SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI VẬN DỤNG MỘT SỐ HÌNH THỨC, KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE – THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH (BÀI 3, BÀI 6 TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10, THPT, SÁCH KẾT NỐI TRI THỨC VỚI CUỘC SỐNG)

LĨNH VỰC: NGỮ VĂN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương ĐT: 0987.589.557

Thái Văn Phú ĐT: 0963.730.739

Lê Thị Thanh Hòa ĐT: 0919.565.893

Tổ: Ngữ Văn

Năm học: 2022 - 2023

1

BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT

Giáo viên Học sinh Nhà xuất bản Sách giáo khoa Sách giáo viên Trung học phổ thông Thực nghiệm Đối chứng Thực nghiệm sư phạm Phương pháp giảng dạy Kế hoạch bài dạy Phiếu học tập GV HS Nxb SGK SGV THPT TN ĐC TNSP PPGD KHBD PHT

2

MỤC LỤC

Mục Nội dung Trang

ĐẶT VẤN ĐỀ 1

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tài liệu khảo sát 4

4 Nhiệm vụ nghiên cứu 5

5 Phương pháp nghiên cứu 5

6 Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm 5

7 Cấu trúc sáng kiến kinh nghiệm 5

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 7

7

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu

1.1 Cơ sở lý luận 7

1.1.1 Một số vấn đề về năng lực và phát triển năng lực 7

1.1.1 Một số vấn đề về năng lực và phát triển năng lực

1.1.2 Dạy học theo đặc trưng thể loại 9

1.1.3 Về bài Sức hấp dẫn của truyện kể 9

1.1.4 10

Yêu cần cần đạt của phần đọc hiểu văn bản văn học trong Chương trình môn Ngữ Văn lớp 10 của Chương trình GDPT 2018

1.1.5 Sử dụng các chiến lược đọc hiểu văn bản 12

1.1.6 Chiến lược đọc Siêu sáu 16

1.2 Cơ sở thực tiễn 16

3

21

Chương 2 - Vận dụng chiến lược đọc “Siêu sáu” để dạy đọc các văn bản truyện trong bài Sức hấp dẫn của truyện kể nhằm phát triển năng lực học sinh

2.1 Tạo sự kết nối 21

2.2 Dự đoán 28

2.3 Đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi 30

2.4 Giám sát 37

2.5 Hình dung 38

2.6 Tóm tắt 40

Chương 3 – Thực nghiệm sư phạm

3.1 Thực nghiệm sư phạm 44

3.1.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm

3.1.2 Nội dung thực nghiệm 44

3.1.3 Tiến trình thực nghiêm 45

3.1.4 Đánh giá kết quả thực nghiệm 46

3.2 Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi 49

3.2.1 Mục đích khảo sát 49

3.2.2 Đối tượng khảo sát 49

3.2.3 Nội dung và phương pháp khảo sát 50

3.2.4 Thời gian khảo sát 50

3.2.5 Kết quả khảo sát 50

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 55

1 Kết luận 55

2 Đóng góp của đề tài 56

3 Ý nghĩa của đề tài 57

4

4 Phạm vi áp dụng 57

5 Kiến nghị 58

Tài liệu tham khảo 58

Phụ lục 59

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nghị quyết 29 ngày 4/11/2013 của BCH Trung ương Đảng (khóa XI) đã xác định rõ mục tiêu của giáo dục phổ thông: “Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Trong xu thế đổi mới căn bản, toàn diện của giáo dục phổ thông, Ngữ văn là môn học có tính đặc thù và có ưu thế trong việc phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.

1.2. Chương trình GDPT 2018 đối với lớp 10 đã chính thức được thực hiện từ năm học 2022 – 2023. Chương trình GDPT nói chung mà môn Ngữ văn nói riêng đều hướng đến mục tiêu là bồi dưỡng phẩm chất và phát triển năng lực của học sinh. Thông qua các hoạt động được tổ chức trong mỗi bài học trong môn Ngữ văn, học sinh được phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học và các năng lực chung khác như năng lực tự chủ và tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; cùng với đó những phẩm chất quan trọng của học sinh cũng được bồi dưỡng thêm. Bên cạnh các hoạt động của một bài dạy Ngữ văn là đọc – viết thì nói – nghe đóng một vai trò rất quan trọng vào việc phát triển năng lực và bồi dưỡng phẩm chất cho học sinh THPT.

1.3. Hoạt động nói – nghe tập trung vào việc thuyết trình, thảo luận, lắng nghe và phản hồi về một nội dung xác định dựa trên kết quả bài viết, nội dung bài đọc hoặc những vấn đề khác. SGK Ngữ văn 10 đã thiết kế các hoạt động nói và nghe theo một quy trình rất chặt chẽ. Sách yêu cầu học sinh phải xác định mục đích nói – nghe, tuân thủ các bước như chuẩn bị, thực hành nói – nghe, đánh giá phản hồi. Việc được luyện tập từ ghế nhà trường ở hoạt động nói nghe sẽ giúp học sinh tự tin, chủ động trình bày suy nghĩ của mình; giúp các em biết lắng nghe, biết phán đoán và có những phản ứng nhanh nhạy trước ý kiến của người khác, trước những vấn đề khác của cuộc sống sau

5

này. Khi GV hướng dẫn tốt HS thực hiện hoạt động nói nghe, GV phải vận dụng được nhiều hình thức tổ chức cũng như phải thành thạo các kĩ thuật dạy học hiện đại.

1.4. Những vấn đề của xã hội thì rất đa dạng, từ những vấn đề về tư tưởng đạo lí đến những hiện tượng đời sống. Những vấn đề này học sinh phải thường xuyên được tiếp cận bởi nó tác động đến nhận thức, hành vi, tâm lí cũng như việc hình thành nhân cách của các em học sinh. Khi học sinh có những suy nghĩ, nhận diện đúng về các vấn đề của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp tới các em thì chính các em sẽ có thái độ tích cực hơn với bản thân, người khác; có các hành vi xã hội tích cực hơn và các mối quan hệ với bạn bè và người lớn sẽ tốt hơn; giảm các vấn đề hành vi và hành vi nguy cơ; giảm căng thẳng tinh thần… Về lâu dài, khi các em vừa có tri thức sách vở vừa có tri thức về đời sống sẽ giúp các em thành công trong sự nghiệp, có những mối quan hệ tích cực trong gia đình và công việc, sức khỏe tinh thần tốt hơn, giảm thiểu hành vi tội phạm.

1.5. Đứng trước một vấn đề, nhất là các vấn đề xã hội, sẽ nảy sinh nhiều quan điểm, nhiều góc nhìn khác nhau. Những quan điểm đó phản ánh nhân sinh quan, trí tuệ, nhân cách của người nói. Việc tôn trọng góc nhìn của người khác là vô cùng quan trọng. Bởi thế, phải làm thế nào để có thể tranh luận, trao đổi một cách văn minh, lịch sự mà vẫn thể hiện được góc nhìn riêng, quan điểm riêng của mình không phải là điều dễ dàng đối với học sinh. Khi bị tâm lí lứa tuổi, khi bị nhận thức chưa đầy đủ chi phối khiến cho các cuộc thảo luận trở nên căng thẳng, nhiều học sinh đã bị tổn thương trong những lần như thế. Bởi vậy, việc giúp cho học sinh có được một góc nhìn khác nhau, có được một kĩ năng tranh luận phù hợp là một yêu cầu rất quan trọng đối với nội dung phần nói và nghe ở bài 3, bài 6: thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau.

1.6. Trước những vấn đề đó, việc tổ chức cho học sinh trao đổi trong một giờ dạy đòi hỏi người giáo viên phải thực sự bản lĩnh, phải vận dụng nhiều hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực, phải là người trọng tài vững vàng cho các cuộc tranh luận, từ đó hướng học sinh đến một cái nhìn đúng đắn về các vấn đề. Làm được điều đó thì giờ học nói – nghe sẽ trở nên hấp dẫn, hữu ích với học sinh. Quan trọng là hình thành cho học sinh kĩ năng nói, kĩ năng nghe, giúp học sinh tích lũy được nhiều kinh nghiệm, kĩ năng khi rời ghế nhà trường.

Xuất phát từ những thực tế đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh (Bài 3, bài 6 trong Chương trình Ngữ Văn 10 THPT, Sách Kết nối tri thức với cuộc sống). Với đề tài này, chúng tôi đề xuất một số hình thức, kĩ thuật để dạy học phần nói – nghe ở bài 3 và bài 6 một cách hiệu quả. Không chỉ làm cho học sinh có hứng thú, có động lực với hoạt động nói - nghe mà quan trọng hơn là học sinh có được nhận thức đúng đắn, sâu sắc về các vấn đề xã hội; hình thành góc nhìn đa chiều, tôn trọng các góc nhìn đa

6

chiều về các vấn đề của đời sống. Hơn nữa, còn là việc hình thành cho học sinh kĩ năng nói – nghe ở bất cứ tình huống nào, môi trường nào. Đó cũng chính là mục tiêu của Chương trình GDPT 2018.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Đã có một số đề tài nghiên cứu về các phương pháp dạy học tích cực, dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh của học sinh ở Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu này vẫn còn mang tính lẻ tẻ, thiếu tính hệ thống. Mỗi đề tài mới chỉ dừng ở việc chú ý đến một năng lực cụ thể thông qua dạy học hoặc sử dụng nội dung ở một phần cụ thể.

Còn nghiên cứu về vấn đề dạy Nói – nghe đang thực sự thiếu. Thực ra trong những Chương trình Ngữ Văn trước, hoạt động nói – nghe cũng đã được quan tâm. Tuy nhiên, đó là chỉ là hoạt động có tính chất lòng ghép trong khi dạy các phân môn Đọc hiểu, tiếng Việt và làm văn. Còn dạy học nội dung Nói – nghe với tư cách là một hoạt động độc lập trong cấu trúc của bài học thì Chương trình GDPT 2018 mới chính thức xây dựng. Thế nên vấn đề này chưa được nghiên cứu và đề cập nhiều.

Trong Chương trình GDPT môn Ngữ Văn 2018 được ban hành kèm theo kèm theo thông tư số 32/2018/TT- BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chi tiết hóa về yêu cầu cần đạt của năng lực ngôn ngữ đối với cấp THPT:

“Biết tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp; có khả năng nghe thuyết trình và đánh giá được nội dung và hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận; trình bày vấn đề khoa học một cách tự tin, có sức thuyết phục. Nói và nghe linh hoạt; nắm được phương pháp, quy trình tiến hành một cuộc tranh luận”. Trong yêu cầu cần đạt về phần Nói – nghe của lớp 10 cung ghi rất rõ các nội dung cụ thể.

Trong cuốn “Tài liệu bồi dưỡng giáo viên sử dụng SGK Ngữ văn 10” với bộ sách Kết nối tri thức và cuộc sống của nhóm tác giả Phan Huy Dũng, Bùi Mạnh Hùng và Nguyễn Thị Ngọc Minh viết, các tác giả có đề cập đến một số nguyên tắc khi tổ chức dạy học hoạt động Nói – nghe. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những hướng dẫn ban đầu, chưa có những định hướng về hình thức, kĩ thuật dạy học.

Trong bài viết “Dạy nói và nghe” đăng trên báo điện

tử: https://www.giaoduc.edu.vn, ngày 11/4/2023, PGS.TS Đỗ Ngọc Thống cũng đã chia sẻ tiến trình triển khai giờ dạy nói - nghe với những hoạt động cụ thể và những yêu cầu đặt ra cho nội dung dạy học này.

Tuy vậy, qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng: Những bộ tài liệu, những văn bản hướng dẫn chỉ là những căn cứ, những công cụ có tính chất nền tảng

7

còn việc việc thực hiện hiệu quả đến đâu là phụ thuộc vào nhân tố con người, vào thực tế của từng cơ sở giáo dục, vào những điều kiện chủ quan và khách quan khác. Chính vì vậy, khi lựa chọn nghiên cứu đề tài chúng tôi mong muốn góp một kinh nghiệm nhỏ trong việc vận dụng các kĩ thuật dạy học vào việc dạy Nói – nghe nhằm đạt được một kết quả tốt nhất, phát huy được năng lực và phẩm chất của học sinh. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn ở trường phổ thông nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung, đáp ứng yêu cầu cần đạt của Chương trình GDPT 2018.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tài liệu khảo sát

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh (Bài 3, bài 6 trong Chương trình Ngữ Văn 10 THPT, Sách Kết nối tri thức với cuộc sống).

3.2. Phạm vi tài liệu khảo sát: Phần nói và nghe - Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 3, bài 6 trong Chương trình Ngữ Văn 10 THPT, sách Kết nối tri thức với cuộc sống).

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài: vấn đề phát triển năng lực học sinh, tính cấp thiết của việc đổi mới phương pháp, vai trò của các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực, yêu cầu của hoạt động nói nghe.

- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu

- Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và

nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau.

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính phù hợp và hiệu quả các

đề xuất.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đã phối hợp 2 nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn. Bao gồm: phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại và tổng hợp lý thuyết, phương pháp quan sát và điều tra, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp thực nghiệm.

6. Đóng góp của SKKN

- Về mặt lí luận, góp phần làm rõ khái niệm phát triển năng lực của học sinh, yêu cầu của quá trình dạy nói – nghe trong môn Ngữ văn, các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực có thể áp dụng vào trong quá trình dạy nói – nghe để phát triển được năng lực học sinh cũng như những yêu cầu cơ bản của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.

8

- Về mặt thực tiễn, đề tài bước đầu đề xuất một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực để dạy phần nói nghe – thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh, nâng cao hiệu quả của giờ dạy; góp phần đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học môn Ngữ văn. Đây cũng là những thay đổi cần thiết để thực hiện chương trình Giáo dục phổ thông 2018 một cách hiệu quả.

7. Cấu trúc SKKN

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của sáng kiến được triển khai trong 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu

Chương 2: Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số vấn đề về năng lực và phát triển năng lực

* Khái niệm năng lực:

Năng lực là “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. (Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng, 1998).

Các nhà giáo dục học cũng nêu ra nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực:

- Theo Tổ chức OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế Thế giới) quan niệm: Năng lực là “khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể”. Định nghĩa này nêu được đặc trưng quan trọng nhất để nhận diện năng lực là “hiệu quả”, nhưng chưa làm rõ được cấu trúc và “địa chỉ” tồn tại của năng lực.

- Theo F. E. Weinert, năng lực là “tổng hợp các khả năng và kĩ năng sẵn có hoặc học được cũng như sự sẵn sàng của học sinh nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh và hành động một cách có trách nhiệm, có sự phê phán để đi đến giải pháp.” Định nghĩa này cũng nói tới sự đóng góp của những yếu tố “sẵn có” ở mỗi cá nhân vào việc phát triển năng lực của bản thân.

9

- Theo Denyse Tremblay, năng lực là “khả năng hành động, thành công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các nguồn lực để đối mặt với các tình huống trong cuộc sống.”

Dựa vào các kết quả nghiên cứu nói trên, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 giải thích khái niệm năng lực như sau: năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện cho phép con người huy động tổng hợp các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.

* Đặc điểm của năng lực: Từ nội hàm của khái niệm đó, có thể chỉ ra những đặc điểm của năng lực là: Năng lực là sự kết hợp giữa tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện của người học; năng lực là kết quả huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí… năng lực được hình thành, phát triển thông qua hoạt động và thể hiện ở sự thành công trong hoạt động thực tiễn.

* Những năng lực cần thiết phải hình thành cho học sinh THPT: Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 xác định hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi sau:

- Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;

- Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Bên cạnh việc hình thành, phát triển các năng lực cốt lõi, chương trình giáo dục phổ thông còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu của học sinh.

* Năng lực môn Ngữ văn:

Ngữ văn là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn; giúp HS có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; giúp HS khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế.

Với tư cách là một môn học công cụ và do đặc trưng của mình, môn Ngữ Văn có điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển một số năng lực chung như năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực thẩm mĩ và một số năng lực đặc thù.

10

Dạy môn Ngữ Văn cấp THPT phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau về năng lực

trong môn Ngữ văn:

- Năng lực ngôn ngữ:

+ Biết vận dụng kiến thức tiếng Việt và kiến thức về bối cảnh lịch sử, xã hội, tư

tưởng, triết học và quan niệm thẩm mĩ của các thời kì để hiểu các văn bản khó hơn.

+ Biết phân tích, đánh giá nội dung và đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của

văn bản, nhất là những tìm tòi sáng tạo về ngôn ngữ, cách viết và kiểu văn bản.

+ Viết được văn bản nghị luận và văn bản thông tin có đề tài tương đối phức tạp.

+ Biết tranh luận về những vấn đề tồn tại các quan điểm trái ngược nhau; có thái độ cầu thị và văn hoá tranh luận phù hợp; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung và hình thức của bài thuyết trình; có hứng thú thể hiện chủ kiến, cá tính trong tranh luận…

- Năng lực văn học:

+ Phân tích và đánh giá văn bản văn học dựa trên những hiểu biết về phong cách nghệ thuật và lịch sử văn học. Nhận biết được đặc trưng của hình tượng văn học; phân tích và đánh giá được nội dung tư tưởng và cách thể hiện nội dung tư tưởng trong một văn bản văn học…

+ Nêu được những nét tổng quát về lịch sử văn họsc dân tộc và vận dụng vào việc

đọc tác phẩm văn học.

+ Tạo lập được một số kiểu văn bản văn học thể hiện khả năng biểu đạt cảm xúc

và ý tưởng bằng hình thức ngôn từ mang tính thẩm mĩ.

1.1.2. Vai trò của các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực

Các phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại hay còn cách gọi khác hơn là các phương pháp dạy học tích cực đã trở thành một cách thức không thể thiếu trong quá trình dạy học hiện nay. Việc áp dụng các phương pháp này để tổ chức các hoạt động học tập đã đem lại những hiệu quả thiết thực đối với cả người dạy, người học.

Lợi ích đối với người dạy: Khi áp dụng các PPDH tích cực, giờ giảng của mỗi giáo viên trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động. Người học là trung tâm nhưng vai trò, uy tín của người thầy được đề cao hơn bởi học sinh sẽ nhận thấy rõ năng lực, tâm huyết, trách nhiệm của người giáo viên thể hiện qua mỗi tiết dạy. Đồng thời, muốn tổ chức được giờ dạy theo hướng phát triển năng lực đòi hỏi người thầy phải dày công tìm tòi,

11

suy ngẫm, học hỏi để có thể áp dụng những điều tốt nhất nhằm hướng dẫn cho học trò chiếm lĩnh tri thức, chính vì thế mà HS sẽ tôn trọng GV hơn. Hơn nữa, dạy học theo quá trình tương tác sẽ nảy sinh rất nhiều tình huống mới. Chính điều đó sẽ góp phần rèn giũa thêm bản lĩnh của người GV.

Lợi ích đối với người học: Dưới sự tổ chức và điều khiển của giáo viên, HS sẽ được chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm không chỉ từ người thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp. HS sẽ thực sự được học, được sáng tạo, được khám phá tiềm năng, được thể hiện, được làm. Nhờ học theo hướng tích cực mà HS ghi nhớ sâu kiến thức sâu hơn, quan trọng hơn là tăng khả năng áp dụng vào thực tiễn cuộc sống một cách chủ động. Cũng nhờ đó người học có được sự tự tin, có trách nhiệm với bản thân để từ đó chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS phải dần có được những phẩm chất và năng lực thích nghi với PPDH tích cực như: giác ngộ mục tiêu học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về việc học và hình thành phương pháp tự học.

Mối quan hệ giữa người dạy và người học: Nếu với cách dạy học truyền thống, nghiêng về đọc - chép, GV là người rót kiến thức vào đầu HS và người dạy đóng vai trò trung tâm, quyền “phán xử” thuộc về người thầy hoàn toàn. Tuy nhiên, khi áp dụng PPDH chủ động, người học giữ vai trò trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ. Người học chủ động tìm kiếm tri thức và có thể thu nhận kiến thức không chỉ từ thầy mà còn từ rất nhiều nguồn khác nhau. Và do đó, sự tương tác giữa thầy – trò trở nên cởi mở hơn, HS chủ động, tích cực, sáng tạo hơn, tư duy duy độc lập, tư duy phản biện của học sinh được phát triển. Cũng nhờ đó năng lực, bản lĩnh của người GV được thể hiện, tôi rèn.

1.1.3. Cấu trúc của bài dạy Ngữ văn trong Chương trình GDPT 2018

Trong Chương trình Ngữ văn 10, các bài học đều có cấu trúc thống nhất. Trong mỗi bài, các hoạt động đọc, viết, nói – nghe được thiết kế liền mạch và có kết nối với nhau chặt chẽ. Từ việc đọc hiểu theo đặc trưng thể loại văn bản, HS sẽ thực hiện hoạt động viết theo các kiểu bài có mối liên hệ nhất định với thể loại văn bản được học. Hoạt động nói và nghe được tổ chức trên cơ sở của hoạt động đọc hoặc viết. Như vậy, SGK Ngữ văn 10 được thiết kế theo hướng lấy hoạt động đọc làm cơ sở, cung cấp chất liệu, làm thành “đầu vào” cho các hoạt động viết, nói và nghe.

