SKKN: Dạy học truyện ngắn Những đứa con trong gia đình trong chương trình Ngữ văn 12 theo hướng tích hợp
lượt xem 3
download
Mục tiêu của đề tài là khi thực hiện tiết dạy tích hợp với công nghệ thông tin như cho học sinh xem vi deo, xem hình ảnh. Tích hợp với kiến thức địa lí, lịch sử hay các vấn đề văn hóa, sự kiện liên quan đến bài học thì học sinh đã rất hào hứng, phấn khởi. Từ đó các em có hứng thú chủ động khám phá tác phẩm. Bằng chứng là các em đã chủ động chuẩn bị trước các vấn đề liên quan đến tác phẩm và trình bày được trước lớp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Dạy học truyện ngắn Những đứa con trong gia đình trong chương trình Ngữ văn 12 theo hướng tích hợp
- MỤC LỤC Trang 1. Lời giới thiệu 2 2. Tên sáng kiến 2 3. Tác giả sáng kiến 2 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến 2 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 2 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử 2 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 2 7.1 Cơ sở lý luận 2 7.1.1. Quan niệm chung về dạy học tích hợp 2 7.1.2. Quan niệm tích hợp trong dạy học ngữ văn 3 7.2. Cơ sở thực tiễn 6 7.3. Các biện pháp đã tiến hành thử nghiệm 6 7.4. Kết quả thực hiện 15 8. Những thông tin cần được bảo mật 15 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 15 10. Đánh giá lợi ích đạt được từ sáng kiến 15 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng có hiệu quả: 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO 17 1
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đã trở thành xu thế trong việc xác định nội dung dạy học trong nhà trường phổ thông. Cách thức dạy học này đã được nhiều nhà sư phạm áp dụng và mang lại hiệu quả tích cực trong dạy học nói chung, dạy học môn Ngữ văn nói riêng. Các truyện ngắn giai đoạn 19541975 là những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Hơn thế nữa, những tác phẩm này có vai trò quan trọng trong chương trình học và chương trình thi THPT Quốc gia. Việc đầu tư nghiên cứu, vận dụng kiến thức liên môn để giảng dạy đem lại hiệu quả là việc làm thiết thực đối với giáo viên, hữu ích với học sinh. Qua quá trình giảng dạy và nghiên cứu tôi nhận thấy truyện ngắn Những đứa con trong gia đình có liên quan đến nhiều kiến thức của các môn học Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân và các vấn đề khác như: Tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hóa của dân tộc. Đây sẽ là cơ sở thực tế để tôi nghiên cứu vấn đề khoa học này. Từ các lí do đã nêu trên đây, tôi đã nghiên cứu chuyên đề mang tên Dạy học truyện ngắn Những đứa con trong gia đình trong chương trình Ngữ văn 12 theo hướng tích hợp. 2. Tên sáng kiến Dạy học truyện ngắn Những đứa con trong gia đình trong chương trình Ngữ văn 12 theo hướng tích hợp 3. Tác giả sáng kiến: Họ và tên: Nguyễn Hữu Thắng Địa chỉ: Trường THPT Nguyễn Viết Xuân, xã Đại Đồng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc Số điện thoại: 0976.676.056 Gmail: nguyenhuuthang.gvnguyenvietxuan@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư sáng kiến: Họ và tên: Nguyễn Hữu Thắng 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo viên, học sinh trường THPT Nguyễn Viết Xuân 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm học 20172018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Cơ sở lí luận 7.1.1. Quan điểm chung về dạy học tích hợp Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”. 2
- Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”. Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “integration” một từ gốc Latin (integer) có nghĩa là “whole” hay “toàn bộ, toàn thể”. Có nghĩa là sự phối hợp các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để bảo đảm sự hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy. Tích hợp là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực khoa học giáo dục (GD), khái niệm tích hợp xuất hiện từ thời kì khai sáng, dùng để chỉ một quan niệm GD toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Tích hợp còn có nghĩa là thành lập một loại hình nhà trường mới, bao gồm các thuộc tính trội của các loại hình nhà trường vốn có. Trong dạy học (DH) các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp các nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (Theo cách hiểu truyền thống từ trước tới nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung cần thiết vào những nội dung vốn có của môn học, ví dụ: lồng ghép nội dung GD dân số, GD môi trường, GD an toàn giao thông trong các môn học Đạo đức, Tiếng Việt hay Tự nhiên và xã hội… xây dựng môn học tích hợp từ các môn học truyền thống. Trong một số môn học, tư tưởng tích hợp được tiếp nhận với các mức độ thấp và khác nhau như: lồng ghép là đưa thêm nội dung cần học tương tự với môn học chính; tích hợp là sự kết hợp tri thức của nhiều môn học tạo nên môn học mới. 7.1.2. Quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn: Thiết kế bài dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp không chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt HS từng bước thực hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất. Giờ học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp phải là một giờ học hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp các kĩ năng, năng lực liên môn để giải quyết nội dung tích hợp, chứ không phải sự tác động các hoạt động, kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung riêng rẽ thuộc “ nội bộ phân môn”. Ngày nay nhiều lí thuyết hiện đại về quá trình học tập đã nhấn mạnh rằng hoạt động của học sinh trước hết là học cách học. Theo ý nghĩa đó, quan điểm dạy học tích hợp đòi hỏi giáo viên phải có cách dạy chú trọng phát triển ở học sinh cách thức lĩnh hội kiến thức và năng lực, phải dạy cho học sinh cách thức hành động để hình thành kiến thức và kĩ năng cho chính mình, phải có cách dạy buộc 3
- học sinh phải tự đọc, tự học để hình thành thói quen tự đọc, tự học suốt đời, coi đó cũng là một hoạt động đọc hiểu trong suốt quá trình học tập ở nhà trường. Quan điểm dạy học tích hợp hay dạy cách học, dạy tự đọc, tự học không coi nhẹ việc cung cấp tri thức cho người học. Vấn đề là phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kĩ năng và hình thành, phát triển năng lực, tiềm lực cho học sinh. Đây thực chất là biến quá trình truyền thụ tri thức thành quá trình học sinh tự ý thức về phương pháp chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng. Muốn vậy, chẳng những cần khắc phục khuynh hướng dạy tri thức hàn lâm thuần tuý mà còn cần khắc phục khuynh hướng rèn luyện kĩ năng theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa, ít có khả năng sử dụng vào đọc hiểu văn bản, vào những tình huống có ý nghĩa đối với học sinh, coi nhẹ kiến thức, nhất là kiến thức phương pháp. Mỗi giáo viên dạy Ngữ văn cần có phương pháp dạy học phù hợp với từng bài, từng tuần, từng phân môn, từng lớp. Để có những giờ dạy theo quan điểm tích hợp đạt kết quả cao, giáo viên phải biết lựa chọn các khía cạnh để tích hợp. Dựa vào thực tế tôi nhận thấy phạm vi tích hợp có thể mở rộng hướng tích hợp như sau: * Tích hợp Văn – Lịch sử : Tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng những kiến thức về hoàn cảnh lịch sử của từng thời kỳ, về nhân vật lịch sử. . . để lý giải và khai thác giá trị của tác phẩm. * Tích hợp Văn – Địa lý: Tích hợp mở rộng theo hướng vận dụng kiến thức hiểu biết về các địa danh để lý giải rõ một số chi tiết hình ảnh nghệ thuật. * Tích hợp Văn – Âm nhạc: Thực tế, hầu hết các tác phẩm âm nhạc từ dân ca đến âm nhạc đương đại đều được xây dựng từ các tác phẩm ngôn từ. Đã có nhiều bài thơ được phổ nhạc. * Tích hợp Văn – Mỹ thuật: Khi dạy học một tác phẩm văn chương giáo viên có thể cho học sinh vẽ tranh minh họa một cảnh hay một nhân vật mà học sinh yêu thích. Giáo viên có thể so sánh bức tranh trong hội họa và bức tranh phác họa bằng ngôn từ với những điểm tương đồng và khác biệt,… Như vậy qua nội dung phân tích ở trên, ta có thể một lần nữa khẳng định rằng giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giờ dạy Ngữ văn theo hướng tích hợp. Chương trình và sách giáo khoa chỉ là định hướng, vấn đề đặt ra là người dạy phải xác định được hướng tích hợp cho từng bài, từng phần cụ thể. Thực tế trong khi dạy giáo viên có thể thực hiện tích hợp theo nhiều cách thức khác nhau. Việc lựa chọn cách thức nào là tùy thuộc vào nội dung cụ thể của từng môn học. Nhưng có thể tốt hơn nếu ta thực hiện tích hợp theo những cách thức sau: * Tích hợp thông qua việc kiểm tra bài cũ: 4
