intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong truyện ngắn trong chương trình THPT

Chia sẻ: Lê Văn Nguyên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:66

172
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, mỗi tác phẩm là sự hợp thành của nhiều chi tiết. Những chi tiết có vai trò quan trọng để làm nên giá trị của một tác phẩm nhất là với truyện ngắn. Các chi tiết trong truyện ngắn thường được chọn lựa một cách kĩ càng hơn. Để nắm chi tiết hơn mời các bạn cùng tham khảo sáng kiến kinh nghiệm đề tài "Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong truyện ngắn trong chương trình THPT" dưới đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong truyện ngắn trong chương trình THPT

TRƯỜNG(TÊN CƠ QUAN, ĐƠN VỊ CHỦ QUẢN)<br /> SỞ GIÁO DỤC­ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH<br /> (TÊN CƠ QUAN ÁP DỤNG SÁNG KIẾN)<br /> TRƯỜNG THPTC NGHĨA HƯNG<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> BÁO CÁO SÁNG KIẾN<br /> BÁO CÁO SÁNG KI<br /> (DỰ THI CẤP TỈNH) ẾN<br />     <br /> HƯỚNG DẪ       (Tên sáng ki<br /> N HỌC SINH LÀM BÀI VĂN NGH<br /> ến) Ị LUẬN <br /> VỀ CHI TIẾT, HÌNH ẢNH TIÊU BIỂU TRONG <br /> TRUYỆN NGẮN TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPT<br /> <br /> <br /> <br /> <br />                    Tác giả: Phạm Thị Thanh Nhàn.<br /> Tác giả:...................................................................<br /> Trình độ chuyên môn: Cử nhân môn Văn<br /> Trình độ chuyên môn:...........................................<br /> Chức vụ: Giáo viên dạy Văn; Tổ trưởng tổ <br /> Chức vụ:.................................................................<br /> Văn.<br /> <br /> NN<br /> ơơ i công tác: Tr<br /> i công tác ường THPT C Nghĩa Hưng.<br /> :...................................................................<br /> <br /> <br /> <br /> <br />  1<br />  <br /> THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN<br /> 1. Tên sáng kiến: Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về chi tiết, <br /> hình ảnh tiêu biểu trong truyện ngắn trong chương trình THPT.<br /> <br /> 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:Trong dạy học môn Văn (Truyện ngắn) <br /> trong chương trình THPT.<br /> 3. Thời gian áp dụng sáng kiến:   Từ tháng 2 năm 2015 đến tháng 4 năm 2016<br /> 4. Tác giả: <br /> Tác giả: Phạm Thị Thanh Nhàn.<br /> Trình độ chuyên môn: Cử nhân môn Văn<br /> Chức vụ: Giáo viên dạy Văn; Tổ trưởng tổ Văn.<br /> Nơi công tác: Trường THPT C Nghĩa Hưng.<br /> Điện thoại: 01654121617<br /> Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 90 %<br /> 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: <br /> Tên đơn vị: Trường THPT C Nghĩa Hưng<br /> Địa chỉ: Khu Đông Bình – Thị trấn Rạng Đông­ Nghĩa Hưng­ Nam Định. <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> A. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN.<br /> I, LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:<br /> 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN <br /> ­Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, mỗi tác phẩm là sự  hợp  <br /> thành của nhiều chi tiết. Những chi tiết có vai trò quan trọng để  làm nên giá trị <br /> của  một   tác  phẩm   nhất  là  với  truyện  ngắn. Các   chi tiết  trong  truyện  ngắn  <br /> thường được chọn lựa một cách kĩ càng hơn. Theo nhà văn  Nguyễn Công Hoan <br /> “Truyện ngắn và truyện dài phải khác nhau  ở  tính chất. Truyện ngắn không  <br /> phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt  <br /> chẽ  và bằng thái độ  với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc.....Không có chi  <br /> tiết thừa, rườm rà, miên man”.  (Kinh nghiệm viết truyện ngắn – Vương Trí <br /> Nhàn­ NXB Tác phẩm mới). Khác với truyện dài, truyện ngắn tuy nhỏ  bé hơn  <br /> nhiều về số lượng trang, chữ, về đối tượng phản ánh nhưng lại đòi hỏi cao về <br /> nghệ  thuật diễn đạt.  Ở  truyện ngắn nhất là những truyện ngắn hay không có <br /> những yếu tố thừa. Vì vậy để tìm hiểu được cái hay cái đẹp của một tác phẩm <br /> văn chương (truyện ngắn)   học sinh cần hiểu thấu đáo và cảm nhận sâu sắc <br /> được các chi tiết nhất là các chi tiết đặc sắc. Bỏ  qua hoặc quên đi một số  chi  <br /> tiết dù chỉ bé nhỏ nhưng lại có ý nghĩa quan trọng và sẽ làm hạn chế giá trị biểu  <br /> hiện của tác  phẩm.<br /> ­Đọc – hiểu tác phẩm văn học nhất là tác phẩm tự sự trong nhà trường là <br /> công việc thường xuyên của thầy và trò. Người thầy phải hướng dẫn học sinh  <br /> tìm hiểu rõ, cụ  thể  các chi tiết. Khi đó học sinh sẽ  có cái nhìn thấu đáo về  tác <br /> phẩm, sẽ  hiểu chiều sâu của các chi tiết cũng như  hiểu rộng hơn ý nghĩa của <br /> tác phẩm, hiểu sâu sắc hơn về  giá trị  nội dung cũng như  ý nghĩa tư  tưởng của  <br /> mỗi tác phẩm  mang lại.<br /> 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN.<br /> ­ Một thói quen của nhiều người nhất là với học sinh là khi tìm hiểu các <br /> văn bản tự sự chỉ quan tâm nhiều đến cốt truyện, nhân vật, tình huống và các đề <br /> <br /> 3<br /> kiểm tra cũng thường chỉ xoay quanh các vấn đề ấy. Đó là nguyên nhân làm cho <br /> các bài làm văn của học sinh chung chung, mờ nhạt, thiếu điểm nhấn. Học sinh <br /> thường chỉ  lướt qua các vấn đề  mà không đi vào việc tìm hiểu sâu các chi tiết  <br /> cụ thể nhất là các chi tiết đắt giá trong tác phẩm.