Mạch nội dung chính của mỗi bài học được thiết kế dựa vào các hoạt động giao tiếp: đọc, viết, nói và nghe.; bám sát yêu cầu cần đạt theo quy định của Chương trình GDPT 2018 môn Ngữ văn:

+ Đọc: trung bình mỗi bài sẽ có 3 văn bản đọc hiểu, đáp ứng định hướng đọc hiểu theo thể loại, được thể hiện ở tên của bài học. Với mỗi văn bản, được thiết kế một

12

hệ thống yêu cầu trước, trong và sau khi đọc. Sau mỗi văn bản có phần kết nối đọc – viết.

+ Thực hành tiếng Việt: được đặt sau văn bản cuối cùng của phần Đọc. Ngữ liệu để thực hành chủ yếu được lấy từ các văn bản đọc hiểu trong cùng bài học nhằm giúp HS vận dụng kiến thức về tiếng Việt để đọc hiểu văn bản. Mục đích cuối cùng là để HS viết, nói và nghe được tốt hơn.

+ Viết: Tìm hiểu yêu cầu của mỗi kiểu bài, phân tích bài viết tham khảo và

thực hành viết theo các bước.

+ Nói và nghe: Thực hành để phát triển kĩ năng thuyết trình, thảo luận; chú ý

tăng cường kì năng tương tác giữa người nói và người nghe.

Cuối mỗi bài sẽ có các phần Củng cố, mở rộng và Thực hành đọc.

Như vậy, có thể thấy các bài học trong SGK Ngữ văn 10 đều thể hiện sự đổi

mới rõ nét trong thiết kế theo mô hình SGK phát triển phẩm chất và năng lực.

1.1.4. Yêu cầu cần đạt của phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10 THPT

Từ mục tiêu và yêu cầu chung của bộ môn Ngữ văn, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được ban hành kèm theo thông tư số 32/2018/TT- BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định rất rõ về yêu cầu cần đạt của phần nói – nghe đối với học sinh lớp 10 THPT. Nội dung cụ thể như sau:

* Nói:

– Biết thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ với các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ.

– Trình bày được báo cáo về một kết quả nghiên cứu hay hoạt động trải nghiệm.

– Biết giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học (theo lựa chọn cá nhân).

* Nghe:

– Nghe và nắm bắt được nội dung truyết trình, quan điểm của người nói. Biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình.

*Nói nghe tương tác:

– Biết thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau; đưa ra được những căn cứ thuyết phục để bảo vệ hay bác bỏ một ý kiến nào đó; tôn trọng người đối thoại.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Nội dung phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10 THPT

13

SGK Ngữ văn 10 THPT nội dung phần nói - nghe được xây dựng như sau:

- Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm truyện (Bài 1)

- Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm thơ (Bài 2)

- Thảo luận về một vấn đề đời sống hay một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 3, Bài 6)

- Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau (Bài 7)

- Trình bày báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề (Bài 4, Bài 5)

- Thảo luận về văn bản nội quy hoặc văn bản hướng dẫn nơi công cộng (Bài 8)

- Thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ (Bài 9)

1.2.2. Thực trạng của việc dạy Nói – nghe tại trường THPT

Trong khuôn khổ của đề tài, để có những cơ sở cho việc triển khai các biện pháp, chúng tôi chỉ khảo sát thực trạng của việc dạy Nói – nghe và việc vận dụng các hình thức, kĩ thuật dạy nói nghe tại trường Phổ thông khi thực hiện chương trình lớp 10. Để từ đó chũng tôi có cơ sở triển khai các giải giáp khi dạy phần Nói – nghe ở bài số 3, Bài số 6 và những bài khác trong Chương trình.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 40 GV dạy môn Ngữ văn ở các trường THPT trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu và thị xã Hoàng Mai (Nội dung phiếu khảo sát được trình bày trong phụ lục 3) và 222 HS ở các lớp tôi và đồng nghiệp giảng dạy (Nội dung phiếu khảo sát được trình bày trong phụ lục 4).

* Nội dung khảo sát

- Tìm hiểu thực trạng dạy học theo định hướng năng lực của GV môn Ngữ văn.

- Tìm hiểu việc xây dựng KHBD để hiểu rõ hơn cách tổ chức các hoạt động.

- Tìm hiểu thực trạng của việc dạy, học phần Nói – nghe trong chương trình lớp

10

(tập trung vào việc nhận diện những khó khăn khi tổ chức dạy học và việc vận dụng các hình thức, ki thuật dạy học tích cực)

- Tìm hiểu hứng thú và thái độ học tập của HS đối với các PPDH dạy phần nói

– nghe của GV.

Từ đó xác định những khó khăn của GV và HS gặp phải để bước đầu đề xuất việc sử dụng các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả phần nói – nghe nhằm phát triển năng lực HS một cách tốt nhất.

* Phương pháp khảo sát

14

Để thực hiện đề tài, bên cạnh việc dùng phiếu khảo sát, chúng tôi còn tiến hành nghiên KHBD, trao đổi trực tiếp với giáo viên; dự giờ dạy một số giáo viên trong trường.

* Kết quả khảo sát

- Đối với giáo viên: sau khảo sát 40 GV chúng tôi thu được các số liệu như sau:

TT Nội dung khảo sát Số GV Tỷ lệ

1

Mức độ tiếp nhận lí luận về dạy học phát triển năng lực của thầy cô là: (Câu hỏi có thể đánh nhiều lựa chọn)

- Đã từng nghe qua/ đọc qua 40/40 100%

- Đã từng nghiên cứu/ đã từng được tập huấn 40/40 100%

34/40 85%

- Đã từng vận dụng trong dạy học môn mình phụ trách

- Đã vận dụng và có những thành công nhất định 20/40 50%

2

Mức độ quan tâm của thầy/ cô về việc dạy học phát triển năng lực trong trường THPT:

- Rất quan tâm 30/40 75%

- Quan tâm 9/40 23%

- Bình thường 1/40 2%

- Không quan tâm 0/40 0%

3

Thầy cô nghĩ gì về vai trò của các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học hiện nay: - Quan trọng 40/40 100%

- Không quan trọng 0/40 0%

Khả năng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực của thầy/ cô là?

4

15

- Có khả năng cao 8/40 20%

- Có khả năng 13/40 32,5%

- Bình thường 14/24 35%

- Ít có khả năng 5/40 12,5%

Thầy/cô có gặp khó khăn khi tổ chức dạy học phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ Văn 10?

5

- Có rất nhiều khó khăn 40/40 100%

- Không gặp khó khăn 0/40 100%

Nếu gặp khó khăn trong quá trình dạy nói – nghe thì đó là những khó khăn nào? Thầy/ cô hãy vui lòng chia sẻ:

6

- Chia sẻ các khó khăn 40/40 100%

Tần suất sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực của thầy cô khi dạy phần Nói- nghe trong Chương trình ngữ văn 10?

7

- Thường xuyên 10/40 25%

- Thỉnh thoảng 25/40 62,5%

- Không sử dung 5/40 12,5%

Tần suất thầy/cô rèn luyện cho học sinh các kĩ năng thảo luận nhóm, thuyết trình, phản hồi, sử dụng CNTT, đánh giá và tự đánh giá… như thế nào?

8

- Thường xuyên 15/40 37,5%

- Thỉnh thoảng 23/40 57,5%

- Không rèn luyện 2/40 5%

Theo thầy/cô, có cần thiết phải sử dụng các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực khi dạy phần Nói – nghe trong Bài 3, Bài 6 không?

9

- Rất cần thiết 28/40 70%

- Cần thiết 12/40 30%

16

- Không cần thiết 0/40 0%

Thầy/ cô đã tổ chức hoạt động đánh giá Phần nói – nghe của HS ở Bài 1, Bài 2 trong Chương trình lớp 10 như thế nào?

10

- Đánh giá theo cảm tính 5/40 12.5%

- Đánh giá theo bảng kiểm 12/40 30%

- Đánh giá qua bảng kiểm và quan sát

- Đánh giá qua quan sát 10/40 25%

13/40 32,5%

Cùng với quá trình trao đổi, dự giờ của các đồng nghiệp, cộng với kết quả thu được qua khảo sát nói trên, chúng tôi kết luận một số vấn đề như sau về tình hình dạy phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10 hiện nay như sau:

- Phần lớn GV đều rất quan tâm dến dạy học theo định hướng phát triển năng lực và họ đều cho rằng áp dụng các PPDH tích cực là yêu cầu có tính chất bắt buộc (100% GV được hỏi đều thừa nhận vai trò của các PPDH tích cực). Các GV đã cố gắng tính tích cực hoá hoạt động của HS nhưng chủ yếu được thực hiện khi có hoạt động thao giảng, thi giáo viên giỏi. Tuy nhiên, việc thay đổi PPDH ở đây còn mang tính chắp vá, chưa có sự thay đổi về chất, các phương pháp sử dụng cũng chưa hẳn phù hợp, khiến cho hiệu quả không thực sự cao, HS không thực sự hứng thú.

- Tần suất sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực của GV khi dạy phần Nói- nghe trong Chương trình ngữ văn còn khiêm tốn: thường xuyên (12%), thỉnh thoảng (62,5%). Một số GV còn chưa thực sự tự tin và vận dụng linh hoạt, hiệu quả các PPDH tích cực. Một số GV đã có nhiều cố gắng để tổ chức các hoạt động học tập nhằm phát huy được phẩm chất, năng lực HS. Như vậy, vận còn hiện tượng nhiều GV chưa thực sự đổi mới PPDH hoặc việc vận dụng phương pháp của bộ phận GV trong thực tiễn dạy học còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lí. Tuy nhiên, đại đa số các GV đều ghi nhận sự cần thiết phải sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực trong phần dạy nói – nghe: rất cần thiết (70%), cần thiết (30%).

- 100 GV khi chúng tôi trao đổi và qua phiếu khảo sát được hỏi đều trả lời rằng đang gặp rất nhiều khó khăn khi tổ chức dạy học phần Noi – nghe. Một số khó khăn đa được nêu ra như:

+ Bản thân GV mới bắt đầu thực hiện chương trình 2018 nên chưa hướng dẫn

cho HS một cách hệ thống các kĩ năng cần thiết khi nói – nghe

+ Chưa biết cách, chưa tạo được cơ hội cho HS nói trọn vẹn, chưa có quá nhiều

HS được nói

17

+ Bị sức ép về mặt thời gian – hoạt động nói nghe chỉ tiến hành trong 1 tiết học

+ Cách tổ chức các hình thức chưa phong phú, chưa đa dạng

+ Kĩ năng tổ chức giờ dạy của GV chưa thành thục

+ Bản thân GV đang chịu ảnh hưởng quá nhiều của cách dạy truyền thống

+ Cách tổ chức giờ dạy chưa bài bản, chưa sinh động, hấp dẫn.

+ GV chưa thực sự thành thạo CNTT, các kĩ thuật dạy học tích cực…

+ Việc chọn đề tài cho HS nói.

+ Việc đánh giá đầy đủ phần nói – nghe của HS còn gặp khó khăn

* Đối với học sinh: Qua việc trao đổi, quan sát trực tiếp với HS, qua 8 câu hỏi nhiều lựa chọn, kết quả hỏi ý kiến 222 HS, cho thấy:

TT Nội dung khảo sát Số HS Tỷ lệ

1

GV có sử dụng các phương pháp dạy học khác ngoài PP thuyết trình không?

- Thường xuyên 40/222 18%

- Thỉnh thoảng 110/222 49,5%

- Rất ít khi 72/222 32,5%

- Không bao giờ 0/222 0%

2

Các em có quan tâm đến việc giáo viên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy không?

106/222 47,8%

- Mức độ rất cao - Mức độ cao 96/222 43,2%

- Mức độ thấp 20/222 9%

- Không quan tâm 0/222 0%

3

Ở trường các em, khi GV sử dụng các phương pháp dạy học mới, các em cảm thấy?

- Rất thích, hào hứng tham gia 101/222 45,5%

18

- Thích 89/222 40,1%

- Bình thường 17/222 7,6%

- Căng thẳng, mệt mỏi, chán nản 15/222 6.76%

4

Em mong muốn một hình thức học tập môn Ngữ Văn như thế nào, nhất là với phần Nói – nghe?

- Nghe giảng, ghi chép thụ động 40/222 18%

85/222 38,4%

- GV sử dụng đa dạng các kĩ thuật dạy học để hướng dẫn HS tương tác, phát biểu, thảo luận, tranh biện…

69/222 31%

- Được trải nghiệm sáng tạo, được tự mình làm các sản phẩm học tập

28/222 12,6%

- Làm nhiều đề vận dụng, kết nối với thực tiễn đời sống

5

Tần suất tham gia vào các hoạt động học tập của em như: hoạt động nhóm, chủ động phát biểu ý kiến, thực hiện yêu cầu của GV, nêu câu hỏi thắc mắc, chủ động tìm kiếm thông tin liên quan đến bài học… như thế nào?

- Thường xuyên 95/222 42,8%

- Thỉnh thoảng 127/222 57,2%

- Không bao giờ 0/222 0%

6

Em có thích học nội dung Nói – nghe trong Chương trình Ngữ Văn 10?

- Thích 80/222 36%

- Bình thường 131/222 59%

- Không thích 11/222 5%

7

Khi học phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10, em gặp khó khăn gì?

19

- Thiếu sự tự tin, sợ bạn bè trong lớp chê cười 64/222 28,8%

- Khả năng trình bày trước tập thể kém 61/222 27,5%

- Việc chuẩn bị vấn đề thuyết trình 44/222 19,8%

- Tất cả các phương án trên 53/222 23,9%

8

Theo em, có thể khắc phục những khó khăn khi học phần Nói – nghe bằng cách nào?

- Tập nói, tập lắng nghe, phản hồi 32/222 14,4%

37/222 16,7%

- GV cần hướng dẫn kĩ, có nhiều cách thức tổ chức hoạt động

38/222 17,1%

- Cần chuẩn bị nội dung trình bày chu đáo, kĩ càng; vận dụng các phương tiện hiện đại

- Tất cả các phương án trên. 115/222 51,8%

Từ sự phân tích số liệu, nhóm tác giả sáng kiến nhận thấy đại đa số học sinh đều mong muốn GV sẽ thay đổi phương pháp dạy học: GV sử dụng đa dạng các kĩ thuật dạy học để hướng dẫn HS tương tác, phát biểu, thảo luận, tranh biện (38,4%), Được trải nghiệm sáng tạo, được tự mình làm các sản phẩm học tập (31%) …Và khi được trải nghiệm sự thay đổi của GV thì học sinh sẽ cảm thấy rất thích, hào hứng tham gia (45,5%), thích (40,1%) …

Bên cạnh đó, cùng với kết quả khảo sát và qua quá trình theo dõi hoạt động học tập của HS, chúng tôi thấy bên cạnh những HS có ý thức và kĩ năng học tập tốt thì chúng tôi nhận thấy việc tham gia học tập của HS vẫn còn một số tồn tại như: đa số HS rất thụ động, chưa tích cực, tự lực trong quá trình học tập, HS thiếu kĩ năng làm việc theo nhóm, theo tập thể; hứng thú học tập chưa thực sự nhiều…

Đối với phần Nói – nghe thì các em cũng thực sự đang gặp rất nhiều khó khăn,

nhất là đói với đối tượng học sinh có học lực trung bình, yếu:

+ Các em chưa tự tin

+ Khả năng tổng hợp vấn đề còn non

+ Chưa biết cách phối hợp với các yếu tố phi ngôn ngữ

+ Thiếu tính hợp tác trong quá trình làm việc nhóm

+ Kiến thức xã hội còn hạn hẹp, nhiều khi còn nhận thức sai

+ HS nói được và tự tin nói còn rất ít

20

+ HS chưa biết cách trình bày vấn đề một cách mạch lạc, sinh động, hấp dẫn

+ Sản phẩm bài nói chưa đa dạng

+ HS thiếu sự nhiệt tình, hứng thú…

Với kết quả khảo sát GV - HS trình bày ở trên có thể thấy việc dạy Nói – nghe đang gặp rất nhiều khó khăn ở cả GV và học sinh. Thực tế này đòi hỏi một sự chuyển động mạnh mẽ đến từ cả 2 phía. Và những vấn đề đó đã đặt ra cho chúng tôi những băn khoăn, trăn trở để tìm ra một câu trả lời tương đối thỏa đáng cho quá trình dạy Nói – nghe. Vì thế mà chúng tôi đã đề xuất sử dụng một cách linh hoạt các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực khi tổ chức dạy học nội dung Nói – nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau (Bài 3, Bài 6) trong chương tiếp theo.

CHƯƠNG 2

VẬN DỤNG MỘT SỐ HÌNH THỨC, KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY HỌC PHẦN NÓI VÀ NGHE – THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

2. 1. Đảm bảo những nguyên tắc của việc dạy nói và nghe

2.1.1. Những nguyên tắc chung

* Nguyên tắc 1: Dạy học Nói và nghe theo nguyên tắc giao tiếp

Để HS thực sự có cơ hội trình bày, chia sẻ, trao đổi trong giờ học nói và nghe theo yêu cầu của Chương trình GDPT môn Ngữ văn năm 2018 thì cần chú ý đến các nhân tố:

- Đối tượng giao tiếp: GV cần xác định rõ cho HS những vấn đề, nội dung nói và nghe cụ thể. Những đề tài này phải xuất phát từ chính thực tiễn cuộc sống, liên quan đến trải nghiệm, va chạm của các em. Có như thế học sinh mới có hứng thú đồng thời phù hợp với các yêu cầu cần đạt của bài học mà Chương trình đã quy định.

- Nhân vật giao tiếp: GV giúp HS xác định vai trò và các hoạt động phù hợp khi tham gia nói (trình bày) hoặc khi nghe (tiếp nhận và phản hồi trong khi nghe người khác trình bày).

- Mục đích giao tiếp: Trong mỗi bài học, HS đều được hướng dẫn để xác định mục đích nói và nghe của mỗi bài. Tuy nhiên, từ việc thực hành nói và nghe với những đề tài xác định thì HS vừa chủ động trình bày vừa rút ra mục đích nói – nghe rõ ràng hơn. Chẳng hạn, liên quan đến quá trình chuẩn bị và thực hành nói – nghe của HS, có một số câu hỏi có thể đặt ra như:

21

+ Với người nói: Muốn làm rõ vấn đề gì nhất? Mong muốn điều gì sau bài trình

bày? Rút ra được kinh nghiệm gì sau khi trình bày? …

+ Với người nghe: Mong muốn tiếp nhận điều gì nhất? Có điều gì cần trao đổi thêm với người trình bày và những người nghe khác? Có thể học hỏi, rút kinh nghiệm được điều gì sau khi nghe bài trình bày?...

- Phương tiện giao tiếp: Cùng với việc sử dụng ngôn ngữ khi trình bày, trao đổi, tranh luận thì HS sẽ được hướng dẫn để sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ như cử chỉ, điệu bộ, hành động… Bên cạnh đó là sử dụng các phương tiện hỗ trợ như video, tranh ảnh, sơ đồ, bảng biểu, các bài trình chiếu, các phần mềm hỗ trợ học tập…

- Bối cảnh giao tiếp: Bối cảnh giao tiếp chủ yếu là tại lớp học.

* Nguyên tắc 2: Dạy học Nói và nghe gắn với Đọc, Viết

Khi dạy Nói – nghe GV cần chú ý tính tích hợp, kết nối chặt chẽ với hoạt động Đọc, Viết với hoạt động Nói và nghe trong cách tổ chức bài học SGK Ngữ văn lớp 10. Mối liên hệ này thể hiện trên cả phương diện loại, thể loại văn bản lẫn cả chủ đề, bài học.

* Nguyên tắc 3: Tất cả học sinh phải được nói và nghe

- Nhiệm vụ: HS phải biết cách trình bày và nhận phản hồi của bạn. Bên cạnh đó

phải biết lắng nghe, tóm tắt và phản hồi bài nói của bạn

- Cơ sở của nguyên tắc này chính là: những tri thức nền của kiểu bài kết hợp với kết quả của phần viết hoặc đề xuất một vấn đề mới. Ngoài, với hoạt động Nói – nghe phải dùng đến bảng kiểm. Bảng kiểm GV có thể lấy ở SGK hoặc người dạy có thể tự thiết kế, biến tấu thành tiêu chí đánh giá bằng điểm cho học sinh dễ theo dõi. s

* Nguyên tắc 4: Áp dụng một cách linh hoạt các chiến lược nói – nghe

Quá trình nói – nghe có thể áp dụng nhiều chiến lược khác nhau.

- Với hoạt động nói, có thể áp dụng nhiều chiến lược nói như:

+ Phát biểu

+ Mô tả lại vấn đề

+ Thuyết trình

+ Tranh luận, tranh biện

+ Thảo luận

+ Tạo lời thoại trong kịch

- Với hoạt động nghe, thể áp dụng nhiều chiến lược như:

+ Nghe và phản hồi thông tin dự đoán

22

+ Nghe và sửa lỗi sai

+ Nghe và trả lời câu hỏi

+ Nghe và tóm tắt nội dung văn bản

+ Nghe và nhận xét bài trình bày của bạn.