- Kiểm tra bài cũ là bước đầu tiên trong tiến trình tổ chức hoạt động dạy học một bài cụ thể. Mục đích của hoạt động này là để kiểm tra việc học ở nhà cũng như mức độ hiểu bài của học sinh. Ngoài ra, đây cũng là hoạt động có tính chất kết nối giữa bài đã học và bài đang học ( bài mới ). Vì vậy, việc thực hiện tích hợp trong quá trình kiểm tra bài cũ là vô cùng cần thiết và cũng khá thuận lợi. * Tích hợp thông qua việc giới thiệu bài mới. Giới thiệu bài mới là một thao tác nhỏ, chiếm một lượng thời gian không đáng kể trong tiết dạy (và không phải bài nào, tiết dạy nào cũng cần giới thiệu vào bài một cách công phu bài bản). Tuy nhiên thao tác này lại có ý nghĩa khá lớn trong việc chuẩn bị hứng thú cho học sinh trước khi bước vào bài học. Vì vậy giáo viên có thể vận dụng thao tác này để thực hiện tích hợp . * Tích hợp thông qua câu hỏi tìm hiểu bài. Trong hoạt động dạy học Ngữ văn, hình thức hỏi – đáp đóng vai trò hết sức quan trọng, thể hiện tính tích cực, chủ động của người học cũng như vai trò chủ động của giáo viên. Hình thức này được thực hiện trong hầu hết các bước, các hoạt động dạy – học. Nếu giáo viên biết lồng ghép tích hợp thông qua hệ thống câu hỏi này thì hình thức tích hợp sẽ rất phong phú: Văn – Văn; Văn – Tiếng Việt; Văn – Tập làm văn, thì hiệu quả tích hợp sẽ được nâng cao rất nhiều. * Tích hợp thông qua phương tiện dạy học như bảng phụ, tranh ảnh . . . Khi dạy những văn bản có tranh minh họa, giáo viên có thể sử dụng kênh hình để tích hợp, giúp các em cảm thụ văn học tốt hơn. Đây là một yêu cầu rất quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Điều quan trọng là để thực hiện được hình thức tích hợp này đòi hỏi người dạy phải có sự chuẩn bị công phu, biết đầu tư trí tuệ, công sức và vật chất. Mặt khác, nó còn phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất của từng trường. * Tích hợp thông qua nội dung tiểu tiết từng phần hay tổng kết giờ học. Đây là hình thức tích hợp thông qua lời thuyết giảng của giáo viên, vừa có ý nghĩa khái quát lại vấn đề, vừa có ý nghĩa chuyển tiếp. Giáo viên có thể tích hợp dưới dạng liên hệ, so sánh đối chiếu. * Tích hợp thông qua hệ thống bài tập ( ở lớp cũng như ở nhà ) Đây là điều kiện thuận lợi nhất để giáo viên tiến hành phương pháp tích hợp sau khi học xong một tiết học hoặc học xong một bài học, giúp học sinh nắm chắc kiến thức ấy để tích hợp trong việc rèn luyện kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết . * Tích hợp thông qua hình thức kiểm tra. Chương trình Ngữ văn được xây dựng theo tinh thần tích hợp, vì thế khi ôn tập và tiến hành kiểm tra, giáo viên cần giúp học sinh nắm chắc các vấn đề: – Các kiến thức về Văn, tiếng Việt, Tập làm văn đều cùng dựa vào cùng một hệ thông văn bản chung để khai thác và hình thành. Khi học ôn cần liên hệ và gắn các kiến thức của mỗi phân môn với các văn bản chung trong sách giáo khoa. 5
- – Do yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá, bài kiểm tra áp dụng 1 phần thi đọc hiểu kết hợp với tự luận . Phần đọc hiểu sẽ kiểm tra một cách tổng hợp trên diện rộng các kiến thức đã học. Vì thế, khi hướng dẫn học sinh ôn tập giáo viên cần lưu ý học sinh không nên học tủ, học lệch mà phải học toàn diện, đầy đủ. Cấu trúc của một bài kiểm tra thường có 2 phần. – Phần I ( đọc hiểu ) Phần này chiếm 30 % số điểm, nhằm kiểm tra các kiến thức về đọc – hiểu và tiếng Việt. – Phần II ( tự luận ) phần này chiếm 70 % số điểm nhằm kiểm tra kiến thức và kỹ năng Tập làm văn qua một hay nhiều bài văn. * Tích hợp với các vấn đề xã hội Bài học thường được gắn với đời sống xã hội. Sự tích hợp này rất tự nhiên vì văn học xuất phát từ cuộc sống xã hội và trở về với cuộc sống. Dạy văn là dạy từ cuộc đời, qua cuộc đời và cho cuộc đời. Tóm lại, quan điểm tích hợp trong dạy học văn cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt trong toàn bộ các phân môn từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học. 7.2. Cơ sở thực tiễn Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy phương pháp giảng dạy truyền thống giữa các phân môn chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau vì tách rời từng phương diện kiến thức. Bản thân học sinh chưa chủ động tìm hiểu các vấn đề nên hiệu quả giáo dục chưa cao. Chính vì lẽ đó, dạy học theo quan điểm tích hợp là một xu hướng tất yếu của dạy học hiện đại, là biện pháp để tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ thống và lôgic. Qua đó học sinh cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các kiến thức được học trong chương trình, vận dụng các kiến thức lí thuyết và các kĩ năng thực hành, đưa được những kiến thức về văn, tiếng Việt vào quá trình tạo lập văn bản một cách hiệu quả. Đây là quan điểm tích hợp mở rộng kiến thức trong bài học với các kiến thức của các bộ môn khác, các ngành khoa học, nghệ thuật khác, cũng như các kiến thức đời sống mà học sinh tích lũy được từ cuộc sống cộng đồng, qua đó làm giàu thêm vốn hiểu biết và phát triển nhân cách cho học sinh. 7.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề. Thực tế cho thấy, áp dụng hình thức này, học sinh tỏ ra rất hào hứng với nội dung bài học, vốn kiến thức tổng hợp của học sinh được bổ sung nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả. Mặt khác, các kiến thức liên ngành thông qua hình thức tích hợp này còn giúp học sinh có thêm căn cứ, cơ sở để hiểu rõ hơn nội dung, ý nghĩa của văn bản. Bước 1: Chuẩn bị: Học sinh chuẩn bị một số vấn đề sau: Vấn đề 1: Những điều cơ bản về tác giả Nguyễn Thi 6
- Vấn đề 2: Kể tên và giới thiệu một số tấm gương yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là người dân Nam Bộ. Bước 2: Giáo viên giảng dạy theo phân phối chương trình. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực và tích hợp các kiến thức liên môn. Trình tự thể hiện trong giáo án như sau: 7
- GIÁO ÁN DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 THEO HƯỚNG TÍCH HỢP Ngày soạn: 15 /10/2018 Ngày giảng: 25/1/2019 Lớp: 12A2 Tiết 67 68: Đọc văn NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH Nguyễn Thi I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT: 1. Kiến thức Giúp học sinh: Hiểu được hiện thực đau thương, sự hi sinh gian khổ nhưng rất đỗi anh dũng, kiên cường, buất khuất của nhân dân miền Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước. Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ: lòng yêu nước, căm thù giặc, tình cảm gia đình là sức mạnh tinh thần to lớn trong cuộc chống Mĩ cứu nước. Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật : Nghệ thuật trần thuật đặc sắc; khắc hoạ tính cách và miêu tả tâm lí sắc sảo; ngôn ngữ phong phú, góc cạnh, giàu giá trị tạo hình và đậm chất Nam Bộ. 2. Kĩ năng Rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản Kĩ năng phân tích, tổng hợp 3. Thái độ Biết ơn, trân trọng sự hi sinh của các chiến sĩ cách mạng Biết được trách nhiệm của người thanh niên trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bồi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. II. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN: SGK, Sách giáo viên, tài liệu tham khảo và thiết kế bài dạy III. CÁCH THỨC TIẾN HÀNH: Giáo viên gợi ý, nêu câu hỏi, hướng dẫn học sinh thảo luận và trả lời. IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC: 1.Ổn định tổ chức: Lớp Sĩ số Ghi chú 12A3 Vắng 0 8
- 2. Kiểm tra bài cũ: Hình tượng rừng xà nu được xây dựng như một biểu tượng của cuộc sống đau thương nhưng kiên cường và anh dũng như thế nào? Hình tượng Tnúnhân vật trung tâm của tác phẩm được xây dựng như thế nào? 3. Bài mới Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt * Hoạt động 1: Tổ chức tìm hiểu I. TÌM HIỂU CHUNG: chung Thao tác 1: Tìm hiểu tác giả. 1. Tác giả + GV yêu cầu HS phát biểu vấn đề a. Cuộc đời: 1: giới thiệu những nét chính về Nguyễn Thi (1928 1968) cuộc đời Nguyễn Thi. Tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở Hải + GV: Nhận xét, bổ sung và khắc Hậu Nam Định. sâu một số ý cơ bản. Nguyễn Thi sinh ra trong một gia đình nghèo, mồ côi cha từ năm 10 tuổi, mẹ đi bước nữa nên vất vả, tủi cực từ nhỏ. Năm 1943, Nguyễn Thi theo người anh vào Sài Gòn. Năm 1945, tham gia cách mạng Năm 1954, tập kết ra Bắc Năm 1962, trở lại chiến trường miền Nam. Hi sinh ở mặt trận Sài Gòn trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu thân 1968. + GV: Giới thiệu những sáng tác và b. Sự ngiệp sáng tác: nêu đặc điểm phong cách, đặc biệt Nguyễn Thi còn có bút danh khác là Nguyễn là thế giới nhân vật của nhà văn. Ngọc Tấn. + GV nhận xét, bổ sung và khắc sâu Sáng tác của Nguyễn Thi gồm nhiều thể loại: một số ý cơ bản. bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết. Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. Tư tưởng và phong cách nghệ thuật: + Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ. + Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung "rất Nguyễn Thi". + Họ là những con người yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù bọn 9
- Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt xâm lược, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất cao những con người dường như sinh ra để đánh giặc. + Họ thể hiện được tính chất Nam bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình nghĩa. Thao tác 2: Tìm hiểu Tác phẩm 2. Tác phẩm Những đứa con trong gia đình: Những đứa con trong gia đình. + GV: Yêu cầu HS giới thiệu khái a. Xuất xứ: quát về Những đứa con trong gia Tác phẩm được viết ngay trong những ngày đình của Nguyễn Thi. chiến đấu ác liệt khi ông công tác với tư cách là một nhà văn chiến sĩ ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng (tháng 2 năm 1966). Sau được in trong Truyện và kí, NXB Văn học Giải phóng, 1978. + GV: Yêu cầu HS tóm tắt đoạn b. Tóm tắt tác phẩm: trích Những đứa con trong gia đình Những hồi ức của Việt trong lần tỉnh dậy thứ của Nguyễn Thi. tư: - Cảm thấy cô đơn, sợ ma cụt đầu, muốn bò tìm nơi súng nổ để về với đồng đội. - Nhớ lại chuyện hai chị em giành nhau đi bộ đội, bàn bạc việc nhà đêm trước ngày nhập ngũ. - Sáng hôm sau đó, hai chị em khiêng bàn thờ mẹ gửi sang nhà chú Năm để lên đường. * Hoạt động 2: Tổ chức đọc hiểu II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN: văn bản Thao tác 1: Tìm hiểu nghệ thuật 1. Nghệ thuật kể chuyện: kể chuyện của tác giả. + GV nêu vấn đề: Tác giả đặt điểm Đặt điểm nhìn trần thuât vào nhân vật Việt, nhìn trần thuật vào nhân vật nào? kể qua dòng hồi tưởng miên man đứt nối khi Trong tình huống nào của nhân vật? Việt bị trọng thương nằm ở lại chiến trường. + GV: Cách trần thụât như vậy có Tác dụng: tác dụng gì trong việc khắc hoạ tính + Đem đến màu sẳc trữ tình đậm đà, tự nhiên cách nhân vật và chủ đề của và tạo điều kiện cho tác giả thâm nhập sâu vào truyện? thế giới nội tâm nhân vật để dẫn dắt câu + HS thảo luận và phân tích. chuyện. 10
- Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt + GV theo dõi, nhận xét góp ý và + Diễn biến câu chuyện rất linh hoạt, không chốt lại. phụ thuộc vào trật tự thời gian và không gian: Từ hiện thực chiến trường hồi tưởng quá khứ gần xa từ chuyện này chuyển sang chuyện khác rất tự nhiên. + GV: Nêu thêm ví dụ: o Khi Việt tỉnh dậy lần thứ hai: Hai mắt không thấy gì, chỉ cảm thấy hơi gió lạnh ùa trên má, nghe tiếng ếch nhái râm rang nhớ những đêm soi ếch trên đồng chú Năm sang lấy vài con để nhậu cuốn gia phả gia đình do chú Năm viết Việt ngất đi lần nữa. o Khi tỉnh dậy lần thứ ba: Khi nghe tiếng trực thăng trên đầu và tiếng súng nổ ở phía xa nhận ra là ban ngày vì đã ngửi thấy mùi nắng và nghe tiếng chim cu rừng nhớ hồi ở quê nhà thường lấy ná thun đi bắn chim nhớ về người mẹ giàu lòng vị tha, hết lòng vì chồng con, nén nỗi đau thương để nuôi dạy con. Thao tác 2: Tìm hiểu Truyền thống 2. Truyền thống của một gia đình Nam Bộ: một của gia đình Nam Bộ. a. Đặc điểm chung của các thành viên trong gia đình: + GV: Tác phẩm kể chuyện một gia Có truyền thống yêu nước và căm thù giặc đình nông dân Nam Bộ, truyền sâu sắc. thống nào đã gắn bó những con Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến người trong gia đình với nhau? đấu giết giặc. + HS làm việc cá nhân và phát biểu. Giàu tình nghĩa, thuỷ chung son sắt với quê GV: Tích hợp Ngữ văn 11: hương và cách mạng. Truyền thống yêu nước của người dân Nam Bộ luôn ngời sáng và đi vào văn học với vẻ đẹp bi tráng. Tiêu biểu là hình tượng người nông 11
- Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt dân nghĩa sĩ trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ là những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, hiền lành, chất phác và yêu chuộng hòa bình. Nhưng khi có giặc ngoại xâm, họ đã sẵn sàng đứng lên trở thành người anh hùng bảo vệ đất nước. `b. Đặc điểm tính cách riêng: * Nhân vật chú Năm: Người thân lớn tuổi duy nhất còn lại trong gia + GV: Nhân vật chú Năm có vị trí đình, từng bôn ba khắp nơi, cưu mang các cháu nào trong gia đình và có vai trò gì khi ba mẹ Việt, Chiến hi sinh. trong truyện? Người đề cao truyền thống gia đình, hay kể sự tích của gia đình để giáo dục con cháu, cần mẫn ghi chép trong cuốn sổ gia đình tội ác của giặc và chiến công của các thành viên . Người lao động chất phác nhưng giàu tình GV tích hợp với văn hóa văn nghệ cảm và có tâm hồn nghệ sĩ (thích câu hò, tiếng dân gian: giáo viên giới thiệu cho sáo). Tiếng hò “khàn đục, tức như tiếng gà học sinh một số làn điệu đặc trưng gáy” nhưng đó là tâm tư, khát vọng của tâm của các vùng miền: hát Quan họ hồn ông. Bắc Ninh, hát Xoan Phú Thọ, hò Giã vôi ở miền Trung, Đờn ca tài tử ở Nam Bộ. Giọng hò của chú Năm không hay “khàn đục, tức như tiếng gà gáy’ nhưng nội dung câu hò lại thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào xứ sở. Tự nguyện, hết lòng góp sức người cho cách mạng khi thu xếp cho cả Việt và Chiến lên đường tòng quân. => Trong dòng sông gia đình, chú Năm là thượng nguồn, là kết tinh đầy đủ những nét truyền thống. + GV: Giảng nhanh. * Nhân vật má Việt: Rất gan góc khi dẫn con đi đòi đầu chồng, hiên ngang đối đáp với bịn giặc, không run sợ trước sự doạ bắn, có lòng căm thù giặc sâu sắc. Rất mực thương chồng thương con, đảm 12
- Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt đang, tháo vát, cuộc đời chồng chất đau thương nhưng nén chặt tất cả để nuôi con và đánh giặc. Ngã xuống trong một cuộc đấu tranh nhưng trái cà – nông lép vẫn còn nóng hổi trong rổ; linh hồn luôn sống mãi, bất tử trong lòng các con mình. Điển hình cho người mẹ miền Nam luôn anh dũng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Thao tác 4: Hướng dẫn HS phân * Nhân vật Chiến: tích và so sánh tính cách các nhân vật để làm rõ sự tiếp nối truyền thống gia đình của những người con. Chiến có những nét giống mẹ: + GV: Chiến có những nét nào + Mang vóc dáng của má: "hai bắp tay tròn vo giống người mẹ của mình? sạm đỏ màu cháy nắng… thân người to và + HS phân tích theo các gợi ý của chắc nịch". GV. + Đặc biệt giống má ở cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội: Biết lo liệu, toan tính mọi việc nhà (“nói nghe in như má vậy”), đảm đang, tháo vát Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng út em trên giường ở trong buồng nói với ra đến lối hứ một cái "cóc" rồi trở mình. Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: "Tao cũng đã lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy". Có tính cách đa dạng: + là một cô gái vừa mới lớn nên tính khí còn rất “trẻ con” + là một người chị biết nhường nhịn em, biết lo toan, đảm đang, tháo vát. Nét khác biệt so với người mẹ: + GV: Nét khác biệt của Chiến so + Trẻ trung, thích làm duyên làm dáng với người mẹ là gì? + Được trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả + HS phân tích theo các gợi ý của thù nhà, thực hiện lời thề như dao chém: “Đã 13
- Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt GV. là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu Giáo viên tích hợp với quan niệm giặc còn thì tao mất”. về người anh hùng qua các thời đại: thời phong kiến quan niệm người anh hùng chỉ có nam giới và những người thuộc tầng lớp trên. Đến nhà văn Nguyễn Thi, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam hiện đại, quan niệm đó đã thay đổi. Đến Nguyễn Khoa Điềm, quan niệm mới này cũng được nhắc đến trong bài thơ Đất nước: “Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” => Bảo vệ đất nước là trách nhiệm chung của mọi người. Thao tác 5: Hướng dẫn HS phân * Nhân vật Việt: tích và so sánh tính cách các nhân vật để làm rõ sự tiếp nối truyền thống gia đình của những người con. + GV: Việt có những nét nào của Có nét riêng của cậu con trai mới lớn, tính tình cậu con trai mới lớn? còn trẻ con, ngây thơ, hiếu động: + HS phân