intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh

Chia sẻ: Nhi Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:29

229
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Như vậy, việc cần làm trước hết là tăng cường sự hứng thú của học sinh trong học tập, từ đó nâng cao tính tự giác. Mời các bạn tham khảo thêm bài SKKN về nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh

  1. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 1
  2. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài 1. Cơ sở lý luận Một tr ong những nhiệm vụ trọng tâm của dạy nói chung và dạy học Sinh học nói riêng là tăng cường tính tích cực, khả năng sáng tạo, tự tìm hiểu và khám phá những kiến thức mới của học sinh. Tính tích cực học tập - về thực chất là tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Như vậy, việc cần làm trước hết là tăng cường sự hứng thú của học sinh trong học tập, từ đó nâng cao tính tự giác. Chỉ có như vậy thì mới thực hiện được nhiệm vụ dạy học. 2. Cơ sở thực tiễn Trước tình hình chung hiện nay, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống ngày càng được quan tâm và mở rộng. Kinh tế phát triển, cuộc sống của con người ngày một nâng cao. Do đó, việc trang bị cho người học những kiến thức cơ bản về kĩ năng sống, sinh hoạt trong gia đình và thái độ tích cực trong việc xây dựng và bảo vệ môi trường xung quanh là điều rất cần thiết. Để đạt được mục tiêu đó thì mỗi giáo viên cần phải định hướng đào tạo và bồi dưỡng cho học sinh ý thức, thái độ tích cực trong nhiều môn học khác nhau. Môn Sinh học là một trong những môn học có nhiều ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống, kiến thức của môn học này phục vụ cho nhiều chuyên ngành khác phát triển. Vì vậy, một việc rất cần thiết là ngay từ cấp cơ sở hệ thống trường THCS, giáo viên phải nghiên cứu khám phá để nâng cao phương pháp trong một giờ dạy, tạo cho các em có hứng thú, say mê và yêu thích bộ môn học này. Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi chọn và nghiên cứu về đề tài “Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh” trong quá trình dạy môn sinh học tại trường THCS. II. Mục đích của đề tài Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 2
  3. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh Đề tài đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao sự hứng thú học tập của học sinh đối với môn Sinh học, được thực hiện thông qua việc tăng cường sự hấp dẫn của bộ môn đối với học sinh, thông qua đó hướng đến việc nâng cao chất lượng bộ môn; cung cấp tư liệu cho giáo viên tham khảo và vận dụng vào công tác giảng dạy. III. Đối tượng nghiên cứu Những biện pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh cấp THCS. IV. Giới hạn của đề tài Môn Sinh học cấp THCS chia theo 4 khối lớp, mỗi khối đi sâu nghiên cứu những mảng kiến thức riêng. Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, tôi xin tập trung vào những biện pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn trong chương trình sinh học khối lớp 9. B. NỘI DUNG I. Thực trạng nghiên cứu Sinh học là bộ môn khoa học gắn liền với cuộc sống. Khi tìm hiểu và nghiên cứu về bộ môn này, học sinh sẽ càng thấy yêu thiên nhiên, đất nước và con người hơn. Chương trình sinh học THCS gồm nhiều phần kiến thức khác nhau, với mỗi phần kiến thức đó đều có thể bắt gặp nhiều ví dụ, hình ảnh sinh động từ thực tế. Điều này muốn nói môn Sinh học có sức hấp dẫn rất lớn đối với học sinh. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy ở các trường THCS, vị trí của bộ môn và tình yêu của học sinh đối với bộ môn còn rất hạn chế. Rất dễ thấy thực trạng học sinh thờ ơ với môn học. Đối với học sinh khối lớp 6, nguyên nhân là do các em bắt đầu làm quen với phương pháp học tập mới, số lượng môn học tăng lên nhiều dẫn đến sự kém thích nghi. Đối với Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 3
  4. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh những học sinh của các khối lớp còn lại, sự thờ ơ đến từ quan niệm xem bộ môn này là môn phụ, không giữ vai trò quan trọng, vì vậy các em không chú ý cũng như không đầu tư nhiều thời gian để học và tìm hiểu. Một lí do khác dẫn đến học sinh chưa thích học môn Sinh học xuất phát từ phía giáo viên. Sự kém dầu tư về giáo án, phương pháp giảng dạy cũng như chưa tạo ra được môi trường học tập thân thiện càng làm tăng thêm sự nhàm chán trong mỗi tiết học. Những lí do trên đã góp phần giải thích cho kết quả chưa cao của bộ môn, sự thiếu nhiệt tình, thiếu tích cực và tự giác từ phía học sinh trong mỗi giờ học. II. Đề xuất giải quyết thực trạng Để nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh, tôi xin nêu một số đề xuất sau: - Nâng cao hơn nữa lòng yêu nghề từ phía người thầy. - Tạo không khí học tập thoải mái. - Đa dạng hóa các hoạt động học tập của học sinh. - Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. - Tăng cường công tác độc lập của học sinh. - Gắn kiến thức với thực tiễn. - Dạy học đảm bảo tính vừa sức, chú ý tới đặc điểm cá biệt và tính tập thể trong quá trình dạy học. III. Nội dung 1. Nâng cao hơn nữa lòng yêu nghề từ phía người thầy Trong hoạt động dạy - học, hai nhân tố không thể thiếu đó là giáo viên và học sinh. Với dạy học tích cực, người giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn để học sinh thực hiện Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 4
  5. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh các hoạt động học tập khám phá kiến thức. Không phải là người trực tiếp chỉ ra kiến thức, giáo viên chỉ ra con đường để học sinh khám phá kiến thức mới. Có nhiều cách để học sinh tiếp cận với kiến thức mới, nhưng để kiến thức đến một cách tự nhiên, dễ hiểu và lưu lại trong bộ nhớ lâu nhất đòi hỏi người giáo viên phải có sự nghiên cứu, suy nghĩ và lựa chọn ra cách thức phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Điều đó chỉ thực hiện được khi giáo viên phải say sưa với nghề nghiệp, dành tình yêu cho công việc cũng như cho các em học sinh. Rõ ràng khi có tình yêu với công việc đang làm thì chúng ta sẽ tận tụy hơn và cống hiến hết mình hơn. Bản thân các em học sinh khi cảm nhận được tình yêu nghề từ phía người thầy của mình thì các em sẽ có thêm nhiều động lực và học tập được nhiều điều từ niềm say mê đó. Như vậy, lòng yêu nghề từ phía người thầy sẽ làm nên sức mạnh tác động đến tình cảm và thái độ học tập của học sinh. Học sinh từ chỗ thờ ơ với môn học tiến đến để ý hơn một chút qua việc thầy truyền cảm hứng và tiếp theo là sự quan tâm rõ rệt. Làm được như vậy là người thầy đã thành công một nửa trên con đường dẫn học sinh đến với kiến thức. Làm thế nào để có thể nâng cao lòng yêu nghề? Mỗi người giáo viên khi đã đặt ra câu hỏi này chắc chắn sẽ có câu trả lời riêng cho chính mình. 2. Tạo không khí học tập thoải mái Bất kì một công việc nào muốn có kết quả cao đều cần có một môi trường làm việc thuận lợi. Môi trường đó không đơn thuần là không khí trong sạch để hít thở, là nguồn ánh sáng phù hợp để nhìn rõ mà còn là sự thân thiện, hòa đồng trong mối quan hệ với những người xung quanh. Một giờ học quá gò bó, căng thẳng sẽ khó kích thích được tư duy sáng tạo của học sinh, khiến học sinh nhanh chóng cảm thấy nhàm chán. Vì vây, người giáo viên cần tạo ra cho học sinh một không khí học tập thoải mái nhất trong mỗi giờ lên lớp. Một số cách tạo không khí học tập thoải mái cho học sinh như sau: 2.1. Thay đổi cách kiểm tra bài cũ Thông thường, phần kiểm tra bài cũ được giáo viên tiến hành ở đầu giờ. Đây là việc làm theo đúng tiến trình dạy học. Tuy nhiên, sự lặp đi lặp lại cách làm đó sẽ khiến học sinh Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 5
  6. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh nhàm chán, đôi khi gây áp lực, tạo sự căng thẳng cho học sinh trong suốt tiết học hôm đó. Chúng ta có thể lồng ghép các câu hỏi kiểm tra kiến thức đã học trong quá trình dạy bài mới ở nhiều bài để làm giảm bớt đi sự căng thẳng không đáng có. VD 1: Khi dạy mục III bài 5 - Menđen giải thích kết quả thí nghiệm, giáo viên có thể lồng ghép câu hỏi kiểm tra bài cũ bằng cách: Giáo viên yêu cầu học sinh cho biết: cây đậu Hà Lan hạt vàng, trơn có thể có những kiểu gen nào? Làm cách nào để có thể xác định kiểu gen của các cây đậu có hạt vàng, trơn đó? → kiểm tra kiến thức của học sinh về phép lai phân tích. VD 2: Khi dạy mục I bài 17 - ARN, sau khi tìm hiểu xong về cấu trúc hóa học của phân tử ARN, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi: Em hãy so sánh cấu trúc hóa học của ARN với cấu trúc hóa học của ADN. → kiểm tra kiến thức của học sinh về cấu trúc hóa học của phân tử ADN. 2.2. Thay đổi cách đặt vấn đề vào bài mới Đặt vấn đề vào bài cũng giống như khi chúng ta viết phần mở bài cho một bài văn. Bài văn có gây ấn tượng, tạo hứng thú cho người đọc hay không phụ thuộc rất nhiều vào phần mở bài. Nếu chúng ta được đọc những câu mở đầu chứa đựng nhiều âm thanh, hình ảnh hay gợi nhiều vấn đề khác nhau, kích thích sự tò mò tìm hiểu xem những phần tiếp theo sẽ có điều gì mới thì chắc chắn sự theo dõi sẽ không chỉ dừng lại ở đó. Trong một giờ học cũng vậy, nếu ngay từ phần đặt vấn đề giáo viên đã tạo ra sự hứng thú, vui tươi cho học sinh thì chắc chắn trong những phút tiếp theo các em sẽ hào hứng, phấn chấn và nhiệt tình hơn với những hoạt động do giáo viên tổ chức. Giáo viên thường đơn giản hóa phần đặt và dẫn dắt vấn đề để vào bài mới bằng cách nêu tên bài học hôm nay là gì, tiết học hôm nay là tiết bao nhiêu. Rõ ràng là tên bài học cũng như số tiết chưa đủ nếu không muốn nói là hầu như không có tính hình ảnh, nhạc điệu hay kích thích trí tò mò của học sinh. Vậy nên khó trách việc “đầu không xuôi nên đuôi không lọt”. Một số cách để có phần dẫn dắt vào bài mới hấp dẫn hơn: Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 6
  7. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh - Mở đầu bằng một câu hát. VD: Khi mở đầu cho bài 1 - Menđen và Di truyền học, giáo viên có thể bắt nhịp cho cả lớp hát bài “Cả nhà thương nhau”: “Ba thương con vì con giống mẹ, mẹ thương con vì con giống ba. Cả nhà ta cùng thương yêu nhau. Xa là nhớ, gần nhau là cười.” Tại sao con lại mang những đặc điểm giống cha và giống mẹ? Di truyền học gọi tên hiện tượng đó là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu qua nội dung của bài hôm nay. - Mở đầu bằng một câu truyện vui. VD: Mở đầu cho bài 2 - Lai một cặp tính trạng, giáo viên yêu cầu học sinh cho biết: Da trắng và da đen có phải là có phải là một cặp tính trạng tương phản không? HS trả lời. GV kể cho học sinh nghe câu truyện vui: Hai chàng sinh viên nói chuyện với nhau. Sinh viên 1: “Đố cậu, Bao Công mà lấy Bạch Tuyết thì sinh ra con có da như thế nào?” Cậu sinh viên 2 suy nghĩ. (Giáo viên cho học sinh đoán về câu trả lời của cậu sinh viên 2). Cậu sinh viên 2 gãi đầu gãi tai: “Tớ chịu thôi! Khó quá!” Cậu sinh viên 1 cười: “Dễ thế mà cậu không biết, nếu Bao Công mà lấy Bạch Tuyết thì sẽ sinh ra Lọ Lem.” → Giáo viên dẫn dắt tiếp: về mặt di truyền học thì câu trả lời của cậu sinh viên 1 có đúng không? Chúng ta cùng tìm hiểu qua nội dung bài hôm nay. - Mở đầu bằng một đoạn phim hay hình ảnh. VD: Khi dẫn dắt vào bài mới bài 44 - Ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sinh vật, giáo viên có thể cho học sinh theo dõi một đoạn phim ngắn về thế giới động vật trong tự nhiên. → GV yêu cầu học sinh kể tên những sinh vật quan sát được qua đoạn phim, dẫn dắt vào bài: các sinh vật trong đoạn phim trên được gắn bó với nhau bằng nhiều mối quan hệ. Tên gọi của các mối quan hệ đó là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu nội dung bài hôm nay. Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 7