* Nguyên tắc 5: Đa dạng hóa các hoạt động tổ chức

Trong quá trình tổ chức hoạt động Nói – nghe, có thể đa dạng hóa hình thức tổ chuwsv cũng như linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại. Bởi đối tượng học sinh khác nhau, vấn đề thảo luận cần được lựa chọn khác nhau và ki thuật áp dụng cũng phải được dùng khác nhau. Chẳng hạn, khi học sinh tiến hành chia sẻ quan điểm, góc nhìn của mình thì có thể dùng đến các ki thuật như: chia sẻ cặp đôi, kĩ thuật chia sẻ vòng tròn, đổi nhóm để chia sẻ, chia sẻ trạm… Có như vậy thì học sinh mới cảm thấy hứng thú và thể hiện tốt năng lực của mình.

2.1.2. Quy trình dạy nói và nghe

Việc dạy Nói – nghe có thể thực hiện một cách linh hoạt theo quy trình sau:

* Trước khi dạy

- Cho HS chuẩn bị bài nói dựa trên bài viết đã học hoặc đề xuất một vấn đề trao đổi mới

- HS tập nói trước ở nhà dựa trên bảng kiểm trong SGK

- HS có thể chuẩn bị nội dung bài nói bằng các hình thức khác nhau hoặc có thể chuẩn bị thêm các đạo cụ, phương tiện cần thiết

* Trong khi dạy

Tiến hành nhiều hoạt động khác nhau

- Hoạt động 1: Mở đầu

Yêu cầu: khơi gợi được tâm thế, giới thiệu kiểu bài và xác định được nhiệm vụ

của bài học

Cách làm:

+ Có thể bắt đầu bằng những câu hỏi lí giải tại sao tại bàn luận, trao đổi về vấn đề này. GV có thể hướng dẫn học sinh chia sẻ điều này bằng giấy note hoặc trình bày ngay sau khi GV nêu vấn đề.

+ GV cũng có thể bắt đầu bằng những video, hình ảnh, tình huống, câu chuyện, trò chơi…

- Hoạt động 2: Tổ chức, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài nói

23

- Hoạt động 3: Tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hành nói – nghe

- Hoạt động 4: Tổ chức, hướng dẫn HS nhận xét, trao đổi về bài nói

* Sau khi dạy:

Tùy theo năng lực của HS và yêu cầu của từng kiểu bài mà GV có thể vận dụng quy trình này một cách linh hoạt để đảm bảo hoạt động nói – nghe một cách hiệu quả. GV có thể yêu cầu HS tiếp tục thực hiện, hoàn thiện các sản phẩm nói nghe dưới nhiều hình thức khác nhau. Các sản phẩm sẽ chuyển lên nhóm lớp.

Hơn nữa, vì thời gian dành cho Nói – nghe thường chỉ là 1 tiết nên GV cần yêu cầu HS tìm hiểu kĩ phần hướng dẫn trong SGK khi chuẩn bị bài ở nhà. Còn phần đầu tiết có thể yêu cầu HS nhắc lại phần lý thuyết và yêu cầu bài tập đã giao trước. Còn phần lớn thời gian cần được dành cho HS trình bày vấn đề và thảo luận.

2.2. Đa dạng, linh hoạt trong hình thức tổ chức dạy học nói và nghe

2.2.1. Lựa chọn cách thức khởi động hấp dẫn

Hoạt động khởi động, trong tiếng Anh là Warm up (làm nóng), là hoạt động giáo viên dùng để xây dựng không khí đầu tiết dạy, nhằm thu hút sự tập trung của học trò vào mảng kiến thức mình sẽ hướng đến. Nếu giáo viên làm bước này thật tốt, thì bước hình thành kiến thức mới cho học trò sẽ thuận lợi hơn, và hiệu quả học tập vì thế sẽ được nâng lên.

Đã đến lúc người giáo viên phải nhìn nhận lại tầm quan trọng của hoạt động khởi động. Dù nó chỉ là hoạt động kéo dài trong những phút đầu tiên của giờ dạy và về nội dung, nó không ảnh hưởng nhiều đến kiến thức mới của tiết học; tuy nhiên nó là hoạt động không thể thiếu, không thể xem nhẹ và không thể hời hợt. Cần thấy rằng, hoạt động khởi động cũng quan trọng như bất cứ hoạt động nào trong chuỗi hoạt động học của học sinh. Chỉ khi nhìn nhận rõ điều đó, chúng ta mới mong thay đổi được thái độ làm việc của chính mình đối với hoạt động này.

Việc thiết kế hoạt động khởi động phải chú ý các nguyên tắc sau:

Khởi động để tạo sự hứng thú cho học sinh, giúp học sinh có tâm thế, tinh thần đón nhận bài học. Vốn việc học với học sinh là một hoạt động khá nặng nhọc. Việc tiếp nhận một lúc nhiều môn học với sự thay đổi liên tục càng khiến tâm trạng của học sinh mệt mỏi hơn. Giáo viên chủ động thay đổi không khí, xây dựng môi trường tiết học tích cực là điều cần thiết. Nó giúp xua tan áp lực, chán nản và kéo học sinh vào bài học của mình một cách chủ động tự nguyện và chờ đợi.

Khởi động để tăng sự kết nối: kết nối giữa giáo viên và học sinh, kết nối học sinh với mảng kiến thức mà tiết học sẽ hướng đến, kết nối giữa học sinh với nhau. Cái cuối cùng giáo viên đạt đến được không phải là mình đã vận dụng phương pháp nào, kỹ thuật gì, mà cơ bản nhất vẫn là giải quyết được sự kết nối của mình, của bài học với 24

học sinh. Sự kết nối đem lại sự tự nhiên, hài hòa. Chỉ khi có được sự kết nối, tức là các mối quan hệ được liên kết với nhau thì tiết học mới trở nên nhịp nhàng, nhuần nhuyễn và sâu sắc.

Khởi động như một cách chuẩn bị kĩ năng, kiến thức nền cho học sinh trước bài học: Mỗi bài học cần phải có sự chuẩn bị, bởi một đơn vị kiến thức mới không bao giờ tôn tại độc lập xa rời, nó luôn luôn là sự kế thừa có hệ thống. Hoạt động khởi động chính là cách mà giáo viên giúp học sinh huy động vốn kiến thức, kỹ năng nền tảng để phục vụ cho việc tiếp thu những kiến thức mới một cách nhẹ nhàng hơn. Điều này lại càng đúng với cách xây dựng cấu trúc chương trình đồng tâm của sách giáo khoa hiện hành.

Hoạt động khởi động là cơ hội để giáo viên gieo vào học sinh niềm khát khao khám phá tri thức, yêu thích môn học. Khởi động thành công là khơi gợi được sự tò mò, nhu cầu được tìm hiểu nhiều hơn nữa, triệt để hơn nữa những vấn đề còn bỏ ngỏ, còn băn khoăn trong những hoạt động tiếp theo của bài học.

Để có thể phát huy hết tất cả những vai trò như trên của hoạt động khởi động, giáo viên cần hiểu bản chất của hoạt động khởi động để từ đó có định hướng thiết kế hoạt động khởi động trong kế hoạch bài dạy của mình. Giáo viên cần xác định rõ:

Thứ nhất: họạt động khởi động là một hoạt động học. Theo các văn bản hướng dẫn của ngành trong việc đổi mới thì rõ ràng, Khởi động có tư cách là một hoạt động học đầu tiết dạy, có vai trò quan trọng như các hoạt động sau đó. Vậy thì giáo viên cần thiết kế nó là một hoạt động học:

- Cần xác định rõ mục tiêu của mỗi khởi động: để gợi dẫn vào mảng kiến thức

nào. Tổ chức hoạt động cho học sinh ra sao.

- Phải qua các bước của một hoạt động học: có giao nhiệm vụ (phát câu lệnh ngắn gọn), học sinh thực hiện nhiệm vụ (hoạt động học, phải chắc chắn tất cả học sinh đều được giáo viên kéo vào, nhập cuộc), báo cáo kết quả, và đánh giá nhận xét. Vì sao phải như vậy: thứ nhất, đảm bảo tính bài bản và khoa học.

Thứ hai, chính những hoạt động bài bản như vậy mới tạo được hứng thú cho học sinh, học sinh được có cơ hội, có quyền trải nghiệm, được đánh giá nhận xét. Nếu giáo viên chỉ dẫn vào bài, dù rất hay nhưng học sinh chỉ ngồi nghe thì vẫn không thể “làm nóng”, học sinh vẫn không thực sự được trải nghiệm. Và khi đó, nó vẫn chỉ là bước mở bài chứ không thể xem là một hoạt động học. Học sinh cần được làm việc, động não, khơi gợi cảm xúc thực sự. Và giáo viên cần đánh giá kết thúc quá trình đó, có thể là điểm thưởng, điểm miệng, hoặc nếu không vẫn phải là một câu nói khen ngợi bài tốt và nhắc nhở bài chưa tốt. Như thế, mới tạo động lực học tập cho học sinh, tránh cảm giác hụt hẫng đầu voi đuôi chuột và gây chán nản vào những lần khởi động sau.

25

Khi dạy phần Nói – nghe của bài 3 và bài 6: Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau, chúng tôi đã thiết kế một số cách khởi động khác nhau – dành cho các lớp khác nhau:

* Cách 1: Khởi động bằng một video, clip hình ảnh

GV tìm kiếm trên internet một video, clip ngắn kết hợp với một bài hát, một bản nhạc (nếu không có video sẵn thì giáo viên có thể làm các sản phẩm clip bằng hình ảnh theo ý đồ). Đây là một trong những hình thức khởi động hiệu quả và có thể áp dụng trong nhiều bài học văn bản có nội dung sâu sắc, thông điệp nhân văn.

Cách tiến hành:

Bước 1: Giáo viên nêu yêu cầu: Mời cả lớp xem video sau đây một cách chăm chú, tập trung. Sau đó, trong vòng 2 phút, ghi lại những cảm nhận của mình sau khi xem clip đó (những cảm xúc, những điều em ấn tượng, những bài học em rút ra, thông điệp của clip). Viết tự do, không gò ép vào khuôn khổ nào.

Chúng tôi đã sử dụng video có chứa hình ảnh các con vật ở những góc nhìn khác

nhau sẽ cho ra những hình ảnh khác nhau. Linkvideo: https://www.youtube.com/watch?v=QO8aDmlHCro

Bước 2: Sau khi hết thời gian, các học sinh bắt cặp với các bạn bên cạnh mình,

chia sẻ cho nhau những gì mình vừa viết.

Bước 3: Giáo viên gọi vài bạn đã sẵn sàng chia sẻ với cô giáo và cả lớp (giáo

viên không ép buộc với học sinh nào không sẵn sàng để nói).

Bước 4: Giáo viên cũng chia sẻ với cả lớp suy nghĩ, cảm xúc của chính mình. Thể hiện sự đồng điệu, đồng cảm của mình với những chia sẻ của các bạn. Từ đó, giáo viên gợi dẫn vào chủ đề, thông điệp của bài học hôm nay.

Vì nó là hoạt động chia sẻ - viết tự do nên giáo viên không được áp đặt và không có nhận xét đúng – sai, chỉ có sự lắng nghe và tôn trọng cảm xúc cá nhân mỗi người.

- Để những suy nghĩ cảm xúc đồng điệu, thấu hiểu, giáo viên cần thật thận trọng chọn nguồn dữ liệu clip, video. Những clip, video phải có thông điệp liên quan chặt chẽ đến bài học và thông điệp đó thật rõ ràng, dễ nhận ra, dựa trên những nền nhạc giàu ý nghĩa.

- Trước những chia sẻ đi quá xa bài học, giáo viên tránh những hành động cười đùa, hay mắng mỏ học sinh. Mà kiên nhẫn cùng học sinh chờ đợi câu trả lời vào sau tiết học. Lúc đó giáo viên có thể hỏi lại suy nghĩ của học sinh đó sau khi học bài.

* Cách 2: Khởi động bằng việc đưa ra một tình huống có vấn đề:

26

Tạo tình huống học tập là giúp các em tưởng tượng ra một tình huống cụ thể nào

đó gần với nội dung bài học để các em trải nghiệm, tưởng tượng.

Học tập là một quá trình khám phá. Quá trình ấy bắt đầu bằng sự tò mò, nhu cầu cần được hiểu biết và giải quyết mâu thuẫn giữa điều đã biết và điều muốn biết. Một khởi động bài học thành công cần khơi gợi trong học trò mong muốn được tìm hiểu, khám phá bằng những hoạt động tiếp theo trong giờ học, thậm chí là sau giờ học. Muốn như vậy, hoạt động khởi động cần tạo ra mâu thuẫn trong nhận thức cho học trò. Đây là tiền đề để thực hiện một loạt các hoạt động tìm tòi, giải quyết vấn đề. Muốn như vậy, giáo viên phải là người có ý tưởng, biết gieo vấn đề để kích thích trí tò mò của người học.

Cách tổ chức:

Bước 1: Giáo viên chuẩn bị chu đáo tình huống

Tình huống mà GV đưa ra: 1 thanh niên đã bỏ nhà ra đi, có viết thư để lại cho gia đình. Lí do mà anh thanh niên đó đưa ra là không thể ở sống ở nhà vì bố đã không chấp nhận con người đồng tính của anh ấy. Khi nhận lá thư, ông bố kiên quyết: Nó đi cho khuất mắt, tôi không có đứa con như nó, con trai chả ra con trai, con gái chả ra con gái. Còn bà mẹ vừa khóc vừa nói: Con nó muốn được sống là chính mình cơ mà! Đó là điều bình thường.

Sau khi đưa ra tình huống, GV nêu câu hỏi: Theo các em, các em thấy quan điểm

nào đúng? Em đứng về góc nhìn của ông bố hay bà mẹ?

Bước 2: HS suy nghĩ cá nhân

Bước 3: GV gọi 1 số HS đã sẵn sàng chia sẻ cùng cả lớp suy nghĩ của mình

Bước 4: Giáo viên cũng chia sẻ với cả lớp suy nghĩ, cảm xúc của chính mình. Thể hiện sự đồng điệu, đồng cảm của mình với những chia sẻ của các bạn. Từ đó, giáo viên gợi dẫn vào chủ đề, thông điệp của bài học hôm nay.

* Cách 3: Khởi động bằng kỹ thuật bắt cặp: thinhk – write – pair – share (nghĩ – viết – bắt cặp – chia sẻ)

Bước 1: Giáo viên phát hiệu lệnh: chuẩn bị hoạt động “bắt cặp – chia sẻ”. Giáo viên mở bản nhạc cổ điển không lời. Đề nghị học sinh nhắm mắt yên lặng tuyệt đối. khoảng 1 phút sau, giáo viên yêu cầu: hãy nghĩ về điều em mong muốn về các mối quan hệ mà em đang có, bên cạnh bạn bè, người thân, …Hãy nghĩ về ba điều em mong muốn nhất về các mối quan hệ và ghi nó ra giấy note.

Bước 2: trong âm thanh bản nhạc đó, học sinh ghi ra ba điều em mong muốn nhất về các mối quan hệ. Và sau đó, chia sẻ điều vừa viết với bạn bên cạnh. Trao đổi trong yên tĩnh. Việc trao đổi không giới hạn, có thể nhiều hơn một bạn.

27

Bước 3: Giáo viên thu lại các phiếu chia sẻ. Mời vài bạn sẵn sàng chia sẻ và trình

bày cả lý do vì sao lựa chọn 3 điều ấy.

Bước 4: Từ các chia sẻ của học sinh, giáo viên gợi dẫn vào bài, kết nối bài học

Lưu ý: chỉ nên mở nhạc không lời, nhạc sẽ làm dịu không khí lớp học, kéo sự tập trung của học sinh. Không nên mở nhạc có lời, sẽ gây mất tập trung cho học sinh vì học sinh sẽ chú tâm vào lời bài hát.

2.2.2. Lựa chọn vấn đề thảo luận có sức hút, có góc nhìn đa chiều

Hiện nay giới trẻ Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đang có những vấn đề xã hội nổi bật. Khi xã hội ngày một phát triển thì những vấn đề xã hội mới càng nảy sinh nhiều. Các vấn đề đó luôn đòi hỏi những kiến giải có cơ sở khoa học. Giới trẻ schính là nhóm xã hội chịu tác động mạnh mẽ của những biến đổi xã hội này. Khi quá trình biến đổi xảy ra, lúc nào cũng xuất hiện hai trường phái đối lập nhau. Đó chính là sự đan xen nhau giữa những giá trị cũ và giá trị mới. Chính vì thế mà hiện nay xuất hiện rất nhiều vấn đề xã hội nổi bật trong giới trẻ hiện nay cần được nghiên cứu để định hướng, điều chỉnh và đề xuất những kiến giải khoa học cần thiết để góp phần làm cho xã hội ngày càng phát triển.

Xã hội càng phát triển thì những vấn đề xã hội mới càng nảy sinh đòi hỏi những kiến giải khoa học. Thanh niên là nhóm xã hội chịu sự tác động mạnh mẽ của những biến đổi xã hội. Trong quá trình biến đổi xã hội luôn có sự đan xen giữa những giá trị cũ, mới do vậy ở thanh niên luôn xuất hiện nhiều “vấn đề” mới cần được “mổ xẻ”, nghiên cứu để định hướng, điều chỉnh hoặc đề xuất những kiến giải khoa học phù hợp với sự phát triển của xã hội.

Trao đổi cùng học sinh, chúng tôi cho học sinh nêu ý kiến, quan điểm của mình bằng việc trực tiếp phát biểu đề xuất hoặc ghi ra giấy note những vấn đề các em quan tâm. Tùy từng lớp, phụ thuộc góc nhìn của học sinh, GV sẽ chọn một vấn đề mà nhiều thành viên nêu ra để tiến hành thảo luận. Hay nói cách khác là GV không nên áp đặt quan điểm cho HS, nên nới rộng biên độ để HS mở rộng tư duy, tự phát hiện và giải quyết vấn đề.

Từ thực tế dạy tại các lớp 10, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề mà học sinh

rất quan tâm hiện nay như:

- Sống theo xu hướng, chạy theo những giá trị ảo

- Mong muốn của người trẻ: thành người nổi tiếng (KOL), kiếm nhiều tiền, công

việc tốt, du lịch…

- Phản ứng của người trẻ trước các vấn đề của xã hội: ô nhiễm môi trường, cái

xấu cái ác tràn lan, người tốt việc tốt…

28

- Chat GPT

- Học sinh, sinh viên đi làm thêm

- Người trẻ với mạng xã hội

- Bệnh vô cảm của người trẻ

- Hoạch định tương lai

- Kế hoạch sau khi tốt nghiệp THPT

- Sự thờ ơ với các giá trị văn hóa truyền thống của giới trẻ

- Sống đúng là mình: những người đồng tính, cộng động LGBT, lối sống tự do….

Thực sự thì hiện nay, ở Việt Nam chưa có một nghiên cứu toàn diện mổ xẻ những “vấn đề” của giới trẻ. Tuy nhiên, những vấn đề nêu trên mặc dù không nằm trong số đông giới trẻ song cũng gợi ra nhiều suy nghĩ cho chính các bạn trẻ và những người có trách nhiệm trong xã hội. Làm thế nào để định hướng, điều chỉnh và giải quyết những “vấn đề” mà giới trẻ Việt Nam đã, đang và sẽ vẫn phải đối diện?

Thế nên, khi cùng học sinh lựa chọn những vấn đề, những nội dung có “vấn đề” của giới trẻ để trao đổi thì đã phần nào có tính định hướng góc nhìn đúng đắn, tích cực cho học sinh bên cạnh việc tạo sự hứng thú cho các em.

2.2.3. Đa dạng hóa hình thức tổ chức

Để đạt được yêu cầu đặt ra cho tiết học thì hoạt động nói – nghe cần được tổ

chức một cách linh hoạt với nhiều hình thức khác nhau.

2.2.3.1. Tổ chức dưới dạng talk show

Talk show là một chương trình truyền hình hoặc phát thanh mà ở đó nhóm người ngồi với nhau cùng thảo luận đến chủ đề mà người dẫn chương trình đưa ra. Đa số, trong các cuộc talkshow có một ban (panel) khách mời phải là người có hiểu biết rõ ràng và có kinh nghiệm trong lĩnh vực đang được thảo luận trong chương trình đó.

Một chương trình Talkshow được tiến hành qua 3 bước:

+ Người dẫn chương trình nói lý do, mục đích và chủ đề của cuộc tọa đàm, cùng

những yêu cầu cụ thể đã được đặt ra

+ Tiến hành giới thiệu chương trình talk show

+ Người dẫn bày tỏ quan điểm trước vấn đề và lần lượt đặt câu hỏi cho những khách

mời tham dự

Talk show là gì? Talk show được định nghĩa là một chương trình phát thanh hoặc truyền hình. Trong đó, một nhóm người ngồi lại với nhau để thảo luận những chủ đề mà người dẫn chương trình đề cập tới.