tích theo các gợi ý của + Thích đi câu cá, bắn chim, đến khi đi bộ đội GV. vẫn còn đem theo ná thun trong túi. + Chiến hay nhường nhịn bao nhiêu thì Việt tranh giành phần hơn với chị bấy nhiêu. Đặc biệt là việc đăng kí đi bộ đội. Tích hợp với bộ môn Giáo dục công dân và lịch sử: Việt có ý thức rất rõ về trách nhiệm của thế hệ trẻ với việc bảo vệ quê hương đất nước. Vì vậy, khi chưa đủ 18 tuổi, cậu vẫn quyết tâm đăng kí đi tòng quân. Trong thực tế thời bấy giờ có nhiều thanh niên tình nguyện lên đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc như: Nguyễn Văn Thạc, Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm. Họ đều 14
- Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt là những sinh viên của Hà Nội quyết định rời giảng đường đại học ra mặt trận. + GV: Đêm trước ngày lên đường, thái độ của Việt khác với chị như + Đêm trước ngày lên đường: Trong khi chị thế nào? đang lo toan tính toán, thu xếp chu đáo mọi việc (từ út em, nhà cửa, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má), bàn bạc trang nghiêm thì Việt vô lo vô nghĩ: vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì” vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay” ngủ quên lúc nào không biết + Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con: + GV: Cách thương chị của Việt có “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị gì đặc biệt? trước những lời đùa của anh em. + Bị thương nằm lại chiến trường: sợ ma cụt đầu, khi gặp lại anh em thì như thằng Út ở nhà “khóc đó rồi cười đó” Việt là một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường: + Còn bé tí: dám xông thẳng vào đá thằng giặc đã giết hại cha mình + Lớn lên: nhất quyết đòi đi tòng quân để trả thù cho ba má + Khi xung trận: chiến đấu rất dũng cảm, dùng pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của giặc + Khi bị trọng thương: một mình giữa chiến trường, mặt không nhìn thấy gì, toàn thân rã rời, rỏ máu nhưng vẫn trong tư thế quyết chiến tiêu diệt giặc. “Tao sẽ chờ mày … Mày có bắn tao thi tao cũng bắn được mày … Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy” => Kế tục truyền thống gia đình nhưng Việt và Chiến còn tiến xa hơn, lập nhiều chiến công mới hiển hách. Thao tác 5: Tìm hiểu Hình ảnh chị C. Hình ảnh chị em Việt khiêng bàn thờ ba má em Việt khiêng bàn thờ ba má gửi gửi chú Năm: chú Năm. Gợi không khí thiêng liêng, tập quán lâu đời 15
- Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt + GV: phát biểu cảm nhận về hình của người dân Việt Nam ảnh chị em Việt và Chiến khiêng Không khí thiêng liêng đã biến Việt thành bàn thờ ba má sang gửi chú Năm người lớn: Lần đầu tiên Việt thấy rõ lòng mình + HS: thảo luận và phát biểu, bổ “thương chị lạ”, “mối thù của thằng Mĩ thì có sung. thể rờ thấy, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. + GV định hướng và nhận xét. Hình ảnh chất chứa nhiều ý nghĩa: vừa có yếu tố tâm linh, vừa trĩu nặng lòng căm thù, vừa chan chứa tình yêu thương. * Hoạt động 3: Tổ chức tổng kết III. TỔNG KẾT: Thao tác 1: Nêu chủ đề của truyện. 1. Chủ đề: + GV: Nhận xét tổng quát về nội Truyện kể về những đứa con trong một gia dung của tác phẩm? đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu + HS bao quát toàn bài để phát biểu. nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son + GV định hướng, nhận xét và khắc sắt với cách mạng. Sự gắn bó sâu nặng giữa sâu những ý cơ bản. tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Thao tác 2: Nêu đặc sắc nghệ Mĩ cứu nước. thuật của truyện. 2. Nghệ thuật: + GV: Nhận xét tổng quát về đặc Bút pháp nghệ thuật già dặn, điêu luyện được sắc nghệ thuật của tác phẩm? thể hiện qua giọng trần thuật, trần thuật qua + HS bao quát toàn bài để phát biểu. hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tâm lí và tính + GV định hướng, nhận xét và khắc cách sắc sảo, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và sâu những ý cơ bản. đậm chất Nam Bộ. V. Củng cố, dặn dò: 1. Củng cố: Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày vấn đề 2: Kể tên và giới thiệu một số tấm gương yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là người dân Nam Bộ. (Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Đình Chiểu, Lê Anh Xuân, Võ Thị Sáu…) 2. Dặn dò: Học bài cũ. Chuẩn bị bài mới: Trả bài làm văn số 5 Yêu cầu: Chuẩn bị dàn ý bài viết đã làm. 7.4. Kết quả thực hiện 16
