M C L C

1

L IỜ  M  Đ U

Ở Ầ Từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa. Cùng với sự phát tiển của nhân loại, xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các khu vực, quốc gia, dân tộc trên thế giới.

Toàn cầu hóa làm nảy sinh nhu cầu hội nhập quốc tế của tất cả các quốc gia; không phân biệt trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị hay tôn giáo. Hội nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.

Bước sang thế kỉ XXI, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế chủ yếu của các quốc gia trên thế giới , trong đó có Việt Nam. Quá trình này đã và đang tạo ra cho Việt Nam những cơ hội để bứt phá và phát triển. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế không chỉ đem đến những cơ hội mà còn đặt ra cho mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là những quốc gia nhỏ, yếu, đang phát triển những khó khăn, thách thức to lớn trên mọi phương diện. Đại hội XI của Đảng (2011) khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” được Đại hội nêu ra thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là sự chủ động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội nhập với qui mô toàn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh... Bước phát triển này trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong bối cảnh quốc tế mới.

Việc tìm hiểu, nghiên cứu xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế có giá trị lý luận và thực tiễn quan trọng. Ngoài việc góp phần bổ sung tài liệu chuyên

2

sâu về xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế chuyên đề còn giúp chúng ta nhận thức rõ và có sự “chủ động và tích cực” trong xu thế chung của nhân loại.

Đi sâu nghiên cứu xu thế toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế còn phục vụ công tác giảng dạy và liên hệ thực tiễn nội dung xu thế toàn cầu hóa, công cuộc đổi mới trong chương trình lịch sử lớp 12, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp ở trường phổ thông.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “ Xu thế toàn cầu hóa và

quá trình hội nhập quốc tế ” làm đề tài nghiên cứu.

Mục đích của đề tài:

- Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, biểu hiện và những tác động của xu thế toàn cầu hóa.

- Tập hợp, hệ thống hóa các nguồn tư liệu về chủ trương của Đảng về hội nhập

quốc tế.

- Hệ thống, khái quát về quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, những cơ hội,

thách thức.

- Vận dụng giải quyết một số câu hỏi cụ thể

- Đề tài là tài liệu quan trọng cho giáo viên, học sinh khi giảng dạy, học tập

chuyên đề quan hệ quốc tế và ôn luyện học sinh giỏi các cấp.

3

Ộ PH N N I DUNG

CH

Ế NGƯƠ  I: XU TH  TOÀN C U HÓA

VÀ QUÁ TRÌNH H I NH P QU C T

ế

1. Xu th  toàn c u hóa

1.1. Khái niệm toàn cầu hóa

Khái niệm toàn cầu hóa xuất hiện từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh đễ diễn đạt một nhận thức của con người về một xu thế, một bộ phận trong quan hệ quốc tế hiện đại.

Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức, hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế trên toàn cầu.

Tùy vào góc độ tiếp cận từ nhiều phía như: nguồn gốc, biểu hiện, bản chất mà khái niện toàn cầu hóa được hiểu theo các cách khác nhau. “ Toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về chất, bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng xảy ra ở vùng miền này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền, các cộng đồng người khác trên quy mô toàn thế giới”.

Toàn cầu hóa là xu thế bao gồm nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong các mặt đó toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm vừa là cơ sở thúc đẩy các lĩnh vực khác của toàn cầu hóa nói chung. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế ngày nay là sự phụ thuộc lẫn nhau trên phạm vi toàn cầu, sự hình thành trên thị trường thế giới và phân công lao động quốc tế, sự di chuyển tự do về tư bản, hàng hóa và nhân công trên phạm vi toàn cầu. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 và đầu thập kỷ 90 đã làm biến đổi trật tự hệ thống thế giới. Cũng trong thời điểm chuyển đổi ấy, khái niệm “toàn cầu hoá” bắt đầu hình thành và được sử dụng một cách phổ biến. Những quan hệ, liên kết vượt lên trên quốc gia, đôi khi người ta cách điệu thành “siêu quốc gia”, ấy được gọi là quá trình quốc tế hoá. Đa số bắt nguồn từ cơ sở kinh tế, nhưng cũng có những quan hệ được dựng lên bởi những tham vọng, lý tưởng chính trị không có nguồn gốc từ những cơ sở kinh tế – xã hội hiện thực. Những quốc gia dân tộc đã thực sự trưởng thành đến lúc tham dự một cách có ý thức vào một quá trình mới, hình thành hệ thống thế giới. Nó mở đường cho sự hình thành một hệ thống toàn thế giới. Về mặt khái niệm, đó là lúc khái niệm “quốc tế hoá” được thay thế bởi khái niệm “toàn cầu hoá”

4

Toàn cầu hoá là quá trình hình thành một chính thể thống nhất toàn thế giới. Đó là sự ảnh hưởng, tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế, và vận hành trong một trật tự hệ thống toàn cầu.

Toàn cầu hoá có thể được xem xét như một quá trình lịch sử tự nhiên. Roland Robertson là người đi đầu trong quan niệm này. Ông gọi nó là quá trình hội tụ thế giới trên phạm vi rộng, phân biệt với các quá trình trên phạm vi nhỏ hơn diễn ra trong quốc gia hay địa phương. Hàm ý của R.Robertson là lịch sử toàn thế giới đi theo một tiến trình hợp nhất, thông qua việc hình thành nên những thực thể xã hội lớn dần – mà lớn nhất là thực thể toàn cầu – và ngay trong quá trình hình thành các thực thể trung gian đã hàm chứa quá trình toàn cầu hoá, dưới dạng manh nha. Ông cho rằng, tiến trình toàn cầu hoá bắt đầu ở Châu Âu đầu thế kỷ XV.

Nó được mở rộng ra ngoài phạm vi Châu Âu từ giữa thế kỷ XVIII. Robertson phân quá trình này thành hai giai đoạn: từ 1750 đến 1870 là giai đoạn “toàn cầu hoá phôi thai”, còn từ 1870 đến những năm 1920 như là giai đoạn thiết yếu của sự “cất cánh” đưa đến sự thiết lập một xã hội toàn cầu. Hai giai đoạn này được xác định với một hỗn hợp của những sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá và công nghệ. Từ cách tiếp cận xã hội học tôn giáo, Robertson vẫn có được một cái nhìn khá biện chứng về quá trình toàn cầu hoá. Ông không coi nó là quá trình đồng nhất toàn cầu, mà là sự thâm nhập lẫn nhau giữa cái toàn cầu (the global) và cái địa phương (the local). Trong kinh doanh, nó thể hiện bằng sự hợp tác toàn cầu đáp ứng nhu cầu sản phẩm và thị trường của địa phương theo từng hoàn cảnh cụ thể, tương thích với sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, Robertson đưa ra khái niệm “glocalization” hay “local globalization” (toàn cầu hoá có tính địa phương.

Tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế bao hàm sự lưu chuyển ngày càng tự do hơn và nhiều hơn hàng hoá, vốn, công nghệ và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Đó chính là phương thức để giải quyết mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển của sức sản xuất, một quá trình làm cân đối cung cầu đối với những yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, bao gồm vốn, công nghệ, quản lý, nhân công và hàng hoá nhằm tối ưu hoá việc phân bố và sử dụng những yếu tố này trên phạm vi toàn cầu.

Như vậy, toàn cầu hoá là một quá trình khách quan của xã hội loài người, cả thế giới chỉ có một quá trình toàn cầu hoá duy nhất đang trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, mỗi nước - đặt biệt là các nước đang phát triển – không thể có sự lựa chọn: tẩy chay toàn cầu hoá này hay chỉ tham gia vào toàn cầu hoá kia, hoặc

5

chờ đợi làn sóng toàn cầu hoá mới nào đó có lợi cho mình. Việt Nam cũng không là trường hợp ngoại lệ. Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Anan đã nói “ Những người thua cuộc thực sự trong một thế giới còn rất nhiều bất bình đẳng ngày nay không phải là những người đã phải đối mặt quá nhiều với toàn cầu hoá mà là những người bị gạt ra lề của quá trình ấy”. Thủ tướng Phan Văn Khải cũng không chỉ rõ: “Chúng ta cần cùng nhau tìm ra các biện pháp nhằm tối đa hoá các mặt tích cực và tối thiểu hoá các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá, đặc biệt là ngăn chặn sự phát triển của đói nghèo tại các nước đang phát triển vì các nước này tham gia vào quá trình toàn cầu hoá là nhằm đạt được một sự phát triển ổn định và bền vững”.

Như vậy, xét về bản chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạng mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.

1.2 Nguồn gốc của toàn cầu hóa

Từ những năm 40 của thế kỉ XX, khởi đầu từ nước Mĩ, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ hai bùng nổ. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ngày nay xuất phát từ: Những đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người, nhất là trong tình hình bùng nổ dân số thế giới và sự vơi cạn nghiêm trọng các nguồn tài nguyên; Những thành tựu khoa học - kỹ thuật cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã tạo tiền đề và thúc đẩy sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần hai; Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ là điều kiện để khoa học – kỹ thuật phát triển nhằm sáng chế ra nhưng vũ khí, phương tiện thông tin...

Đặc điểm lớn nhất của cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại là khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mọi phát minh kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học. Cách mạng khoa học và cách mạng kĩ thuật không tách rời nhau, mà gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật.

Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại diễn ra trên quy mô rộng lớn, trong mọi ngành, mọi lĩnh vực, phát triển với tốc độ nhanh và đạt được những thành tựu kì diệu chưa từng thấy. Cuộc cách mạng công nghệ trở thành cốt lõi của cách mạng khoa học – kĩ thuật.

– Trong các ngành khoa học cơ bản như Toán học, Vật lí học, Hoá học, Sinh học có nhiều phát minh mới… Đặc biệt là tạo ra được cừu Đôli bằng phương pháp sinh sản vô tính (tháng 3-1997), lập được “Bản đồ gen người” (tháng 6-2000), giải mã hoàn chỉnh bản đồ gien người (4-2003).

6

– Trong lĩnh vực công nghệ đã xuất hiện những phát minh quan trọng, những

thành tựu to lớn:

+ Những công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động…)

+ Nguồn năng lượng mới (năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử…)

+ Vật liệu mới (chất pôlime, những vật liệu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn…)

+ Công nghệ sinh học (công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi

sinh, công nghệ emzim, dẫn tới cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp)

+ Trong lĩnh vực thông tin liên lạc và giao thông vận tải (cáp sợi thuỷ tinh

quang dẫn, máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hoả tốc độ cao)

+ Chinh phục vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, du hành vũ trụ).