29

Một buổi talkshow thành công không chỉ nhờ chất lượng đầu tư của thành viên tham gia, mà còn phụ thuộc vào vai trò của người dẫn dắt. Các quan điểm, ý kiến của khách mời cần được sắp xếp logic để mang đến sự hấp dẫn và giải quyết vấn đề hiệu quả nhất.

Xuất phát từ những đặc điểm của talk show như vậy, chúng tôi nghĩ tổ chức giờ

dạy nói nghe theo hình thức nêu trên vô cùng hợp lí.

Muốn tổ chức được, trước hết, GV phải cùng học sinh lựa chọn các vấn đề mà các

em quan tâm. Có một số vấn đề đã được nêu ra như:

+ Bạn có muốn trở thành một KOL? (KOL là những người nổi tiếng, có ảnh

hưởng đến xã hội);

Người trẻ sống theo trend, theo xu hướng;

+ Bạn muốn xuất khẩu lao động sau khi tốt nghiệp…

Trong thực tế, chúng tôi đã hướng dẫn cho học sinh tổ chức hoạt động nói – nghe

dưới dạng một talk show. Yêu cầu được đặt ra sau khi chọn vấn đề là:

+ Xây dựng kịch bản

+ Mục đích muốn đạt đến là gì?

+ Lựa chọn người dẫn chương trình

+ Lựa chọn người đóng vai

+ Tập luyện

Hình ảnh: Một buổi talk show với chủ đề: Người trẻ sống theo trend, chạy theo giá trị ảo tại lớp 10A1 do tác giả sáng kiến hướng dẫn HS thực hiện. Kịch bản được thể hiện ở Phụ lục 5

30

Có thể nói với việc chuẩn bị kĩ càng, việc tổ chức hoạt động Nói và nghe dưới dạng một talk show có một sức hấp dẫn không thể thay thế cũng như việc phát triển năng lực hóc sinh. Tuy nhiên, việc tổ chức theo hình thức này đòi hỏi một sự đầu tư chu đáo, bài bản, học sinh phải có năng lực khá tốt mới có thể tiến hành. Hơn nữa, việc tổ chức dưới dạng này thì số lượng HS được nói, được chia sẻ ý kiến cũng không quá nhiều. Chủ yếu là các học sinh tham gia đóng vai và một số học sinh đóng vai khán giả khi được người dẫn chương trình hỏi đến. Dẫu vậy, mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có một ưu thế nhất định. Với tiết Nói và nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau thì đó là một sự lựa chọn đúng đắn. Bởi với một talk show, học sinh sẽ thoải mái trình bày quan điểm trái chiều của mình.

2.2.3.2. Tổ chức dưới hình thức tranh biện

Cuộc tranh luận giữa 2 cá nhân/nhóm nhằm hình thành một kết luận về vấn đề

tranh luận giữa 2 bên.

Tranh biện là một trong những biện pháp dạy học hữu ích giúp HS giải quyết những vấn đề mà bản thân còn đang cảm thấy mâu thuẫn, xung đột …, từ đó giúp các em nâng cao và mở rộng kiến thức, tôn trọng khách quan, đồng thời phát triển nhiều năng lực quan trọng, trong đó bặc biệt có năng lực phản biện. Như vậy, biện pháp tranh biện là cách thức sử dụng ngôn ngữ và các yếu tố biểu đạt phi 31

ngôn ngữ (bảng biểu, sơ đồ, mô hình ...) bổ trợ để thể hiện quan điểm, chứng minh ý kiến của mình là đúng, bác bỏ quan điểm phiến diện bằng hệ thống các lập luận khoa học. Đó là cách giải quyết những xung đột, mâu thuẫn giữa các quan điểm khác nhau nhằm thuyết phục chính bản thân mình hoặc người khác đồng tình với luận điểm mình đưa ra, qua đó chọn được phương án tối ưu cho các chủ thể tranh biện

Mục đích của tranh biện là tìm ra những góc nhìn mới, phân tích về chiều sâu của

vấn đề, phá vỡ những định kiến, nhìn nhận tổng quát hơn về vấn đề.

Muốn tranh biện thành công thì người tham gia phải có:

+ Có tư duy phản biện: Luôn trả lời câu hỏi: Tại sao phải vậy, Tại sao không phải

như vậy

+ Có lập luận rõ ràng, có thứ tự: Sử dụng tối đa các từ mở đầu mỗi ý: thứ nhất,

thứ hai

+ Trong chứng không trọng cung: Lấy tối đa ví dụ thực tế.

- Cách thức tổ chức tranh biện:

+ Bước 1: Hướng dẫn thể lệ, cách thức

Giáo viên đóng vai trò là người tổ chức, gợi ý các đề tài tranh biện. Các tổ thảo luận, cử ra 3 bạn đại diện cho tổ tham gia tranh biện với các nhóm của tổ khác, mỗi lượt tranh biện diễn ra trong 3 phút. BGK gồm giáo viên và 2 học sinh của 2 tổ không tham gia tranh biện, cho điểm theo thang điểm 10 trên các phương diện: Phong thái - Tính thuyết phục - Sức hấp dẫn - Sự mạch lạc trong triển khai luận điểm

+Bước 2: Giao đề tài

Đề tài tranh biện hướng tới mục đích tạo tình huống tranh luận, hình thành năng lực phản biện, rèn luyện kĩ năng trình bày, khả năng lập luận và tiếp cận văn bản tự sự từ các chi tiết nghệ thuật đặc sắc, làm sâu sắc hơn cách hiểu về văn bản, có thể không theo cấu trúc lô gic của kiểu bài học truyền thống.

+ Bước 3: Tiến hành tranh biện

Các nhóm tiến hành tranh biện theo các đề tài đã chuẩn bị. Các nhóm sẽ tiến

hành 3 cặp tranh biện theo đề tài được gợi ý và chuẩn bị

Các bước tranh biện

+ Trình bày quan điểm

+ Nêu ý kiến phản đối quan điểm của đối phương

+ Nêu ra những lập luận đáp trả lại đối phương

+Bước 4: Tổng kết

32

Giáo viên tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm chung. Những màn tranh biện xuất

sắc có thể đưa lên facebook, youtube cá nhân (lớp) …

GV có thể gợi ý cho học sinh các đề tài:

Đề tài 1:

Chúng tôi ủng hộ khi cho rằng, Học sinh nên đi làm thêm.

(Nhóm 1 ủng hộ; nhóm 2 phản đối)

Đề tài 2:

Chúng tôi phản đối khi cho rằng, học đại học là con đường đến tương lai ngắn

nhất và bền vững nhất.

(Nhóm 1 phản đối; nhóm 2 ủng hộ)

Hình ảnh của hoạt động tranh biện với chủ đề: Học sinh có nên đi làm

thêm?

33

Khi tổ chức hoạt động tranh biện khi thảo luận thì không những mở thêm cho HS những góc nhìn về các vấn đề xã hội mà còn giúp các em rèn luyện, hình thành cho mình những năng lực hết sức cần thiết trong cuộc sống hiện đại: năng lực tự học và giải quyết vấn đề; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực tư duy; năng lực phản biện… Tất cả đều góp phần đáp ứng quá trình đổi mới giáo dục giáo dục phổ thông 2018 nhằm phát huy năng lực người học; chuyển từ giáo dục nội dung sang giáo dục kĩ năng, hình thành cho HS những phẩm chất của công dân trong thời đại mới.

2.2.3.3. Tổ chức dưới hình thức nêu ra câu hỏi định hướng và thảo luận nhóm

Trong rất nhiều hình thức tổ chức dạy học thì thảo luận nhóm là một hình thức mang lại nhiều hiệu quả. Qua việc các học sinh trong nhóm cùng thảo luận một vấn đề các em sẽ được bày tỏ quan điểm, thái độ của mình khi đứng trước một nội dung, một câu hỏi cần tháo gỡ. Từ đó sẽ khiến các em tự tin hơn khi đứng trước đám đông, biết hợp tác với bạn bè để cùng tiến bộ trong học tập.

Một số câu hỏi định hướng:

- Nên sống nhanh hay sống chậm?

- Có nên bán hàng online trong trường học

Câu hỏi định hướng mà chúng tôi nêu ra cho HS trao đổi đó là: Người trẻ và

mạng xã hội.

Một số hình ảnh của nội dung trao đổi, thảo luận của HS

34

2.2.4. Đa dạng hóa sản phẩm nói nghe

35

Không chỉ đa hạng hóa hình thức tổ chức hoạt động mà sản phẩm Nói – nghe cũng cần được thực hiện một cách đa dạng, phong phú. Có như thế mới phát huy hết năng lực của học sinh và tăng sức hấp dẫn của hoạt động học này.

2.2.4.1. Trình bày sản phẩm bằng bài thuyết trình, powerpoint, câu trả lời ngắn

Sản phẩm của bài nói nghe có thể được trình bày một cách đa dạng. Đó có thể là những câu trả lời ngắn khi trao đổi cùng các bạn, khi trả lời trực tiếp câu hỏi của GV hoặc thực hiện qua phiếu học tập.

Mức độ đầy đủ hơn sẽ là những bài thuyết trình. Những bài thuyết trình bày có thể được thể hiện bằng bài trình chiếu powerpoint, bằng giấy Ao hoặc có các clip hỗ trợ. Đây thường là cách trình bày sản phẩm đơn giản nhất, nhanh chóng nhất mà học sinh có thể sử dụng.

Với việc nêu ra vấn đề: Sau khi dạy phần đọc Bài 6 – Dành còn để trợ dân cày liên quan đến cuộc đời Nguyễn Trãi, một bài học được các em học sinh rút ra rất ý nghĩa là: cuộc đời của Nguyễn Trãi chính là những sự lựa chọn. Để rồi từ những sự lựa chọn đó Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời vô cùng ý nghĩa, Xuất phát từ vấn đề - các hoạt động đọc viết nói nghe đều có sự liên kết nên GV và HS đã chọn một vấn đề để thảo luận – Sự lựa chọn trong cuộc sống (dành cho bài vận dụng về nhà). Sau một thời gian chuẩn bị, một nhóm HS đã trình bày phần chuẩn bị của mình dưới dạng bài trình chiếu như dưới đây.

36

37

Khi chúng tôi hướng dẫn HS chuẩn bị bài nói, phần đa các em sẽ chọn phương án thuyết trình bài của mình bằng sơ đồ, tranh ảnh, kết hợp cả kênh hình và kênh chữ

Hình ảnh: HS đang trình bày phần chuẩn bị

2.2.4.2. Trình bày sản phẩm bằng việc thu âm

Thu âm là hình thức lưu lại âm thanh của sóng âm (analog) và chuyển đổi nó thành tín hiệu số (digital). Có thể hiểu đơn giản rằng là khi chụp ảnh, thì sẽ cho ra ảnh chụp còn thu sóng âm sẽ ra file âm thanh. Hoặc có thể hiểu là thu âm giúp lưu giữ giọng hát hay giọng nói của bạn để bạn có thể nghe lại nhiều lần hơn khi có nhu cầu. Thu âm có thể giúp bạn phục vụ được rất nhiều mục đích đa dạng trong cuộc sống, từ phát triển thành một nghề nghiệp cho đến lưu trữ tài liệu thông thường.

Hiện nay, thu âm giọng đọc hay thu âm lồng tiếng đã trở thành một xu hướng nghề nghiệp mới. Bạn có thể nhanh chóng bắt gặp một sản phẩm thu âm trên các nền tảng mạng xã hội như các clip review phim, các clip quảng cáo hoặc các podcast tin 38

tức, podcast kể truyện. Các sản phẩm thu âm hiện nay đều đa dạng thể loại và rất được ưa chuộng.

Đơn giản, nhanh chóng và tự do là những điều mà nghề thu âm chuyên nghiệp có thể mang lại cho bạn. Cùng với sáng tạo nội dung và rèn luyện giọng nói của mình, bạn có thể trở thành một người thu âm chuyên nghiệp trong tương lai.

Trong quá trình tổ chức dạy học phần Nói – nghe, GV cũng có thể hướng dẫn HS thu âm bài nói của mình. Phần việc này có thể giao cho học sinh làm ở nhà – phần luyện tập, vận dụng sau khi đã có bài thực hành ở lớp.

bị tốt một số nội dung:

Khi hướng dẫn HS thu âm phần bài nói của mình, GV cần hướng dẫn HS chuẩn

+ Cần chuẩn bị nội dung chu đáo

+ Cần chuẩn bị môi trường thu âm yên tĩnh, không có tạp âm.

+ Nên bắt đầu quá trình chuẩn bị này từ việc kiểm tra các thiết bị, các dây dẫn nối, phần mềm thu âm chuyên nghiệp để đảm bảo trong quá trình thu âm không xảy ra các tình huống các thiết bị bị hỏng hóc ảnh hưởng đến chất lượng thu của bạn.

+ Cần luyện giọng nói, luyện thanh để đảm bảo mình có thể phát huy hết khả năng. Việc luyện tập trước khi thu chính thức giúp bạn khởi động được cổ họng của mình đồng thời cũng nắm bắt được nội dung mà mình chuẩn bị thu âm. Giọng nói cần truyền cảm, rõ ràng. Việc chuẩn bị kĩ càng trước khi thực hiện thu âm chuyên nghiệp giúp bạn hạn chế tối đa những lỗi âm thanh, lỗi kĩ thuật không đáng có và cho bạn được một trải nghiệm thu âm tốt nhất.

Khi dạy xong phần Nói – nghe bài 3, chúng tôi đã cho học sinh thảo luận và thu

âm bài nói với nội dung: Học sinh có nên đi làm thêm?

Sau khi HS đã hoàn thành sản phẩm, chúng tôi yêu cầu học sinh đưa sản phẩm lên nhóm lớp trên facebook https://www.facebook.com/groups/837912690701503 hoặc trên zalo https://zalo.me/g/jhjbll908 (tùy theo lớp). Việc đưa sản phẩn lên nhóm lớp sẽ giúp GV và HS dễ theo dõi sự tiến bộ của HS từ sản phẩm trước đến sản phẩm sau. Hơn nữa, những video được lưu lại cũng là những tư liệu học tập rất tốt để các HS khác học tập, rút kinh nghiệm.

Một vài ảnh bìa của file thu âm của HS thực hiện ở nhà

39

Với việc thu âm sản phẩm của bài nói, ngoài việc mở rộng thêm góc nhìn về các vấn đề của đời sống xã hội thì HS sẽ được phát triển thêm kĩ năng công nghệ thông tin và luyện được giọng nói của mình. Từ đó, góp phần phát triển năng lực của các em.

2.2.4.3. Trình bày sản phẩm bằng việc quay video clip

Ngoài việc thu âm, chúng tôi còn yêu cầu học sinh quay clip ghi lại cuộc trao đổi về vấn đề mà các bạn quan tâm. Khác với thu âm thì việc quay clip có thêm những yêu cầu khác như ngoài nội dung cần phải sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ, ngữ điệu, giọng điệu nói, các phương tiện, bối cảnh…

Để học sinh thực hiện nhiệm vụ này, chúng tôi đã cùng trao đổi và lựa chọn vấn

đề: Tốt nghiệp THPT, bạn có muốn đi xuất khẩu lao động?

40

bước:

Khi giao nhiệm vụ cho các nhóm, chúng tôi yêu cầu học sinh thực hiện tốt các

+ Chuẩn bị kĩ nội dung; chuẩn bị phương tiện; lựa chọn các phần mềm.

+ Chuẩn bị ý tưởng, kịch bản chỉnh sửa: Đây lại là một bước vô cùng quan trọng cần lưu ý trước khi bắt tay vào chỉnh sửa video. Ở giai đoạn này, bạn cần xem xét và xác định ý tưởng, lên kịch bản chỉnh sửa một cách cụ thể. Và một cách để bạn thực hiện giai đoạn này là hãy đặt ra những câu hỏi tự trả lời: Mục tiêu của Video, đối tượng hướng đến và ý nghĩa cố...

+ Chọn bối cảnh để quay video: cần chọn bối cảnh phù hợp

+ Chọn lọc Footage: Footage là những cảnh quay thô, chưa qua chỉnh sửa. Tại quy trình dựng video này, sẽ có những cảnh quay phải quay đi quay lại nhiều lần. Vì vậy, bạn cần bước này để chọn lọc kỹ lưỡng Footage chất lượng sẽ sử dụng phù hợp cho video của mình. Công việc này giúp bạn sắp xếp lại các cảnh quay trong các đoạn nhỏ.

+ Sắp xếp các cảnh quay: Sau khi chọn lọc được những Footage chất lượng theo mong muốn. Các bạn sẽ bước tới bước sắp xếp các cảnh quay lại theo đúng kịch bản đã lên từ trước. Bạn sẽ phải thiết lập dòng thời gian của mình theo như kịch bản đã lên và sắp xếp tất cả các cảnh quay có thể sử dụng. Dù đã trải qua bước 2, nhưng vẫn sẽ có những footage dù bị quay lại nhưng có thể sử dụng được, khi ấy, bạn cần thực hiện nhiều lần thao tác đặt những footage có cùng cảnh quay trong cùng một trình tự. Bạn sẽ có được một video mở...

+ Dựng thô: Dựng thô được xem là bước đầu tiên để dựng video đầu tiên. Ở bước này, chúng ta sẽ có sự hỗ trợ của những phần mềm chỉnh sửa video trên máy tính hoặc trên điện thoại.

+ . Cắt bỏ cảnh thừa: Công việc của bạn sẽ là loại bỏ những phân đoạn không cần thiết và thống nhất được bản dựng thô. Bạn sẽ chốt phân cảnh, thực hiện chỉnh sửa video sao cho mượt mà và thu hút hơn khi được thêm vào các hiệu ứng hay các cách chuyển cảnhphù hợp. Ở giai đoạn này, bạn thường sẽ khóa “khung”, đồng nghĩa với khác khung trong chỉnh sửa sẽ không thay đổi theo thời gian kể từ sau bước này. Việc tinh chỉnh này không chỉ cố định mọi thứ, mà cũng có thể là loại bỏ đi nếu như không cần thiết, hoặc không p...

+ Thêm hiệu ứng: Cùng với đó trong khi một số cảnh bị loại bỏ, cũng có một lượng lớn nội dung được thêm vào trong giai đoạn này. Do đó, hiệu ứng chuyển cảnh sẽ giúp bạn tạo nên sự liên kết giữa các đoạn clip trở nên mượt mà và chân thực. Kèm theo đó, bạn có thể chèn thêm hiệu ứng khác: hiệu ứng hình ảnh, hiệu ứng âm thanh,… sẽ tạo nên sự độc đáo, chuyển động đặc sắc cho video của bạn. Nếu bạn chưa có ý tưởng riêng, bạn có thể tham khảo thêm 16 hiệu ứng đặc sắc trong Premiere.

41

+ Chèn âm thanh: Sau khi hoàn thành thêm hiệu ứng đồ họa hình ảnh cho video, bạn sẽ bắt đầu tinh chỉnh âm thanh cho video. Việc đầu tiên là chọn nhạc nền với nội dung video, lựa chọn bản nhạc nền phù hợp. Với phần mềm chỉnh sửa Premiere, bạn có thể chèm nhạc nền một cách dễ dàng chỉnh sửa âm thanh, loại tạp âm.

+ Hoàn thiện và chuyển lên nhóm facebook/zalo của lớp.

Sau một tuần chuẩn bị, các em học sinh đã có sản phẩm. Sản phẩm được đưa

lên nhóm lớp https://www.facebook.com/groups/837912690701503

để các thành viên theo dõi, đánh giá:

Một vài hình ảnh được cắt từ các cảnh quay của video với các chủ đề khác nhau

42

Cũng giống như việc thu âm sản phẩm của bài nói, ngoài việc mở rộng thêm góc nhìn về các vấn đề của đời sống xã hội thì HS sẽ được phát triển thêm kĩ năng công nghệ thông tin và thể hiện được kí năng diễn xuất, kĩ năng nói trước ống kính của mình. Từ đó, các em tự tin hơn, năng động đơn, góp phần phát triển năng lực của các em.

2.2.5. Xây dựng bảng kiểm, tiêu chí đánh giá rõ ràng

Bảng kiểm để dạy học là một bảng liệt kê các bước tiến hành của một kỹ năng theo một trình tự hợp lý và yêu cầu phải đạt được để thực hiện một quy trình kỹ thuật, một công việc, một nhiệm vụ, dạy học theo bảng kiểm dùng để dạy thực hành các kỹ năng.

Bảng kiểm là một danh sách ghi lại các tiêu chí (về các hành vi, các đặc

điểm…mong đợi) có được biểu hiện hoặc được thực hiện hay không.

Để nâng cao năng lực thực hành, trong quá trình học tập, người học phải làm đi làm lại nhiều lần, hoặc rất nhiều lần thì mới thành kỹ năng. Trên thực tế không phải lúc nào cũng có giảng viên “cầm tay chỉ việc” bên cạnh người học trong suốt quá trình luyện tập; mà giảng viên chỉ làm thị phạm, quan sát uốn nắn trong một thời gian nhất định, rồi kiểm tra; còn người học phải tự học, tự làm. Lúc này “thầy” của người học là các bảng kiểm, người học dựa vào bảng kiểm và thực hành theo bảng kiểm. Thông qua bảng kiểm, người học sẽ rút kinh nghiệm qua mỗi lần thực hiện, đẩy nhanh quá trình hình thành kỹ năng, kỹ sảo.

Bảng kiểm được sử dụng để đánh giá các hành vi hoặc các sản phẩm mà HS thực hiện. Với một danh sách các tiêu chí đã xây dựng sẵn, GV sẽ sử dụng bảng kiểm để quyết định xem những hành vi hoặc những đặc điểm của sản phẩm mà HS thực hiện có khớp với từng tiêu chí có trong bảng kiểm không.

43

Trong chương trình GDPT 2018, việc tổ chức các hoạt động học tập đều phải dùng đến các bảng kiểm, thang đo. Dạy học nói – nghe trong bộ môn Ngữ Văn cũng vậy.

Việc sử dụng bảng kiểm sẽ đạt được nhiều mục đích khác nhau:

+ Đánh giá sự tiến bộ của HS: Họ có thể chỉ ra cho HS biết những tiêu chí nào

HS đã thể hiện tốt, những tiêu chí nào chưa được thực hiện và cần được cải thiện.

+ GV còn có thể tổng hợp các tiêu chí trong bảng kiểm và lượng hóa chúng thành

điểm số theo cách tính % để xác định mức độ HS đạt được.

Dưới đây là hệ thống bảng kiểm được dùng để đánh giá quá trình nói nghe của

học sinh

Nội dung đánh giá Kết quả STT

Đạt Chưa đạt

1

2

3

4

5

6

Chọn được vấn đề thảo luận đích đáng và bám sát vấn đề có trong suốt quá trình thảo luận Nắm bắt được sự tiến triển của cuộc thảo luận để điều chỉnh nội dung ý kiến cho phù hợp Thể hiện được sự đa dạng của những góc nhìn khác nhau về vấn đề (mỗi ý kiến góp một góc nhìn, một cách đánh giá riêng) Biết chốt lại những điểm đạt được sự nhất trí giữa những người tham gia thảo luận Gợi ra được những điều cần tiếp tục suy nghĩ sau cuộc thảo luận Góp phần tạo được không khí đối thoại cởi mở, tôn trọng lẫn nhau.

44

Ngoài ra còn có bảng để bản thân tự kiểm tra sau quá trình thảo luận

Như vậy có thể thấy việc dùng bảng kiểm sẽ phát huy tốt khả năng của học sinh. Người học có thể dùng bảng kiểm để tự học, tự kiểm tra; đồng thời cung cấp các thông tin phản hồi một cách kịp thời cho GV và người học.

2.3. Vận dụng phù hợp một số kĩ thuật dạy học tích cực vào quá trình dạy nói – nghe

2.3.1. Kĩ thuật Think-Pair-Share

- Think-Pair-Share là một chiến lược học tập phù hợp với học sinh ở mọi lứa tuổi. Với kỹ thuật dạy học này, giáo viên giao cho học sinh một bài tập/nhiệm vụ. Giáo viên yêu cầu học sinh dành thời gian suy nghĩ độc lập (think), sau đó học sinh sẽ làm việc với một bạn khác tạo thành cặp đôi (pair) để thảo luận về những điều mình đã suy nghĩ. Cuối cùng, học sinh chia sẻ (share) những điều đã trao đổi trong cặp với các bạn còn lại trong lớp.

- Hoạt động Think-Pair-Share đem lại nhiều tác dụng trong quá trình dạy học. Think-Pair-Share thu hút học sinh tham gia tích cực vào bài học. Bên cạnh đó, nó mang lại rất nhiều lợi ích khác đối với học sinh:

+ Hoạt động này rất linh hoạt để có thể áp dụng trên hầu hết các môn học.

+ Chiến thuật này cho phép những học sinh rụt rè, nhút nhát có cơ hội tham gia và

đưa ra câu trả lời.

45

+ Xây dựng kỹ năng giao tiếp và diễn đạt nói

+ Cải thiện kĩ năng đọc hiểu tài liệu.

+ Giúp giáo viên thực hiện được các chiến lược dạy học phân hóa.

+ Chiến thuật này cũng giúp những học sinh kém hơn có thể học hỏi từ chính các

bạn của mình thông qua việc trao đổi và lắng nghe tích cực.

+ Dạy học sinh các suy nghĩ độc lập về ý tưởng trước khi chia sẻ, trình bày.

+ Học sinh có cơ hội mở rộng các câu trả lời và thảo luận tích cực hơn.

- Hoạt động Think – Pair - Share phù hợp với các loại bài tập/nhiệm vụ sau:

+ Có thể có nhiều phương án, nhiều đáp án, nhiều cách trả lời

+ Học sinh có thể gặp khó khăn để đưa ra câu trả lời đúng

+ Đòi hỏi học sinh phải đưa ra ý kiến, thể hiện quan điểm

+ Yêu cầu học sinh dành thời gian cho việc đọc hiểu

+ Dùng khi trao đổi các câu hỏi nhỏ

+ Dễ dàng trao đổi với nhau giữa 2 bạn HS cùng ngồi cạnh nhau

Chẳng hạn: Trong phần khởi động, khi chúng tôi nêu ra tình huống có vấn đề, chúng tôi yêu cầu HS sy nghĩ độc lập trước sau đó chia sẻ cùng bạn cạnh bên, tiếp đó mới chia sẻ trước lớp.

Hoặc khi chúng tôi yêu cầu rút ra những bài học, kinh nghiệm khi thực hiện hoạt động nói nghe sau khi đánh giá, nhận xét, chúng tôi cũng yêu cầu HS thực hiện theo kĩ thuật Think – Pair – Share.

2.3.2. Kĩ thuật show and tell

Show and Tell là một kĩ thuật dạy học chỉ một hoạt động học sinh mang tới lớp một vật và trò chuyện với mọi người về vật đó; hoặc đó là cái cớ, cái nền tảng để bắt sang một vấn đề khác. Các hoạt động Show and Tell là bài tập quan trọng giúp học sinh phát triển kỹ năng thuyết trình. Bên cạnh đó, kỹ năng xã hội, sự tự tin vào bản thân của trẻ cũng được tăng cường. Đó thực sự là trải nghiệm thú vị giúp học sinh tư duy sáng tạo, nghĩ vượt ra khỏi khuôn khổ thông thường và tương tác hiệu quả với các bạn. Dù chỉ trong 1-2 phút.

Bởi vậy mà chúng tôi nghĩ, kĩ thuật này nên áp dụng trong dạy học ngói nghe

nói chung và khi Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nói riêng.

Chẳng hạn, khi học sinh chuẩn bị trình bày bài thảo luận về chủ đề: Trước cái xấu, cái ác, im lặng hay lên tiếng, HS đã giới thiệu cuốn sách: Những bài diễn văn làm thay đổi thế giới từ 1945 đến nay do nhà xuất bản Kim Đồng phát hành. Ở đó có

46

câu chuyện, có những bài phát biểu của Malala Yousafzai. . Malala là cô gái người Taliban sinh năm 1997, từng được nhận giải Nobel Hòa bình vì đã những hoạt động đấu tranh chống áp bức trẻ em và giới trẻ và vì quyền của mọi trẻ em được học hành

Cách sử dụng kĩ thuật này đã tạo nên sự thu hút đối với người nghe ngay từ khi

bắt đầu

Hình ảnh: HS giới thiệu cuốn sách

2.3.3. Kĩ thuật 5W1H

5W1H chính là kĩ thuật đặt câu hỏi. Muốn hiểu đúng 5W1H là gì, trước hết bạn phải biết rằng đây là từ viết tắt, trong đó mỗi chữ cái tương ứng với một câu hỏi: What (Cái gì) - Who (Ai) - Where (Ở đâu) - When (Khi nào) - Why (Vì sao) - How (Thế nào/ Bằng cách nào). 5W1H còn được gọi là phương pháp "đặt câu hỏi" hoặc phương pháp "5 chữ W".

Kỹ thuật này cho phép bạn hiểu một tình huống, để phân tích một vấn đề bằng cách phân tích tất cả các khía cạnh. Phương pháp 5W1H cho phép bạn phân biệt thông

47

tin cần thiết để hiểu rõ hơn, bao hàm, làm rõ từ cấu trúc đến nhận định đầy đủ về một tình huống. Lối tư duy này đảm bảo bạn có thể khám phá tất cả các chiều từ các khía cạnh khác nhau.

Ưu điểm của phương pháp 5W1H: Không phải ngẫu nhiên mà 5W1H được nhiều

chuyên gia sử dụng, bản thân nó sở hữu những ưu điểm vượt trội như:

+ Đơn giản: không cần đào tạo chính quy hay lâu dài để mọi người biết cách sử

dụng 5W1H.

+ Có hệ thống: Chìa khóa để thành công trong hầu hết các lĩnh vực là luôn đặt ra tất cả các câu hỏi và tìm cách giải quyết vấn đề. 5W1H là kiểu đặt câu hỏi và tư duy có hệ thống rõ ràng, đầy đủ.

+ Đa năng: 5W1H có thể được sử dụng để thiết kế một quy trình mới cũng như

thực hiện biện pháp khắc phục cho vấn đề cũ.

+ Toàn diện: Phương pháp này có thể được sử dụng để có được cái nhìn 360°

về vấn đề và ra quyết định, giải quyết kịp thời.

Kĩ thuật này được dùng trong quá trình chuẩn tìm ý, lập dàn ý để tạo nên một cái sườn vững chắc cho bài nói, đặc biệt là quá trình nghe. Khi nghe các học sinh khác trình bày, những học sinh còn lại sẽ sử dụng kĩ thuật 5W1H để tóm tắt vấn đề một cách nhanh nhất. GV trong quá trình dạy cần hướng dẫn HS thường xuyên thực hiện kĩ năng này theo phiếu học tập dưới đây

VẦN ĐỀ TRÌNH BÀY: .......................

What?

Where?

When?

Why?

How?

48

CHƯƠNG 3

THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

3.1. Thực nghiệm sư phạm

3.1.1 Mục đích thực nghiệm

- Mục đích: TNSP được tiến hành nhằm đánh giá tính đúng đắn, tính khả thi, tính hiệu quả và sự phù hợp của các biện pháp đề xuất trong việc dạy học văn bản HPCMTG theo định hướng phát triển năng lực.Vì vậy, việc thực nghiệm không chỉ có ý nghĩa đối với người thực hiện đề tài mà còn có ý nghĩa phương pháp luận trong việc đánh giá các kĩ thuật đã nêu trong thực tế giảng dạy ở trường phổ thông.

- Yêu cầu: Với mục đích như trên, chúng tôi đã xác định các nhiệm vụ TNSP như sau: Chọn đối tượng để tổ chức TNSP; xác định nội dung và phương pháp TNSP; chuẩn bị các kế hoạch bài học, phương tiện dạy học, bộ công cụ đánh giá; lập kế hoạch và tiến hành TNSP; xử lí kết quả TNSP, rút ra kết luận.

3.1.2. Nội dung thực nghiệm

3.1.2.1. Bài dạy thực nghiệm: Chúng tôi sẽ thể hiện tường minh nhất những biện pháp phát triển năng lực HS thông qua dạy phần nói nghe – Thảo luận về một vấn đề xa hội có ý kiến khác nhau (Bài 3, bài 6)

3.1.2.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm

- Đối tượng thực nghiệm: Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm giảng dạy ở 2 lớp:

lớp thực nghiệm và lớp đối chứng ở các lớp 10.

+ Học sinh: Các lớp thực nghiệm và đối chứng là những lớp có trình độ học

tương đồng nhau,số lượng và điều kiện học tập đồng đều.

+ Giáo viên: Là những GV có năng lực chuyên môn vững vàng, có trách nhiệm

cao trong công việc.

- Địa bàn thực nghiệm: Chúng tôi tiến hành thực nghiệm tại 3 trường THPT bao

gồm trường THPT Quỳnh Lưu 2, THPT Quỳnh Lưu 4, THPT Hoàng Mai.

Trường

Lớp thực nghiệm Lớp đối chứng

ST T Giáo viên Lớp Sĩ số Lớp Sĩ số

49

1 Nguyễn Thị Hương 10D2 45 10D6 42 THPT Quỳnh Lưu 2

2 Nguyễn Thị Minh Huệ 10A1 41 10A3 40 THPT Hoàng Mai

THPT Quỳnh Lưu 4 3 Nguyễn Thị Hà 10B1 41 10A2 41

3.1.2.3. Thời gian thực nghiệm: Các tiết thực nghiệm và đối chứng được tổ chức thực hiện trong năm học: năm học 2022 – 2023.

3.1.3. Tiến hành thực nghiệm

3.1.3.1. Các bước tiến hành thực nghiệm

- Chuẩn bị thực nghiệm: Tiến hành lựa chọn nội dung TN, tìm hiểu đối tượng và địa bàn TN, lên kế hoạch về thời gian, xây dựng kế hoạch bài học về các văn bản đọc trong bài, trao đổi với GV dạy thực nghiệm và đối chứng, biên soạn các đề kiểm tra theo yêu cầu TN đề ra.

- Tiến hành thực nghiệm: Chúng tôi tiến hành các hoạt động khác nhau: thống nhất kế hoạch bài dạy với GV dạy TN – ĐC, GV lên lịch dạy và thực hiện phương án đã thống nhất.

+ Ở lớp dạy thực nghiệm: GV tiến hành dạy theo nội dung sáng kiến trong các giờ học, kể cả trên lớp và ngoài giờ lên lớp; quan sát thái độ và các hoạt động học tập của HS xem các em có phát huy được tính tích cực, tự giác và có phát triển được các năng lực cần thiết hay không...

* Ở lớp đối chứng: GV thực hiện quan sát hoạt động học tập của HS ở lớp đối chứng được GV giảng dạy các bài tập cùng nội dung trong SKKN nhưng không theo hướng đi của sáng kiến; tiến hành cùng một đề kiểm tra như lớp thực nghiệm; chấm điểm và so sánh kết quả bài kiểm tra giữa 2 lớp trong cùng một cặp TN – ĐC.

- Đánh giá thực nghiệm: chúng tôi quan sát giờ dạy của GV, hoạt động học của

HS và qua bài kiểm tra thường xuyên, nhất là bài kiểm tra giữa kì.

3.1.3.2. Thiết kế kế hoạch bài dạy thực nghiệm: Giáo án được thiết kế dựa theo chuẩn kiến thức, kỹ năng và phát triển năng lực cho HS trong dạy học Ngữ văn hiện nay, theo kế hoạch giáo dục của các nhà trường.

KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỰC NGHIỆM: THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU – Bài 3

(Chúng tôi trình bày ở Phụ lục 2)

50

3.1.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm

3.1.4.1. Tiêu chí đánh giá

- Về phía học sinh: Đánh giá trình độ của HS trong việc tham gia, tương tác hoạt động nói – nghe như thế nào? Mức độ hứng thú của HS trong giờ học nói – nghe; sự tương tác của HS với GV, với các bạn trong giờ học theo quan điểm phát triển năng lực. Dựa vào những quan sát, ghi chép khả năng đáp ứng, thực hiện nhiệm cụ học tập của HS; dựa vào việc hoàn thành các sản phẩm của HS.

- Về phía giáo viên: Đánh giá kết quả dạy học của GV thông qua tiêu chuẩn, đánh giá giờ dạy theo công văn 5555 của Bộ Giáo dục và đào tạo. Dựa vào những đánh giá của tổ chuyên môn, nhóm dự giờ sau khi đã trao đổi, thảo luận và thống nhất kết quả đánh giá. Căn cứ vào sản phẩm và phần trình bày, thảo luận của HS.

3.1.4.2. Hình thức đánh giá

Để có một cái nhìn chính xác và tổng quan về hiệu quả của quá trình thực

nghiệm, chúng tôi đã tiến hành đánh giá ở cả 2 hình thức: định tính và định lượng.

a. Về đánh giá theo hình thức định tính

- Chúng tôi thực hiện đánh giá khi học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ học tập

ở lớp cũng như ở nhà, qua quan sát, nhận xét và qua các tiêu chí.

Trong quá trình đánh giá, chúng tôi thức hiện việc đánh giá đa dạng: GV đánh

giá HS, HS đánh giá HS, HS tự đánh giá – theo các bảng kiểm đã xây dựng.

- Bên cạnh đó, chúng tôi còn tiến hành thực hiện phiếu khảo sát về mức độ hứng thú của học sinh đối với hai bài học khi chúng tôi thực hiện việc vận dụng các hình thức, kĩ thuật tích cực vào dạy nói nghe. (Nội dung phiếu khảo sát - Phụ lục 4)

b. Về đánh giá theo hình thức định lượng

Để có một kết quả chính xác về tính hiệu quả của việc thực hiện các biện pháp đã nêu, chúng tôi đã tiến hành khảo sát về tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đã nêu đôi với GV và HS. Nội dung cụ thể chúng tôi trình bày trong mục 3.2

3.2. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp

3.2. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi

3.2.1. Mục đích khảo sát: Khảo sát nhằm đánh giá thực trạng của GV trong quá trình thực hiện các chiến lược đọc hiểu nói chung, chiến lược đọc hiểu Siêu sáu nói riêng khi dạy đọc các văn bản. Đồng thời thông qua khảo sát nhằm khẳng định sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh đã đề xuất, để từ đó hoàn thiện các giải pháp cho

51

phù hợp với thực tiễn, phát triển thêm các giải pháp mới trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy Đọc hiểu.

3.2.2. Đối tượng khảo sát: Chúng tôi đã tiến hành trưng cầu ý kiến của 40 GV – là những GV đã trực tiếp tham gia khảo sát thực trạng và thực nghiệm cùng chúng tôi và 222 HS.

Bảng tổng hợp số lượng GV tham gia khảo sát

TT Đối tượng Số lượng

1 Giáo viên trường THPT Quỳnh Lưu 2 12

2 Giáo viên trường THPT Quỳnh Lưu 4 7

3 Giáo viên trường THPT Quỳnh Lưu 3 8

4 Giáo viên trường THPT Hoàng Mai 9

5 Giáo viên trường THPT Hoàng Mai 2 4

7 Học sinh trường THPT Quỳnh Lưu 2 133

8 Học sinh trường THPT Quỳnh Lưu 4 45

9 Học sinh trường THPT Hoàng Mai 44

∑ 262

3.2.3.Nội dung và phương pháo khảo sát:

Để tiến hành khảo sát sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất, chúng

tôi xây dựng link khảo sát sau:

https://docs.google.com/forms/d/1OTULG0XKdgWD-DPOdw- VzQF0al0kLSbXxJNsr8VNhUI/edit để trưng cầu ý kiến về 2 vấn đề:

- Các giải pháp được đề xuất có thực sự cấp thiết đối với vấn đề nghiên cứu hiện nay không?

Để khảo sát nội dung này, chúng tôi đã tạo ra bảng tính Google Form như Phụ lục 3 – 4 và gửi cho đối tượng cần khảo sát. Sau đó nhóm tác giả tổng hợp thống kê, phân tích và xử lý số liệu để có bảng tổng hợp chung.

- Các giải pháp được đề xuất có khả thi đối với vấn đề nghiên cứu hiện tại không?

Để khảo sát nội dung này, tương tự như trên, chúng tôi gửi bảng tính Google

Form trên cùng mẫu với Phụ lục 3 - 4, sau đó xử lý số liệu như trên.

52

Thực hiện đánh giá các tiêu chí theo 4 mức độ từ cao đến thấp và được lượng

hoá bằng điểm số:

- Sự cấp thiết: Rất cấp thiết (4 điểm); Cấp thiết (3 điểm); Ít cấp thiết (2 điểm);

Không cấp thiết (1 điểm).

- Tính khả thi: Rất khả thi (4 điểm); Khả thi (3 điểm); Ít khả thi (2 điểm); Không

khả thi (1 điểm).

Sau khi nhận kết quả thu được, chúng tôi tiến hành phân tích, xử lý số liệu trên bảng thống kê, tính tổng điểm ∑ và điểm trung bình (𝑋) của các giải pháp đã được khảo sát, sau đó nhận xét, đánh giá và rút ra kết luận.

3.2.4. Thời gian khảo sát: Thời gian tiến hành khảo sát: tháng 04/2023.

3.2.5. Kết quả khảo sát

a) Đánh giá về sự cấp thiết

Kết quả khảo sát sự cấp thiết của các giải pháp pháp Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh được thể hiện ở bảng 1.

Bảng 1: Kết quả khảo sát sự cấp thiết của các giải pháp pháp Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh

- Toàn bộ người tham gia khảo sát đều đánh giá tính cấp thiết ở Mức 3 và Mức 4 (Cấp thiết và Rất cấp thiết) của việc sử dụng chiến lược đọc hiểu Siêu sáu cũng như

53

những hoạt động bên trong chiến lược. Điều đó nói lên sự cần thiết của việc sử dụng chiến lược đọc hiểu rất thú vị này khi hướng dẫn HS tiếp cận văn bản.

Kết quả khảo sát ở Bảng 1 cho thấy, các nhóm đối tượng được khảo sát đã đánh giá sự cấp thiết của các giải pháp Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh với điểm trung bình chung của cả 6 giải pháp là 3,72. Mặc dù các đối tượng khảo sát có cách đánh giá khác nhau nhưng theo quy luật số lớn, có thể nói đa số lượt ý kiến đánh giá đều thống nhất cho rằng cả 3 giải pháp đề xuất là có tính cấp thiết. Gải pháp; “Đa dạng, linh hoạt trong hình thức tổ chức dạy nói – nghe” được đánh giá cao với 𝑋 = 3,83 xếp thứ là 1/6. Trong khi đó, giải pháp “ Đảm bảo những yêu cầu của hoạt động dạy nói - nghe“ được cho là ít cấp thiết nhất với 𝑋 = 3,60, xếp bậc 3/3.

Mức độ cấp thiết của các giải pháp đề xuất tương đối đồng đều, khoảng cách giữa các giá trị điểm trung bình không quá xa nhau. Từ bảng số liệu trên, có thể biểu đạt qua biểu đồ 1.

Biểu đồ 1: Mức độ cấp thiết của các giải pháp Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh

54

b) Đánh giá về tính khả thi của các giải pháp

Kết quả khảo sát tính khả thi của các biện pháp Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh được thể hiện trong bảng 2.

Bảng 2: Kết quả khảo sát tính khả thi của các giải pháp Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh

Kết quả khảo sát tính khả thi ở bảng 2 cho thấy, đối tượng tham gia khảo sát đã đánh giá tính khả thi của các giải Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh tương đối đồng đều. Điểm trung bình chung của 3 giải pháp là 3,65. Giải pháp “ Đa dạng, linh hoạt trong hình thức tổ chức dạy nói – nghe” là giải pháp có mức độ khả thi cao nhất với 𝑋 = 3,72.. Các giải pháp còn lại đều có tính khả thi với điểm trung bình từ 𝑋 = 3,61 đến 𝑋 = 3,63. Mức độ đánh giá tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất thể hiện ở biểu đồ 2.

Biểu đồ 2: Mức độ khả thi của các giải pháp Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh

55

c)Đánh giá về sự tương quan giữa sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp

Kết quả nghiên cứu ở trên khẳng định sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp khi Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh. Mối quan hệ giữa các mức độ cầp thiết và mức độ khả thi của các giải pháp được thể hiện trong biểu đồ 3.

Biểu đồ 3: Mối tương quan giữa sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất

56

Biểu đồ 3 cho thấy các giải pháp có sự cấp thiết và tính khả thi cao. Giải pháp có sự cấp thiết và tính khả thi thấp nhất vẫn có điểm trung bình lớn hơn 3 điểm (tương ứng với mức cấp thiết và khả thi). Điều này chứng tỏ các giải pháp của chúng tôi đề xuất bước đầu được đa số đối tượng khảo sát đồng tình ủng hộ.

Tóm lại, từ bảng kết quả khảo sát cho thấy, các giải pháp Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh được đề xuất trong đề tài đều được các đối tượng khảo sát đánh giá mức độ cần thiết và khả thi cao. Các giải pháp đưa ra đạt điểm trung bình 𝑋 = 3,71 về sự cấp thiết và bình 𝑋 = 3,65 về tính khả thi. Việc thực hiện có hiệu quả các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao năng lực cảm xúc xã hội của học sinh nói riêng và chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường nói chung.

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận 1.1. Trong sáng kiến, chúng tôi đã nghiên cứu những vấn đề lý luận làm cơ sở nghiên cứu cho đề tài như: vấn đề phát triển năng lực HS, Vai trò của các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực; cấu trúc của bài dạy Ngữ văn trong Chương trình GDPT 2018; yêu cầu cần đạt của phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10. Hơn nữa, để có một cứ liệu chính các cho việc triển khai đề tài, chúng tôi cũng đã nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề như: những khó khăn trong quá trình dạy Nói – nghe tại trường Phổ thông hiện nay, thực trạng của việc sử dụng các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học Nói – nghe tại trường Phổ thông hiện nay. Những khảo sát và điều tra cho thấy, một bộ phận không nhỏ GV vẫn

57

chưa có những thay đổi thực sự trong quá trình giảng dạy nói chung và dạy nói - nghe nói riêng. Vì thiếu sự chuyển mình như thế nên trong thực tế, HS đang giảm dần sự hứng thú với bộ môn Ngữ Văn và không được phát triển năng lực của mình, nhất là dạy nói – nghe, một hoạt động mới trong cấu trúc bài học môn Ngữ văn.

1.2. Từ những cơ sở khọc đã nêu, chúng tôi đã nghiên cứu và áp dụng các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào việc dạy nói nghe như: đảm bảo những nguyên tắc của quá trình dạy nói – nghe; linh hoạt, đa dạng trong hình thức tổ chức cũng như lựa chọn các kĩ thuật dạy học phù hợp. Các biện pháp mà chúng tôi áp dụng trong sáng kiến đều hướng tới việc hình thành kĩ năng nói – nghe một cách chủ động cho HS, giúp HS phát huy tốt khả năng nói nghe, khả năng tương tác, kết nối cùng bạn bè, thầy cô… Đó là một trong những mục tiêu quan trọng của bộ môn Ngữ Văn. Với sáng kiến này, chúng tôi mong muốn GV Ngữ văn sẽ quan tâm để áp dụng cho phần nói – nghe của bài 3, bài 6 nói riêng và tất cả phần nói – nghe của các bài.

1.3. Để cho những biện pháp mà chúng tôi xây dựng có thể được áp dụng, đạt kết quả như mong muốm, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm; tiến hành khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của đề tài. Kết quả thực nghiệm và khảo sát bước đầu cho thấy, việc áp dụng các hình thức, kĩ thuật dạy học tích vào dạy phần nói – nghe Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau là khả thi, có thể được áp dụng trong phạm vi rộng rãi. Khi áp dụng các biện pháp mà chúng tôi đã trình bày trong sáng kiến cùng với vận dụng linh hoạt các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực khác nữa thì việc dạy phần nói – nghe trong Chương trình GDPT 2018 sẽ có hiệu quả cao, góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ Văn.

2. Đóng góp của đề tài

Qua quá trình triển khai, chúng tôi thấy đề tài đã đóng góp được một số vấn đề như sau

- Tính mới mẻ: Trong đề tài này trên cơ sở khảo sát, thể nghiệm chúng tôi đã đề xuất một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực để dạy phần nói nghe – Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau. Việc vận dụng chiến lược này vừa giúp GV tổ chức tốt giờ dạy nói nghe, HS hứng thú, đảm bảo yêu cầu cần đạt, phát triển được nhiều năng lực, nhất là năng lực nói – nghe.

- Tính khoa học: SKKN sử dụng một cách chính xác các thuật ngữ khoa học, được trình bày, lí giải rõ ràng, hệ thống phù hợp lí luận dạy học nói chung và lí luận dạy Ngữ văn nói riêng. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi hướng dẫn học sinh thực hiện hoạt động nói và nghe theo đúng nguyên tắc: đảm bảo sự hài hòa giữa cá nhân và tập thể, xuất phát từ quy luật phát triển tâm lý và nhận thức của học sinh, gắn hoạt động nói – nghe với đời sống thực tiễn, đảm bảo mục tiêu giáo dục phổ thông, khai thác

58

được đặc thù bộ môn Ngữ văn và sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.

- Tính hiệu quả: Khi vận dụng các hình thức, kĩ thuật đã trình bày vào giờ dạy nói – nghe hiệu quả thu được rất rõ rệt: làm cho học sinh có hứng thú, có động lực với hoạt động nói - nghe mà quan trọng hơn là học sinh có được nhận thức đúng đắn, sâu sắc về các vấn đề xã hội; hình thành góc nhìn đa chiều, tôn trọng các góc nhìn đa chiều về các vấn đề của đời sống. Hơn nữa, còn là việc hình thành cho học sinh kĩ năng nói – nghe ở bất cứ tình huống nào, môi trường nào trong thực tiễn đời sống. HS trở thành những người nói và nghe một cách chủ động. HS không chỉ được phát triển kĩ năng nói và nghe mà còn có cơ hội để rèn giũa phẩm chất, thái độ, tình cảm, lối sống có văn hóa.

3. Ý nghĩa của đề tài

Với đề tài này, khi thực hiện các hình thức, kĩ thuật đã nêu, GV sẽ phát huy tối đã năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và những tích lũy về đổi mới phương pháp giảng dạy. Bên cạnh đó, khi biết cách tổ chức, GV sẽ giúp cho HS phát huy năng lực tối đa. Bên cạnh đó, GV có thể đánh giá được năng lực HS một cách chính xác. Quan trọng hơn, GV không chỉ dạy kĩ năng mà còn định hình được thái độ đúng đắn, phẩm chất tốt đẹp cho HS.

Với học sinh, các em được phát huy tối đa các năng lực của bản thân; thấy hứng thú với bài học; biết nói – nghe một cách hiệu quả; biết đưa văn chương trở về với đời sống; biết lắng nghe, biết cầu thị, biết tôn trọng người khác, biết quản lí cảm xúc, biết tôn trọng những góc nhìn khác biệt, hình thành tư duy phản biện…

4. Phạm vi áp dụng

Quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm thành công tại trường THPT Quỳnh Lưu 2 và một số trường THPT trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu và thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An trong năm học 2022 - 2023. Từ kết quả thực nghiệm, chúng tôi khẳng định những biện pháp đưa ra trong đề tài có thể áp dụng dễ dàng trong dạy học phần nói nghe – Thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau – Bài 3, bài 6 trong chương trình Ngữ văn 10 tại các trường THPT hiện nay nhằm phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, trong đó có năng lực nói và nghe.

5. Kiến nghị

- Đối với Sở Giáo Dục đào tạo Nghệ An: Cần tăng cường bồi dưỡng để GV có cơ hội cọ xát, trao đổi và tiếp cận cụ thể nhất về các phương pháp dạy học mới, hướng dạy học phát triển năng lực. Cần tổ chức các chuyên đề trao đổi về hiệu quả của việc áp dụng các PPDH theo định hướng phát triển năng lức nói chung và dạy đọc – hiểu nói riêng.

59

- Đối với Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn: Trang bị thêm cơ sở vật chất: máy chiếu, tivi … để đáp ứng cho quá trình dạy học. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm, có nguồn kinh phí hỗ trợ. Tổ chức sinh hoạt, trao đổi chuyên môn có chất lượng, hiệu quả.

- Đối với giáo viên: Cần vận dụng một cách linh hoạt, hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực, cần xây dựng kế hoạch bài học phù hợp với mục tiêu, đối tượng, vận dụng thực tiễn. Cần thay đổi PPDH và nội dung kiểm tra đánh giá năng lực người học theo hướng phát triển cả 4 kĩ năng đọc – viết – nói - nghe, gắn với các hoạt động trải nghiệm, các vấn đề của thực tiễn đời sống.

- Đối với học sinh: Tích cực tham gia các hoạt động học tập mà GV yêu cầu. Thường xuyên có ý thức liên hệ các vấn đề của tác phẩm văn chương với thực tiễn và các môn học khác để thấy được tầm quan trọng của việc môn Ngữ văn, từ đó có thêm động lực và hứng thú đối với việc học Văn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục đào tạo, Chương trình Giáo dục Phổ thông tổng thể năm 2018

2. Phan Huy Dũng, Bùi Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên sử dụng Sách giáo khoa môn Ngữ văn lớp 10, Nxb Giáo dục, 2022.

3. Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 10, Bộ kết nối tri thức với cuộc sống, Tập 1 -2

4. Sách giáo viên Ngữ Văn lớp 10, Bộ kết nối tri thức với cuộc sống, Tập 1 -2

5. Nguyễn Chí Hòa, Nguyễn Kim Toại, Hoàng Thị Hiền Lương, Kế hoạch bài dạy, Tập một. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2022.

6. Nguyễn Chí Hòa, Nguyễn Kim Toại, Kế hoạch bài dạy, Tập hai. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2022.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Một số hình ảnh tại lớp học

Phụ lục 2. Kế hoạch bài dạy thực nghiệm

Phụ lục 3. Mẫu phiếu khảo sát giáo viên

Phụ lục 4. Mẫu phiếu khảo sát học sinh

Phụ lục 5. Các sản phẩm của học sinh

60

PHỤ LỤC 1. MỘT SỐ HÌNH ẢNH TẠI CÁC LỚP HỌC MÀ TÁC GIẢ SÁNG KIẾN THỰC HIỆN (LỚP 10D2, 10D6, 10A1)

61

62

PHỤ LỤC 2: KẾ HOẠC BÀI DẠY THỰC NGHIỆM

BÀI 3 – NGHỆ THUẬT THUYẾT PHỤC CỦA VĂN NGHỊ LUẬN PHẦN NÓI – NGHE: THẢO LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU (Thời gian thực hiện: 01 tiết)

I. MỤC TIÊU 1. Năng lực a. Năng lực chung: -Tự chủ và tự học: Tự quyết định cách giải quyết vấn đề học tập, tự đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, giải quyết vấn đề học tập của bản thân và các bạn. - Giao tiếp và hợp tác: Tăng cường khả năng trình bày, diễn đạt ý kiến, ý tưởng trước lớp, tổ nhóm học tập, tương tác tích cực với các bạn trong tổ nhóm, khi thực hiện nhiệm vụ hợp tác. - Giải quyết vấn đề và sáng tạo: Chủ động đề ra kế hoạch học tập, thực hiện nhiệm vụ học tập cá nhân và nhóm học tập, xử lí linh hoạt sáng tạo các tình huống phát sinh khi thực hiện nhiệm vụ học tập. b. Năng lực cốt lõi: Nói và nghe - HS biết xác định rõ vấn đề xã hội được thảo luận, nhất là những vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau. Học sinh hiểu được sự cần thiết của việc trao đổi, thảo luận khi nảy sinh ý kiến khác nhau về một vấn đề nào đó. - Nói: Biết thảo luận về một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau - Nghe: Nghe và nắm bắt được nội dung truyết trình, quan điểm của người nói. Biết nhận xét về nội dung và hình thức thuyết trình.

- Nói nghe tương tác: Biết thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau; đưa ra được những căn cứ thuyết phục để bảo vệ hay bác bỏ một ý kiến nào đó; rèn luyện tư duy phản biện, hình thành văn hóa tranh luận. 2. Phẩm chất - Tự tin thể hiện bản thân. - Biết lắng nghe, tôn trọng người đối thoại. II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU 1. Thiết bị dạy học

63

- Giáo viên: Văn bản, hệ thống nhiệm vụ học tập, câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài (Máy tính, máy chiếu), phiếu học tập… - Học sinh: Sách, bút, bài trình bày, clip… 2. Học liệu HS chuẩn bị bài nói theo chủ đề định hướng chuẩn bị nói mà lớp đa lựa chọn: Người trẻ sống theo trend, chạy theo giá trị ảo - GV chia HS thành 2 nhóm + Nhóm 1 chuẩn bị nội dung trao đổi, thảo luận. Tổ chức dưới dạng một talshow với một kịch bản có MC dẫn chương trình, người tham gia tranh luận, có khán giả. + Nhóm 2: chuẩn bị ý kiến để trao đổi.

CHUẨN BỊ NHIỆM VỤ NHÓM

Chủ đề thảo luận: Người trẻ sống theo trend, chạy theo giá trị ảo

Nhóm 1

Nhiệm vụ Chuẩn bị nội dung thảo luận, tổ chức thảo luận dưới dạng một talk show

2

Chuẩn bị ý kiến để trao đổi

Yêu cầu thảo luận - Tìm hiểu về chủ đề mà nhóm cần thảo luận - Nhóm chuẩn bị ở nhà phân công nhiệm vụ các thành viên xây dựng hệ thống luận điểm để đưa ra quan điểm cá nhân bảo vệ quan điểm của nhóm - Lên ý tưởng tổ chức hoạt động tranh biện bằng kịch bản bản Word nộp trước cho giáo viên bộ môn điều chỉnh, góp ý. - Xây dựng tiêu chí chấm điểm cho phần tranh biện (nộp trước cho giáo viên bộ môn Điều chỉnh góp ý gửi đến cho các nhóm trước tiết học) - Chuẩn bị tinh thần cho các thành viên để tham gia vào cuộc thảo luận trực tiếp trên lớp. - Xây dựng tiêu chí chấm điểm cho phần tranh biện (nộp trước

64

cho giáo viên bộ môn Điều chỉnh góp ý gửi đến cho các nhóm trước tiết học)

III. TIẾN TRÌNH DẠY – HỌC

1. HOẠT ĐỘNG 1: KHỞI ĐỘNG

a. Mục tiêu: Kết nối – tạo hứng thú cho học sinh, chuẩn bị tâm thế tiếp cận kiến thức về kiểu bài, kết nối kiến thức trong cuộc sống vào nội dung của bài học.

b. Nội dung hoạt động: HS trả lời câu hỏi sau khi nghe tình huống mà GV giới thiệu

c. Sản phẩm: Câu trả lời đúng của HS, cảm nhận ban đầu về vấn đề đặt ra trong tiết học. Học sinh nhận thức được nhiệm vụ học tập: Phản ứng: Im lặng, lắng nghe ý kiến người khác để học hỏi, hoặc đưa ra ý kiến, quan điểm của mình cùng tranh biện thảo luận để có định hướng đúng đắn hợp lí

d. Tổ chức thực hiện hoạt động:

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ học tập

GV chiếu video cho HS xem: link: https://www.youtube.com/watch?v=QO8aDmlHCro

- Sau đó nêu một số câu hỏi và yêu cầu học sinh bắt cặp để chia sẻ theo kĩ thuật think- pair- share.

+ Những hình ảnh mà em thấy trong video? Khi thay đổi góc nhìn những hình ảnh đó có còn giống nhau nữa hay không?

+ Từ đó, em có suy nghĩ gì?

+ Trong cuộc sống, các em có thường hay gặp những tình huống như thế hay không: có nhiều điểm nhìn về một vấn đề, khi thay đổi điểm nhìn sẽ có những kết quả khác.

+ Trong cuộc sống và học tập khi nảy sinh những vấn đề xã hội vẫn còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, em sẽ phản ứng như thế nào? Vì sao?

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ:

HS suy nghĩ, thảo luận theo kĩ thuật think- pair- share, trình bày quan điểm

Bước 3: Báo cáo, thảo luận:

65

- HS khác quan sát, nhận xét, bổ sung ý kiến.

Bước 4: Kết luận, nhận định: GV đánh giá kết quả của HS, trên cơ sở đó dẫn dắt HS vào bài học mới.

GV dẫn dắt vào nội dung tiết học: Trước một vấn đề, mỗi người sẽ có những nhìn nhận, suy nghĩ và đánh giá khác nhau. Chính vì vậy ta không thể coi thường ý kiến của những người bất đồng với mình và càng không thể vội vàng quy kết họ là sai. Mỗi chúng ta đều không phải là người canh gác cho khẩu hiệu “Tất những gì tôi biết là đúng”. Vậy chúng ta làm gì để dung hòa những góc nhìn vênh nhau?

2. HOẠT ĐỘNG 2: HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

Hoạt động 2.1: Chuẩn bị thảo luận

a. Mục tiêu: HS nắm được cách thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau. b. Nội dung: - HS sử dụng kết hợp SGK với sự hướng dẫn của GV để chuẩn bị bài nói bằng các câu hỏi: Nêu những công việc cần làm để có thể thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau? (Để chuẩn bị nói em phải chuẩn bị những gì?, Chuẩn bị nghe như thế nào). - HS thảo luận theo nhóm bàn c. Sản phẩm học tập: Câu trả lời đúng của HS: nắm rõ yêu cầu của bài, biết rõ những nội dung quan trọng của quá trình chuẩn bị nói – nghe. d. Tổ chức thực hiện:

HĐ của GV và HS Dự kiến sản phẩm

I. Chuẩn bị thảo luận

HOẠT ĐỘNG CẶP ĐÔI CHIA SẺ: 1. Yêu cầu của bài thảo luận về một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau

Bước 1: GV giao nhiệm vụ: Yêu cầu:

- Xác định rõ vấn đề cần thảo luận.

Để thảo luận về một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau, các em cần thực hiện những yêu cầu gì?

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ: - Bao quát được diễn biến của cuộc thảo luận (những ý kiến đã nêu, những điều đã được làm rõ, những điều cần được trao đổi thêm,…).

66

- Thể hiện được thái độ tán thành hay phản đối trước những ý kiến đã phát biểu.

+ Tổ chức chia sẻ cặp đôi theo câu hỏi (dựa vào phần định hướng trong SGK)

+ GV quan sát, khuyến khích

- Nêu được quan điểm, nhận định của bản thân về vấn đề (góc nhìn riêng và những phân tích, đánh giá cụ thể). Bước 3: Báo cáo, thảo luận:

+ Đại diện một số cặp đôi phát biểu. - Tôn trọng người đối thoại để cùng tìm tiếng nói chung về vấn đề.

+ Các HS còn lại lắng nghe, nhận xét, bổ sung nếu cần.

Bước 4: Đánh giá, chuẩn kiến thức

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ:

2. Chuẩn bị thảo luận

GV yêu cầu học sinh đọc SGK và nêu những công việc cần làm để có thể thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau? Em phải chuẩn bị gì khi nói và khi nghe?

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ:

- HS nghe và thực hiện yêu cầu.

- GV quan sát, gợi mở

Bước 3: Báo cáo, thảo luận:

GV gọi học sinh trình bày kết quả; HS quan sát, theo dõi, suy ngẫm

Bước 4: Kết luận, nhận định:

GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức

2.1. Chuẩn bị nói - Lựa chọn đề tài: Gần gũi, phù hợp -Tìm ý và sắp xếp ý + Người nói không chỉ bày tỏ quan điểm cá nhân mà còn nắm được một số cách nhìn nhận, đánh giá khác. + Có thể hình thành nội dung của ý kiến thảo luận dựa trên một só câu hỏi: Vì sao bạn quan tâm đến vấn đề? Vấn đề này được nhìn nhậnđánh gia với những quan điểm như thế nào? Quan điểm của bạn là gì? Vì sao?... - Xác định từ ngữ then chốt: Có thể sử dụng những cụm từ phù hợp: Theo quan điểm của tôi, quan điểm chung; Cách tiếp cận vấn đề; góc nhìn khác biệt.... - Phương tiện hỗ trợ: Có thể sử dụng: Tranh ảnh, biểu đồ, phim tài liệu...để minh họa cho vấn đề cần thảo luận. 2.2. Chuẩn bị nghe

67

- Tìm hiểu đề tài, nội dung và xác định quan điểm cá nhân. - Suy đoán về ý kiến có liên quan

Hoạt động 2.2: Thảo luận

a. Mục tiêu: HS thực hành kĩ năng nói và nghe: thảo luận về một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau

b. Nội dung:

- HS xác định được các bước thảo luận về một vấn đề đời sống có ý kiến khác nhau

- Biết lắng nghe phần thảo luận của bạn khác.

c. Sản phẩm: Sản phẩm bài nói, dự kiến bài trình bày bằng ngôn ngữ nói kết hợp với các yếu tố phi ngôn ngữ.

d. Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS

DỰ KIẾN SẢN PHẨM CẦN ĐẠT

II. Thảo luận - HS nhóm 1 trình bày quan điểm theo nội dung đã chuẩn bị: Người trẻ sống theo trend, chạy theo giá trị ảo. - Được tổ chức dưới dạng một talk show (Kịch bản của chương trình chúng tôi để ở phần phụ lục 5) 2. Người nghe - Lắng nghe, ghi chép lại những ý kiến muốn trao đổi với người nói. Yêu cầu: HS lắng nghe, ghi chép theo kĩ thuật 5W1H - Chuẩn bị nội dung trao đổi. Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ: Nhóm 1: Trình bày vấn đề theo quan điểm đã chuẩn bị Nhóm 2: Lắng nghe và chuẩn bị câu hỏi thảo luận Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: HS thực hiện nhiệm vụ như đã phân công Bước 3: Báo cáo, thảo luận: Học sinh trình bày kết quả; quan sát, theo Bước 4: Kết luận, nhận định: GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức

68

Hoạt động 2.3: Đánh giá thảo luận

2.1. Mục tiêu: Nắm được tiêu chí đánh giá bài nói và đưa ra được nhận xét về bài nói. 2.2. Nội dung: Học sinh sử dụng phiếu đánh giá theo tiêu chí để đánh giá bài nói của bạn. 2.3. Sản phẩm học tập: Học sinh hoàn thiện phiếu đánh giá theo tiêu chí. 2.4. Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS

DỰ KIẾN SẢN PHẨM CẦN ĐẠT

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ:

- GV yêu cầu nhận xét sự trình bày của các nhóm

theo bảng kiểm đã được cung cấp

- GV yêu cầu người than gia thảo luận thực hiện

việc tự kiểm về chính mình

III. Đánh giá thảo luận 1. Đánh giá thảo luận - Hs chú ý lắng nghe và thực hiện yêu cầu theo phiếu học tập số 1 - Đánh giá cuộc thảo luận

theo bảng kiểm

Chưa đạt

1

Nội dung đánh giá Chọn được vấn đề thảo luận đích đáng và bám sát vấn đề

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: Bước 3: Báo cáo, thảo luận: GV gọi học sinh trình bày kết quả đánh giá Bước 4: Kết luận, nhận định: GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức Bảng kiểm đánh giá nói – nghe Kết quả STT Đạt

69

2

3

có trong suốt quá trình thảo luận Nắm bắt được sự tiến triển của cuộc thảo luận để điều chỉnh nội dung ý kiến cho phù hợp Thể hiện được sự đa dạng của những góc nhìn khác nhau về vấn đề (mỗi ý kiến góp một góc

2. Bài học kinh nghiệm

70

tôn

4

* Việc trọng những góc nhìn khác nhau: có nhiều ý nghĩa: - Học cách kiên nhẫn

- Nâng cao hiểu biết

về một vấn đề xã hội

- Giúp chúng ta chủ

động, dự đoán mọi khả

năng xảy ra

- Lựa chọn được

phương án giải quyết

tốt nhất cho vấn đề

- Tránh gây ra những

5

tổn thương cho người

khác

* Bài học khi tham gia thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau: -Trình bày tự tin, làm

chủ quan điểm, thể

hiện chính kiến của

6

mình

-Ghi nhận các ý kiến

khác cho dù là trái

nhìn, một cách đánh giá riêng) Biết chốt lại những điểm đạt được sự nhất trí giữa những người tham gia thảo luận Gợi ra được những điều cần tiếp tục suy nghĩ sau cuộc thảo luận Góp phần tạo được không khí đối thoại

chiều với ý kiến của

71

mình với thái độ tôn

trọng

- Nắm vững quy trình

cởi mở, tôn trọng lẫn nhau.

thảo luận

-Lắng nghe và phản

hồi tích cực bằng cách

ghi chép và tập trung

- Kết hợp với các yếu

tố phi ngôn ngữ

- Chú ý cách nói, ngôn

ngữ nói

- Kiểm soát tốt cảm

xúc…

Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ:

- GV yêu cầu HS rút ra những bài học, kinh nghiệm cần thiết khi thảo luận về các vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau:

+ Vậy nếu rèn luyện thói quen tôn trọng

các góc nhìn khi đánh giá một vấn đề

thường xuyên giúp ta điều gì trong học tập,

trong nghiên cứu và trong việc giải quyết

những vấn đề đời sống?

+ Em rút ra được những bài học gì liên quan tới việc thảo luận nhóm về một vấn đề có ý kiến khác nhau? GV yêu cầu HS viết trên giấy note, chuẩn bị để chia sẻ cá nhân. Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ:

72

Bước 3: Báo cáo, thảo luận: GV gọi học sinh trình bày kết quả đánh giá Bước 4: Kết luận, nhận định: GV đọc lên một số ý kiến, mời HS chia sẻ một số bài học GV nhận xét, bổ sung, chốt lại kiến thức (

HOẠT ĐỘNG 3: LUYỆN TẬP, VẬN DỤNG

3.1. Mục tiêu: Củng cố lại kiến thức đã học, giao bài tập về nhà

3.2. Nội dung:

+ Gv nêu câu hỏi luyện tập tại lớp

- Em có thể nêu một số vấn đề xã hội mà em quan tâm?

- Lựa chọn 1 vấn đề để trao đổi ngắn

+ GV yêu cầu bài tập: thực hiện quay video/ thu âm cuộc trao đổi: Tốt nghiệp THPT,

có nên đi xuất khẩu lao động?

3.3. Sản phẩm học tập: HS nêu được các vấn đề xã hội, có sự trao đổi; sản phẩm

clip, file thu âm

3.4. Tổ chức thực hiện:

HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS DỰ KIẾN SẢN PHẨM CẦN

ĐẠT

Bước 1: Chuyển giao nhiệm

vụ: - HS nêu được các vấn đề xã hội

GV nêu câu hỏi yêu cầu hs trả - Nếu ý kiến của các nhân

lời: Em học được những kĩ năng - Hoàn thành bài tập ở nhà và nộp

gì sau bài học này? vào buổi học sau/ trên nhóm lớp

73

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ:

HS trình bày quan điểm

Bước 3: Báo cáo, thảo luận:

GV gọi học sinh trình bày

Bước 4: Kết luận, nhận định:

GV nhận xét, bổ sung, chốt lại

PHỤ LỤC 3: MẪU PHIẾU KHẢO SÁT GIÁO VIÊN

Phụ lục 3.1. KHẢO SÁT VỀ VỀ VẬN DỤNG CÁC HÌNH THỨC, KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO DẠY PHẦN NÓI – NGHE

Giới thiệu: Kính gửi quý thầy/ cô giáo đang giảng dạy tại các trường THPT trên địa

bàn Quỳnh Lưu – Hoàng Mai!

Chúng tôi đang thực hiện đề tài sáng kiến “Vận dụng một số hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học phần nói và nghe - thảo luận về một vấn đề xã hội có ý kiến khác nhau nhằm phát triển năng lực học sinh”. Để có những đánh giá khách quan và chính xác về đề tài của mình, chúng tôi xin gửi tới thầy/ cô bản khảo sát gồm 8 câu hỏi dưới đây. Chúng tôi rất mong thầy/ cô chọn chính xác đáp án của mình. Cảm ơn quý thầy cô!

Câu 1: Mức độ tiếp nhận lí luận về dạy học phát triển năng lực của thầy cô là?

a. Đã từng nghe qua/ đọc qua b. Đã từng nghiên cứu/ đã từng được tập huấn c. Đã từng vận dụng trong dạy học môn mình phụ trách d. Đã vận dụng và có những thành công nhất định

Câu 2: Mức độ quan tâm của thầy/ cô về việc dạy học phát triển năng lực trong trường THPT?

a. Rất quan tâm b. Quan tâm c. Bình thường d. Không

Câu 3: Thầy cô nghĩ gì về vai trò của các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực trong quá trình dạy học hiện nay?

kiến thức

74

a. Quan trọng

b. Không quan trọng

Câu 4: Khả năng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực của thầy/ cô là?

a. Có khả năng cao b. Có khả năng c. Bình thường d. Không

Câu 5. Thầy/cô có gặp khó khăn khi tổ chức dạy học phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ Văn 10?

a. Gặp rất nhiều khó khăn

b. Không gặp khó khăn

Câu 6. Nếu gặp khó khăn trong quá trình dạy nói – nghe thì đó là những khó khăn nào? Thầy/ cô hãy vui lòng chia sẻ:

…………………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………………….

Câu 7: Tần suất sử dụng các kĩ thuật dạy học tích cực của thầy cô khi dạy phần Nói- nghe trong Chương trình ngữ văn 10?

a. Thường xuyên

b. Thỉnh thoảng

c. Không sử dụng

Câu 8. Tần suất thầy/cô rèn luyện cho học sinh các kĩ năng thảo luận nhóm, thuyết trình, phản hồi, sử dụng CNTT, đánh giá và tự đánh giá… như thế nào?

a. Thường xuyên

b. Thỉnh thoảng

c. Không rèn luyện

Câu 9. Theo thầy/cô, có cần thiết phải sử dụng các hình thức, kĩ thuật dạy học tích cực khi dạy phần Nói – nghe trong Bài 3, Bài 6 không?

a. Rất cần thiết

b. Cần thiết

75

c. Không cần thiết

Câu 10. Thầy/ cô đã tổ chức hoạt động đánh giá Phần nói – nghe của HS ở Bài 1, Bài 2 trong Chương trình lớp 10 như thế nào?

a. Đánh giá theo cảm tính

b. Đánh giá theo bảng kiểm

c. Đánh giá qua quan sát

d. Cả b và c

Phụ lục 3.2. KHẢO SÁT TÍNH CẤP THIẾT CỦA CÁC GIẢI PHÁP

76

Phụ lục 3.2. KHẢO SÁT TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC BIỆN PHÁP

77

PHỤ LỤC 4: PHIẾU KHẢO SÁT HỌC SINH Phụ lục 4.1 PHIẾU ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH

Họ và tên học sinh:……………………………..

Lớp: ……………………………..

(Em có thể không ghi các thông tin trên) Để phục vụ cho việc nghiên cứu của Cô, mong các em vui lòng cho biết kiến của mình về những vấn đề sau bằng cách chọn câu trả lời em cho là đúng. Các nội dung trong phiếu chỉ nhằm mục đích khảo sát thực tế, thuần túy khoa học. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các em HS! Câu 1: Các em hãy cho biết ở trường THPT các em đang học, GV có sử dụng các phương pháp dạy học khác ngoài phương pháp thuyết trình, hỏi đáp không?

78

a. Thường xuyên b. Thỉnh thoảng c. Rất ít khi d. Không bao giờ Câu 2: Các em có quan tâm đến việc giáo viên đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy không? a. Mức độ rất cao b. Mức độ cao c. Mức độ thấp d. Không quan tâm Câu 3: Ở trường các em, khi GV sử dụng các phương pháp dạy học mới, các em cảm thấy? a. Rất thích, hào hứng tham gia b. Thích c.Bình thường d.Căng thẳng, mệt mỏi, chán nản Câu 4: Mong mong muốn một hình thức học tập môn Ngữ Văn như thế nào, nhất là với phần nói – nghe? a. Nghe giảng, ghi chép thụ động b. GV sử dụng đa dạng các kĩ thuật dạy học để hướng dẫn HS tương tác, phát biểu, thảo luận, tranh biện… c. Được trải nghiệm sáng tạo, được tự mình làm các sản phẩm học tập d. Làm nhiều đề vận dụng, kết nối với thực tiễn đời sống Câu 5. Tần suất tham gia vào các hoạt động học tập của em như: hoạt động nhóm, chủ động phát biểu ý kiến, thực hiện yêu cầu của GV, nêu câu hỏi thắc mắc, chủ động tìm kiếm thông tin liên quan đến bài học… như thế nào?

a. Thường xuyên

b. Thỉnh thoảng

c. Không bao giờ

79

Câu 6. Em có thích học nội dung Nói – nghe trong Chương trình Ngữ Văn 10?

a. Thích

b. Bình thường

c. Không thích

Câu 7. Khi học phần Nói – nghe trong Chương trình Ngữ văn 10, em gặp khó khăn gì?

a. Thiếu sự tự tin, sợ bạn bè trong lớp chê cười

b. Khả năng trình bày trước tập thể kém

c. Việc chuẩn bị vấn đề thuyết trình

d. Tất cả các phương án trên

Câu 8. Theo em, có thể khắc phục những khó khăn khi học phần Nói – nghe bằng cách nào?

a. Tập nói, tập lắng nghe, phản hồi

b. GV cần hướng dẫn kĩ, có nhiều cách thức tổ chức hoạt động

c. Cần chuẩn bị nội dung trình bày chu đáo, kĩ càng; vận dụng các phương tiện hiện đại

d. Tất cả các phương án trên.

Phụ lục 4.2.

PHIẾU ĐIỀU TRA NHU CẦU, KHẢ NĂNG CỦA HỌC SINH

(Trước khi triển khai dạy học phần Nói - nghe)

Họ và tên:....................................... Lớp............ Hãy trả lời câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu X vào ô trống có câu trả lời phù

hợp với em.

1. Em mong muốn được tham vào công việc của nhóm … khi thực hiện nhiệm vụ

học tập “… ” với tư cách nào?

Nội dung Có Không

80

- Là thành viên chính

- Là MC

- Là cộng tác viên

2.Em có những khả năng nào?

Nội dung Có Không

- Khả năng thiết kế bài trình chiếu trên Powerpoint

- Khả năng hội họa

- Khả năng chụp ảnh, - Khả năng quay phim, dựng phim.

- Khả năng làm MC

- Khả năng thuyết trình

- Khả năng dẫn chương trình

- Khả năng viết bài, sáng tác

- Khả năng diễn xuất tiểu phẩm/ hoạt cảnh

- Khả năng hát, múa, diễn xướng

- Khả năng tạo lập trang Web và truyền thông

- Khả năng xây dựng kịch bản

- Khả năng tổ chức trò chơi

- Khả năng lãnh đạo một tổ chức, nhóm thành viên

- Khả năng tìm kiếm tư liệu, nghiên cứu khoa học

- Khả năng hoạt động xã hội, đóng góp cộng đồng

PHỤ LỤC 5 - SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH

MỘT SỐ KỊCH BẢN MÀ HỌC SINH ĐÃ XÂY DỰNG KHI TIẾN HÀNH THẢO LUẬN

Kịch bản 1:

81

Kịch bản talk show: Người trẻ sống theo trend, chạy theo giá trị ảo

Nhóm thực hiện: Nhóm 1- lớp 10A1

MC Ánh Nguyệt: Xin kính chào quý vị và các bạn đang theo dõi chương trình Talk Show: “Giới trẻ hiện đại” của Đài truyền hình 10A1. Tôi là MC ……....... Hiện nay, vấn đề phổ biến và đang được các bạn trẻ cũng như các bậc phụ huynh đáng chú ý nhất đó chính là GIỚI TRẺ SỐNG THEO TREND VÀ CHẠY THEO CÁC GIÁ TRỊ ẢO. Và như mọi người cũng đã biết, ngày nay, xã hội ngày càng phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho con người. Đi kèm với đó là những phát sinh về các vấn đề xã hội khác, điển hình là việc công nghệ 4.0 phát triển, những trang mạng xã hội ra đời – nơi mà các bạn trẻ được “sống ảo” và từ đó ta thấy được hiện tượng “giới trẻ sống theo trend và chạy theo các giá trị ảo”. Để quý khán giả hiểu rõ hơn về vấn đề này, hôm nay chúng tôi có mặt ở đây cùng với các khách mời đại diện cho các tầng lớp xã hội sẽ chia sẻ quan niệm và suy nghĩ của bản thân về vấn đề cần trao đổi hôm nay. Khách mời ngày hôm nay gồm có:

+ Hai bạn Hoa và Lan đại diện cho giới trẻ hiện nay(học sinh)

+ Bác An: đại diện cho ban phụ huynh giới trẻ

+ Thầy Nguyễn Văn Dũng: hiện đang là giáo viên tại trường THPT Quỳnh Lưu 2

MC: Xin mời các khách mời tiến ra sân khấu.

Đầu tiên chúng tôi xin mời các vị khách mời của trường quay cùng xem một đoạn video phỏng vấn ngắn do các phóng viên của chúng tôi tác nghiệp tại trường THPTQL2 . Đối tượng phỏng vấn ở đây chủ yếu là các học sinh và phụ huynh.

Như vậy có thể thấy rất nhiều bạn trẻ đã và đang rất quan tâm đến vấn đề “giới trẻ sống theo trend, chạy theo giá trị ảo”. Đang có rất nhiều ý kiến trái chiều tới từ học sinh lẫn phụ huynh về việc sống theo trend, chạy theo giá trị ảo có phải là một hình thức giải trí tốt hay nó là hình thức giải trí đã và đang ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển của con em. Vậy còn 2 bạn , 2 bạn có ý kiến và suy nghĩ gì trước vấn đề ngày hôm nay của trương trình chúng tôi không ?

Học sinh Hoa: Em thấy, hiện tượng này đang rất phổ biến và được giới trẻ ưa thích. Bên cạnh đó việc sống theo trend và chạy theo các giá trị ảo đã giúp giới trẻ nói chung và chúng em nói riêng cập nhật được các xu hướng xã hội cũng như thông tin, tin tức nhanh hơn và đem đến cho chúng em những hình thức giải trí mới sau những giờ học căng thẳng.

82

MC: Vâng, cảm ơn em. Vậy còn B thì sao, em có suy nghĩ gì về vấn đề này?

Học sinh Lan: Dạ vâng, em nghĩ Giá trị ảo là những giá trị không có thật, không bền vững, thường chỉ tồn tại tạm thời, phút chốc. Giá trị ảo thiên về biểu hiện bề ngoài, hình thức, không phản ánh đúng bản chất đối tượng. Nó không mang đến nhiều lợi ích tích cực cho chúng ta mà ngược lại còn khiến chúng ta bị sa ngã và sao nhãng về mặt học tập cũng như giao tiếp với mọi người xung quanh.

MC: em có thể nói rõ ràng hơn không, ví dụ như ....

Học sinh Lan: Dạ thưa chị, ví dụ như khi chúng ta quá mải mê với thế giới ảo, chúng ta sẽ không thoát ra được, làm mất nhiều thời gian chỉ để dành cho việc vô bổ ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc học tập của chúng ta. Vậy tại sao chúng ta không dành những thời gian đó để học tập và giao tiếp với mọi người xung quanh ạ?

MC: cảm ơn em, câu trả rất hay đúng không nào! Cả hai bạn A và B đều đã có suy nghĩ và quan điểm riêng của chính bản thân mình và khá ngạc nhiên là ý nghĩ của 2 bạn hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy thì ngay sau đây chúng ta hãy cùng lắng nghe ý kiến của bác C- bậc phụ huynh của giới trẻ, không biết rằng bác có suy nghĩ khác 2 bạn trẻ về hiện tượng “Giới trẻ sống theo trend và chạy theo các giá trị ảo” không ạ?