- Qua thực tế dạy học, tôi thấy rằng việc kết hợp kiến thức liên môn vào để giải quyết một vấn đề nào đó trong một môn học là việc làm hết sức cần thiết, hữu ích. Đối với giáo: khi soạn bài có kết hợp các kiến thức của các môn học khác sẽ giúp giáo viên có cái nhìn toàn diện về tác phẩm, vấn đề nghiên cứu. Từ đó hiểu rõ hơn, sâu hơn những vấn đề đặt ra và tổ chức hướng dẫn học sinh tiếp cận bài học sẽ linh hoạt, sinh động hơn. Đối với học sinh: khi thực hiện tiết dạy tích hợp với công nghệ thông tin như cho học sinh xem vi deo, xem hình ảnh. Tích hợp với kiến thức địa lí, lịch sử hay các vấn đề văn hóa, sự kiện liên quan đến bài học thì học sinh đã rất hào hứng, phấn khởi. Từ đó các em có hứng thú chủ động khám phá tác phẩm. Bằng chứng là các em đã chủ động chuẩn bị trước các vấn đề liên quan đến tác phẩm và trình bày được trước lớp. Sau khi triển khai hướng tích hợp trong các bài học trên, tôi nhận thấy học sinh hiểu rộng hơn, sâu hơn về vấn đề đặt ra trong các tiết đọc hiểu về truyện ngắn Những đứa con trong gia đình. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến Ý kiến góp ý của giáo viên dạy các bộ môn Văn, Sử, Địa, Giáo dục công dân trong nhà trường. Học sinh có kiến thức về các môn Văn, Sử, Địa, Giáo dục công dân. 10. Đánh giá lợi ích thu được: Dạy học truyện ngắn Những đứa con trong gia đình theo hướng tích hợp có nhiều ưu điểm: + Giúp học sinh cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc; thấy được tài năng và cá tính sáng tạo của nhà văn. + Học sinh được củng cố một số kiến thức của các bộ môn khác đồng thời có thêm những hiểu biết ngoài tác phẩm làm giàu thêm vốn kiến thức của mình. + Học sinh thấy sự gần gũi và mối quan hệ giữa các môn học từ đó có thể liên tưởng, tổng hợp kiến thức một cách dễ dàng khi cần thiết. Dạy học truyện ngắn Những đứa con trong gia đình theo hướng tích hợp cần lưu ý: + Đây chỉ là một trong những hình thức tiếp cận tác phẩm. Việc giảng dạy các tác phẩm truyện ngắn nói riêng, văn bản văn học nói chung cần đảm bảo đúng đặc trưng thể loại, bộ môn. + Khai thác và giảng dạy truyện ngắn theo hướng tích hợp không phải là một hướng đi mới mà chỉ là một phương pháp hiệu quả để khám phá tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Chính vì vậy, vấn đề này cần được ứng dụng rộng rãi hơn vào việc nghiên cứu, giảng dạy truyện ngắn nói chung và giảng dạy truyện ngắn Những đứa con trong gia đình nói riêng. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng có hiệu quả: 17
- Số Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực TT áp dụng sáng kiến 1 Trường THPT Nguyễn Đại Đồng – Vĩnh Tường – Ôn thi THPT Quốc gia Viết Xuân Vĩnh Phúc 2 Trường THPT Nguyễn Đại Đồng – Vĩnh Tường – Ôn thi THPT Quốc gia Thị Giang Vĩnh Phúc Vĩnh Tường, Vĩnh Tường, Vĩnh Tường, ngày 31 tháng 01 năm 2019 ngày 31 tháng 01 năm 2019 ngày 25 tháng 01 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG Tác giả sáng kiến (Ký tên, đóng dấu) SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ (Ký, ghi rõ họ tên) 18
- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. http://violet.vn/main/ 2. http://thutrang.edu.vn/141 3. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, NXB Giáo dục Việt Nam, 2008 4. Chuyên đề dạy học Ngữ văn 12, NXB Giáo dục Việt Nam, 2008 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Hướng dạy học truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao ở nhà trường THPT theo đặc trưng loại thể
80 p | 403 | 70
-
SKKN: Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong truyện ngắn trong chương trình THPT
66 p | 170 | 14
-
SKKN: Rèn luyện kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu bằng cách tổ chức Cho học sinh viết Tiểu Luận trong dạy học phần cơ sở vật chất và cơ chế di truyền
142 p | 60 | 6
-
SKKN: Dạy học phát huy năng lực người học thông qua hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy đọc hiểu tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân
24 p | 83 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn