
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Một trong những mục tiêu quan trọng của việc dạy học tiếng mẹ đẻ nói chung, dạy học Ngữ
văn nói riêng là rèn luyện cho HS sử dụng thành thạo bốn kĩ năng cơ bản, đó là: nghe, nói, đọc,
viết. Trong bốn kĩ năng này, học càng lên cao thì kĩ năng về “đọc” (trong đó có đọc hiểu) càng
được quan tâm chú ý hơn. Ở Việt Nam, thuật ngữ “Đọc hiểu” được xuất hiện trong Chương
trình, sách giáo khoa phổ thông từ năm 2000. Nó thể hiện sự đổi mới tư tưởng dạy học Ngữ văn
của nước ta.
Theo quan điểm của tác giả Trần Đình Sử trong bài viết “Đọc hiểu văn bản - một khâu đột
phá trong dạy học TP văn chương”, thì “Dạy văn là dạy cho HS năng lực đọc, kĩ năng đọc để
giúp các em có thể đọc hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại… Do đó, hiểu bản chất môn Văn là
môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất
việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực chủ thể của HS”. Tuy nhiên từ đặc trưng của
môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông vừa là môn học công cụ, vừa là môn học nghệ thuật, có
chức năng giáo dục thẩm mĩ, do vậy môn Ngữ văn có vai trò quan trọng trong việc phát triển
năng lực cho HS, đặc biệt là năng lực đọc hiểu văn bản.
Tác Tác giả Nguyễn Thanh Bình khi nói về bản chất của việc hoạt động đọc hiểu văn bản
trong môn Ngữ văn trong bài “Dạy học đọc hiểu TP văn chương theo
loại thể trong nhà trường THPT” đã nhấn mạnh: “Bản chất của hoạt động đọc hiểu văn chương là
quá trình lao động sáng tạo mang tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị của TP trên cơ
sở phân tích đặc trưng văn bản. Đọc văn chương với bất kì hình thức nào cũng là một dạng thức
lao động… Hoạt động đọc văn đòi hỏi người đọc trước hết phải huy động khả năng tri giác ngôn
ngữ để tìm hiểu không chỉ các tầng ý nghĩa của lớp từ và câu mà còn thức tỉnh cảm xúc, khơi dậy
năng lực liên tưởng, tưởng tượng để tái hiện thế giới nghệ thuật của TP”.
Như vậy, có thể thấy, hoạt động đọc hiểu trong môn Ngữ văn có những điểm khác cơ bản
so với hoạt động đọc hiểu ở các bộ môn khoa học khác đó là hoạt động sáng tạo mang tính thẩm
mỹ hay nói cách khác đó là đọc thẩm mỹ. Sự khác nhau đó thể hiện rất rõ ở việc khi đọc hiểu các
bộ môn khoa học khác người đọc tập trung cơ bản vào những gì được tiếp thu thông tin, được duy
trì, được “mang đi”, và được “áp dụng”. Khi đó, người đọc cần ngôn ngữ rõ ràng và dễ hiểu.
Ngược lại, đọc thẩm mĩ quan tâm đến điều xảy ra trong suốt sự kiện đọc thực tế. Đọc thẩm mĩ
liên quan đến trải nghiệm những gì đang đọc. Khi đó, người đọc được “sống với TP”. Tác giả
Nguyễn Thị Hạnh trong bài viết “Một số cơ sở khoa học để xác định nội dung học tập trong
chương trình môn Ngữ văn ở trường phổ thông sau 2015” đăng trên Tạp chí Khoa học giáo dục,
số 96, tháng 3 năm 2013 đã cho rằng mục tiêu chung của môn Ngữ văn nhằm: “Phát triển cho
học sinh các kĩ năng, đọc, viết, nghe, nói tiếng Việt để HS bộc lộ được bản thân một cách chuẩn
mực, sáng tạo và ấn tượng, để HS giao tiếp có hiệu quả trong các tình huống ở nhà trường và
ngoài xã hội; Phát triển cho HS kĩ năng đọc truyện, đọc thơ, đọc kịch với tinh thần phê phán và
sáng tạo, góp phần phát triển cho HS cảm xúc thẩm mĩ, nuôi dưỡng cho HS tinh thần tôn trọng các
di sản văn hóa của dân tộc và của nhân loại… ”. Năng lực đọc thẩm mỹ càng quan trọng hơn
khi đọc hiểu thơ trữ tình.
Trong nhiều tài liệu đã có những nghiên cứu về thơ và dạy học thơ ở trường THPT. Trong
cuốn Giáo trình Lí luận văn học, tác giả Trần Đình Sử phân tích khá đầy đủ khái niệm chung về
thơ ca, trong đó tác giả nhấn mạnh: “Thơ là loại hình văn học sớm nhất của nhân loại. Thơ ra
đời hầu như cùng một lúc với nhạc, họa, múa, nhảy trong các cuộc tế lễ thần linh, ma thuật thời
nguyên thủy”. Lamactine thì cho rằng: Thơ là sự hiện thân cho những gì thầm kín nhất của con
tim và thiêng liêng nhất của tâm hồn con người và cho những hình ảnh tươi đẹp nhất, âm thanh
huyền diệu nhất trong thiên nhiên. Còn Nguyễn Thị Thu Hằng khẳng định: “Thơ là sự bộc lộ trực
tiếp thế giới chủ quan của con người, bao gồm cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ qua hệ thống ngôn từ