Bác An: Đối với bản thân tôi thì tôi cũng có con cái thuộc lớp giới trẻ, về vấn đề “giới trẻ hiện nay sống theo trend và chạy theo các giá trị ảo” cũng là một vấn đề quan trọng, đáng chú ý của các bậc phụ huynh. Tôi nghĩ là vấn đề này vừa đem lại lợi ích nhưng bên cạnh đó cũng đem lại không ít vấn đề tiêu cực cho con em của chúng ta.

MC: Dạ vâng ạ! Bác có thể nói rõ hơn về vấn đề này được không ạ?

Bác An:Theo tôi thì cũng giống như bạn Học sinh A và B đã đưa ra như trên, những thứ được gọi là trend, ảo giúp chúng ta xả stress sau những ngày, những giờ làm việc mệt mọi NHƯNG khi theo đuổi những giá trị ảo, đời sống bên trong con người luôn luôn bị những tính toán, suy nghĩ thiệt hơn, sự bon chen bao phủ. Cuối cùng, đến một lúc nào đó, khi những giá trị ảo va vấp vào đời thực và biến mất, con người cũng sẽ thấy mệt mỏi, hoang mang, trống rỗng. Nhiều vụ tự tử thương tâm đã xảy ra khi nạn nhân quá tin vào cuộc sống ảo, thế giới ảo, để rồi khi bước ra đời thực thì vỡ mộng, không còn thiết tha với cuộc sống nữa.

Cụ thể là tôi có một đứa con trai, năm nay đã học lớp 9. Từ hồi mới mua điện thoại cho nó thì nó cũng chỉ sử dụng nhằm mục đích giải trí và tận dụng điện thoại để làm tài liệu học hành. Nhưng dần dần nó “sống theo trend, chạy theo các giá trị ảo” khiến tinh thần học sa sút. Điện thoại là thứ quan trọng nhất đối với nó. Đi học, về nhà nó không biết

83

phụ giúp gia đình mà chỉ ăn cơm xong rồi dán mặt vào màn hình điện thoại, không để ý mọi thứ xung quanh, không giao tiếp với mọi người như ngày thường nữa.Tôi nhận thấy sự quan trọng của vấn đề và bắt đầu răn đe nghiêm khắc thì tới thời điểm hiện tại nó đã trở lại bình thường như ngày trước.

MC: Wow, đúng thật là một câu chuyện dài đúng không nào?Thật may mắn vì sau bao nhiêu biến cố thì cậu bé đã tìm lại được bản thân mình. Chúng tôi rất cảm ơn bác vì đã chia sẻ câu chuyện đầy cảm xúc và đưa ra những quan điểm của mình.

MC: (quay sang thầy giáo) Vậy còn thầy, thầy nghĩ sao về học sinh của mình đang “sống theo trend và chạy theo các giá trị ảo”?

Thầy giáo Dũng:Tôi đồng tình với ý kiến của phụ huynh An. Tôi nghĩ rằng việc “giới trẻ sống theo trend và chạy theo các giá trị ảo” là hiện tượng mang lại nhiều vấn đề tiêu cực hơn là tích cực. Hầu hết giới trẻ hiện nay đều thích sống ảo, sống theo trend NHƯNG sống ảo lành mạnh và sống ảo không lành mạnh là 2 vấn đề hoàn toàn trái ngược nhau. Những người không am hiểu về các vấn đề này sẽ mang lại bất lợi to lớn đối với cộng đồng và chính bản thân họ.

Tôi nghĩ các em học sinh vẫn chưa nhận thức được rằng: xã hội sẽ trì trệ, chậm phát triển khi con người coi trọng những giá trị bên ngoài hơn là những gì thực chất bên trong, coi trọng danh hơn thực, hình thức hơn nội dung, tiền tài địa vị hơn là tâm hồn trí tuệ. Thế giới ảo tự nó không phải là xấu, tiêu cực nhưng cách làm của con người đã làm nó có tác động ngược lại đến đời sống xã hội. Các em học sinh nên sống vì chính bản thân và sống bằng một lối sống tích cực, thiết thực, an toàn cho bản thân cũng như gia đình, bạn bè và xã hội. Tôi xin hết!

MC:Cảm ơn quan điểm của thầy giáo ạ! Vâng, cho tôi được hỏi là sau khi nghe thầy giáo nói thì 2 bạn học sinh và phụ huynh C có ý kiến gì không ạ?

Học sinh Lan: Thưa chị, em cảm thấy ý kiến của thầy rất thuyết phục ạ!

Học sinh Hoa: Em cảm thấy lứa tuổi THPT không còn là nhỏ nữa, em nghĩ rằng mỗi người đều đã có nhận thức, quan điểm riêng, mọi người đều có cách để tự bảo vệ bản thân mình và chúng ta đều có thể sống theo trend, chạy theo giá trị ảo nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí, xả stess của bản thân ạ!

Phụ huynh C: Ý kiến của thầy giáo rất đúng đắn, tôi hoàn toàn đồng tình về quan điểm này!

MC: Thật sự chúng tôi rất mong rằng, buổi phỏng vấn ngày hôm nay sẽ giúp quý khán giả hiểu rõ hơn và nhận thức đúng, chính xác hơn về hiện tượng “giới trẻ sống theo 84

trend, chạy theo giá trị ảo”. Như vậy các bạn có thể thấy chỉ với một vấn đề “giới trẻ sống theo trend, chạy theo giá trị ảo” mà chúng ta đã nhận được không ít những ý kiến trái chiều nhau và mỗi ý kiến đều có lý lẽ và lập luận riêng của mình, tuy nhiên theo bản thân tôi, cá nhân tôi nghĩ rằng vấn đề bàn luận hôm nay của chúng ta không hề mang lại một bất lợi nào cả, những bất lợi đó đều do chúng ta tạo ra cho bản thân mình bởi ta không nhận thức được rằng sống ảo như thế nào cho thật lành mạnh và bổ ích. Vì một môi trường, xã hội thứ 2 thật văn minh chúng ta hãy:

+, Cố gắng nhận thức và cân bằng giữa 2 việc sống ảo và sống thực.

+, Chỉ sử dụng các trang mạng nhằm mục đích giải trí, không nên lạm dụng để rồi gây nên hậu quả nghiêm trọng.

+, Thường xuyên giao tiếp với mọi người xung quanh để cải thiện bản thân.

+, Sống theo trend lành mạnh và thực tế.

+, Chọn lọc những nguồn tin chính xác để tiếp thu.

+, Digital detox – liệu pháp “thả lỏng” cho tâm trí cũng là một hình thức giải trí tốt thay vì những lần chạy theo các giá trị ảo.

Thời lượng của chương trình đến đây là kết thúc! Xin được cảm ơn các khách mời và hẹn gặp lại quý khán giả vào lần sau.

MC: Nguyệt

Học sinh A: Đậu Thị Hoa

Học sinh B: Nguyễn Đình Lan

Phụ huynh C: Thái Thùy Dương

Thầy giáo D: Nguyễn Duy Lâm

Những người làm video phỏng vấn: Thư, Hạnh, Hương, Việt, Bắc

Người edit video: Giang, Bảo, Hoàng, Đức, Hiệp, Triều

Người phụ trách quay video: Trần Đức Quân, Chiến

Trợ Lý: Hường, Thùy, Trọng

85

Kịch bản 2:

Kịch bản: Tốt nghiệp THPT có nên đi xuất khẩu lao động?

Kịch bản dùng để quay video.

Nhóm thực hiện: nhóm 3, lớp 10D2

MC: Xin chào quý thầy cô và các bạn học sinh thân mến. Tôi là MC.A người dẫn chương trình “ Tiến đến tương lai” của đài truyền hình lớp 10D2. Và như mọi người cũng đã biết hiện nay có rất nhiều vấn đề đang được các bạn trẻ và các bậc phụ huynh quan tâm. Một trong những vấn đề đó là việc lựa chọn một con đường đi sau khi tốt nghiệp THPT. Một hướng hiện nay là nhiều bạn trẻ đã chọn con đường du học hoặc là xuất khẩu lao động. Tại sao lại có xu hướng đó? Vấn đề này có tầm quan trọng như thế nào trong con đường chọn việc làm và tương lai của các bạn học sinh trung học phổ thông? Vì thế mà trong chương trình hôm nay chúng tôi muốn chúng ta cùng trao đổi về chủ đề: SAU KHI TỐT NGHIỆP THPT, BẠN CÓ MUỐN ĐI XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG? Và không để mất thời gian của các bạn thêm nữa, xin mời những khách mời cùng bước ra buổi phỏng vấn của ngày hôm nay:

+ Bác: B hiện tại đang là công nhân viên chức tại một công ty và có con trai đang xuất khẩu lao động ở Nhật.

+ Thầy giáo: C hiện đang là giáo viên tại trường THPT

+ Bạn: D, E , H là các học sinh lớp 10

Mời bác, thầy và các bạn học sinh ngồi xuống.

Đầu tiên chúng tôi xin mời các vị khách mời của trường quay cùng xem một đoạn video phỏng vấn ngắn do các phóng viên của chúng tôi tác nghiệp tại trường THPTQL2 . Đối tượng phỏng vấn ở đây chủ yếu là các học sinh lớp 12 và những phụ huynh.

Như vậy có thể thấy rất nhiều bạn trẻ đã và đang rất quan tâm đến vấn đề “có nên xuất khẩu lao động sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông hay không?. Đang có rất nhiều ý kiến trái triều tới từ học sinh lẫn phụ huynh về việc nên tiếp tục lên đại học hay là xuất khẩu lao động để làm việc lấy kinh nghiệm và phụ giúp gia đình. Vậy còn 3 bạn 3 bạn có ý kiến và định hướng gì trước vấn đề ngày hôm nay của trương trình chúng tôi không ?

- D trả lời: Theo em được biết thì xuất khẩu lao động là một trong những hoạt động mua – bán hàng hóa. Mà hàng hóa ở đây là sức lao động của con người nội địa cho những người sử dụng lao động nước ngoài.

86

+ Người sử dụng lao động nước ngoài ở giao dịch này chính là chính phủ những nước ngoài hay những cơ quan, tổ chức kinh tế của nước ngoài có nhu cầu sử dụng lao động quốc tế.

+ Hàng hóa sức lao động trong nội địa: đây là khái niệm muốn nói tới lực lượng lao động trong nội địa hay trong nước sẵn sàng cung cấp cũng như sử dụng sức lao động của mình cho những người sử dụng lao động tại nước ngoài.

+ Hoạt động mua và bán ở hoạt động này thể hiện ở chỗ người có sức lao động trong nước sẽ bán quyền sử dụng sức lao động của chính mình trong một khoảng thời gian nhất định cho người có nhu cầu sử dụng lao động ngoài nước để nhận về một khoản tiền hàng tháng dưới hình thức là tiền lương. Còn người sử dụng sức lao động ngoài nước sẽ dùng tiền để mua sức lao động của người có sức lao động và yêu cầu người lao động phải thực hiện những công việc nhất định nào đó theo mong muốn của mình.

Hiện nay có lẽ nhiều anh chị vẫn đang băn khoăn vì vấn đề này và chính em trong hai năm tới sẽ là học sinh lớp 12, được tự lựa chọn con đường riêng cho mình cũng nên đặt ra mục tiêu cho bản thân .

MC: Vậy thì hiện tại bạn đã tự đặt ra định hướng cho bản thân chưa, nếu có bạn có thể chia sẻ cho mọi người tại trường quay hôm nay được không?

D trả lời: Có lẽ hiện tại nếu như phải thực sự đặt ra con đường cho bản thân thì sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông em muốn được xuất khẩu lao động . Em đã từng nghe thấy một câu nói “Đại học không phải là con đường duy nhất dẫn tới thành công” em cũng đã suy nghĩ về con đường mà bản thân sẽ đi và câu nói này khá nhiều lần, có lẽ đúng như thế hiện tại học không còn là con đường duy nhất dẫn lối tới thành công thế nên em chọn cho mình con đường xuất khẩu lao động sau khi tốt nghiệp vì đi làm thì em sẽ có thể tích góp được nhiều kĩ năng, kinh nghiệm sống cho bản thân và cũng có thể phụ giúp gia đình một phần nhỏ về mặt tài chính. Bởi gia đình em hiện tại rất khó khăn.

MC: Vâng chúng tôi đã thấy được sự kiên định trong ánh mắt của bạn khi nói về định hướng của bản thân (Quay sang E) Thế còn bạn thì sao?

E trả lời: Em thì không cùng suy nghĩ với bạn D. Em muốn bước tiếp trên con đường bước vào cánh cửa đại học. Và đúng như bạn D nói “đại học không phải là con đường duy nhất dẫn tới thành công “nhưng phải biết rằng đại học chính là con đường ngắn và chắc chắn nhất có thể đi đến thành công. Đồng ý là nếu tốt nghiệp xong đi làm thì có thể tích thêm được kinh nghiệm và kĩ năng sống cho bản thân đồng thời cũng có thu nhập riêng cho bản thân mà không phải dựa vào gia đình. Nhưng có thể là bạn chưa 87

nghĩ tới đưa này khi bạn về nước thì có thể rất khó để kiếm được một công việc mới ở Việt Nam hoặc là mình không có một nghề nghiệp cụ thể để xin việc. Em đã từng thấy rất nhiều các cô các bác những người đã từng xuất khẩu lao động về nước họ đã rất bối rối trước môi trường việc làm ở trong nước và đứng trước hoàn cảnh không biết bản thân có thể làm việc gì, dẫn tới rất nhiều người đã thất nghiệp và không có việc làm.

- MC: Cả hai bạn D và E đều đã có định hướng riêng cho con đường và tương lai sau này của bản thân, và khá ngạc nhiên là ý nghĩ của 2 bạn hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy thì ngay sau đây chúng ta hãy cùng lắng nghe ý kiến của bạn học sinh sau cùng _H và không biết rằng có thể bạn có ý kiến gì khác về 2 bạn D và E không:

- H trả lời: thưa MC, các thầy các bạn và các khán giả có mặt tại chương trình ngày hôm nay, hiện tại thì em thực sự vẫn chưa xác định được định hướng sau này của bản thân, cũng như chưa biết được nên bước đi trên con đường nào. Thế nên em có mặt tại buổi phỏng vấn ngày hôm nay, là để lắng nghe ý kiến của mọi người cũng như mong các vị khán giả tại trường quay có thể đưa ra ý kiến tư vấn giúp em có thể chọn một con đường đúng đắn nhất cho tương lai của bản thân

- MC: Thì ra là vậy thế thì mong là đến cuối chương trình của ngày hôm nay bạn có thể có thêm những suy nghĩ để định hướng cho tương lai của bản thân.. Và xin cảm ơn ý kiến của 3 bạn. Những bạn học sinh đã đưa ra ý kiến của bản thân mình.

Có mặt tại trường quay hôm nay còn có những người làm công tác giáo dục và

các bậc phụ huynh. Không biết thầy và phụ huynh có ý kiến thế nào:

MC quay sang bác B: Theo cháu được biết thì hiện tại con trai của bác đang là công dân lao động xuất khẩu ở nước ngoài phải không ạ. Bác suy nghĩ gì về ý kiến của các bạn học sinh ở trên không ? Nếu được xin bác hãy đưa ra một vài lời khuyên cho các bạn học sinh đang ở trường quay ạ!.

- Bác B trả lời: Thực ra lúc đầu khi nghe con bày tỏ ý định muốn xuất khẩu lao động thì tôi đã khá bất ngờ và hoàn toàn không đồng ý cho con đi. Bởi vì lúc đó tôi nghĩ rằng chỉ còn học thì còn mời có thể bước đi trên con đường dẫn tới thành công và cũng có thể đó chỉ là một quyết định táo bạo đường đột của con theo trào lưu của bạn bè những người xung quanh. Phải biết rằng con đường xuất khẩu lao động là một con đường khá nguy hiểm bởi một đứa trẻ như con

- MC : Bác có thể chia sẻ kỹ hơn được không ạ?

- Bác B trả lời: Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông đồng ý là các con đã đủ lớn để quyết định định hướng cho bản thân mình. Nhưng mà con vẫn chưa đủ chín chắn để có

88

thể đưa ra một quyết định tạo báo như là xuất khẩu lao động. Phải biết rằng con đường xuất khẩu lao động không hề dễ dàng như người ta nói, áp lực của đồng tiền những khó khăn khi ở đất khách quê người, lo lắng con sẽ phải một mình chịu đựng mọi thứ khi đó gánh nặng của cuộc sống sẻ hoàn toàn đè lên đôi vai con.

Cũng có rất nhiều bạn trẻ quyết định đi xuất khẩu lao động, và cũng vì không chịu được những gánh nặng đó nên lại quay về và lỡ cơ hội vào đại học. Tôi đã tâm sự với con như thế và đồng thời còn cũng giải bày tâm sự cũng như quyết tâm vì sao muốn xuất khẩu lao động cho tôi. Khi tâm sự cùng con tôi nhận ra rằng những quyết tâm trong từng lời nói ánh mắt của con và tôi nhận ra xuất khẩu lao động là một giấc mơ mà con đã ấp ủ bấy lâu, con đã nghiên cứu suy nghĩ rất kỹ lượng để đưa ra quyết định ngày hôm nay. Ngay sau đó tôi đã suy nghĩ rất nhiều tôi nghĩ rằng mình không nên kìm hảm mong muốn của con tôi đồng ý.

Và thật may mắn rằng, sau khi trải qua bao nhiêu khó khăn và gian khổ bây giờ

con cũng đã có một cuộc sống và công việc ổn định ở nước ngoài.

- MC: Xin cảm ơn những chia sẻ đầy cảm xúc của bác ạ (quay sang thầy giáo).Vậy con thầy giáo. Hỏi thầy nghĩ sao về con đường mà học sinh mình nên đi sau tốt nghiệp trung học phổ thông ạ?

- Thầy giáo trả lời: tôi đồng tình với ý kiến của bác về những khó khăn mà các em sẽ gặp phải khi xuất khẩu lao động. Các em vẫn chưa hình dung ra được khi xuất khẩu lao động các em phải đối mặt với những điều gì. Thứ nhất để có thể xuất khẩu lao động các em phải tốn rất nhiều tiền bạc để có thể đi đến nơi làm việc mình mong muốn chưa kể áp lực đồng tiền phẩi cuộc sống sẽ đè nặng lên đôi vai của các em khi các em còn quá trẻ để có thể kiểm soát được mọi thứ. Chưa kể nếu các em chọn con đường học đại học thì các em hoàn toàn có thể vừa học vừa làm thêm. Khá khó khăn khi phải cân bằng giữa việc học và làm thêm nhưng đồng thời nó sẽ giúp các em có thêm kỹ năng cho công việc sau này và còn có một khoản chi tiêu giúp các em đỡ đần gia đình hơn.

- MC: cảm ơn ý kiến của thầy giáo ạ. Không biết răng sau khi nghe ý kiến của bác B và thầy giáo thì 3 bản học sinh của chúng ta có muốn nói gì không ạ?

- D trả lời: vậy như lời thấy giáo đã nói thì em nghĩ rằng lứa tuổi sau trung học phổ thông không còn là quá nhỏ nữa. Và nếu như đã quyết tâm chịu được áp lực thì xuất khẩu lao động sẽ là một con đường rất đúng đắn ạ.

- E trả lời: em hoàn toàn hiểu nỗi âu lo của bác B và đồng tình với ý kiến của thầy giáo ạ. Theo em thì đại học vẫn là con đường an toàn và chiếc bằng đại học trình là một

89

trong những chiếc chìa khóa góp phần mở ra cảnh cửa thành công trong tương lai của em.

- H: thật khó để lựa chọn khi ý kiến của mọi người đều rất thuyết phục ạ TT.

M : Thật sự chúng tôi mong rằng những ý kiến trong buổi phỏng vấn ngày hôm nay sẽ giúp cho bạn có thể định hướng về con đường của bản thân trong tương lai ạ.

- H trả lời: Vâng ạ. Em cảm ơn chương trình rất nhiều ạ.

MC ( quay mặt nhìn về phía màn hình) : như vậy các bạn có thể thấy chỉ một vấn đề “ bạn có muốn đi xuất khẩu lao động sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông hay không “ chúng ta đã nhận được không ít những ý kiến trái chiều nhau và mỗi ý kiến đều có lý lẽ và lập luận riêng của mình , tuy nhiên theo bản thân tôi về việc có nên xuất khẩu lao động hay không hãy lắng nghe bản thân bạn nói và suy xét hoàn cảnh của gia đình, bối cảnh xã hội nhưng để có thể xuất khẩu lao động bạn cần phải có sự chuẩn bị:

+bạn cần phải xác định rõ khả năng của mình

+ bạn cần chuẩn bị cho bản thân những hiểu biết về xuất khẩu lao động sức khỏe sự tự tin và không ngừng học hỏi

+bạn không nên hồ đồ phẩi cần xác định rõ thử bản thân mong muốn

+ chuẩn bị tinh thần để đương đầu với những khó khăn nơi đất khách quê người

+ và hãy luôn lắng nghe ý kiến của mọi người xung quanh

MC (tiếp): chương trình đến bây giờ xin được phép kết thúc . Xin được cảm ơn các khách mời và hẹn gặp lại các bạn trong chương trình lần sau.

90