chán trong quá trình luyện. Sự thay đổi các hình thức

thành lập cặp, nhóm cần được thực hiện thường xuyên, liên tục qua mỗi ngày, mỗi

tiết học, thậm chí qua mỗi bài tập.

3. Quy trình làm việc theo cặp nhóm

Việc tổ chức cặp, nhóm chỉ là bước khởi đầu cho quá trình luyện tập. Muốn

cho các cặp nhóm làm việc có hiệu quả cần thực hiện tốt ba bước cơ bản sau:

a. Trước luyện tập

Để việc luyện tập đạt hiệu quả, giáo viên cần thực hiện bước trước luyện tập

bằng cách thực hiện một quy trình gồm ba yếu tố: chuẩn bị tâm thế cho học sinh -

xác định mục đíchvà chỉ đẫn nhiệm vụ cần thiết - ấn định thời gian (engage -

instruct - initiate). Nghĩa là, học sinh phải có tâm thế thoải máivề điều sắp phải

làm, hiểu ý nghĩa và mục đích việc sắp phải làm, nắm vững các bước thực hiện và

biết trước thời gian cần thực hiện nhiệm vụ trong bao lâu.

b. Trong khi luyện tập

- 9 -

Học sinh thực hiện nhiệm vụ cá nhân trước, các cá nhân sau đó trao đổi nhiệm

vụ trong các cặp để rút ra những vấn đề chung, các cặp được ghép thành các nhóm

để trao đổi kết quả nhiệm vụ và rút ra những vấn đề chung của nhóm, cuối cùng

đại diện nhóm chuẩn bị báo cáo kết quả của nhóm mình trước lớp.

Trong khi học sinh luyện tập giáo viên có thể đứng ở một vị trí nàođó trong

lớp, hoặc đi xung quanh lớp quan sát và lắng nghe hoạt động của các nhóm, qua đó

có thể cần dừng lại giúp đỡ, hướng dẫn, cung cấp thêm thông tin, ngữ liệu cần

thiết, định hướng các hoạt động hoặc thậm chí tham gia cùng hoạt động ở cặp

nhóm nào. Cần lưu ý rằng trong khi hoạt động cặp, nhóm diễn ra, giáo viên có cơ

hội tập trung giúp đỡ các đối tượng học sinh giỏi hoặc học sinh kém.

c. Sau khi luyện tập

Khi thời gian dành cho cặp, nhóm kết thúc, giáo viên cần tổ chức để cặp, nhóm

thông báo hoạt động của cặp, nhóm mình, cả lớp lắng nghe, bổ xung, cho nhận xét

và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của nhóm. Cuối cùng, giáo viên tóm tắt các

hiện tượng ngôn ngữ, cho nhận xét đánh giá chung công việc vừa tiến hành có đảm

bảo mục tiêu, các bước thực hiện và thời gian đã định trước không.

*Một số điều cần lưu ý khi tổ chức hoạt động theo căp, nhóm

- Tạo ra tình huống phù hợp với từng chủ đề cụ thể, xây dựng kế hoạch để

hướng dẫn học sinh cùng nhau làm việc, cùng trao đổi học hỏi lẫn nhau.

- Cần linh hoạt trong việc dùng SGK để hướng dẫn học sinh lấy số liệu, tự rút

ra cấu trúc riêng cho từng loại bài tập thực hành.

- Làm mẫu cho học sinh xem là biện pháp giúp cho học sinh tiếp thu nhanh

nhất rồi làm tương tự cho bài tập riêng của mình.

- Sử dụng đồ dùng minh hoạ để yêu cầu nhóm, cặp phải sử dụng vật chất, tranh

vẽ để thực hành dễ dàng. Có như thế các em mới nhớ được từng cấu trúc câu, mẫu

câu và sẽ làm bất cứ cấu trúc nào nếu giáo viên yêu cầu.

- 10 -

- Tăng cường các hoạt động tìm tòi, quan sát sáng tạo trong việc vận dụng kiến

thức cho từng bài học, tiết học.

- Tạo điều kiện không khí thích hợp để học sinh tranh luận bất cứ tiết học nào.

- Tận dụng tối đa đồ dùng ở từng cặp, nhóm, yêu cầu học sinh chuẩn bị tranh,

đồ dùng cho từng tiết thực hành.

Trong khi học sinh thực hành hỏi - đáp, giáo viên phải bao quát và theo dõi

lớp để nhận xét từng cặp, lắng nghe và sửa lỗi cho các em, lưu ý những cặp có học

sinh yếu kém.

Chia lớp thành từng nhóm, trong nhóm có học sinh khá, giỏi, trung bình, yếu

để các em có thể hỏi và bày cho nhau. Như vậy học sinh nào chưa có cơ hội trả lời

thì sẽ có cơ hội trả lời những câu tiếp theo giúp cho các em mạnh dạn, tự tin với

mức độ hiểu biết của mình và có cách ứng xử tốt hơn.

Đối với học sinh yếu của từng nhóm, giáo viên hướng dẫn nhóm trưởng-

người học tốt giúp đỡ để các em có thể tiếp cận kiến thức dễ dàng, góp ý để giúp

bạn học và các em phát huy hết khả năng của mình trong việc học ngoại ngữ.

- Yêu cầu đối với giáo viên:

Theo dõi các em thực hành, nhận xét từng lỗi sai nhỏ chỉ ra cho các em biết

cách để tránh lặp lại những lỗi mà mình đã mắc phải.

Khi học sinh luyện tập theo cặp, nhóm giáo viên đến từng cặp – nhóm để

theo dõi và nhận xét để sửa lỗi kịp thời cho học sinh. Đối với những lỗi phổ biến,

giáo viên nên đặt câu hỏi cho cả lớp và cho học sinh tự phát hiện ra lỗi sai của

mình để sửa và tránh lặp lại. Làm như thế các em sẽ tránh được lỗi, hiểu và nhớ

lâu. Giáo viên hiểu được trình độ các đối tượng, mức độ tiếp thu bài của từng em

để giáo viên có hướng điều chỉnh cách dạy của mình.

Phân công nhiệm vụ cho nhóm trưởng để các em theo dõi giúp đỡ các thành

viên trong nhóm của mình. Giáo viên động viên, khích lệ kịp thời những học sinh

làm tốt nhiệm vụ của mình. Tạo không khí phấn khởi để các em có hứng thú khi

- 11 -

mình được khen. Yêu cầu học sinh phải chuẩn bị tốt cho tiết thực hành theo cặp,

nhóm.

- Yêu cầu đối với học sinh:

Đưa hết khả năng để tiếp cận kiến thức, tạo thành cho mình một thói quen

thực hành nhóm, cặp để các tiết sau khi giáo viên chỉ ra hiệu bằng tay và nói câu

lệnh.

(Group/ Pair works) thì các em tự quay người và thực hiện một cách có kỹ xảo và

ai vào việc nấy.

Tạo ra không khí ngoại ngữ trong lớp học để thấy được môn học ngoại ngữ

có đặc thù riêng. Xây dựng phong cách ngoại ngữ cho mình.

Thực hành theo từng mẫu câu để rồi sau đó vận dụng làm bài tập ở sách bài

tập, nâng cao, viết câu, viết đoạn.

Tự giác thực hành bất kỳ tình huống nào của giáo viên yêu cầu. Phát huy

đồng bộ bốn kỹ năng nghe - nói - đọc - viết.

4. Một số ví dụ minh hoạ như sau

Lớp 9: Unit5. The media

Period 28: Getting started, Listen and Read

Getting started ( p40)

*Giới thiệu và lôi cuốn học sinh vào chủ đề bài học

- Cho học sinh nhìn vào tranh và các hoạt động liên quan đến lĩnh vực truyền

thông.

- Cho học sinh hoạt động theo cặp, hỏi đáp về những hoạt động ưa thích của

các em.

S1: Which of these is your favourite activity in your free time?

S2: Watching TV

- 12 -

S1: How many hours a week do you spend watching TV?

S2: About 4- 5 hours

Lớp 9: Unit5. The media

Period 29: Speak and language focus 1,2

- Giáo viên yêu cầu học sinh thực hành lại bài đối thoại theo cặp nói về

chương trình truyền hình mà các em yêu thích và giải thích lí do.

Ví dụ:

S1: You like watching sports, don’t you?

S2: Not really. Some sports are violent, and I don’t like them. I prefer cartoons.

They are interesting.

S1: You don’t like Literature and Art, do you?

S2: No, I don’t I am not interesting in them.

- Giáo viên yêu cầu một số cặp thể hiện bài đối thoại của mình.

- Học sinh nghe và cho nhận xét nếu cần thiết.

Lớp 9: Unit5. The media

Period 32: Write

- Giáo viên yêu cầu học sinh viết về lợi ích của Internet

- Học sinh làm việc theo nhóm, 4 em thảo luận và viết bài dựa vào các câu hỏi

và trả lời gợi ý.

- Giáo viên tham gia với các nhóm khác nhau để giúp đỡ học sinh giải quyết khó

khăn.

- Giáo viên cùng với học sinh lập giàn ý của bài.

1. What can you say about the development of the internet? Is the internet useful?

- 13 -

+ increasingly develop/ become part of our everyday life

+ useful in many ways.

2. Why is the internet a source of information?

+ a fast and convenient way to get information

+ readelestronic newspapers

+ check weather condition before going...

3. Can yousay the internet is a source of entertainment? Why? Why not?

Communicate with friends or relatives

+ Listen/ music

+watch movie

+ play game

+read novels, poems...

4. Is the internet also a means of education? Give your reasons

+ Learn English

+Look up a dictionary

+ take a training.........

5. Are there any disadvatages of internet? Is so, what are they?

- Giáo viên yêu cầu học sinh dùng hiểu biết của mình về lợi ích của internet và một

số liên từ để viết bài theo nhóm.

- Giáo viên điều khiển lớp giúp đỡ các nhóm nếu cần thiết.

- Sau khi học sinh viết xong giáo viên yêu cầu học sinh đại diện trình bài bài viết

của nhóm, các nhóm khác nhận xét và sửa lỗi nếu sai.

- Giáo viên viết những lỗi tiêu biểu nhất mà học sinh mắc phải và gợi ý sửa bài.

- Giáo viên đánh giá và cho điểm mỗi nhóm.

- 14 -

C. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Kết quả

Cụ thể như sau:

Giỏi Khá Trung bình Yếu

Lớp Sĩ số S S S S % % % % L L L L

9A1 34 12 35,3 15 44,1 6 17,6 1 3

9A3 36 13 36,1 16 44,5 6 16,6 1 3

So với kết quả đã nêu ở thực trạng trong phần I, sau khi đã nghiên cứu và áp

dụng đề tài này tôi thấy kết quả của việc học nhóm, học cặp có phần biến chuyển

rõ rệt, chất lượng đạt kết quả cao hơn so với mặt bằng của học kỳ I và đầu năm. Số

học sinh giao tiếp đối thoại được tăng lên, đặc biệt số học sinh yếu kém cũng có

phần nào hiểu và sử dụng được một số câu lệnh của giáo viên ,bập bẹ trao đổi với

bạn một số câu thông dụng hàng ngày nhưng đó cũng là dấu hiệu đáng mừng đối

với các em. Hầu hết các bài tập thực hành ở lớp, ở nhà các em đã xây dựng và hoàn

thiện khá tốt và thu được một lượng kiến thức nhất định.

Thông qua việc giảng dạy trên lớp tai trường tôi thấy việc cho học sinh thực

hành theo cặp nhóm trong từng tiết dạy là một biện pháp hữu hiệu và cần thiết đối

với giáo viên dạy môn tiếng Anh. Nó trở thành một trong những yếu tố quyết định

- 15 -

để nâng cao hiệu quả của việc dạy học Ngoại ngữ.Vì vậy bản thân tôi rút ra và kinh

nghiệm nhỏ như sau.

2. Bài học kinh nghiệm nhỏ

*Đối với giáo viên:

Phải luôn luôn gần gũi, quan tâm đến đối tượng học sinh để từ đó phát hiện

ra năng khiếu học bộ môn của các em.

Là người đóng vai trò hướng dẫn học sinh trong hoạt động học cho nên tránh

hình thức chiếu lệ.

Năng động sáng tạo trong việc phân nhóm học sinh thành nhóm cặp đảm

bảo trong một nhóm học sinh có cả học sinh yếu, có học sinh trung bình, có học

sinh khá và giỏi.

Cần nhanh nhẹn trong các thao tác để tiết kiệm tối đa thời gian cho một tiết

dạy.

*Đối với học sinh:

Cần tự giác tích cực trong mọi hoạt động, tất cả các học sinh đều được giao

việc và được hoạt động, không giao khoán cho học sinh khá giỏi vì các học sinh

được làm nhiều sẽ bộc lộ suy nghĩ của mình qua trao đổi học nhóm hoặc tranh luận

trước lớp học. Qua đó học sinh không những tiếp thu được những kiến thức mà cò

rèn luyện nâng cao nâng lực tư duy.

Mạnh dạn tự tin trong giao tiếp bạn bè.

Từ thực tế bản thân đang dạy tiếng Anh lớp 9, qua học lí thuyết cũng như

học hỏi đồng nghiệp dạy cùng khối 9, tôi có một số kinh nghiệm về “Tổ chức học

sinh học tập thực hành theo cặp nhóm ” như trên. Không thể cứng nhắc thực hiện

các bước dạy theo lí thuyết đã học, tôi muốn có một phương pháp dạy học kết hợp

những gì đã học với thực tế giảng dạy và trình độ học tập của học sinh phù hợp với

sách.

- 16 -

Trong bài viết này tôi chắc chăn còn những khiếm khuyết, đó là những vấn

đề mà tôi trăn trở nhiều qua thực tế để rút ra những bài học, kinh nghiệm nhằm có

những định hướng tốt trong chặng đường tiếp theo của đôi mới phương pháp dạy

học môn tiếng Anh.

Cũng từ đó tôi muốn cùng đồng nghiệp của mình tháo gỡ những khó khăn,

bổ sung những cái gì còn thiếu để một tiết dạy luyện tập hoàn chỉnh. Tôi rất mong

những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp và các cấp chỉ đạo để bản thân tôi có kinh

ngiệm chính xác, khoa học giúp hoàn thành tốt nhiệm vụ của một người giáo viên.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

- 17 -

MỤC LỤC

Trang

Nội dung

2

Phần A- Lời mở đầu.

I- Lí do chọn đề tài

2

II- Mục đích nghiên cứu

3

III- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3

IV- Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

3

1. Thực trạng.

3

2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên

4

Phần B – Giải quyết vấn đề.

7

I. Các giải pháp thực hiện

7

II. Biện pháp thực hiện

8

1. Các hình thức hoạt động cơ bản trên lớp

9

2. Tổ chức hoạt động theo cặp nhóm

12

3. Quy trình làm việc theo nhóm

14

4. Một số ví du minh hoạ

15

16

Phần C – Kết quả đạt được và bài học kinh nghiệm

1. Kết quả

2. Bài học kinh nghiệm

- 18 -