<br /> ­Trong  nhà trường việc tìm hiểu sâu về các chi tiết trong tác phẩm tự sự <br /> không phải là điều đơn giản nhất là với việc hướng dẫn học sinh làm bài văn  <br /> nghị  luận về  chi tiết văn học. Về  thực tế, học sinh đến với môn Văn không <br /> nhiều, rất nhiều em coi môn Văn chỉ là môn điều kiện trong các kì thi. Học sinh  <br /> xác định văn chương trở thành một môn học  để  xét Đại học, Cao đẳng không  <br /> nhiều và học sinh xác định văn chương trở thành một niềm đam mê, hứng thú và  <br /> gắn bó cuộc đời mình với sự  nghiệp văn chương thì quả  thực rất ít. Thực tế <br /> của cuộc sống hiện đại ngày  nay làm cho nhiều em xa rời với văn chương. Với  <br /> xu hướng đó, học sinh thường tiếp cận văn học một cách qua loa, hời hợt chỉ <br /> lướt qua tác phẩm để nắm được cốt truyện cơ bản và cố gắng nắm được một ít <br /> những diễn biến quan trọng trong cuộc đời của nhân vật. Từ việc tiếp cận tác <br /> phẩm qua loa, học sinh thường làm các dạng đề làm văn chung chung. Điều này <br /> các thầy cô đã găp nhiều khi chấm kiểm tra và  thi cử: Đề  về tác phẩm thì học <br /> sinh kể lại tác phẩm, đề về nhân vật, học sinh sẽ kể về cuộc đời nhân vật đơn <br /> thuần.<br /> Thực sự  tôi nhận thấy đây là một vấn đề  khó với học sinh đại trà. Nếu  <br /> không  hướng dẫn kĩ, học sinh không thể  có kĩ năng làm bài và không thể  giải  <br /> quyết được kiểu bài đó bởi dung lượng kiến thức nhỏ mà yêu cầu các em giải <br /> quết trong một khoảng thời gian dài, học sinh sẽ  khó có đủ  kiến thức để  viết.  <br /> Vậy khi học sinh thi kì thi THPT Quốc gia như hiện nay nếu phải đối mặt với  <br /> dạng đề này thực sự sẽ là vấn đề rất khó khăn. Và với mỗi giáo viên cũng cần  <br /> nhận thấy đấy là công việc mà mình phải chú ý.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 4<br /> B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP<br /> I. MÔ TẢ GIẢI PHÁP TRƯỚC KHI TẠO RA SÁNG KIẾN. <br />    ­  Những năm vừa qua, trong các đề thi của Đại học của Bộ  Giáo dục – Đào  <br /> tạ o<br /> hay trong đề  thi của Sở GD­ Nam Định đã có ra dạng đề  về  chi tiết với những  <br /> yêu cầu cụ thể khác nhau.<br /> + Đề tái hiện kiến thức cơ bản như:<br /> Đề 1(Đề thi Tốt nghiệp năm 2010­2011).<br /> Trong   đoạn   cuối   truyện   “Chiếc   thuyền   ngoài   xa”     của   Nguyễn   Minh <br /> Châu, nhân vật nghệ sĩ Phùng mỗi khi ngắm kĩ và nhìn lâu hơn tấm ảnh do mình  <br /> chụp thường thấy hiện lên những hình  ảnh nào? Những hình  ảnh đó nói lên  <br /> điều gì?<br /> Đề 2 (Đề thi Đại học khối C 2011­ 2012).<br /> Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, việc Mị nhìn thấy “dòng <br /> nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”  của A Phủ  diễn ra <br /> trong <br /> hoàn cảnh nào? sự việc ấy có ý nghĩa gì đối với tâm lí của nhân vật Mị?<br /> + Đề làm văn nghị luận như:<br /> Đề 1: (Đề thi Đại học khối D năm 2010)<br /> Cảm nhận của anh/chị về chi tiết bát cháo hành mà nhân vật Thị Nở mang <br /> cho Chí Phèo (Chí Phèo­ Nam Cao) và chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn  <br /> ấm” mà nhân vật Từ dành sẵn cho Hộ (Đời thừa – Nam Cao).<br /> Đề 2: (Đề thi Đại học khối C năm 2012)<br /> <br /> <br /> <br /> 5<br /> Truyện ngắn “Chí  Phèo” của Nam Cao kết thúc bằng hình  ảnh  “Đột  <br /> nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng  <br /> người lại qua”.<br />                                        (Ngữ văn 11. Tập 1, NXB GDVN 2011. Tr 115.)<br /> Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh  “Trong óc <br /> Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.<br />                                        (Ngữ văn 11. Tập 2, NXB GDVN 2011. Tr 32.)<br />   Cảm nhận của anh/ chị về ý nghĩa của những hình ảnh kết thúc trên.<br /> Đề 3: (Đề thi thử THPT Quốc gia SGD Nam Định năm 2015)<br /> Truyện ngắn “Vợ  chồng A Phủ” của Tô Hoài kết thúc bằng hình  ảnh  <br /> “Hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.”<br /> Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh  “Trong óc <br /> Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.<br />            Cảm nhận của anh/ chị về ý nghĩa của những hình ảnh kết thúc trên.<br /> Đề 4: (Đề thi thử THPT Quốc gia – Tham khảo trên mạng)<br /> Trong tác phẩm “Chí Phèo” (Nam Cao), sau khi đến với Thị Nở, sáng mai <br /> ra, Chí Phèo nghe thấy “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng người nói  <br /> của những người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng  <br /> quen thuộc  ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy...Chao ôi là  <br /> buồn”.<br />                                (Trích “Chí Phèo”­ Nam Cao. Ngữ văn 11 Tập 1, NXBGDVN. <br /> 2014. Tr 149)<br /> Trong tác phẩm “Vợ nhặt” (Kim Lân), sau khi có vợ, sáng hôm sau, Tràng <br /> “...Bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình có cái gì vừa mới thay đổi mới mẻ  <br /> khác lạ  (......). Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.  <br /> Bây giờ  hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng  <br /> cho vợ con sau này”. <br />                                (Trích “Vợ nhặt”­ Kim Lân.  Ngữ văn 12 Tập 2, NXBGDVN. <br /> 2014. Tr 30)<br /> 6<br />            Cảm nhận của anh/ chị về tâm trạng của hai nhân vật qua hai đoạn trên.<br /> Đề 5: <br /> Cảm nhận về  chi tiết “bát cháo hành” (Chí Phèo­ Nam Cao) và chi tiết  <br /> “nồi chè cám” (Vợ nhặt­ Kim Lân) để thấy được giá trị củ những chi tiết nghệ <br /> thuật này.<br />                            (Tài liệu 90 đề thi Quốc gia  THPT môn Ngữ Văn (Tập 2). NXB  <br /> Quốc gia Hà nội 2015).<br /> Đề 6.<br /> Sau khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo bảo với thị: <br /> ­ Hay mình sang đây  ở  với tớ  một nhà cho vui. (Chí Phèo, Nam Cao, <br /> Ngữ văn 11).<br /> Trong truyện ngắn Vợ  nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ  văn 12), sau khi <br /> đãi người đàn bà bốn bát bánh đúc, Tràng cười và nói với thị:<br /> ­ Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.<br /> Cảm nhận của anh/ chị về ý nghĩa của những câu nói trên.<br />        Tài liệu 90 đề thi Quốc gia  THPT môn Ngữ Văn (Tập 2). NXB Quốc  <br /> gia Hà nội 2015).<br /> <br /> <br /> Như vậy có rất nhiều câu hỏi liên quan đến việc tìm hiểu cụ  thể các chi <br /> tiết tiêu biểu đòi hỏi học sinh phải cảm nhận sâu sắc, hiểu kĩ các vấn đề.  Ở <br /> đây tôi tập trung vào việc học sinh phải làm những câu làm văn về chi tiết. Điều <br /> này sẽ càng khó khăn hơn.<br /> ­ Thực tế, trong chương trình THCS và THPT không có bài học nào hướng  <br /> dẫn học sinh làm bài văn nghị  luận về  chi tiết, hình  ảnh trong tác phẩm văn <br /> chương. Trong giảng dạy những năm gần đây không phải giáo viên nào cũng <br /> chú ý đến công việc này nhất là với giáo viên chưa ôn thi Đại học (nay là THPT  <br /> Quốc gia). Vì thế  để  học sinh làm tốt được những bài làm văn dạng như  trên <br /> quả thực là điều rất khó khăn.<br /> <br /> <br /> 7<br /> ­ Cũng có nhiều bài viết đưa ra cách tiếp cận tác phẩm từ  việc giải mã <br /> các chi tiết  nghệ thuật như: Vấn đề  giảng dạy tác phẩm theo loại thể (Nhiều <br /> tác giả­ NXB GD 1978), Những bài giảng văn  ở  Đại học ( Lê Trí Viễn ­ NXB <br /> GD 1982)...Ngoài ra cũng có nhiều bài nghiên cứu về  vấn đề  này nhưng chủ <br /> yếu tiến hành theo cách thức tìm hiểu chi tiết như  một câu hỏi nhỏ. Trong tài <br /> liệu “Những ấn tượng văn chương” của nhà giáo Vũ Dương Quỹ cũng có những <br /> bài rất hay về  chi tiết, hình  ảnh nhưng là những bài làm văn mà không định <br /> hướng về phương pháp. Như vậy với học sinh THPT nói chung nhất là với học <br /> sinh Trường THPTC Nghĩa Hưng nói riêng đây vẫn còn là một vấn đề khó.<br /> ­Tôi đã tiến hành cuộc khảo sát với những câu hỏi dành cho giáo viên và  <br /> học sinh trường THPT NHC.<br /> Câu hỏi 1 (Với giáo viên): Đồng chí đã thường xuyên hướng dẫn học <br /> sinh dạng đề làm văn về chi tiết trong tác phẩm tự sự chưa? <br /> Câu hỏi 2 (Với giáo viên): Khi hướng dẫn dạng đề  này thường gặp  <br /> những khó khăn gì?<br /> Câu hỏi 3 (Với học sinh): Em có thường xuyên được giáo viên hướng  <br /> dẫn hoặc tham khảo tài liệu về dạng đề này không?<br /> Câu hỏi 4 ( Với học sinh): Em có suy nghĩ gì khi bắt gặp dạng đề này?<br /> Câu hỏi 5 (Với học sinh): Làm thế nào để em có thể giải quyết dạng <br /> đề làm văn  về chi tiết một cách dễ dàng.<br /> * Sau khi đưa ra các câu hỏi trên với một số  giáo viên và học sinh, tôi <br /> thường nhận được  những câu trả lời sau:<br /> ­Với câu hỏi 1: Nhiều giáo viên trả  lời rất ít khi hướng dẫn cho học sinh <br /> vì dạng đề  này thường rất khó và thi cử  thường ít hỏi đến.  Nếu có nhắc đến  <br /> cũng chỉ  đưa ra lí thuyết một cách chung chung mà chưa định hướng thành các <br /> đề cụ thể.<br /> ­Với câu hỏi 2: Hầu hết giáo viên đều thấy khó khăn vì  không có thời gian  <br /> để  giáo viên phân tích kĩ và học sinh cũng không có điều kiện để  tìm hiểu kĩ <br /> nhất là học sinh không có niềm đam mê để tìm hiểu sâu vấn đề.  <br /> 8<br /> ­Với câu hỏi 3: Với học sinh khối 10, 11 hầu hết chưa được làm quen, với  <br /> học sinh lớp 12, nhiều học sinh chưa được biết đến, khoảng 40 % học sinh <br /> được giáo viên hướng dẫn, 10% học sinh biết đến qua các tài liệu tham khảo.<br /> ­Với câu hỏi 4: Hầu hết học sinh đều trả lời đây là đề  quá khó đòi hỏi kiến  <br /> thức thật sâu và đều thấy rất lo khi vào dạng đề  này. Chỉ  có khoảng 5% học  <br /> sinh thấy đây là đề  hay  phát huy được khả năng cảm thụ văn chương và thấy  <br /> hứng thú.<br /> ­Với câu hỏi 5: Học sinh đều muốn được giáo viên hướng dẫn một cách cụ <br /> thể  để  có được cách làm. Học sinh cũng nhận thấy cần phải tìm hiểu kĩ tác <br /> phẩm, phải tự mình có khả năng cảm nhận hình ảnh văn chương một cách sâu  <br /> sắc.<br /> * Từ những thực tế đó cho thấy dạng đề văn cảm nhận về chi tiết, hình ảnh <br /> trong tác phẩm là rất khó đối với học sinh và giáo viên cũng thường né tránh bởi  <br /> nhiều lí do. Điều này, theo tôi nghĩ là điều thật đáng tiếc. Với hầu hết giáo viên <br /> thường quan niệm dạng đề đó thường ít thi nên không hướng dẫn ôn kĩ. Nhưng  <br /> tôi nghĩ, bên cạnh việc dạy cho học sinh để  đạt kết quả  thi tốt thì người thầy  <br /> cũng   cần   giúp   các   em   khám   phá   được   cái   hay,   cái   đẹp   trong   tác   phẩm   văn <br /> chương từ đó mà thắp lên cho các em ngọn lửa của niềm đam mê. Nếu giáo viên <br /> có tâm lí qua loa thì chính mình đang làm các em rời xa văn chương và rời xa <br /> chính mình. Vì thế mà việc giảng dạy của mình sẽ gặp nhiều khó khăn. Chỉ khi <br /> học sinh hiểu sâu được ý nghĩa của những hình  ảnh, chi tiết tiêu biểu để  hiểu  <br /> sâu tác phẩm văn chương mới giúp các em có niềm đam mê để  khám phá, tìm <br /> tòi. Từ  đó mới thấy được ý nghĩa   sâu sắc của tác phẩm trong đời sống con <br /> người, các em sẽ  đem văn chương vào cuộc đời để  cuộc đời trở  nên ý nghĩa  <br /> hơn. Và chỉ khi đó người dạy Văn mới thực sự có niềm hạnh phúc của mình.<br /> * Từ  thực tế  đó, bên cạnh các dạng đề  khác, tôi cũng rất chú ý hướng dẫn <br /> các em giải quyết dạng đề văn nghị luận về hình ảnh, chi tiết trong tác phẩm tự <br /> sự. Và tôi đi tìm giải pháp để “Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận về <br /> chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm truyện ngắn trong chương trình THPT”<br /> 9<br /> II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SAU KHI CÓ SÁNG KIẾN.<br />  II.1. CÁC  BƯỚC HƯỚNG DẪN HỌC SINH.<br /> 1, Bước 1: Tìm hiểu về chi tiết và chi tiết văn học.<br /> ­Theo “Từ  điển Tiếng Việt” (NXB khoa học xã hội Hà Nội năm 1988) thì <br /> “Chi tiết là: Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng”.<br /> ­ Trong văn học, chi tiết theo định nghĩa của nhóm tác giả  Lê Bá Hán, Trần <br /> Đình Sử, Nguyễ Khắc Phi ( Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia <br /> Hà Nội, 1977) là : Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và  <br /> tư tưởng và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. <br /> ­>Từ những quan niệm trên có thể rút ra nhận xét: Chi tiết văn học là những <br /> tiểu tiết trong tác phẩm nhưng nó có ý nghĩa lớn góp phần làm nổi bật nội dung  <br /> tư tưởng của tác phẩm và phong cách nghệ thuật của nhà văn.<br /> Chi tiết văn học rất phong phú: Chi tiết có thể xuất hiện trong thơ hoặc văn <br /> xuôi bao gồm chi tiết miêu tả  thiên nhiên, miêu tả  không gian, chi tiết miêu tả <br /> tính cách, diễn biến nội tâm của nhân vật...Chi tiết nghệ thuật có tính tạo hình,  <br /> chi tiết gắn liền với quan niệm nghệ thuật về con người, chi tiết có vai trò biểu  <br /> lộ tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Chi tiết đóng vai trò làm tiền đề cho sự phát triển  <br /> của cốt truyện.<br /> Trong tác phẩm tự  sự, các nhà văn đều dụng công xây dựng những chi tiết <br /> nghệ thuật quan trọng (chi tiết đắt). Những chi tiết ấy có sức nặng làm sáng tỏ <br /> mạch truyện. Mỗi chi tiết đắt thường làm lóe sáng  ở  người đọc những cảm <br /> nhận có chiều sâu và phát huy được trí tưởng tượng phong phú  ở  người đọc.  <br /> Tác phẩm có thể  thêm bớt chi tiết này hoặc chi tiết khác song những “chi tiết  <br /> đắt” thì không thể thay thế. Và ngay cả  vị trí của nó nữa, phải đặt vào đúng vị <br /> trí đó thì thì mới bật lên những cảm xúc và sáng lên chủ  đề  tư  tưởng của tác <br /> phẩm. Đọc xong tác phẩm, học sinh có thể  quên đi điều này điều kia nhưng  <br /> những điểm sáng nghệ thuật ấy khiến học sinh nhớ mãi và nó trở thành ám ảnh <br /> trong tâm trí. Người ta thấy bâng khuâng trước bát cháo hành của Thị  Nở  (Chí <br /> <br /> 10<br /> Phèo), hay ấm lòng trước ấm nước đầy của Từ (Đời thừa)....thấy bồi hồi, thổn <br /> thức với tiếng sáo đêm xuân (Vợ chồng A Phủ).<br /> Có những chi tiết tưởng như  đơn giản nhưng lại mang ý nghĩa quan trọng <br /> tạo bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật. Ví như  chi tiết nói vê cuốn “Đường  <br /> về” được dịch sang tiếng Anh mà Hộ  (Đời thừa) đã nghe thấy người bạn của  <br /> mình nói đến. Hộ  đang định mua thức ăn cho vợ  con và anh đã gần thực hiện  <br /> được ý nguyện đó nhưng khi nghe tin một cuốn sách (với Hộ  chỉ  có giá trị  địa  <br /> phương thôi) lại được dịch sang tiếng Anh với bản quyền rất cao thì Hộ  đã <br /> quên ngay mọi dự định, quyết tâm của mình. Đó là chi tiết tưởng như đơn giản <br /> nhưng làm thay đổi hẳn suy nghĩ và hành động của Hộ. <br /> 2. Bước 2:   Trong phần đọc – hiểu văn bản, tôi thường chú ý đến việc  <br /> hướng dẫn cho học sinh phát hiện các chi tiết nổi bật có ý nghĩa  quan trọng với <br /> tác phẩm (Đây là việc mỗi giáo viên thường hay làm và cũng có nhiều tài liệu <br /> đề cập).<br /> 3. Bước 3: Sau khi học xong mỗi tác phẩm, tôi thường yêu cầu học sinh hệ <br /> thống lại các chi tiết quan trọng  Công việc này với mục đích một lần nữa các <br /> em đọc lại tác phẩm để khắc sâu hơn những vấn đề chủ yếu của tác phẩm.<br /> 4. Bước 4: Sau khi học xong một chùm bài (một chuyên đề) tôi hướng dẫn <br /> học sinh phân loại các chi tiết quan trọng (Tham khảo cách phân loại của đc <br /> Trần Xuân Trà trong tài liệu tập huấn ôn thi Tốt nghiệp năm 2013).<br /> 5. Bước 5: Trong số  những chi tiết đã hệ  thống đó tôi hướng dẫn học sinh  <br /> xác định những chi tiết, hình ảnh đặc biệt có ý nghĩa then chốt với mạch truyện  <br /> và góp phần quan trọng trong việc thể hiện chủ đề  tư tưởng của tác phẩm. Đó <br /> là những chi tiết, hình ảnh có thể bàn luận dưới dạng bài văn nghị luận.<br /> VD: <br /> Tác phẩm “Hai đứa trẻ”­ Thạch Lam cần lưu ý đặc biệt các chi tiết,  hình  <br /> ảnh: ngọn đèn con của chị Tí, đoàn tàu đi qua phố huyện vào mỗi đêm.<br /> Tác phẩm “Chí Phèo” ­ Nam Cao cần chú ý chi tiết, hình ảnh: Bát cháo hành <br /> của Thị Nở, giọt nước mắt của Chí Phèo, cái lò gạch bỏ không....<br /> 11<br /> Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” – Tô Hoài cần chú ý chi tiết, hình ảnh : Tiếng <br /> sáo đêm xuân, giọt nước mắt của A Phủ......<br /> Tác phẩm “Vợ  nhặt”­ Kim Lân cần chú ý chi tiết, hình  ảnh: Bát bánh đúc, <br /> nồi cháo cám (chè khoán), đoàn người phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ .......<br /> Tác phẩm “Rừng xà nu”­ Nguyễn Trung Thành cần chú ý chi tiết, hình  ảnh:  <br /> Lời nói của cụ Mết “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, bàn tay Tnú, <br /> rừng xà nu bạt ngàn (cuối tác phẩm).........<br /> Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”­ Nguyễn Thi cần chú ý chi tiết, <br /> hình  ảnh: cuốn sổ  gia đình, lời khen của chú Năm với Việt và Chiến, chị  em  <br /> Việt và Chiến khiêng bàn thờ ba má sang gửi chú Năm......<br />    Đồng thời tôi cũng yêu cầu học sinh về nhà tìm hiểu kĩ những tài liệu viết  <br /> về  chi tiết, hình  ảnh đó (Trong tài liệu nhiều bài viết về  một số  chi tiết, hình  <br /> ảnh như:  Tiếng sáo đêm xuân  trong “Vợ  chồng A Phủ” của Tô Hoài hay hình <br /> ảnh “Bàn tay Tnu” trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành.  Từ <br /> đó hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về hình ảnh, chi tiết đó.<br /> 6. Bước 6: Phân loại các dạng đề về chi tiết: <br /> ­ Dạng đề nghị luận về chi tiết xuất hiện một lần trong tác phẩm. <br /> ­ Dạng đề nghị luận về những ý kiến bình luận chi tiết, hình ảnh.<br /> ­ Dạng đề nghị luận về chi tiết xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm.<br /> ­ Dạng đề nghị luận về các chi tiết, hình ảnh có liên quan xuất hiện trong các  <br /> tác phẩm. <br /> * Những năm gần đây tôi có chú ý về  dạng đề  bàn luận những ý kiến đánh  <br /> giá về các chi tiết, hình ảnh.<br /> *  Ở  các dạng đề  đều có những các bước (các thao tác) chung của dạng đề <br /> về chi tiết và cũng có những lưu ý riêng (có liên quan đến các dạng đề nghị luận  <br /> khác như  dạng đề  so sánh, dạng đề  bình luận ý kiến). Các dạng đề  so sánh, <br /> dạng đề  bình luận ý kiến, tôi đã thường hướng dẫn học sinh rất kĩ. Ở  đây tôi <br /> yêu cầu học sinh vận dụng linh hoạt (vận dụng kết hợp các phương pháp ở các  <br /> dạng  đề trên) để làm đề về chi tiết, hình ảnh.<br /> 12<br /> II.2. HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM BÀI VĂN NGHỊ  LUẬN VỀ  CHI  <br /> TIẾT, HÌNH ẢNH TRONG TÁC PHẨM TỰ SỰ.<br /> 1. DẠNG ĐỀ VỀ MỘT CHI TIẾT HÌNH ẢNH TIÊU BIỂU TRONG TÁC <br /> PHẨM.<br /> (I). Đặt vấn đề: Yêu cầu học sinh có cách dẫn dắt phù hợp . Với dạng đề <br /> về  chi tiết có thể  dẫn dắt từ    sự  thành công của tác phẩm được làm nên từ <br /> những chi tiết “đắt”, từ đó mà dẫn dắt đến chi tiết cần bàn luận.<br /> (II). Giải quyết vấn đề:<br /> 1. Giới thiệu khái quát về tác giả tác phẩm (giống như các dạng  đề khác <br /> về tác phẩm).<br /> 2.   Khái   quát   về   chi   tiết   và   vai   trò   của   chi   tiết   trong   tác   phẩm   văn <br /> chương (trong truyện ngắn)<br /> ­ Chi tiết văn học (Dẫn dắt từ phần bước 1 (I))<br /> ­ Vai trò của chi tiết trong tác phẩm văn học: Chi tiết nghệ thuật có tính tạo  <br /> hình, chi tiết gắn liền với quan niệm nghệ thuật về con người, chi tiết có vai trò  <br /> biểu lộ tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Chi tiết đóng vai trò làm tiền đề cho sự phát  <br /> triển của cốt truyện.<br /> 3. Dẫn dắt cụ  thể  hoàn cảnh dẫn đến chi tiết. Tất cả  các chi tiết đều <br /> được xuất hiện trong hoàn cảnh cụ  thể  nhất là các chi tiết quan trọng thường  <br /> xuất hiện trong một hoàn cảnh (tình huống đặc biệt)­ Tóm tắt các sự việc phần <br /> trước đó để dẫn đến chi tiết cần bàn luận bằng một đoạn văn ngắn khoảng 7­ <br /> 10 dòng (Chú ý dẫn dắt ngắn gọn, chọn những sự  việc then chốt có liên quan <br /> chặt chẽ đến mạch vận động của tác phẩm và có ý nghĩa trực tiếp đến chi tiết <br /> bàn luận. Tránh lan man). Cụ thể:<br /> ­Chi tiết ấy thuộc phần nào của tác phẩm.<br /> ­Tình huống dẫn đến chi tiết.<br /> ­Đưa ra cụ thể hình ảnh, chi tiết cần phân tích.<br /> 4. Phân tích cụ thể nội dung, nghệ thuật để rút ra nghĩa của chi tiết.<br /> <br /> 13<br /> * Đây là phần quan trọng nhất và thường rất khó bởi dung lượng chi tiết thì  <br /> thật ít lại đòi hỏi các em phải suy luận, phân tích có chiều sâu. Học sinh phải có <br /> kiến thức và kĩ năng thật tốt. Muốn vậy, giáo viên phải định hướng cho học sinh <br /> biết cách khai thác vấn đề, phải biết phát huy trí tưởng tượng phong phú, phát <br /> huy trường liên tưởng. Bản chất của văn chương là sự  sáng tạo nên cần có sự <br /> cảm nhận phong phú sáng tạo của học sinh song cũng cần phải bám vào mạch  <br /> truyện, vào các yếu tố liên quan để hiểu về chi tiết cũng như hiểu được chủ đề <br /> tư  tưởng của tác phẩm. Phải gắn chi tiết  ấy vào chỉnh thể  của tác phẩm và  <br /> phong cách của nhà văn.<br /> a. Phân tích nội dung<br /> a1. Phải thấy rõ chi tiết ấy nói về điều gì?<br /> Cần cắt nghĩa rành rọt về chi tiết đó. Phải đặt trong từng tình huống cụ thể <br /> để hiểu sâu nội dung, ý nghĩa. Như chi tiết “giọt nước mắt của A Phủ” phải đặt <br /> vào hoàn cảnh A Phủ là một chàng trai rất gan bướng không dễ  gì anh sẽ  khóc <br /> nên chi tiết này có thể  thấy nó đã thể  hiện nỗi đau đớn, tủi cực đến tận cùng  <br /> của nhân vật. hay phải đặt vào hoàn cảnh xã hội để  hiểu ý nghĩa của chi tiết.  <br /> Cũng với chi tiết “giọt nước mắt của A Phủ”  phải thấy được hoàn cảnh của <br /> người nông dân miền núi dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến lúc bấy  <br /> giờ. Bọn địa chủ, phong kiến luôn đè nén con người khiến họ  phải chịu bao <br /> cảnh ngang trái, bất công.<br /> a2. Bình sâu các từ ngữ quan trọng.<br /> Trong cách “chi tiết đắt”, các nhà văn thường đặc tả qua một số từ ngữ then <br /> chốt để làm nổi bật tư tưởng. Có những từ ngữ gợi giá trị  tạo hình như  từ ngữ <br /> trong chi tiết về giọt nước mắt của bà cụ Tứ “ Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà  <br /> rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt­ Kim Lân) hay hình ảnh mười đầu ngón <br /> tay Tnú bị  bốc cháy “Một ngón tay Tnu bốc cháy. hai ngón. Không có gì đượm  <br /> bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh, mười ngón tay bây giờ đã trở thành mười  <br /> ngọn đuốc”. Có những từ  ngữ  làm nổi bật những xúc cảm như  trong truyện <br /> <br /> 14<br /> ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao khi nhà văn nói về thái độ của Hoàng với người  <br /> nông dân “Nỗi khinh bỉ  của anh phì ra cả  ngoài nét mặt theo cái bĩu môi dài  <br /> thườn thượt, mũi anh nhăn lại như  ngửi thấy mùi xác thối”. Chỉ  khi học sinh <br /> biết chú ý vào các từ ngữ then chốt có sức gợi thì mới làm nổi bật nội dung cụ <br /> thể của chi tiết và cảm xúc của người viết.<br /> a3. Phân tích sâu ý nghĩa gợi ra từ chi tiết đó (cho phép học sinh có những <br /> cảm nhận, liên tưởng phong phú sao cho vẫn phù hợp với mạch truyện và góp <br /> phần thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm).<br /> Khi phân tích hình ảnh ngọn lửa trên mười đầu ngón tay của Tnú, học sinh có <br /> những cảm nhận và liên tưởng:<br /> ­Ngọn lửa bốc cháy trên mười đầu ngón tay của Tnú như  thể hiện nỗi đau <br /> đớn tận cùng của Tnú và cũng là nỗi đau của toàn dân tộc khi kẻ  thù sang xâm  <br /> lược. Nhà văn đã miêu tả  “Một ngón tay Tnu bốc cháy, hai ngón, ba ngón...”. <br /> Ngôn ngữ giàu sức tạo hình để ta hình dung ra hình ảnh những ngón tay Tnú cứ <br /> bén dẫn, bén dần lần lần một ngón, hai ngón...Nhà văn lại nói thêm:  Không có gì  <br /> đượm bằng cây xà nu. Lửa bắt rất nhanh, mười ngón tay đã trở  thành mười  <br /> ngọn đuốc. Ngọn lửa ấy lan thật nhanh và ngay trong chốc lát mười ngón tay ấy  <br /> đã bùng lên bốc cháy...Nỗi đau như  đến tận cùng. Đau đớn cực độ  khi Tnú  <br /> không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay mà anh cảm thấy lửa cháy trong lồng  <br /> ngực, cháy ở bụng, máu anh mặn chát ở đầu lưỡi, răng anh đã cắn nát môi anh  <br /> rồi. Lúc này nỗi đau  ấy không chỉ   ở  mười đầu ngón tay nữa mà ngọn lửa  ấy <br /> như thiêu đốt toàn cơ thể anh, anh đang cố kìm nén nỗi đau. Đó còn là hình ảnh <br /> tố cáo tội ác tày trời của giặc Mĩ, chúng đã tàn sát hủy diệt cuộc sống của nhân <br /> dân ta. Chúng còn giết bà Nhan, anh Xút, anh Quyết và bao nhiêu người dân vô  <br /> tội khác nữa. Chúng đã biến cây xà nu vốn thân thuộc gần gũi, vốn là bạn của <br /> mọi nhà giờ  đây lại thiêu đốt nhân dân. Dưới sự  tàn bạo của chúng tất cả  đều <br /> trở nên đáng sợ (Liên hệ với tội ác của giặc Minh ở thế kỉ XV): <br /> “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn <br /> Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”<br /> 15<br />                                   “Bình Ngô đại cáo”­ Nguyễn Trãi<br /> ­Ngọn lửa ngùn ngụt bốc cháy cũng là ngọn lửa của  lòng căm thù trong <br /> mỗi người dân Việt Nam. Bọn thằng Dục thiêu đốt mười đầu ngón tay của Tnú  <br /> là để uy hiếp tinh thần của nhân dân. Chúng đe dọa người dân “xem hãy coi bàn <br /> tay thằng Tnú”, chúng muốn người dân Tây Nguyên nhìn vào đó mà sợ, mà <br /> không dám đấu tranh nhưng ngược lại nhìn vào đó họ không sợ hãi bọn giặc mà <br /> chỉ  thấy thương cho Tnú và căm giận sục sôi với quân thù và họ  sẽ  đứng lên  <br /> đấu tranh chống lại kẻ  thù tàn ác, trả  thù cho những người dân đã chịu đau <br /> thương và đã hi sinh.<br /> ­Mười ngón tay đã trở  thành mười ngọn đuốc. Không phải ngẫu nhiên mà <br /> nhà văn Nguyễn Trung Thành ví ngọn lửa  ấy như  những ngọn đuốc bởi ngọn  <br /> đuốc vốn thật gần gũi với buôn làng Tây Nguyên, nó soi sáng trong đêm tối nơi <br /> núi rừng. Và ngọn đuốc thường có ý nghĩa nói về  ý nghĩa soi đường, tinh thần <br /> đấu tranh. Lúc này mười ngọn đuốc  ấy kết thành một bó đuốc rực sáng để <br /> khích lệ  và cổ  vũ tinh thần đấu tranh. Đặc biệt bó đuốc  ấy như  ánh sáng soi  <br /> đường cho cả dân làng đứng lên đấu tranh (Liên hệ vơi trái tim Đan cô).<br /> Ngọn lửa  ấy cũng đã báo hiệu cuộc Đồng Khởi của người dân Tây Nguyên,  <br /> họ cùng nhất loạt đứng lên đấu tranh và chiến thắng. <br />  a4. Phải có sự so sánh, mở rộng liên hệ với các chi tiết khác ở tác phẩm  <br /> cũng như các chi tiết có liên quan ở các tác phẩm khác.<br /> Các chi tiết trong tác phẩm bao giờ cũng có mối quan hệ chặt chẽ với các chi <br /> tiết khác. Khi tìm hiểu chi tiết, hình ảnh nào đó ta đặt nó trong mối liên hệ  với  <br /> các chi tiết khác trong tác phẩm để thấy một mạch thống nhất. Hay khi liên hệ <br /> với các chi tiết trong các tác phẩm khác thì lại để  thấy được sự  kế  thừa cũng <br /> như sự sáng tạo trong sáng tác văn chương. Như khi phân tích về giọt nước mắt  <br /> của A Phủ có thể liên hệ với giọt nước mắt của Hộ trong “Đời thừa”. Nam Cao  <br /> đã miêu tả  giọt nước mắt của nhân vật Hộ  “Nước mắt hắn bật ra như  nước  <br /> một quả  chanh người ta bóp mạnh”. “Hắn khóc. Hắn khóc nức nở, khóc như  <br /> thể không ra tiếng khóc”. Hay nước mắt của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên  <br /> 16<br /> “Hắn thấy mắt mình hình như   ươn  ướt”.  Ở  đây đều là giọt nước mắt của <br /> những người đàn ông đau khổ  nhưng có hoàn cảnh và số  phận khác nhau. Nếu  <br /> như  giọt nước mắt của Chí Phèo là sự  cảm động khi được Thị  Nở  chăm sóc,  <br /> giọt nước mắt của Hộ là ân hận khi nhận ra hành động thô bạo của mình với vợ <br /> con thì giọt nước mắt của A Phủ lại là nỗi đau đớn, tủi cực của người nông dân  <br /> khi bị áp bức. Cũng cùng cách thức so sánh liên hệ ấy khi nói về giọt nước mắt  <br /> của bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân ta có thể liên hệ đến câu  <br /> thơ:<br />  “Tuổi già hạt lệ như sươnng<br /> Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”<br />                                                 “Khóc Dương khuê”­ Nguyễn khuyến.<br /> b. Phân tích nghệ  thuật xây dựng chi tiết  (gắn với nét đặc trưng trong <br /> phong cách của nhà văn)<br /> ­Bút pháp miêu tả như bút pháp hiện thực (chi tiết kết thúc truyện Chí Phèo), <br /> bút pháp lãng mạn cách mạng (chi tiết kết thúc truyện “Vợ nhặt”), bút pháp của  <br /> khuynh hướng sử thi (chi tiết về hình ảnh rừng xà nu cuối tác phẩm “Rừng xà  <br /> nu”)<br /> ­Nét đặc trưng trong ngôn ngữ: Ngôn ngữ  giản dị  như  trong tác phẩm của  <br /> Kim Lân, ngôn ngữ  hào hùng tráng lệ  như  trong “Rừng xà nu”, ngôn ngữ  đậm <br /> màu sắc triết lí như trong tác phẩm của Nam Cao..., ngôn ngữ đậm sắc thái Nam  <br /> Bộ trong “Những đứa con trong gia đinh” Nguyễn Thi...<br /> 5. Đánh giá ý nghĩa của chi tiết đó trong hệ thống toàn bộ tác phẩm.<br /> Chi tiết quan trọng ấy làm cho mạch truyện trở nên thống nhất và giữ vai trò <br /> chủ đạo làm nên ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm. <br /> Thể hiện rõ phong cách của tác giả.<br />  VÍ DỤ CHỨNG MINH<br /> Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết bát bánh đúc trong truyện ngắn“Vợ <br /> nhặt” của Kim Lân.<br /> <br /> 17<br /> (I). ĐVĐ: (Giới thiệu từ quan niệm của nhà văn Nguyễn Minh Châu)<br /> (Nhà văn Nguyễn Minh Châu có lần nói đại ý rằng : Người cầm bút có <br /> biệt tài là có thể  chọn trong cái dòng đời xuôi chảy  một khoảnh khắc với một <br /> vài sự diễn biến sơ sài nhưng đó có khi lại là cái khoảnh khắc chứa cả một đời  <br /> người, một đời nhân loại. Đúng như  vậy, trong cái dòng đời xuôi chảy  ấy các <br /> nhà văn sẽ  tìm được một khoảnh khắc – một điểm sáng nghệ  thuật có ý nghĩa <br /> làm nổi bật tính cách của nhân vật và góp phần quan trọng trong việc thể hiện <br /> chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chi tiết  bát bánh đúc trong tác phẩm “Vợ nhặt” <br /> của Kim Lân mang ý nghĩa như thế).<br /> (II). GQVĐ:<br /> 1. Khái quát về tác giả, tác phẩm.<br /> ­Tác giả  Kim Lân: Kim Lân là nhà văn được coi là “con đẻ  của đồng  <br /> ruộng”. Ông “một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy của  <br /> cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng).  Kim Lân có những trang viết chân thực  <br /> về đời sống làng quê với những thú vui tao nhã của người nông dân quê mình mà <br /> ông gọi đó là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Ông cũng viết chân <br /> thực về những người nông dân quê mình chất phác, hóm hỉnh mà rất tài hoa.<br /> ­ Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”  <br /> được viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và <br /> bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào <br /> một phần của cốt truyện cũ để  viết tác phẩm “Vợ  nhặt”. Tác phẩm được đưa <br /> vào tập “Con chó xấu xí” (Xuất bản 1962).<br /> ­Nội dung chính: Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của người dân  <br /> vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói kinh hoàng năm 1945. Nhưng trong hoàn <br /> cảnh đó người nông dân vẫn đùm bọc yêu thương, vẫn khao khát mái  ấm gia <br /> đình và luôn có một niềm hi vọng vào tương lai.<br /> 2. Dẫn dắt để  dẫn đến chi tiết  (hoàn cảnh, tình huống xuất hiện chi <br /> tiết)<br /> <br /> 18<br /> (Tràng là một anh nông dân nghèo sống ở xóm ngự cư. Trong nạn đói, anh  <br /> làm thuê, kéo xe bò thóc cho liên đoàn lên tỉnh.Tràng gặp thị   ở  chợ  tỉnh, cũng  <br /> đang trong nạn đói. Lần thứ hai gặp lại, Tràng thấy thị “gầy sọp đi, trên khuôn  <br /> mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.  Sau những câu nói tầm phơ tầm <br /> phào, Tràng đã mời thị ăn. Tràng vỗ vỗ vào Túi: Rích bố cu. Thế là thị sà xuống <br /> ăn thật. Thị  ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Ăn xong, thị  cầm dọc đôi đũa quệt <br /> ngang miệng...”).<br /> 3. Phân tích chi tiết: Thể hiện số phận, phẩm chất của nhân vật.<br /> ­Thể hiện số phận thảm thương, khốn cùng của nhân vật trong nạn đói<br /> khủng khiếp năm 1945.<br /> +Vì cái đói cái nghèo nên khi được Tràng mời ăn giầu, thị đã nói  “Ăn gì thì  <br /> ăn, chả ăn giầu”. Thị đã “gợi ý” để được ăn, Lúc này cái đói cái nghèo đang bám <br /> riết lấy thị  nên cái điều đơn giản nhất và cũng lớn lao nhất với thị  là có được <br /> miếng ăn.<br /> + Vì miếng ăn mà thị mất đi nữ tính của người con gái, thị đánh đổi cái sĩ  <br /> diện, cái duyên của người con gái. Khi thị “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh  <br /> đúc” thì ta thấy thị  thật đáng thương, tội nghiệp. Có người nói thị  trở  nên trơ <br /> trẽn vì miếng ăn, cái đói đã làm thị  mất đi nhân phẩm, lòng tự  trọng. Có sống <br /> trong hoàn cảnh   ấy con người ta mới thấm thía và hiểu cho hoàn cảnh của thi. <br /> Nhà văn Nam Cao cũng hay viết về cái đói, về miếng ăn, về chuyện vì miếng ăn <br /> mà con người ta đánh mất đi nhân phẩm, lương tri. Trong truyện “Một bữa no”,  <br /> Nam Cao cũng đã nói về người bà vì đói quá mà ăn cho đến no và chết vì “một <br /> bữa no”, hay trong “Trẻ con không được ăn thịt chó”, nhà văn cũng viết về hình <br /> ảnh của người cha vì miếng ăn mà trở nên độc ác với những đứa con.<br /> +Thị theo không Tràng về  làm vợ cũng chỉ vì cái đói, muốn chạy trốn cái <br /> đói.<br /> ­Hình ảnh bắt bánh đúc ấy cũng thể hiện niềm ham sống, khát khao cuộc <br /> sống của người nông dân: Vì sự sinh tồn nên thị “ăn liền một chặp bốn bát bánh <br /> đúc chẳng chuyện trò gì”, ăn để sống. Và thị  bám theo câu nói của Tràng “rích <br /> 19<br /> bố cu” “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về, rồi thị đã theo không <br /> về làm vợ. <br /> ­ Thể hiện vẻ đẹp của tình người hào hiệp ở  người cho ăn­ Tràng nghèo <br /> không dư dật gì nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, biết cưu mang đồng loại.<br /> + Trong buổi đói khát, miếng ăn là cả vấn đề sinh mệnh, Tràng cho thị ăn <br /> trong hoàn cảnh lúc bấy giờ một nghĩa cử rất cao đẹp.<br /> + Tràng đã cứu sống thị.<br /> ­Bánh đúc nên duyên vợ chồng. Trong văn học ta thường thấy những hình <br /> ảnh mang đậm chất thơ  để  nói về  tín hiệu giao duyên nào là cái áo “ yêu nhau <br /> cởi áo cho nhau”, nào là chiếc khăn “khăn thương nhớ ai” còn ở đây lại là một <br /> hình ảnh rất thực của cuộc sống đời thường. <br /> + Từ bát bát bánh đúc ấy mà thị thành vợ Tràng và sau này thị trở nên hiền  <br /> thục, nữ tính sau khi làm vợ Tràng.<br /> + Từ  đó Tràng cũng có được hạnh phúc bất ngờ, sung sướng khi có vợ. <br /> Sau này tâm tính Tràng thay đổi, thấy mình nên người gắn bó và có trách nhiệm <br /> với gia đình.<br /> 4. Đánh giá về ý nghĩa tư tưởng: <br /> ­Chi tiết bát bánh đúc trong tác phẩm đã phản ánh hiện thực về  nạn đói  <br /> trong đó con người bị coi như cọng rơm cái rác, giá trị cả con người trở nên rẻ <br /> mạt.<br /> ­Thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: Cảm thông với nỗi khổ của con người  <br /> qua đó cũng tố cáo, lên án những những chính sách tàn bạo của thực dân Pháp  <br /> và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân ta vào thảm cảnh nạn đói thảm khốc. Đồng <br /> thời Kim Lân cũng ca ngợi vẻ đẹp của tình người ở người lao động trong hoàn  <br /> cảnh còn nhiều khó khăn. <br /> 5. Đánh giá về chi tiết:<br /> ­Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy cốt truyện, khắc họa số  phận,  <br /> phẩm chất, tính cách của nhân vật.<br /> <br /> <br /> 20<br /> + Thể hiện được nét đặc sắc trong phong cách sáng tác của Kim Lân. Nhà <br /> văn thường viết về  cuộc sống giản dị của người nông dân với tâm lí rất đời <br /> thường. Ông sử dụng ngôn ngữ nôm na, gần gũi trong cuộc sống đời thường.<br /> (III). KTVĐ<br /> ­Khẳng định ý nghĩa của chi tiết.<br /> ­Khẳng định ý nghĩa của tác phẩm.<br /> <br /> <br /> 2. DẠNG ĐỀ  NGHỊ  LUẬN VỀ  NHỮNG  Ý KIẾN BÌNH LUẬN VỀ <br /> CHI TIẾT.<br /> (Học sinh vận dụng kĩ năng nghị luận về những ý kiến bàn về văn học)<br /> I). Đặt vấn đề: Yêu cầu học sinh có cách dẫn dắt phù hợp. Cần đưa ra được <br /> những ý kiến bàn về chi tiết.<br /> (II). Giải quyết vấn đề:<br /> 1. Giới thiệu khái quát về  tác giả và  tác phẩm <br /> 2.   Khái   quát   về   chi   tiết   và   vai   trò   của   chi   tiết   trong   tác   phẩm   văn <br /> chương (trong truyện ngắn)<br /> ­ Chi tiết văn học (Dẫn dắt từ phần bước 1 (I))<br /> ­ Vai trò của chi tiết trong tác phẩm văn học: Chi tiết nghệ thuật có tính tạo  <br /> hình, chi tiết gắn liền với quan niệm nghệ thuật về con người, chi tiết có vai trò  <br /> biểu lộ tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Chi tiết đóng vai trò làm tiền đề cho sự phát  <br /> triển của cốt truyện.<br /> 3. Bình luận các ý kiến về chi tiết. <br /> 3.1: Bàn luận về ý kiến thứ nhất.<br /> ­Đưa ra ý kiến của cá nhân.<br /> ­Giải thích, chứng minh cho ý kiến của mình.<br /> 3.2: Bàn luận về ý kiến thứ hai.<br /> ­Đưa ra ý kiến của cá nhân.<br /> ­Giải thích, chứng minh cho ý kiến của mình.<br /> 21<br /> 4. Bàn luận về mối quan hệ giữa hai ý kiến.<br /> (III). KTVĐ.<br /> ­Khẳng định lại ý kiến của bản thân.<br /> ­ Đánh giá về ý nghĩa của chi tiết:<br /> ­Đánh giá về sự thành công của tác phẩm.<br /> <br /> <br /> VÍ DỤ CHỨNG MINH<br /> Đề bài: Về cách kết thúc truyện ngắn “Vợ nhặt”, có ý kiến cho rằng <br /> “Đó là một cái kết  mở, tự nhiên và sáng”, lại có ý kiến cho “Đó chưa phải  <br /> là một cái kết thực sự tự nhiên, gượng ép về nghệ thuật”. <br />  Ý kiến của anh (chị).<br /> (I). ĐVĐ: <br /> Đặc điểm của văn chương là sự sáng tạo, mỗi nhà văn có quyền chọn cho  <br /> mình một con đường riêng và bản thân mỗi tác phẩm cũng có sự  phong phú về <br /> các tầng  nghĩa. Vì thế  quá trình tiếp nhận văn học cũng là một quá trình đầy <br /> sáng tạo tùy thuộc vào vốn sống, năng lực bản thân, ý kiến, hoàn cảnh chủ quan  <br /> của mỗi cá nhân. Đứng trước một hình tượng văn học có thể có những luồng ý <br /> kiến khác nhau như khi đánh  giá về  cách kết thúc của truyện ngắn “Vợ  nhặt”  <br /> có ý kiến cho rằng <br /> “Đó là một cái kết  mở, tự nhiên và sáng”, lại có ý kiến cho “Đó chưa phải là  <br /> một cái kết thực sự tự nhiên,gượng ép về nghệ thuật”. <br /> (II). GQVĐ<br /> 1. Khái quát về tác giả, tác phẩm.<br /> ­Tác giả  Kim Lân: Kim Lân là nhà văn được coi là “con đẻ  của đồng  <br /> ruộng”. Ông “một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu nguyên thủy của  <br /> cuộc sống nông thôn” (Nguyên Hồng).  Kim Lân có những trang việt chân thực  <br /> về đời sống làng quê với những thú vui tao nhã của người nông dân quê mình mà <br /> <br /> <br /> 22<br /> ông gọi đó là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Ông cũng viết chân <br /> thực về những người nông dân quê mình chất phác, hóm hỉnh mà rất tài hoa.<br /> ­ Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”  <br /> được viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và <br /> bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào <br /> một phần của cốt truyện cũ để  viết tác phẩm “Vợ  nhặt”. Tác phẩm được đưa <br /> vào tập “Con chó xấu xí” (Xuất bản 1962).<br /> ­Nội dung chính: Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của người dân  <br /> vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói kinh hoàng năm 1945. Nhưng trong hoàn <br /> cảnh đó người nông dân vẫn đùm bọc yêu thương, vẫn khao khát mái  ấm gia <br /> đình và luôn có một niềm hi vọng vào tương lai.<br /> 2. Khái quát về  chi tiết trong tác phẩm văn học. (Tham khảo phần <br /> trên).<br /> 3. Tóm tắt dẫn dắt đến chi tiết.<br /> Truyện viết về cuộc sống của những người dân ở xóm ngụ cư trong nạn  <br /> đói mà tiêu biểu là cuộc sống của gia đình Tràng. Vì cái đói cái nghèo nên Tràng <br /> không thể có một đám cưới đàng hoàng và bữa cơm đón nàng dâu mới của nhà <br /> Tràng cũng rất thảm hại “Giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái  <br /> rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Trong bữa ăn họ  nghe thấy tiếng trống thúc <br /> thuế, qua lời của người vợ, Tràng đã nhớ  lại có lần mình gặp Việt Minh và <br /> “Trong óc Tràng bỗng hiện lên đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”,<br /> 4.Trình bày ý kiến của bản thân về cách kết thúc truyện.<br /> 4.1: Bàn luận về ý kiến: “Đó là một cái kết  mở, tự nhiên và sáng”<br /> ­ Đó là cách kết truyện tự nhiên phù hợp.<br /> + Kết thúc ấy có cơ sở từ thực tiễn đời sống. Câu chuyện có bối cảnh là <br /> nạn đói năm 1945­ một thời điểm lịch sử  có thật trong đất nước ta vào những <br /> năm tháng chuẩn bị cho cuộc cách mạng và đó là những ngày tiền khởi nghĩa với  <br /> phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Vậy nên trong hoàn cảnh đói <br /> <br /> 23<br /> khát cùng cực  ấy người nông dân nhận ra kẻ  thù gây đau khổ  cho mình là bọn <br /> Pháp và Nhật. Thực dân Pháp thi hành những “ luật pháp dã man’, vơ vét của cải <br /> còn phát xít Nhật thì bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu rồi cùng <br /> với thiên tai, lũ lụt...Tất cả đều là căn nguyên dẫn đến thảm cảnh nạn đói năm <br /> 1945. Những người dân sống trong hoàn cảnh đó họ  sẽ  ý thức được mình phải <br /> đứng lên đấu tranh tìm con đường cho mình. Họ sẽ tìm đến với cách mạng như <br /> một điều tất yếu.<br /> + Sự hợp lí ở đây là họ chỉ mới bắt đầu nhận thức về cách mạng, đó mới <br /> chỉ là ánh sáng le lói ở cuối đường hầm. Nhà văn không kết thúc câu chuyện ở <br /> việc Tràng đi làm cách mạng rồi kêu gọi quần chúng nhân dân cùng đứng lên <br /> đấu tranh. Nếu như vậy e rằng có phần gượng ép và ảo tưởng. Ở đây mới dừng  <br /> lại  ở  việc qua lời người vợ  mà Tràng đã nhớ  lại có lần anh đã nhìn thấy đoàn <br /> người đi phá kho thóc và  được nghe nói họ  là Việt Minh. Quá trình nhận thức <br /> ấy được diễn tiến từ từ. Cách kết truyện như thế là phù hợp.<br /> ­Đó còn là cách kết truyện mở và sáng.<br /> +   Truyện   kết   thúc   nhưng   đã   mở   ra   cho   người   đọc   nhiều   suy   ngẫm. <br /> Truyện không nói cụ  thể  rõ ràng là cuộc sống của Tràng, bà cụ  Tứ, người vợ <br /> nhặt sẽ đi đến đâu, cuộc sống của họ tiếp theo sẽ như thế nào để gượng ép trói <br /> buộc suy nghĩ của bạn đọc thiên về  một hướng và nhiều khi chỉ  suy nghĩ theo  <br /> chiều hướng  ấy. Và thật khéo léo khi Kim Lân để  “lửng”. Kết thúc “lửng”  ấy <br /> chứa đựng bao suy nghĩ của tác giả. Phải chăng nhà văn  Kim Lân
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1