+ Công nghệ thông tin với sự hình thành mạng thông tin toàn cầu (Internet), được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành kinh tế và hoạt động xã hội, đưa nền văn minh nhân loại sang một chương mới “văn minh thông tin”.

Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện đại đã có những tác động sâu sắc tới

nền kinh tế quốc tế.

Trước hết làm thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế: Tỉ trọng nông nghiệp, công nghiệp giảm, tỉ trọng dịch vụ tăng. Hiện nay, tỉ trọng nông nghiệp trong GDP ở các nước công nghiệp phát triển giảm mạnh, tỉ trọng của ngành công nghiệp có tăng chút ít ở một số nước, còn ở một số nước lại giảm xuống, tỉ trọng của ngành dịch vụ (bao gồm ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương nghiệp bán buôn và bán lẻ, các thiết chế tài chính – tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, các dịch vụ sinh hoạt, giao dịch và văn hóa – xã hội) tăng lên mạnh.

Thứ hai: Trong nội bộ từng ngành cũng có nhiều sự thay đổi, đặc biệt là trong công nghiệp dịch vụ. Trong công nghiệp đã chuyển từ loại hình cơ cấu tiêu hao nhiều năng lượng, lao động, tài nguyên sang loại hình cơ cấu có hàm lượng khoa học, tri thức và công nghệ cao, tốc độ của những ngành này đã vượt tốc độ phát triển bình quân của sản phẩm công nghiệp.

Thứ ba: Cùng với sự thay đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu việc làm cũng có sự thay đổi mới. Đội ngũ người lao động – lực lượng sản xuất cơ bản biến đổi cả về trình độ, cơ cấu và cả các yếu tố cấu thành giá trị hàng hóa sức lao động. Cơ cấu lao động thay đổi theo hướng tiến bộ, các yếu tố tái sản xuất sức lao động đã ngày càng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của quá trình tái sản xuất xã hội. Nền sản xuất xã hội bước dần sang nến sản xuất trí tuệ, đòi hỏi người lao động càng phải có trình độ

7

khoa học, trình độ công nghệ, tay nghề cao, làm tỷ lệ công nhân cổ trắng ngày càng tăng.

Thứ tư: Thay đổi trong hình thức sản xuất và tổ chức sản xuất. Xuất hiện hình thức mới là các khu công nghệ cao mà ở đó sản xuất và khoa học kết hợp làm một. Ðó là hình thức sản xuất mới của nền kinh tế tri thức, của xã hội thông tin. Các khu công nghệ cao hay còn gọi là các “công viên công nghệ cao” đang phát triển rất mạnh.

Như vậy, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ với việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đã trở thành điều kiện quan trọng để đưa lực lượng sản xuất tiến lên một bước phát triển mới làm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm.

Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, nguồn vốn, trình độ kĩ thuật, công nghệ, nguồn lực, trình độ quản lí…giữa các quốc gia thì sự trao đổi quốc tế là tất yếu khách quan và diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn, quy mô càng lớn hơn. Đối tượng tham gia vào việc trao đổi quốc tế được mở rộng rất nhiều, dẫn đến nhu cầu tất yếu về hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học công nghệ: chuyên môn hóa với hợp tác hóa quốc tế trong sản xuất và hợp tác với trao đổi quốc tế trong các lĩnh vực khác.

Kết luận: Cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm tăng năng suất lao động , đưa tới sự hình thành một thị trường thế giới với xu thế toàn cầu hóa.Toàn cầu hóa chính là hệ quả quan trọng của cachs mạng khoa học công nghệ, xuất hiện từ đầu những năm 80 thế kỉ XX.

1.3 Biểu hiện của toàn cầu hóa

Thứ nhất: Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế, các nước

trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau.

Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, đây là một lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các quốc gia vào sự phát triển kinh tế và sự phân công lao động. Do tác động của cách mạng khoa học công nghệ, năng suất lao động ngày càng tăng tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn, dẫn đến nhu cầu trao đổi thoát ra khỏi phạm vi thị trường quốc gia. Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn đều đi theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực, trong đó thương mại là một trong những lĩnh vực được coi là trọng tâm Do vậy, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giá trị trao đổi thương mại trên phạm vi quốc tế ngày càng tăng.

8

Thương mại quốc tế ngày càng tăng có nghĩa là nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, tính quốc thế hóa của nền kinh tế thế giới tăng.

Thứ hai: Sự phát triển và những tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia. Sự phát triển của lượng sản xuất dưới tác động của khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình tich tụ và tập trung sản xuất hình thành các công ti có quy mô lớn. Quan hệ quốc tế ngày càng phát triển làm cho các công ty liên minh với nhau trong quá trình sản xuất và phân phối hàng hoá trên thị trường thế giới đã hình thành nên các công ty độc quyền quốc tế .Tích tụ và tập trung sản xuất đạt đến một mức độ nhất định làm cho các nhà độc quyền quốc gia vươn ra khỏi biên giới quốc gia hoạt động trên phạm vi quốc tế thực hiện phân chia thế giới về mặt kinh tế.Tập trung sản xuất có bước phát triển mới thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và trở thành cơ sở kinh tế quan trọng của sự mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của các công ty xuyên quốc gia có phạm vi hoạt động không biên giới.

Các công ti xuyên quốc gia có vai trò và tác động lớn đến sự phát triển kinh tế thế giới. Các công ti xuyên quốc gia thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, đẩy mạnh quan hệ hàng hóa, tài chính trên phạm vi toàn cầu. Sự phát triển của các công ti xuyên quốc gia đã phá bỏ được những hàng rào biên giới quốc gia, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất. Các công ti xuyên quốc gia còn có tác động đến quá trình trao đổi hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy đầu tư quốc tế, thúc đẩy tự do hóa đầu tư giữa các quốc gia. Bên cạnh đó các công ti xuyên quốc gia còn tạo cơ hội việc làm và thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực.

Thứ ba: Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn, nhất là các công ti khoa học – kĩ thuật, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Làn sóng sáp nhập này tăng lên nhanh chóng vào những năm cuối thế kỉ XX.

Cạnh tranh ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Trong điều kiện phát triển mới, cường độ cạnh tranh không hề giảm bớt mà có xu hướng gia tăng với những kết quả hoặc những tổn thất không lường. Việc sáp nhập và hợp nhất các công ti đưa lại lợi ích to lớn giúp giảm chi phí đầu tư và hội tụ đầy đủ các tiềm lực

9

và thuận lợi để các tập đoàn phát triển lớn mạnh và đạt được lợi thế cạnh tranh trên thương trường.

Thứ tư: Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. (Quỹ tiền tệ quốc tế – IMF, Ngân hàng thế giới – WB, Tổ chức thương mại thế giới – WTO, Liên minh châu Âu – EU, Hiệp ước thương mại tự do Bắc Mĩ – NAFA, Khu vực thương mại tự do – ASEAN(AFTA)…).

Xu thế toàn cầu hóa mà trọng tâm là toàn cầu hóa kinh tế, việc mở rộng thương mại quốc tế, sự phân công lao động quốc tế đã dẫn đến sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực. Nhờ có sự phân công lao động trong các khối liên kết kinh tế, tài chính, thương mại mà mỗi nước sử dụng hiệu quả hơn, kinh tế hơn các thế mạnh tuyệt đối và tương đối của mình, - làm cho các thành tựu khoa học kỹ thuật được sử dụng tối ưu, tăng năng suất lao động ... Liên kết kinh tế khu vực giúp cho mỗi quốc gia tăng cường sức cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế, nhằm hạn chế những ảnh hưởng xấu của quá trình hội nhập toàn cầu và những bất lợi của quá trình đó để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế của quốc gia mình.

Những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hóa: Sự phát triển nhanh chống của quan hệ thương mại quốc tế; Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia; Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn; Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực.

1.4. Tác động của toàn cầu hóa

Toàn cầu hoá là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược. Nó có tác động tích cực và tiêu cực.

* Tác động tích cực

Toàn cầu hóa thúc đẩy rất nhanh sự phát triển và xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao (nửa đầu của thế kỷ XX, GDP thế giới tăng hơn 2,7 lần, đến cuối thế kỷ thì đã tăng lên 5,5 lần).

Toàn cầu hóa góp phần chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đưa tới bước chuyển dịch mạnh về chất: Tỷ trọng các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa vào công nghệ cao và tri thức tăng mạnh. Đây là cơ hội và tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển và hiện đại hóa xã hội loài người.

10

Mặt khác, toàn cầu hóa truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn những thành quả, những đột phá sáng tạo về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các dân tộc, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

Toàn cầu hóa tạo nên khả năng phát triển rút ngắn của các quốc gia, mang lại những nguồn lực rất quan trọng, cần thiết cho các nước đang phát triển từ các nguồn vốn vật chất đến các nguồn tri thức và kinh nghiệm.

Toàn cầu hóa đã gây sức ép gay gắt về mặt cạnh tranh do dó đòi hỏi các nền

kinh tế phải tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả.

Mặt khác, toàn cầu hóa mở ra những thị trường mới, những đối tác mới cho từng nước như các nước đang phát triển. Toàn cầu hóa thực chất là mở rộng và phát triển thị trường toàn cầu. Sự giao lưu hàng hóa thông thoáng hơn, hàng rào quan thuế và phi quan thuế bị dỡ bỏ, nhờ đó trao đổi hàng hóa tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của các nước. Nửa đầu thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán của thế giới tăng 2 lần, đến nửa sau thế kỷ XX, do cắt giảm hàng rào quan thuế và phi quan thuế nên kim ngạch buôn bán của thế giới đã tăng 50 lần. Sự phát triển mạnh mẽ thị trường toàn cầu dưới tác động của toàn cầu hóa đã cho phép các nước đang và chậm phát triển có thể tận dụng các nguồn lực của mình, nhất là nguồn lực lao động dồi dào để tạo ra lợi thế cạnh tranh trong một số ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ.

Toàn cầu hóa còn là quá trình được mở rộng tới mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Đó là quá trình giao lưu, trao đổi, hội nhập và cả đấu tranh một cách tự nhiên giữa các nền văn hóa. Thông qua các hình thức liên kết kinh tế, chuyển giao công nghệ, luân chuyển vốn và mở rộng thị trường, các nền văn hóa khác nhau có điều kiện giao lưu, truyền bá, lan tỏa trở nên phong phú và đa dạng.

* Tác động tiêu cực

Toàn cầu hóa làm tăng thêm sự bất công xã hội, khoét sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Khoảng cách giữa giàu và nghèo ngày càng lớn. Các nước công nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân số thế giới hiện đang chiếm tới 85% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp của nước ngoài và 75% số máy điện thoại; trong khi đó các nước nghèo nhất chiếm 1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra 1%GDP toàn thế giới.

11

Toàn cầu hóa cũng làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người thêm

kém an toàn, từ kinh tế, tài chính, văn hóa xã hội cho đến môi trường...

Mặt khác, về mặt xã hội, toàn cầu hóa cũng tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc văn

hóa dân tộc và nguy cơ nền độc lập tự chủ của các quốc gia bị xâm phạm.

Kết luận: Xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các dân tộc, khu vực, quốc gia trên thế giới. Toàn cầu hóa chính là thời cơ lịch sử, tạo ra cơ hội to lớn cho sự phát triển mạnh mẽ của các quốc gia nhưng đồng thời cũng đưa tới muôn vàn những khó khăn thử thách.

12

CH

NGƯƠ  II. QUÁ TRÌNH H I NH P QU C T

1. B i c nh l ch s

ố ả Sau Chiến tranh lạnh, hầu như các quốc gia đều ra ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm ... Mĩ cố gắng vươn lên “Trật tự đơn cực”. Trong khi đó, Nhật, Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc cố gắng duy trì “Trật tự đa cực”.

Các nước lớn đã điều chỉnh các quan hệ đối với nhau chiều hướng đối thoại, thỏa hiệp, tránh xung đột trực tiếp hoặc tạo lập những tập hợp lực lượng riêng... Vai trò của Liên hợp quốc được tăng cường và đề cao trong việc duy trì trật tự, an ninh thế giới...

Xu thế đối thoại, hợp tác, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, cùng tôn trọng lẫn nhau trong cùng tồn hoà bình đang ngày càng trở thành xu thế chủ yếu trong các mối quan hệ quốc tế.

Tuy hòa bình là xu thế chủ đạo của tình hình thế giới sau Chiến tranh lạnh nhưng nhiều khu vực vẫn diễn ra nội chiến và xung đột, sự ổn định các quốc gia bị đe dọa bởi nguy cơ li khai, khủng bố ...

Từ thập kỉ 80 thế kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ xu thế “toàn cầu hóa” ... Đây là xu thế khách quan’ đối với các nước đang phát triển đây vừa là thời cơ vừa là thách thức gay gắt trong đó có Việt Nam.

Trải qua 10 năm thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976 – 1980 và 1981 – 1985), Việt Nam đạt được những kết quả nhất định trên cả hai phương diện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, song cũng gặp nhiều khó khăn. Đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế – xã hội, do “sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải tiến hành công cuộc đổi mới.

Những thay đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật trở thành xu thế thế giới, đặt ra yêu cầu phải đổi mới.

Cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khi các nước này đang tiến hành công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Tình hình đó cũng đòi hỏi Đảng và Nhà Việt Nam phải tiến hành đổi mới.

13

Kết luận: Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là cơ bản nhất, đã trở thành xu thế chung của thời đại, đang tác động mạnh mẽ và làm biến đổi căn bản đời sống của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.

ủ ươ

2. Ch  tr

ế ề ộ ng c a Đ ng v  h i nh p qu c t

Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của việc mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước hoà vào trào lưu phát triển chung của thế giới.

Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra bước ngoặt trong tư duy và thực tiễn hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội chỉ rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi”. Nghị quyết Đại hội cũng xác định nội dung chính của chính sách kinh tế đối ngoại trước hết bao gồm: đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài...

Đại hội VII của Đảng (1991) tuyên bố đường lối đối ngoại rộng mở: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, mở ra bước đột phá trong quá trình hội nhập quốc tế. Đại hội xác định nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là: “mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi”

Đại hội VIII của Đảng (1996) đã đưa ra chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội nhấn mạnh phải mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.

Bước vào thế kỷ mới, Đại hội IX của Đảng khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Đại hội xác định độc lập tự chủ là cơ sở để thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng

14

hoá, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam, không chỉ "sẵn sàng là bạn" mà còn sẵn sàng “là đối tác tin cậy của các nước" và "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

Chủ trương hội nhập quốc tế tiếp tục được hoàn thiện thêm tại Đại hội X của Đảng (4/2006). Cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, Đại hội khẳng định quan điểm: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”.

Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ trương hội nhập quốc tế với sự khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” được Đại hội nêu ra thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là sự chủ động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội nhập với qui mô toàn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh...

Xuyên suốt quá trình gần 30 năm đổi mới, có thể thấy quan điểm về đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển; Tiếp tục tạo môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình.

3. Quá trình hội nhập quốc tế qua 30 năm đổi mới của Đảng ta

15

Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác…Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74). Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước, nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta.

Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứ VI của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Việc triển khai Nghị Quyết Đại hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá bỏ tại các nước này, Liên bang Xô Viết tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết 13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990, đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu tư với nước ngoài với những quy định khá thông thoáng. Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm, đồng thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “Với chính sách đối ngoại rộng mở,

16

chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển”. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu ra tư tưởng chỉ đạo là “giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo. Năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta có quan hệ”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm: bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Hội nghị Trung ương 4 khoá VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA”.

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những điều kiện cho một trình độ phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở rộng thị trường để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tiếp đó hội nhập kinh tế tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Tạo cơ hội giao lưu các nguồn lực của nước ta với các nước, bởi chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng nếu không hội nhập thì việc sử dụng trong nước sẽ bị lãng phí, kém hiệu quả. Thông qua hội nhập ta có thể xuất khẩu lao động qua hợp đồng gia công hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có.

Mặt khác, mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa quá trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là những cải cách về phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế để tham

17

gia ngày càng nhiều hơn vào phân công lao động quốc tế và mở rộng quá trình dân chủ hoá xã hội. Với một nền kinh tế yếu kém, nếu không tranh thủ được những cơ hội do toàn cầu hoá mang lại – dù là toàn cầu hoá đang do chủ nghĩa tư bản chi phối – thì chúng ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được.

Chỉ riêng vấn đề “học hỏi” chủ nghĩa tư bản chứ chưa nói đến tranh thủ những nguồn lực, phương tiện vật chất cần thiết, đã là một tất yếu khách quan, một yêu cầu bắt buộc đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển và đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng. Bởi vì như Lênin đã nói : “chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được”

Tuy nhiên, toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vô cùng phức tạp. Nó không chỉ đem đến cho chúng ta những cơ hội thuận lợi mà còn có cả những thách thức và khó khăn mới nảy sinh.

Thách thức lớn nhất với nước ta là tình trạng thấp kém của nền kinh tế, khoảng cách về trình độ phát triển giữa ta với các nước trong khu vực và trên thế giới còn rất xa. Học thuyết tự do mới về toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia phải mở toang cửa nền kinh tế đất nước, phải thực hiện triệt để tự do hoá thị trường bên trong và bên ngoài, phải thả nổi tiền tệ, phải tư nhân hoá, phải giảm mạnh vai trò kiểm soát của Nhà nước theo hướng: “Nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa”. Vì vậy các doanh nghiệp trong nước phải chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng các nước khác.

Mà xu hướng tự do hoá thương mại quốc tế càng phát triển thì cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt. Điểm đặc biệt là ta phải cạnh tranh ngay từ đầu, trên tất cả các mặt trận, với những thế lực mạnh hơn nhiều về thực lực và trình độ. Tại diễn đàn Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XI, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng nhiều lần nhấn mạnh : “Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế thua kém nhiều nước xung quanh là điều bất lợi lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế” Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đứng trước yêu cầu phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu tư theo chiều sâu để nền kinh tế đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, chúng ta đứng trước khó khăn rất lớn trong việc điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách làm sao vừa bảo đảm cho đổi mới thành công, nền kinh tế phát triển bền vững; vừa phù hợp với cam kết quốc tế; lại có khả năng khắc phục những tiêu cực, rủi ro do hội nhập đem lại. Nhìn chung, nếu không vượt qua được những thách thức này, chúng ta không thể có chủ nghĩa xã hội trong thực

18

tế. Mặt khác, toàn cầu hoá đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối trên các lĩnh vực : thị trường, khoa học – công nghệ và vốn. Các nước tư bản đang mưu toan dinh những lợi thế này để gây sức ép đối với chúng ta.

Thực tế này đe doạ tấn công vào chủ quyền quốc gia, là xói mòn các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đe doạ sự ổn định về kinh tế và xã hội của đất nước. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần tỉnh táo trong từng bước hội nhập, cần phân tích tính hai mặt của toàn cầu hoá để nhận thức được những mặt, những xu hướng, những tác động, những quy luật vận động của nó. Trên cơ sở đó chủ động tìm ra con đường, cách thức biện pháp phù hợp trong từng bước hội nhập để tiếp tục con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới.

Từ những điều nói trên, chúng ta có thể khái quát và nhấn mạnh một số quan điểm chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta như sau: Thứ nhất chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” (Trích Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực các thành phần kinh tế của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Thứ ba, hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; đồng thời vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.Thứ tư, cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.

Cuối cùng, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng; thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình” với nước ta.

19

Ngày nay, trong thế giới luôn luôn có biến động không ngừng, xu thế hội nhập, toàn cầu hoá đang nổi lên chiếm vị trí chủ đạo khuynh hướng phát triển của thế giới trong thời gian tới. Mỗi quốc gia đều hiểu rằng không thể đứng ngoài xu thế phát triển chung của thế giới hội nhập mở cửa đồng nghĩa hoà nhập trong xu thế đi lên của xã hội loài người; đóng cửa, biệt lập cũng đồng nghĩa với bảo thủ, tự giảm khả năng phát triển. Và trong quá trình hội nhập các quốc gia phải có biện pháp cụ thể để tận dụng ở mức tốt nhất những cơ hội để phát triển.

Việt Nam cũng không thể đứng ngoài mục đích này. Nhưng với một tiềm lực kinh tế còn hạn chế, Việt Nam đứng trước những thử thách, khó khăn to lớn. Trong đó nổi bật là nguy cơ tụt hậu khoảng cách phát triển với các quốc gia tiên tiến ngày càng mở rộng hơn. Đây là hạn chế, khó khăn căn bản bởi vì củng cố tiềm lực kinh tế càng mạnh sẽ có cơ hội trong việc giữ vị thế, tiếng nói chủ động trong quá trình hội nhập và đặc biệt thương mại quốc tế. Tuy nhiên với thành tựu đạt được qua thời gian gần 20 năm đổi mới cùng với chủ trương đúng đắn phát huy nội lực trong phát triển kinh tế, nước ta sẽ vượt qua khó khăn để đạt mục tiêu tới năm 2020 trở thành quốc gia công nghiệp và xa hơn nữa, vươn lên sánh kịp với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc. Toàn cầu hóa đã tác động không nhỏ đến việc hoạch định chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta khi chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung thống nhất, xóa bỏ chủ trương phát triển nền kinh tế khép kín dựa trên nguyên tắc "tự lực cánh sinh", hạn chế các mối liên hệ với nền kinh tế thế giới. Và đã từng bước đi vào nền kinh tế thị trường quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Bên cạnh kiểu chiến lược các quan hệ kinh tế đối ngoại là quan hệ thị trường thì còn có những chính sách như: bảo hộ mậu dịch và phát triển kinh tế đối ngoại, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng để mở rộng kinh tế đối ngoại, khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại, tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại, sửa đổi và ban hành các luật pháp cần cho kinh tế đối ngoại và phù hợp với các thông lệ quốc tế mà ta sẽ cam kết,…đã phát huy sức mạnh và đạt được những thành tựu nhất định.

Như vậy, có thể nói trong xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay, đất nước ta đã

từng bước hội nhập và mở cửa và đưa ra những chính sách phù hợp.

20

Quan tâm đến phát triển kinh tế luôn là một hướng đi đúng đắn của mỗi quốc gia. Có thể thấy rằng, sau Đổi mới, Việt Nam đã chú trọng hơn đến việc hoạch định chính sách kinh tế nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng. Hãy so sánh ta có thể thấy được rõ ràng, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và sau Đổi mới mạnh mẽ và tích cực hơn thời kỳ trước Đổi Sau năm 1986. Toàn cầu hóa với những áp lực của nó sẽ thúc đẩy các quốc gia tăng cường, củng cố hơn nữa vai trò, vị trí của mình để chống chọi lại với sự cạnh tranh khốc liệt trên các phương diện đời sống chính trị, kinh tế xã hội. Chính vì thế nhà nước ta đã có những thay đổi kịp thời trong đường lối chính sách cho phù hợp cụ thể nước ta đã tiến hành đàm phán, ký kết các điều ước, các hiệp ước quốc tế, các hiệp định song phương, đa phương với các quốc gia khác để hình thành nên hành lang pháp lý, những cách xử sự chung cho các quốc gia trong hoạt động kinh tế. Để gia nhập WTO, Việt Nam đã phải đàm phán, ký kết rất nhiều hiệp định như. Có thể thấy toàn cầu hóa đã ảnh hưởng không nhỏ tới những chính sách kinh tế đối ngoại của việt nam nhưng có thể thấy được các chính sách của ta hoàn toàn chủ động trong việc phát triển kinh tế và hội nhập, tránh dẫn đến tình trạng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi toàn cầu hóa gây nên các tác động xấu đến nền kinh tế nước nhà .

Hội nhập quốc tế là một quá trình tham gia một cách chủ động của các quốc gia vào đời sống quốc tế nhằm khai thác hiệu quả những lợi thế quốc gia và lợi thế quốc tế cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Mặt khác, là việc thực hiện các nghĩa vụ quốc gia đối với các cam kết quốc tế, luật pháp quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia. Từ quan điểm, chủ trương của Đảng, quá trình mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã diễn ra và đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Tính đến năm 2011, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 179 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên đến cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã từng bước phá được thế bị bao vây cấm vận, hóa giải tương đối thành công những khó khăn, bất cập trong quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, hội nhập ngày càng chủ động, tích cực và sâu rộng với khu vực và thế giới.

Triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng xây dựng và phát triển quan hệ với các nước ASEAN.

21

Gia nhập ASEAN trở thành bước đột phá trong chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam đối với các quốc gia khu vực. Từ sau sự kiện này, Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập khu vực mạnh mẽ, đồng thời cải thiện rõ rệt vị thế và quan hệ với các nước lớn. Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ mọi cam kết và trách nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng kiến nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực, hoàn thành nhiều trọng trách trước Hiệp hội. Trong những năm qua, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA). Việt Nam đã đảm nhận thành công vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an, cơ quan quyền lực hàng đầu của Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2008 - 2009.

Trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay, hợp tác và liên kết kinh tế trên phạm vi khu vực và quốc tế là xu thế tất yếu. Tất cả các quốc gia, dù lớn, dù nhỏ, mạnh hay yếu đều tìm cách để hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả nhất, trong đó có Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đất nước chúng ta đã từng bước, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Việt Nam gia nhập ASEAN được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Việc tham gia ASEAN và thực hiện các cam kết nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN sẽ đóng góp thiết thực cho việc góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định cải thiện môi trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, tiền đề giúp Việt Nam tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.Việt Nam là thành viên tham gia sáng lập và là một thành viên tích cực của Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996; năm 1998 Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và đã được đánh giá là một trong những thành viên năng động, đóng góp tích cực cho các Diễn đàn hợp tác quốc tế quan trọng này.

Ngày 04/02/2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết chính thức, các nước thành viên đang tiến hành các thủ tục nội bộ để thông qua Hiệp định. Dự kiến TPP sẽ có hiệu lực từ năm 2018. Việc tham gia vào Hiệp định

22

TPP sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời Việt Nam có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói riêng.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh đến sự tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường trong một số lĩnh vực cụ thể như: công nghiệp, thương mại, các ngành dịch vụ…; thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương công nghiệp hóa theo hướng hiện đại; thúc đẩy thương mại, tăng thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và mở rộng quan hệ hợp tác phát triển (ODA).

Hội nhập kinh tế quốc tế khiến nước ta tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và kỹ năng quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật, văn hóa - xã hội… góp phần đào tạo cho Việt Nam có được đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý.

Sau gần 30 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động mạnh đến sự tăng trưởng, phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhờ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định mà quy mô của nền kinh tế được mở rộng nhiều lần, do đó thu nhập bình quân đầu người cũng tăng lên đáng kể: Năm 2013, GDP đầu người đạt 1.940 USD so với 86 USD vào năm 1988. Chúng ta không những thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mà còn bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình.

Trong quá trình hội nhập quốc tế cũng Việt Nam đã thực hiện mở cửa, trao đổi văn hóa với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo dục và xã hội khu vực, hợp tác chặt chẽ với các nước hướng tới xây dựng một cộng đồng văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu (tham gia Cộng đồng văn hóa- xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dục-xã hội với các nước.

Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.

4. Thời cơ, thách thức đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay

23

Chặng đường hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1986 đến nay là một quá trình đồng hành đầy thử thách, khó khăn. Những thành công đạt được có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực để Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn

Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người với nhau. Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng nhanh hơn, mạnh hơn dưới sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó kinh tế thị trường và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ là động lực hàng đầu. Hội nhập quốc tế đã, đang là một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia.

Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh - quốc phòng...) hoặc diễn ra trên cùng nhiều lĩnh vực với tính chất, phạm vi, hình thức khác nhau. Chủ thể chính của hội nhập quốc tế là các quốc gia có đủ năng lực và thẩm quyền đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế khi đã ký tham gia. Hội nhập quốc tế là một xu thế lớn, tất yếu và là đặc trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Hội nhập quốc tế đem tới cho các quốc gia không chỉ những lợi ích về mọi mặt, mà còn đặt các quốc gia trước những thách thức, bất lợi. Song, con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế.

Nội dung của hội nhập là mở rộng thị trường cho nhau, vì vậy khi Việt nam gia nhập các tổ chức quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng nhiều ưu đãi về thuế qua, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên tăng đáng kể. Kim ngạch xuất nhập khẩu VN-ASEAN tăng trung bình 15,3% hàng năm. Khi xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn. Như vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập của người lao động.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài,

viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta ra làm sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta

24

có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.

Viện trợ phát triển (ODA): Tiến hành bình thường hóa các quan hệ tài chính của Việt Nam, các nước tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ góp phần quan trọng trong việc nâng cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng…

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của Việt Nam: trong những năm vừa qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam trước đây được giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phám song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước.

Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho chúng ta tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý. Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả.

Qua đó mà các kỹ thuật và công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ thuật công nghệ nước ngoài nhằm phát triển kỹ thuật công nghệ quốc gia.

Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn là cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh được đào tạo trong và ngoài nước.

Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh bạch hơn, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Trước đây Việt Nam chủ yếu xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu. Hiện nay Việt Nam thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế giới, đồng thời cũng là thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới như: ASEAN, WTO, APEC…Chính vì thế mà hệ thống chính trị trong nước ngày càng được ổn định, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống

25

pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý làm cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện; thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh.

Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho nguồn lực nước ta được khai thông, tăng cường giao lưu với các nước, đúng theo đường lối đối ngoại của Đảng đã xác định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động, sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu, đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới và các sáng chế mà nước ta chưa có. Điều này cho thấy Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế không những mở rộng thị trường, thu hút nguồn lực vốn, tăng năng lực cạnh tranh, mà còn tăng khả năng tích lũy vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo đều kiện để nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Những thành tựu nước ta đạt được trong hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, là kết quả của quá trình thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới của Đảng và Nhà nước. Những thành tựu đó đã tạo thêm niềm tin để nước ta càng vững bước trên đường hội nhập, tận dụng tốt nhất những cơ hội mới đang mở ra.

Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố như vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại có sự lưu chuyển tự do nhanh chóng, cho nên các nước đều có khả năng tiếp cận, sử dụng với mức độ khác nhau. Cùng với dòng chảy khổng lồ về vốn, hàng loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ sản xuất và khoa học quản lý tiên tiến được thực hiện, góp phần hữu hiệu vào sự lan toả rộng rãi của các làn sóng tăng trưởng hiện đại. Việc Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế, tài chính khu vực cũng như toàn cầu, nhất là WTO tạo cơ hội tiếp cận thị trường

Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá mở ra khả năng cho nước ta, nhất là khi đã là thành viên chính thức WTO, tham gia nhanh và hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế, tận dụng mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển. Do vậy, chúng ta có cơ hội thuận lợi đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và rút ngắn thời gian công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

26

Hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh.

hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên. Nước ta có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu, từng bước mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia.

Hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế, cũng thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Dưới ảnh hưởng đó, tri thức loài người, kết tinh cô đọng ở các phát minh, sáng chế khoa học, kỹ thuật, công nghệ... được phổ biến rộng rãi toàn thế giới, tạo động lực cho sự bùng nổ trí tuệ nhân loại. Cũng như nhiều nước khác, tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta tạo ra cơ hội thuận lợi để chúng ta chia sẻ lợi ích do toàn cầu hoá đưa lại, đồng thời đóng góp thiết thực vào tiến trình phát triển hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, dân chủ hoá các sinh hoạt quốc tế, tham gia đấu tranh thiết lập trật tự kinh tế quốc tế công bằng hơn, hợp lý hơn.

Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay cũng như trong thời gian tới không chỉ có thời cơ và thuận lợi, mà còn phải đối diện với nhiều thách thức lớn. Cụ thể: Kinh tế phát triển thiếu bền vững; Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung còn thấp; Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập...

Toàn cầu hoá đã làm cho sự phân hoá giàu nghèo cũng như sự chênh lệch về thu nhập, mức sống ngày càng tăng. Sự chênh lệch đó diễn ra ở mọi phương diện, ở từng địa phương, trong từng doanh nghiệp,…Đặc biệt toàn cầu hoá kinh tế cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường của đất nước đã làm nảy sinh tư tưởng thực dụng ở không ít người. Những tác động đó cùng với một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước.

Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc,

27

một số giá trị văn hoá truyền thống không được bảo tồn, gìn giữ; một số người thay đổi nhanh chóng lối sống, tha hoá đạo đức…

Trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng không thể tách rời cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" của các thế lực chống đối trên nhiều lĩnh vực.

Do đó, chúng ta cũng cần luôn nhận thức rõ những thách thức mà nước ta phải đối mặt để từ đó tìm ra biện pháp khắc phục hữu hiệu.Về chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, nhất là các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Chủ động tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Về văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên sinh thái, di sản văn hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... có tầm ảnh hưởng quốc tế; tham gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh với các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa, chống lại nhân loại... Cần đặc biệt quan tâm việc nhân thêm và phát huy “sức mạnh mềm” của đất nước, cạnh tranh về “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai trò lớn trong quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng” văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội và cả làm xói mòn các giá trị xã hội, phát huy “sức mạnh mềm” và cả hạn chế “sức mạnh mềm” của các quốc gia, phát triển ổn định xã hội và cả gây bất ổn xã hội... Phương tiện truyền thông xã hội trở thành một hiện tượng văn hóa, một kênh thông tin, một công cụ quản trị. Bên cạnh việc tăng cường quản lý nhà nước đối với các phương tiện truyền thông xã hội, một số nước chủ động sử dụng và phát huy vai trò kênh thông tin, công cụ quản trị của các phương tiện truyền thông này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với các phương tiện truyền thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng quản lý.

Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những vấn đề cần xử lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập

28

quốc tế. Đơn cử như, trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành công. Hay là vấn đề đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn hóa, xử lý hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong xây dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu hình thành công dân toàn cầu, sự xâm nhập của các giá trị xã hội không phù hợp đối với nước ta...

Thứ tư, Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách hay thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng “luật chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.

Thứ năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh chấp. Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới còn có những cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành mà ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó, vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập là nâng cao năng lực phòng, chống, xử lý, giải quyết những tranh chấp quốc tế, gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh vực này

29

CHƯƠNG III. VẬN DỤNG CHUYÊN ĐỀ VÀO THỰC TIỄN GIẢNG DẠY

Qua chuyên đề giáo viên có thể tìm được những nội dung chuyên sâu giúp bài

dạy sâu sắc, giúp phần liên hệ thực tiễn sinh động, có hiệu quả.

Vấn đề toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế thường xuất hiện trong các kì thi học sinh giỏi môn Lịch sử. Nắm chắc được lý luận về chuyên đề này giúp giáo viên giảng dạy sâu, kĩ cho học sinh từ đó HS có thể vận dụng giải quyết tốt các dạng câu hỏi có liên quan.

Một số dạng câu hỏi thường gặp liên quan đến chuyên đề do tác giả tổng hợp.

Câu 1. Toàn cầu hóa là gì? Vì sao nói: Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, là

một thực tế không thể đảo ngược?

Ý 1. Toàn cầu hóa

Từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX, trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa. Đây là hệ quả quan trọng, tất yếu của cách mạng khoa học – công nghệ.Về bản chất, đây là quá trình tăng lên mạnh mẽ của những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.

Ý 2. Nói: Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược, vì:

Toàn cầu hóa không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người mà là xu thế

khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược.

- Bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống, của sản xuất và đời sống....

- Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, tạo nên những thay đổi lớn về kinh tế, xã hội, hình thành một thị trường thế giới, làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các dân tộc...

- Hàng loạt vấn đề quốc tế như sự gia tăng dân số, tình trạng ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, sự vơi cạn các nguồn năng lượng và nguyên liệu, kho vũ khí hủy diệt, bệnh tật hiểm nghèo, tai nạn giao thông ... đòi hỏi sự hợp tác toàn cầu để chung tay giải quyết giữa các quốc gia.

- Toàn cầu hóa làm nảy sinh nhu cầu hội nhập quốc tế của tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, nước lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo...

30

Câu 2. Phát biểu ý kiến về nhận định: Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới 12/1986 là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội nước ta.

Đảng và nhà nước ta tiến hành đổi mới năm 1986 là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội nước ta, là sự phù hợp với xu thế chung của thời đại, là sự phù hợp với xu thế chung của thời đại là nhận dịnh chính xác, phản ảnh đúng thực tiễn lịch sử nửa cuối những năm 80 của thế kỉ XX.

- Xuất phát từ bối cảnh quốc tế tác động đến Việt Nam:

+ Xu thế hòa hoãn Đông - Tây diễn ra từ đầu những năm 70 thế kỉ XX: Các cuộc gặp gỡ thương lượng Xô – Mĩ, giữa hai miền nước Đức; giữa các nước Châu Âu...

+ Tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa...

+ Tác động của xu thế cải cách, mở cửa, hội nhập trên thế giới: Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trên thế giới đã diễn ra xu thế cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế, giúp cho nhiều nước phát triển nhanh chóng , trở thành trung tâm kinh tế -tài chính của thế giới. Những nước XHCN lớn Trung Quốc, Liên Xô cũng đang đẩy mạnh cải cách, cải tổ...

+ Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đang lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Nhiều vấn đề bất lợi trong quan hệ quốc tế đang tác động đến nước ta: Mĩ cấm vận về kinh tế (từ năm 1975), sự căng thẳng kéo dài trong mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương với ASEAN và Trung Quốc...

Như vậy, đổi mới đất nước lúc này là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối

với chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là sự phù hợp với xu thế chung của thời đại

- Xuất phát từ tình hình Việt Nam sau 10 năm cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội:

+ Trong 10 năm đầu cả nước ta cùng đi lên chủ nghĩa xa hội, nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể, song cũng gặp nhiều khó khăn, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hôị kéo dài...

+ Ta mắc phải những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng, kéo dài, chưa được sửa đổi, nếu cứ tiếp tục kéo dài sẽ ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân... Để khắc phục, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đưa cách mạng xã hội chủ nghĩa đi lên, Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.

Câu 3. Thế nào là xu thế toàn cầu hoá? Nêu biểu hiện của xu thế này và ảnh

hưởng của nó đến sự phát triển của thế giới.

1. Bản chất :

31

Xu thế toàn cầu hóa là hệ quả quan trọng của cách mạng khoa học – công nghệ

từ đầu những năm 80 của thế kỉ XX.

Về bản chất, đây là quá trình tăng lên mạnh mẽ của những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.

2. Những biểu hiện chủ yếu của xu thế toàn cầu hoá :

- Sự phát triển nhanh chóng của quan hệ thương mại quốc tế.

- Sự phát triển và tác động to lớn của các công ti xuyên quốc gia...

- Sự sáp nhập và hợp nhất các công ti thành những tập đoàn lớn...

- Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu

vực (IMF, WB, WTO, EU, ASEAN, APEC, ASEM)

Câu 4. Phân tích những tác động tích cực và tiêu cực của cuộc cách mạng khoa

học – công nghệ đối với cuộc sống của con người.

Toàn cầu hoá là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,

là xu thế khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược.

Về mặt tích cực, toàn cầu hoá thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển và xã hội hoá của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao, góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế, đòi hỏi tiến hành cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế…

Về mặt tiêu cực, toàn cầu hoá đã làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước và giữa các nước. Toàn cầu hoá làm cho mọi mặt hoạt động và đời sống của con người kém an toàn hơn (từ kinh tế, tài chính đến chính trị), hoặc tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc và xâm phạm độc lập tự chủ của mỗi quốc gia…

Như vậy toàn cầu hoá là thời cơ lịch sử; vừa là cơ hội rất to lớn cho sự phát triển mạnh mẽ của các nước, đồng thời cũng tạo ra thách thức là nếu bỏ lỡ thời cơ thì sẽ bị tụt hậu rất xa.

Câu 5. Nêu các xu thế phát triển của thế giới sau chiến tranh lạnh. Trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức nào?

Ý 1. Các xu thế phát triển của thế giới hiện nay :

32

Sau sự tan rã của trật tự thế giới hai cực Ianta (1991), lịch sử thế giới hiện đại đã bước sang một giai đoạn phát triển mới, thường được gọi là giai đoạn sau Chiến tranh lạnh với các xu thế phát triển...

Một là, sau Chiến tranh lạnh hầu như tất cả các quốc gia đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm, xây dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia thay thế cho cho chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc.

Hai là sự điều chỉnh quan hệ giữa các nước lớn theo chiều hướng đối thoại, thỏa hiệp, tránh xung đột trực tiếp nhằm tạo nên một môi trường quốc tế thuận lợi, giúp họ vươn lên mạnh mẽ, xác lập một vị trí ưu thế trong trật tự thế giới mới. Mối quan hệ gữa các nước lớn ngày nay mang tính hai mặt, nổi bật là: mâu thuẫn và hài hòa, cạnh tranh và hợp tác, tiếp xúc và kiềm chế.

Ba là, tuy hòa bình và ổn định là xu thế chủ đạo của tình hình thế giới nhưng ở nhiều khu vực vẫn diễn ra nội chiến và xung đột, trầm trọng hơn ở nhiều nơi bộc lộ chủ nghĩa ly khai và chủ nghĩa khủng bố.

Bốn là, từ thập kỷ 90 cuả thế kỷ XX, thế giới đã và đang chứng kiến xu thế toàn

cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ…

Ý 2. Các xu thế phát triển trên vừa là thời cơ, vừa là thách thức của các dân tộc.

- Thời cơ là tình hình hiện nay đã tạo ra những điều kiện thuận lợi, những xu thế khách quan để các dân tộc cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình, ổn định hợp tác, phát triển, bảo đảm những quyền cơ bản của mỗi dân tộc và con người.

- Thách thức là do xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, nếu các dân tộc không có khả năng phát triển thích ứng sẽ bị tụt hậu và lệ thuộc các nước phát triển đang muốn vươn lên mạnh mẽ để xây dựng trật tự thế giới đa cực do họ chi phối; nguy cơ xung đột khu vực đặc biệt là chủ nghĩa khủng bố đang đe dọa các dân tộc trên thế giới.

Câu 6. Nêu những biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa từ nửa sau thế kỉ XX. Tại sao nói: Toàn cầu hóa vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với những nước đang phát triển?Liên hệ với Việt Nam.

Ý 1. Biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa

Ý 2. Tại sao nói toàn cầu hoá vừa là “thời cơ” vừa là “thách thức” đối với các

nước đang phát triển ? (Hệ quả của xu thế toàn cầu hóa)

33

- Vị trí, vai trò : Toàn cầu hoá là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, là xu thế khách quan, một thực tế không thể đảo ngược. Nó vừa có mặt tích cực lại vừa có mặt tiêu cực, nhất là đối với các nước đang phát triển. Do vậy toàn cầu hoá vừa là cơ hội, vừa tạo ra thách thức cho sự phát triển của các nước.

- Thời cơ:

Từ sau chiến tranh lạnh, hoà bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh

thế giới bị đẩy lùi, xu thế chung của thế giới là hoà bình, ổn định và hợp tác khu vực.

Các quốc gia đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển chiến lược phát triển và lấy kinh tế làm trọng điểm, cùng sự tăng cường hợp tác và tham gia các liên minh kinh tế khu vực và quốc tế.

Thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển và xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đưa lại sự tăng trưởng cao (nửa đầu thế kỷ XX, GDP thế giới tăng 2,7 lần, nửa cuối thế kỷ tăng 5,2 lần).

Các nước đang phát triển có thể khai thác được các nguồn vốn đầu tư, kĩ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lí từ bên ngoài, nhất là các tiến bộ khoa học – kĩ thuật,để có thể đi tắt đón đầu, rút ngắn thời gian xây dựng và phát triển đất nước…

- Thách thức:

Các nước đang phát triển cần nhận thức đầy đủ tất yếu của toàn cầu hoá và tìm kiếm con đường, cách thức hợp lí nhất trong quá trình hội nhập quốc tế - phát huy thế mạnh,hạn chế thấp nhất mức rũi ro, bất lợi để tìm ra hướng đi thích hợp.

Các nước đang phát triển đều có nền kinh tế yếu, trình độ dân trí thấp,chưa có

nhiều về nguồn nhân lực chất lượng cao.

Sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường thế giới ,trong khi đó các quan hệ kinh tế quốc tế còn nhiều bất bình đẳng, gây nhiều thiệt hại cho các nước đang phát triển.

Vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay nợ, giữ gìn bản sắc văn hoá dân

tộc,kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại.

Liên hệ đến Việt Nam :

+ Thời cơ: Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó. Nước ta có điều kiện thuận lợi để mở rộng tăng cường sự hợp tác quốc tế nhằm xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.

+ Thách thức:

34

Hội nhập, hợp tác quốc tế nhưng phải đảm bảo được độc lập tự do, bản sắc văn hoá dân tộc và lợi ích của dân tộc trước nguy cơ diễn biến hoà bình và các hình thức bóc lột mới.

Đòi hỏi Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam phải vững mạnh, năng động và linh hoạt để nắm bắt kịp thời với những biến động của tình hình thế giới, có đường lối phát triển đất nước đúng đắn, biết nắm bắt thời cơ thuận lợi tạo ra một sức mạnh tổng hợp của quốc gia, có khả năng cạnh tranh về kinh tế trong bối cảnh thế giới là một thị trường, nếu không sẽ bị tụt hậu và lệ thuộc.

+ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX đã khẳng định: “Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kì mới, đó vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta”.

+ Là công dân tương lai : thanh niên Việt Nam cần nhận thấy được xu thế toàn cầu hoá ngày càng trở nên sâu sắc và tác động nhiều đến nước ta, hiện nay. Nước ta đang mở cửa nên sự tác động càng sâu sắc hơn vì vậy mỗi thanh niên Việt Nam cần phải cố gắng học tập và rèn luyện thật tốt làm chủ công nghệ vì nó là chìa khoá cho sự phát triển kinh tế và học tập nghiên cứu khoa học cải tiến công nghệ để nó đem lại hiệu quả cao cho cuộc sống, học tập kinh nghiệm quản lí từ bên ngoài nhất là các tiến bộ của khoa học - kĩ thuật, luôn luôn rèn luyện để trở thành người có ý chí nghị lực, trở thành người được đào tạo có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước …

Câu 7. Hãy chứng tỏ rằng trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước Việt Nam ngày càng “tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế và hội nhập ngày càng sâu rộng vào thế giới hiện đại”.

Đường lối đổi mới của Đảng được đề ra đầu tiên ở Đại hội lần VI (12/1986), được điều chỉnh, bổ sung, phát triển tại Đại hội VII (12/1991), Đại hội VIII (6/1996), Đại hội IX (4/2001).

+ Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI (12/1986), Đảng và Nhà nước Việt Nam đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.

+ Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, với các

35

nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Tính đến năm 2011, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 179 quốc gia, có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên đến cấp độ toàn cầu.

+ Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động đàm phán và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn khổ quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện cho thế kỷ XXI. Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã được ký kết như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ, Hiệp định về biên giới trên bộ, Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá với Trung Quốc, Hiệp định về phân định thềm lục địa với Inđônêxia... Các mối quan hệ song phương và đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng củng cố môi trường hoà bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

+ Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay. Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

+ Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN. ASEAN đã trở thành một liên kết khu vực gồm 10 quốc gia và là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự hợp tác toàn diện giữa các nước trong khối, giữa các nước trong khối với các nước ngoài khu vực. Việt Nam đã có đóng góp quan trọng vào sự củng cố của khối ASEAN.

+ Nước ta cũng trong lộ trình thực hiệp cam kết của AFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN), tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), đẩy mạnh quan hệ song phương và đa phương. Sau 11 năm chuẩn bị và đàm phán, tháng 1/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

36

+ Ngày 16/10/2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm Ủy viên

không thường trực Hội đồng Bảo An, nhiệm kì 2008 – 2009...

Đất nước Việt Nam ngày càng “tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế và hội nhập ngày càng sâu rộng vào thế giới hiện đại”. Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động của các tổ chức, diễn đàn quốc tế đã góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Câu 8. Những nét tương đồng và khác biệt trong quá trình hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu và hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Vì sao có thể nói, VN thiết lập quan hệ với EU và gia nhập ASEAN vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với quá trình xây dựng đất nước?

* Những nét tương đồng....

- Bối cảnh thành lập: đều hình thành trong bối cảnh của chiến tranh lạnh, sự đối đầu Đông- Tây diễn ra một cách gay gắt. Sau khi các nước thành viên đã trở thành các quốc gia độc lập tự chủ, hoàn thành khôi phục kinh tế sau chiến tranh, ngay sau khi thoát khỏi ách thực dân, có nhu cầu liên minh hợp tác cùng phát triển... hay hợp tác có trọng tâm, sau đó mới hợp tác toàn diện: kinh tế, chính trị, đối ngoại, an ninh, văn hóa....

- Sự mở rộng thành viên: không kết nạp, mở rộng thành viên ồ ạt cùng một lúc. Do quan hệ quốc tế tác động, EU ban đầu chỉ có 6 nước (1957), đến 1986 là 12 nước (cờ EU 12 sao, hiện nay vẫn vậy). Đến nay, EU có 28 nước. ASEAN từ 5 nước ban đầu cũng dần mở rộng thành viên theo từng thời điểm: 1984, 1995, 1997...

- Vị thế quốc tế cao: đây là hai tổ chức hợp tác, liên minh khu vực thành công nhất. Từ cuối thập niên 90, EU là tổ chức liên kết toàn diện, chính trị, kinh tế, đối ngoại, an ninh còn ASEAN đầu những năm 90 cũng có sự hợp tác toàn diện chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đến cuối 2015 trở thành một cộng đồng, dựa trên ba trụ cột: cộng đồng kinh tế, cộng đồng chính trị- an ninh và cộng đồng văn hóa – xã hội.

* Sự khác biệt:

- Những nước tham gia EU phần lớn là những nước có trình độ phát triển cao như Đức, Anh, Pháp, Italia, Hà Lan... và những nước ở trình độ thấp hơn thì trình độ phát triển của họ đa số cao hơn các nước ASEAN, các nước Đông Nam Á. Ngược lại, các nước ASEAN đều là các nước đang phát triển, trong đó có nhiều nước nghèo, ở trình độ thấp hơn các nước nghèo trong EU.

37

- Sự liên kết EU bắt đầu từ kinh tế (cộng đồng than thép 1951, cộng đồng năng lượng nguyên tử và cộng đồng kinh tế châu Âu 1957 rồi đến 1967 trở thành cộng đồng châu Âu). Sau đó phát triển liên kết sang các lĩnh vực khác như chính trị, an ninh (có nhà nước chung, chính sách đối ngoại, an ninh chung). Ngược lại, ASEAN mặc dù đề ra trong mục tiêu là hợp tác kinh tế, văn hóa trên cơ sở duy trì hòa bình và an ninh nhưng trên thực tế hoạt động thì vấn đề an ninh được coi trọng trong suốt thời kì từ khi thành lập cho đến đầu thập niên 90, vấn đề hợp tác kinh tế ở mức độ thấp. Nhưng sang đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, ASEAN mới đẩy mạnh hợp tác toàn diện về kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh.

- Cơ chế hoạt động: EU hoạt động trên cơ sở luật pháp (có hiến pháp chung), thiểu số nước phải phục tùng đa số. Nhưng ASEAN hoạt động trên cơ sở đồng thuận (một nước phản đối thì không ra được nghị quyết, không ra được tuyên bố chung). (nguyên tắc đồng thuận như nắm cát...)

- Cơ cấu tổ chức: EU trở thành một nhà nước chung với 5 cơ quan chính: hội đồng châu Âu, hội đồng bộ trưởng, ủy ban châu Âu, nghị viện châu Âu và tòa án châu Âu cùng nhiều cơ quan khác, có hiến pháp chung, có chính sách đối ngoại và an ninh chung. Ngược lại, ASEAN không phải nhà nước chung với các cơ cấu như EU, ....hoạt động luân phiên theo từng năm, tất cả trên cơ sở đồng thuận.

- EU có đồng tiền chung (đồng EURO) mặc dù một số nước thành viên vẫn có đồng tiền riêng (Anh, Thụy Sĩ...) nhưng ASEAN không có đồng tiền chung, tài chính chung như EU.

* Thách thức và cơ hội.....

- Cơ hội:

+ Việt Nam được hội nhập quốc tế, mở rộng sự hợp tác

+ Việt Nam có điều kiện thu hút vốn nước ngoài để phát triển kinh tế, có điều kiện học hỏi, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của EU hay của một số nước ASEAN.

+ Việt Nam mở rộng và tận dụng thị trường EU và ASEAN. Do đó, hàng hóa Việt Nam có điều kiện thâm nhập vào các thị trường khu vực và thế giới. Qua đó, thúc đẩy kinh tế đối ngoại, thúc đẩy sự hợp tác.

+ Văn hóa dân tộc, hình ảnh đất nước Việt Nam có điều kiện được quảng bá và hội nhập

- Thách thức:

38

+ Hàng hóa bị cạnh tranh khốc liệt từ thị trường bên ngoài, thị trường lao động cũng bị cạnh tranh.

+ Bị ràng buộc với các nước khác, lệ thuộc vào nước ngoài.

+ Mở cửa hội nhập cũng có tính hai mặt, vừa quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra nước ngoài hay học hỏi được những cái tiên tiến của nước ngoài nhưng những giá trị kiểu phương Tây hoặc những điều không phù hợp lại ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa Việt Nam.

Câu 9. Bối cảnh quốc tế và khu vực tác động đến sự chuyển hướng phát triển kinh tế của những nước sang lập ASEAN. Việt Nam học tập bài học kinh nghiệm từ các nước sáng lập ASEAN.

- Bối cảnh quốc tế:

+ Vào những năm 60 xu thế liên kết và hợp tác khu vực ngày càng phát triển. Nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện kinh tế hướng ngoại và đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc phát triển đất nước, điển hình là sự ra đời của cộng đồng châu Âu với sự phát triển của nhiều nước trong khu vực nh xu thế này thôi thức các nước sang lập cần thúc đẩy sự hợp tác ra bên ngoài hơn nữa để khắc phục khó khăn, biến nó trở thành nhân tố thuận lợi.

+ Cuộc khủng hoảng năng lượng 1973 là nhân tố thúc đẩy cuộc cách mạng

KH -KT và yếu tố công nghệ phát triển . Nhiều quốc gia đi sâu vào cuộc cách mạng này, ứng dụng vào sẩn xuất, từng bước thoát khỏi khủng hoảng và kinh tế phát triển trở lại.

Trong bối cảnh đó các nước sáng lập A ngày càng tỏ rõ sự thiếu thốn về

KH - KT, buộc các nước phải hướng ngoiaj

+ Bước vào những năm 70, xu thế hòa hoãn đông-tây bắt đầu, các nước lớn chuyển từ đối đầu căng thẳng sang đối thoại (minh chứng trong quan hệ: Mĩ – Liên Xô, Xô – Trung, Mĩ – Trung bắt đầu có sự đối thoại hợp tác với nhau). Xu thế này tác động đến tất cả các nước trong đó có các nước sáng lập A.

- Bối cảnh khu vực:

+ Các nước sáng lập ASEAN sau một thời gian phát triển kinh tế hướng nội, mặc dù đạt được những thành tựu trên các lĩnh vực như khôi phục phát triển kinh tế trong nước, giải quyết vấn đề lương thực thực phẩm, vấn đề thất nghiệp… Tuy nhiên họ đang đứng trước những khó khăn thách thức rất lớn cần phải giải quyết như thiếu vốn trầm trọng, thiếu KH-KT, thiếu trình độ quản lý. Để khắc phục

39

những khó khăn đó bắt buộc phải hướng ngoại, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, học tập ứng dụng khoa học – công nghệ…

+ Trong những năm 60 - 70 , Mĩ đang đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Cuộc chiến này buộc các nước ASEAN phải tăng cường hợp tác để hạn chế ảnh hưởng của các nước lớn vào khu vực . Mặt khác, để phục vụ cho cuộc chiến này, Mĩ phải xây dựng các căn cứ quân sự trong khu vực. Vì thế Mĩ phải đầu tư xây dựng hệ thống dịch vụ… Mĩ đầu tư giữa lực các nước trong khu vực cần nguồn vốn. Vì thế vấn đề đặt ra là các nước phải tận dụng nguồn vốn đầu tư này của Mĩ. (Nhật Bản cũng tận dụng hiệu quả nguồn vốn của Mĩ ở chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam). Bối cảnh đó nên các nước sáng lập chuyển từ hướng nội sang hướng ngoại để đáp ứng đòi hỏi của quốc tế và khu vực.

- Việt Nam học tập bài học kinh nghiệm từ các nước sáng lập ASEAN?

- Việt Nam tiến lên xây dựng đất nước, tiến hành đổi mới và hội nhập có nhiều điểm khác biệt so với các nước láng giềng:

+ Việt Nam phát triển đất nước muộn hơn so với các nước. Khi ta hoàn thành sự nghiệp bảo vệ đất nước tiến lên xây dựng CNXH, thì các nước trong khu vực đã phát triển lên một trình độ mới.

+ Trên con đường đổi mới và hội nhập của Việt Nam, chúng ta kết hợp đồng thời hai chiến lược hướng nội và hướng ngoại cùng một thời điểm, không được chú trọng chiến lược này, coi nhẹ chiến lược khác. Mục tiêu đổi mới của Việt Nam hiện nay là tăng cường hội nhập với các nước nên Việt Nam cần phải tận dụng những điều kiện thuận lợi từ quốc tế như vốn, công nghệ, quản lý để phục vụ cho mục tiêu hướng nội trong nước là CNH- HĐH và ngược lại những thành tựu của CNH- HĐH góp phần cho Việt Nam hội nhập với thế giới

- Rút kinh nghiệm từ các nước sang lập A, Việt Nam cần phải khắc phục những khó khăn, hạn ché mà họ gặp phải trước đây trong chiến lược hướng nội, hướng ngoại như: hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường bên ngoài, không được để vấn đề tài chính của khu vực và thế giới ảnh hưởng đến Việt Nam.

- Cố gắng hài hoà giữa phát triển kinh tế với cân bằng xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa đầu tư phát triển trong nước với xuất khẩu.

Câu 10. Những chuyển biến của tình hình quốc tế và khu vực ở Đông Nam Á từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX đã mở ra cơ hội hợp tác trong khu vực.

40

- Từ đầu những năm 90 TK XX,Chiến tranh lạnh đã chấm dứt trên thế giới do đó quan hệ đối đầu trước đó từng bước nhường chỗ cho đối thoại, hợp tác, môi trường hòa bình dần dần thay thế cho những căng thẳng, xung đột trên thế giới đặc biệt là sự đối đầu 2 cực Xô-Mĩ giữa CNXH và CNTB trong hòa bình, điều đó đã tác động tích cực đến Đông Nam Á, dẫn đến sự đối đầu giữa 2 nhóm nước (nhóm nước sáng lập ASEAN với các nhóm nước Đông Dương) trong thời kì Chiến tranh lạnh cũng chấm dứt.

- Ở Đông Nam Á, cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Đông Dương không còn, môi trường hòa bình trong khu vực đã xuất hiện, hiệp định hòa bình về Campuchia được kí kết(1991) tại Pari, vấn đề Campuchia được giải quyết, việc chống Việt Nam của nhóm nước ASEAN cũng chấm dứt, sự đối đầu giữa ASEAN và Đông Dương không còn, 2 nhóm nước bước vào thời kì đối thoại, khu vực Đông Nam Á có hòa bình, các nước trong khu vực tập trung vào xây dựng đất nước, lấy phát triển kinh tế làm trọng điểm nên các nước ASEAN cần hợp tác với nhau.

- Với xu thế đối thoại, hợp tác trong khu vực Đông Nam Á đã mở ra cơ hội cho các nước Đông Dương gia nhập ASEAN. Từ 1995 các nước Đông Dương và Mianma lần lượt được kết nạp vào tổ chức này( Việt Nam 1995, Lào,Mianma 1997, CPC 1999) 10 nước Đông Nam Á đã cùng đứng chung trong 1 tổ chức khu vực.

- Sự đối đầu căng thẳng ở Đông Nam Á không còn, các nước trong khu vực có chung nguyện vọng đẩy mạnh hợp tác kinh tế, an ninh chính trị, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và phát triển. Đông Dương từ bãi chiến trường trở thành thị trường, trở thành địa bàn đầu tư của các nước ASEAN. Trong bối cảnh đó, các nước ASEAN chuyển trọng tâm sang phát triển chiến lược, hợp tác kinh tế cùng với việc xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định cùng phát triển và từ đây vấn đề hợp tác kinh tế, an ninh được đẩy mạnh và mở rộng cả trong và ngoài khu vực (AFTA, ARF, ASEM, APEC,..)

Tình hình trên đây đã mở ra cơ hội hợp tác cho các nước trong khu vực ĐNA

Câu 11. Việt Nam gia nhập ASEAN đã mở ra thời kì mới cho sự hợp tác giữa các nước trong khu khu vực Đông Nam Á.

- 7/1995,VN gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này

- Sự kiện VN gia nhập ASEAN đã kết thúc 1 thời kì dài( 1967-1995) quan hệ giữa VN- ASEAN trải qua những diễn biến thăng trầm đầy biến động dưới tác động của những nhân tố bên ngoài và bên trong và cuối cùng đã pt thoe chiều hướng tích cực, đoàn kết, hợp tác trong khu vực

41

- Đối với VN, do đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước, đặc biệt là đổi mới về đối ngoại, VN đã kịp thời cải thiện quan hệ với các nước trong khu vực tạo ra bước đi đầu tiên trong tiến trình hội nhập, dây là chiếc cầu nối cho sự hội nhập của VN từ khu vực ra thế giới

- VN gia nhập ASEAN đánh dấu bước pt đặc biệt quan trọng của tổ chức này, góp phần làm cho ASEAN mạnh hơn, chấm dứt hơn 1 nửa thời kì Đông Nam Á bị chia thành 2 trận tuyến đối địch nhau, mở ra thời kì các bên tăng cường hợp tác với nhau cùng pt vì lợi ích của mỗi bên và của toàn khu vực

- Việc kết nạp Việt Nam vào ASEAN, uy tín và vị thế của tổ chức này được nâng cao trên trường quốc tế. Sự kiện này mở ra một triển vọng về một ASEAN mở rộng bao gồm tất cả các quốc gia ở Đông Nam Á- một ý tưởng mà ASEAN đã ấp ủ ngay từ khi mới thành lập

- Việc VN gia nhập ASEAN đã tạo ra một bước thuận lợi cho Lào,Mianma gia nhập tổ chức này vào 1997, sau đó là Campuchia (1999) bước phát triển từ ASEAN 6 lên ASEAN 10 đánh dấu sự chuyển biến của Hiệp hội không những về số lượng thành viên tăng lên mà quan trọng hơn là sự chuyển biến nhận thức về sự cần thiết có một tổ chức toàn khu vực vừa nâng cao vị thế quốc tế, vừa tăng sức mạnh của toàn Hiệp hội cũng như của mỗi nước thành viên, điều đó đã tạo điều kiện cho sự phát triển của ASEAN cả bề rộng lẫn bề sâu.

Câu 12. Vì sao có thể nói hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế tất yêu của thế giới ngày nay?

- Trong thời đại ngày nay, vấn đề hòa bình, hợp tác và phát triển trở thành xu thế tất yếu và là dòng chính trong quan hệ quốc tế, là nhu cầu của các dân tộc.

- Sở dĩ khẳng định như vậy là vì:

+ Trước sự thay đổi của tình hình thế giới nhât slaf trong bối cảnh trật tự thế giới mới đang hình thành, cùng với những tác động của cuộc cách mạng KHKT, xu thế toàn cầu hóa, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển, lấy kinh tế làm trọng điểm. Bởi ngày nay kinh tế trở thành nội dung căn bản trong quan hệ quốc tế, đồng thời chính sách đối ngoại của các nước từng bước được điều chỉnh theo chiều hướng đối thoại, thỏa hiệp, tránh xung đột trực tiếp nhằm tạo một môi trường quốc tế thuận lợi để hợp tác và phát triển, giải quyết mâu thuẫn và hài hòa, cạnh tranh và hợp tác.

+ Thực tiễn trong lịch sử thế kỉ XX đã trải quan 2 cuộc chiến tranh thế giới, sau đó là chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô – Mĩ, giữa hai khối Đông – Tây. Chiến

42

tranh không những gây tổn thất lớn cho nhân loại mà còn làm suy yếu các nước tham chiến hoặc làm chậm sự phát triển của các nước đó. Loài người đã thấm thía những tổn thất của chiến tranh và phải gánh chịu những hậu quả của nó. Cho nên lúc này hòa bình, ổn định trở thành nhu cầu và nguyện vọng thiết tha của nhân loại.

+ Trong thời đại ngày nay, nhiều vấn đề toàn cầu đang đặt ra đòi hỏi thế giới phải chung tay giải quyết. Sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên, sự biến đổi khí hậu, sự bùng phát bệnh dịch, chủ nghĩa khủng bố, xung đột, nội chiến diễn ra...

+ Với sự phát triển của KHKT hiện đại của thế giới ngày nay, nếu chiến tranh xung đột lớn sảy ra sẽ là cuộc chiến tranh hủy diệt không phân thắng bại. Vì vậy đòi hỏi các dân tộc phải đoàn kết và phải có nhiều giải pháp chung tay gìn giữ hòa bình, ổn định hợp tác... sẽ trở thành xu thế của toàn nhân loại, trở thành nhu của toàn nhân loại.

Câu 13. Những nội dung chính của lịch sử TG hiện đại từ 1945-2000. Hãy chọn và phân tích một nội dung được xem là nhân tố chi phối nền chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế trong phần lớn nửa sau thế kỉ XX.

* Những nội dung chính....:

- Sự hình thành trật tự thế giới sau chiến tranh II- trật tự 2 cực Ianta..... 2 cực 2 phe do Liên Xô và Mĩ đứng đầu hai cực hai phe.

- CNXH từ phạm vi một nước đã trở thành hệ thống thế giới..... chiếm lĩnh nhiều đỉnh cao của khoa học, kĩ thuật Tg nhưng đến 1989-1991, do những sai lầm trong đường lối và phương pháp cải tổ nên đã bị sụp đổ.

- Sau Chiến tranh thế giới thứ II, cao trào giải phóng dân tộc đã bùng nổ mạnh mẽ ở châu Á, Phi, Mĩ Latinh. Thắng lợi của nó đã góp phần làm thay đổi bộ mặt chính trị thế giới, đưa nhiều dân tộc có chủ quyền bước lên vũ đài chính trị TG.

- Hệ thống TBCN có sự thay đổi quan trọng. Trước hết là sự vươn lên của nước Mĩ, sau đó là sự vươn lên của Tây Âu và Nhật Bản để hình thành ba trung tâm kinh tế, tài chính thế giới.

- So với nửa đầu thế kỉ XX, trong nửa sau thế kỉ XX, quan hệ quốc tế được mở rộng và đa dạng hơn bao giờ hết.

- Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật bùng nổ và diễn ra với qui mô, nội dung, nhịp điệu chưa từng thấy cùng với những hệ quả về nhiều mặt. Xu thế toàn cầu hoá đã diễn ra một cách mạnh mẽ trên toàn TG.

43

* Chọn nội dung và phân tích....

Chọn: trật tự hai cực Ianta...

- Đây là lần đầu tiên trong quan hệ quốc tế có sự phân tuyến một cách triệt để thành hai phe, tổ chức theo hai hệ thống chính trị đối lập nhau. Trong đó, lần đầu tiên CNTB không còn đơn phương định đoạt các vấn đề toàn cầu. Bởi đã xuất hiện một chủ thể chính trị XH được xem là tiên tiến - CNXH; cũng là lần đầu tiên CNXH tham gia quyết định chiều hướng phát triển của lịch sử nhân loại.

- Trật tự hai cực đã làm xuất hiện một kiểu quan hệ quốc tế mới dựa trên nguyên tắc hoàn toàn mới mẻ. Những nguyên tắc đó phụ thuộc vào sự biến chuyển trong các quan hệ giữa CNTB với CNXH, giữa CNTB và CNXH với các nước mới giải phóng và trong nội bộ các nước TB, trong nội bộ các nước XHCN....

- Trong hơn 40 năm tồn tại trật tự hai cực do Liên Xô và Mĩ làm đại diện đã diễn ra cuộc chạy đua vũ trang, thậm chí có những cuộc chiến tranh cục bộ đẫm máu nhưng TG vẫn có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực:

+ Sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa và sự ra đời của các quốc gia độc lập tham gia vào đời sống chính trị quốc tế. Vai trò của các nước đang phát triển ngày càng tăng lên.

+ Với sự hình thành và phát triển của hệ thống XHCN được xem là đối trọng của CNTB đã có tác dụng ngăn chặn sự bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân. Điều này trước năm 1945 không có. Do đó, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH.

+ Hơn 40 năm qua, với sự tồn tại của trật tự hai cực, mặc dù có những mâu thuẫn, đấu tranh giữa hai bên nhưng thế giới đã không xảy ra những cuộc chiến tranh lớn như hồi đầu thế kỉ. Hòa bình vẫn được giữ vững mặc dù có những cuộc chiến tranh cục bộ diễn ra ở nơi này nơi kia. Có được điều đó là do cuộc đấu tranh của toàn thể loài người tiến bộ đã có khả năng ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình nhưng cũng còn do sự cân bằng về lực lượng giữa Liên Xô và Mĩ, giữa CNXH và CNTB và cả hai đều tránh đụng đầu nhau trực tiếp về quân sự.

- Hơn 40 năm nửa sau thế kỉ XX, nền kinh tế thế giới đang vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia và sự ngăn cách khu vực để trở thành một thị trường toàn cầu, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ để tiến tới bước đột phá trong nền kinh tế thế giới.

44

K T LU N

Cùng với sự vận động chung của nhân loại, xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, lôi cuốn tất cả các quốc gia, từ nhỏ đến lớn; từ các quốc gia đang phát triển đến các quốc gia phát triển; không phân biệt chế độ chính trị hay tôn giáo. Nếu như toàn cầu hóa là một xu thế phát triển tất yếu khách quan thì hội nhập quốc tế là một quá trình phù hợp với những quy luật khách quan đó. Trong hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế vừa là mặt cơ bản, trung tâm, vừa chi phối hội nhập trên tất cả các lĩnh vực khác.

Nắm bắt được xu hướng phát triển của thế giới hiện đại, Nhà nước Việt Nam đã triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hợp tác quốc tế. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo và các lĩnh vực khác. Quá trình hội nhập quốc tế của nước ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: tham gia vào tất cả các tổ chức quốc tế lớn: LiênHợp Quốc và các định chế của nó; WTO; ASEAN, ASEM, APEC và tham gia ký kết hàng hoạt các Hiệp định thương mại tự do song phương với các đối tác trong khu vực và trên thế giới; Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng GDP, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể...

Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Quá trình này đã và đang tạo ra cho Việt Nam những cơ hội để bứt phá và phát triển. Nhìn lại chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, chúng ta thấy rõ hơn những thành tựu đạt được, cùng với những thuận lợi, khó khăn, những cơ hội, thách thức để từ đó phát huy các kết quả đã đạt được, tiếp tục chủ động và tích cực để đạt được những thành tựu mới, vững chắc hơn trong thời gian tới.

Thực tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu quan trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế,

45

trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và phát triển, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, hướng tới mục tiêu chiến lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Thanh Quất, Toàn cầu hóa – một cách tiếp cận mới, Tạp chí cộng sản,

2003

2. Đinh Nguyễn An, Sứ mệnh của nền giáo dục hiện đại trước xu thế toàn cầu

hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, Tạp chí Giáo dục, 2014.

3. Trần Trọng Toàn, Đinh Nguyên Khiêm , Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế

quốc tế của Việt Nam, 1999.

4. Bộ Ngoại giao, Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa: Vấn đề

và giải pháp, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.

5. Nguyễn Mạnh Hưởng, Nguyễn Văn Ninh, Bồi dưỡng năng lực thi THPT

Quốc gia, NXB Đại học sư phạm, 2016.

6. Nguyễn Thế Nghĩa, Nguyễn Thị Hương Giang, Toàn cầu hóa hội nhập quốc tế và giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống của dân tộc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2012.

46

ĐIỂM VÀ NHẬN XÉT ĐỀ TÀI CỦA TỔ CHUYÊN MÔN

Điểm : Nhận xét của TTCM, TPCM: ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. ................................................................................................................................. .................................................................................................................................

TM. TỔ CHUYÊN MÔN (Ký, họ và tên) TM. HỘI ĐỒNG NCKH (Ý kiến và xác nhận)

47