  8. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh Một điều cần lưu ý là: đặt vấn đề hay góp phần là tăng tính hấp dẫn cho bài học, tạo hứng thú cũng như làm cho không khí học tập trở nên thoải mái hơn. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần chú ý đến thời gian cho phần đặt vấn đề để tránh ảnh hưởng đến thời lượng dành cho bài mới. Cần lựa chọn cách đặt vấn đề cho phù hợp với nội dung của từng bài, sát với những yêu cầu cần giải quyết trong mỗi bài học để những điều đã đưa ra sẽ liên quan đến kiến thức một phần hoặc xuyên suốt nội dung bài học. 2.3. Người giáo viên cần thay đổi trong cách giao tiếp với học sinh Trong hoạt động dạy học luôn đòi hỏi sự tương tác qua lại thường xuyên giữ thầy và trò, giữa trò với trò. Ở đây, chúng ta nhấn mạnh vào quá trình tương tác giữa thầy với trò. Về phương diện chung, quá trình giao tiếp sẽ mang lại hiệu quả cao khi những đối tượng giao tiếp có sự tôn trọng, quan tâm và chia sẻ với nhau một cách chân thành nhất. Một trong những điều kiện để học sinh có thể học sâu là các em phải có cảm giác thoải mái. Và một trong những yếu tố giúp mang lại cảm giác thoải mái cho các em là khi các em cảm thấy mình được tôn trọng. Hơn ai hết, người giáo viên phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên đối với công tác giáo dục. Khi cảm thấy mình được tôn trọng có nghĩa là các em sẽ thêm phần tự tin vào bản thân mình, sẽ đáp lại bằng thái độ tôn trọng, yêu quý đối với thầy cô, nhờ đó mà cũng sẽ yêu thích hơn bộ môn những thầy cô giáo đó đang giảng dạy. Nói đến giao tiếp giữa những người làm công tác giáo dục và được giáo dục trong nhà trường nhằm giải quyết các tình huống sư phạm nảy sinh trong hoạt động giáo dục và giáo dưỡng là đang đề cập đến ứng xử sư phạm. Hoạt động ứng xử có được là nhờ ở sự xuất hiện những tình huống trong hoạt động giáo dục. Giao tiếp sư phạm và ứng xử sư phạm đều nhằm đạt tới mục đích nào đó về giáo dục, song cái khác trong ứng xử sư phạm chính là thái độ mang màu sắc cá nhân và thủ thuật biểu hiện thái độ đó qua từng cử chỉ, lời nói, sắc mặt,… của các chủ thể tham gia ứng xử. Trong quá trình giao tiếp với học sinh, người giáo viên cần có thái độ nhẹ nhàng, vui vẻ, tạo cho học sinh cảm giác được yêu thương nhưng khi cần vẫn phải nghiêm khắc để học sinh hiểu được giới hạn của sự thoải mái. Đối với những tình huống sư phạm khó, giáo viên rất cần giữ bình tĩnh để tránh những ứng xử nóng vội làm phá vỡ sự thân thiện, không khí thoải mái đã được xây dựng trong suốt giờ học, đồng thời không được để học sinh cảm thấy Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 8
  9. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh mình bị xúc phạm hoặc thiếu tôn trọng, nếu điều này xảy ra thì sẽ cần một thời gian rất dài để học sinh có thể lấy lại được sự tin tưởng, tình yêu đối với người thầy. Như K.D.Usinxki đã từng viết: “Trong nhà trường cần thiết phải có sự nghiêm khắc và vui vẻ nhưng không nên biến tất cả mọi việc thành trò đùa. Mềm mỏng phải nghiêm túc, danh dự cần có sự theo dõi, lòng nhân từ không được yếu đuối, sự quy củ không được cầu kỳ. Điều cơ bản là hoạt động của lí trí phải được thường xuyên”. Để có thể làm chủ và xử lí tốt các tình huống sư phạm xảy ra trên lớp học, để có được quá trình giao tiếp mang lại hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng học tập, rèn luyện bản thân về mọi mặt. Chỉ có như vậy thì người giáo viên mới có đủ bản lĩnh và kinh nghiệm để giải quyết tốt các tình huống sư phạm cũng như chiếm được sự tin yêu từ phía học trò. 3. Đa dạng hóa các hoạt động học tập của học sinh Quá trình dạy học gồm một chuỗi dài những hoạt động nối tiếp nhau, trong mỗi hoạt động học sinh phải thực hiện những nhiệm vụ riêng biệt để đạt được mục tiêu nhất định nào đó. Thử hình dung nếu tất cả các hoạt động đều được diễn ra theo cùng một cách, tại cùng một địa điểm với những phương tiện giống nhau thì liệu có mang lại sự thích thú cho học sinh, có khơi dậy được tư duy sáng tạo và tính tích cực của học sinh không? Một trong năm yếu tố thúc đẩy dạy và học tích cực là mức độ và sự đa dạng các hoạt động học tập của học sinh. Như vậy, sự đa dạng các hoạt động học tập là một động lực thúc đẩy hứng thú, lòng nhiệt tình từ phía người học. Dưới đây là một số lưu ý và ví dụ cụ thể khi thiết kế các hoạt động học tập nhằm tăng tính hấp dẫn cho bài dạy. 3.1. Đổi mới khâu soạn bài và thiết kế các hoạt động dạy học Giáo án của giáo viên giống như bức tranh thu nhỏ về lớp học cùng các hoạt động diễn ra trong giờ học đó được sắp xếp theo ý tưởng của giáo viên. Ngay từ khâu soạn bài, giáo viên cần phải tư duy để thiết kế những hoạt động của thầy - của trò sao cho phù hợp nhất với mỗi mục tiêu cần đạt được của bài học. Thiết kế trên bài soạn càng chi tiết bao nhiêu thì sẽ càng sát với những diễn biến thực trên thực tế lớp học bấy nhiêu, nhờ đó giáo viên càng thêm chủ động và tự tin. Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 9
  10. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh Trước hết, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung của bài học trong SGK, kết hợp nghiên cứu những tài liệu tham khảo khác như sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng, sách chuyên ngành,… để chỉ ra được mục tiêu chính là những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ cần hướng học sinh tìm hiểu và đạt được. Đây là công việc rất quan trọng, việc thiết kế các hoạt động sau này phụ thuộc vào những mục tiêu đang được hướng đến để có cách khai thác phù hợp. Tiếp theo, giáo viên xác định số lượng hoạt động, hình thức tổ chức và nội dung các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu ở trên. Việc thay đổi đa dạng các hoạt động học tập của học sinh là cần thiết để góp phần tạo ra sự hứng thú, tránh nhàm chán đơn điệu. Tuy nhiên, đa dạng hóa không có nghĩa là trong bài soạn nào cũng tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh hoặc nội dung nào cũng đem ra thảo luận. Với mỗi yêu cầu cần đạt được trong mỗi mục, giáo viên có thể đưa ra những hướng thiết kế hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, để hướng đến sự thích thú, say mê của học sinh với mỗi hoạt động đó thì giáo viên cần lựa chọn cách tổ chức phù hợp nhất, làm sao để học sinh phát huy tối đa khả năng và hiểu biết của bản thân, đồng thời có sự liên kết chặt chẽ với tập thể. Trong quá trình thiết kế, giáo viên nên có sẵn những dự kiến và phương án giải quyết cho những tình huống không theo ý muốn có thể xảy ra để có thể chủ động điều chỉnh nhằm tránh sự lúng túng, kéo dài thời gian, thậm chí là không đạt được các mục tiêu đã đề ra. 3.2. Chuẩn bị các đồ dùng dạy học chu đáo Các đồ dùng dạy học là kênh quan trọng để học sinh khai thác, phát hiện kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức đã học. Trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học, giáo viên không thể bỏ qua vai trò của các đồ dùng, phương tiện dạy học. Việc lựa chọn được những đồ dùng phù hợp và có chất lượng không chỉ làm tăng hiệu quả của việc khai thác, phát hiện kiến thức mà còn tạo ra sự thích thú cho học sinh. Đặc biệt, bộ môn Sinh học có rất nhiều vấn đề gắn với thực tiễn, vậy nên các phương tiện trực quan sinh động là rất cần thiết và có ý nghĩa lớn. Ngay từ khâu soạn bài, giáo viên đã phải xây dựng kèm theo đó là danh sách các đồ dùng dạy học có liên quan. Từ danh sách này, giáo viên phải kiểm tra trên thực tế tại các Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 10
  11. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh phòng đồ dùng xem các đồ dùng đó có đủ để đáp ứng về số lượng và chất lượng hay không, nếu không thì phương án giải quyết là gì. Trong nhiều trường hợp, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị những đồ dùng nhất định. Khi được tự chuẩn bị, học sinh sẽ phải nghiên cứu tài liệu để hiểu về vấn đề được giao tức là các em đã được học tập thêm một lần nữa. Giáo viên cũng cần dành thời gian để tìm hiểu kĩ về các đồ dùng dạy học nhằm xác định cách thức sử dụng, hướng khai thác kiến thức từ mỗi đồ dùng và khai thác được những nội dung gì. VD 1: Khi sử dụng mô hình cấu trúc không gian của phân tử ADN để khai thác phát hiện kiến thức mới, giáo viên phải hướng học sinh chỉ ra được các nội dung về số mạch đơn, cấu trúc phân tử (thẳng hay xoắn), chiều xoắn, số cặp nu trong mỗi chu kì xoắn, cách liên kết giữa các đơn phân trên mỗi mạch cũng như trên hai mạch với nhau. VD 2: Khi sử dụng tranh vẽ “Một số dạng đột biến gen” (h21.1 SGK) để khai thác phát hiện kiến thức mới, giáo viên phải hướng học sinh chỉ ra được: số cặp nu và trình tự sắp xếp các nu trong đoạn gen a như thế nào? Số cặp nu và trình tự sắp xếp các nu trong các đoạn gen b, c, d có gì khác so với đoạn gen a? → Từ đó hướng học sinh đến kết luận về đột biến gen và các dạng đột biến gen. 3.3. Tổ chức các hoạt động dạy học Từ thiết kế trên giáo án, giáo viên tiến hành tổ chức các hoạt động dạy học thực tế. Đây là công việc khó, đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt, có kinh nghiệm để xử lí tốt các tình huống mới phát sinh trong quá trình hoạt động của học sinh. Nếu tổ chức tốt, học sinh làm việc thuận lợi và có hiệu quả sẽ khiến các em phấn chấn, thích thú. Ngược lại, nếu tổ chức không tốt, không những mục tiêu đề ra về kiến thức, kĩ năng không đạt được mà còn làm cho học sinh có cảm giác chán nản, mệt mỏi. Trong quá trình tổ chức các hoạt động, giáo viên cần hạn chế tối đa thời gian chết và thời gian chờ đợi. Những khoảng thời gian như vậy sẽ là tác nhân có hại cho tính tích cực, dễ gây mệt mỏi khiến cho không khí trong lớp học trầm xuống. Giáo viên cần tạo tính liên tục, sự móc nối giữa các hoạt động với nhau để học sinh không ngừng dòng tư duy. Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 11
  12. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh Tích hợp các hoạt động học mà chơi (các trò chơi giáo dục) và thay đổi xen kẽ các hoạt động, nhiệm vụ học tập là rất cần thiết. Trong quá trình hoạt động của học sinh, giáo viên cần đảm bảo có sự hỗ trợ đúng mức để tăng cường tính tích cực của học sinh. Khi nhu cầu cần hỗ trợ của học sinh nhiều mà giáo viên lại không quan tâm, học sinh bị bỏ rơi dẫn đến chán nản. Trong trường hợp này, sự hỗ trợ với mức độ ít của giáo viên sẽ có hiệu quả làm tăng tính tích cực của học sinh. Nhưng khi nhu cầu hỗ trợ của học sinh ít mà lại nhận được quá nhiều sự hỗ trợ từ phía giáo viên sẽ khiến các em cảm thấy nhàm chán, không còn tích cực hoạt động nữa. Một số cách tổ chức các hoạt động học tập: - Tổ chức dạy học theo nhóm sử dụng kĩ thuật “Khăn phủ bàn”. Đây là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Kĩ thuật này nhằm kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh; tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân học sinh; phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh. Để tiến hành kĩ thuật này, giáo viên chia học sinh thành nhóm (4 người/nhóm), mỗi người ngồi vào một vị trí đã được sắp xếp. Mỗi nhóm được nhận một tờ giấy có chia các ô dành cho hoạt động của từng cá nhân, ở giữa là ô trống dành cho kết quả chung của nhóm sau khi đã thống nhất ý kiến. Giáo viên đưa ra câu hỏi chung cho mỗi nhóm. Các cá nhân tập trung vào các câu hỏi được giáo viên giao cho, hoạt động độc lập trong khoảng vài phút, viết đáp án vào ô của mình. Khi mọi người đều đã xong, cả nhóm bắt đầu chia sẻ và thảo luận về các câu trả lời. Tiến hành viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn phủ bàn. VD: Khi dạy mục III bài 11 - Phát sinh giao tử và thụ tinh, giáo viên có thể tổ chức hoạt động học tập theo kĩ thuật “Khăn phủ bàn” với câu hỏi cho mỗi nhóm cũng như mỗi thành viên trong nhóm là: Giảm phân và thụ tinh có ý nghĩa gì? - Tổ chức dạy học theo nhóm sử dụng kĩ thuật “Các mảnh ghép”. Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 12
  13. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh Đây là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích sự tham gia tích cực của học sinh. Để thiết kế, giáo viên cần lựa chọn nội dung/chủ đề phù hợp, xác định một nhiệm vụ phức hợp cần giải quyết ở vòng 2 dựa trên các nhiệm vụ khác nhau đã thực hiện ở vòng 1. Học sinh được chia thành các nhóm, giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi thành viên trong nhóm. Trong quá trình tiến hành, ở vòng 1 giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm 3 hoặc 4 người, mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ, đảm bảo mỗi thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao, mỗi thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm. Ở vòng 2, giáo viên hình thành nhóm 3 hoặc 4 người mới là sự kết hợp giữa mỗi thành viên trong mỗi nhóm trên, các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau. Sau khi chia sẻ xong thông tin ở vòng 1, nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa lập để giải quyết. Các nhóm mới trình bày, chia sẻ kết quả nhiệm vụ ở vòng 2. VD: Khi dạy mục II bài 19 - Mối quan hệ giữa gen và tính trạng, giáo viên có thể tổ chức hoạt động của học sinh sử dụng kĩ thuật “Các mảnh ghép”. Giáo viên chia lớp thành các nhóm, các nhóm được phân công thực hiện một trong ba nhiệm vụ ở vòng 1 là: Nhiệm vụ 1: Nêu bản chất của mối quan hệ gen → mARN. Nhiệm vụ 2: Nêu bản chất của mối quan hệ mARN → protein. Nhiệm vụ 3: Nêu bản chất của mối quan hệ protein → tính trạng. Sau khi các nhóm đã hoàn thành nhiệm vụ vòng 1 và tiến hành trao đổi các thành viên, giáo viên nêu nhiệm vụ của vòng 2: Nêu bản chất của mối quan hệ gen → mARN → protein → tính trạng. Các thành viên của nhóm mới sẽ giải quyết nhiệm vụ của vòng 2. - Tổ chức dạy học theo nhóm có sử dụng phiếu học tập. Ngoài những kĩ thuật dạy học trên, giáo viên còn có thể tổ chức dạy học theo phiếu học tập. Với cách tổ chức này, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung của bài để chọn ra Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 13
  14. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh những phần phù hợp, thiết kế các bảng biểu hoặc đưa ra những câu hỏi, bài tập với định hướng kèm theo để học sinh thảo luận nhóm và hoàn thành Như vậy, có nhiều cách để giáo viên có thể tổ chức các hoạt động học tập nhằm phát hiện, tìm tòi kiến thức mới. Điều quan trọng là thiết kế và tổ chức như thế nào để mọi thành viên đều phát huy được năng lực cá nhân cũng như biết cách phối hợp với tập thể nhằm tăng cường sự liên kết và khả năng thu nhận, tích lũy kiến thức. 4. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là vấn đề được đề cập nhiều trong những năm gần đây. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã có những đóng góp to lớn cho đời sống xã hội nói chung cũng như giáo dục nói riêng. Không thể phủ nhận những mặt tích cực của công nghệ thông tin khi giúp cho công việc soạn giảng của giáo viên có sự thay đổi theo hướng tích cực hơn. Mặt khác, khi được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin thì khả năng truyền tải ý tưởng của giáo viên cũng dễ dàng và phong phú hơn. Những bài giảng khi được thiết kế trên máy sẽ có nhiều điều kiện để thay đổi cho hợp lí theo ý tưởng của tác giả, có nhiều phương tiện phụ trợ giúp bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn hơn với học sinh. Một điều nữa cũng nói lên lợi ích của việc sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học là giúp người giáo viên dễ chia sẻ với nhau những kinh nghiệm giảng dạy của mình. Những bài giảng hay, những vấn đề mới có thể được trao đổi giữa nhiều người với nhau trong một thời gian ngắn, qua đó bản thân mỗi giáo viên lại tiếp thu thêm những điều bổ ích cho chính mình. Tuy nhiên, cách thức sử dụng và khai thác những lợi ích từ công nghệ thông tin phục vụ cho giảng dạy của giáo viên cũng cần được nghiên cứu kĩ. Có thể giải thích điều này là do còn một bộ phận giáo viên chưa được tiếp cận nhiều và chưa có kĩ năng để sử dụng thành thạo các phần mềm hỗ trợ cho công tác giảng dạy, vậy nên trong quá trình dạy học còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng. Mặt khác, không phải với bất kì nội dung kiến thức nào thì việc sử dụng công nghệ thông tin cũng chiếm ưu thế. Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 14
  15. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh Giáo viên có thể khai thác sử dụng công nghệ thông tin để dạy toàn bộ nội dung của một bài hoặc nội dung một phần nào đó trong bài mới. Các tranh, ảnh, băng hình, bảng biểu,… được chiếu lên qua máy chiếu sẽ thay thế cho hệ thống tranh, ảnh, bảng phụ ngoài thực tế và mức độ đa dạng sẽ được tăng lên rất nhiều. Hệ thống câu hỏi, gợi ý khi được chiếu lên trên màn hình sẽ rõ ràng hơn, dễ theo dõi hơn so với khi giáo viên chỉ dùng cách nói. Để có thể sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học, giáo viên cần phải đầu tư nhiều thời gian để học tập, nghiên cứu cho thành thạo cách thiết kế bài giảng, cách khai thác các ứng dụng khác. Đồng thời, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để thiết kế những hoạt động dạy học phù hợp, có kế hoạch sắp xếp và khai thác hợp lí các tranh, ảnh, mô hình, băng hình,… sưu tầm được theo trật tự nhất định phù hợp với nội dung kiến thức từng phần. Bên cạnh việc hướng dẫn để học sinh khám phá, phát hiện kiến thức mới, giáo viên cũng cần tạo cho học sinh làm quen dần với cách thức lưu giữ lại thông tin trong vở để tiện theo dõi về sau. VD: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy mục I bài 16 - ADN và bản chất của gen. Giáo viên giới thiệu: ADN có một đặc tính quan trọng là tự nhân đôi (sao chép) đúng mẫu ban đầu. Quá trình tự nhân đôi của ADN diễn ra như thế nào? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ngay sau đây. Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, chiếu nội dung của phiếu học tập lên màn hình để nêu yêu cầu và hướng dẫn học sinh hoàn thành. Phiếu học tập số 1 Nhóm: - Thời gian: 8’ Hãy quan sát đoạn băng sau kết hợp nghiên cứu thông tin SGK mục I để hoàn thành nội dung của bảng dưới đây về quá trình tự nhân đôi của ADN. Đặc điểm Nội dung Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 15
  16. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh 1. Nơi xảy ra 2. Phạm vi xảy ra 3. Diễn biến 4. Kết quả 5. Các nguyên tắc tự nhân đôi GV chiếu đoạn băng hình về vị trí của ADN trong tế bào cũng như diễn biến của quá trình tự nhân đôi ADN để các nhóm quan sát, sau đó cho hình ảnh chạy tự động để học sinh thảo luận nhóm và hoàn thành bảng. Kết thúc thời gian hoạt động nhóm, giáo viên gọi đại diện 1 - 2 nhóm lên báo cáo, giáo viên chiếu kèm theo nội dung phiếu học tập của các nhóm. Các nhóm còn lại bổ sung ý kiến. Giáo viên chiếu nội dung hoàn chỉnh của phiếu học tập để học sinh so sánh, tự hoàn thiện vào vở. Giáo viên có thể sử dụng lại đoạn băng để phân tích rõ hơn. 5. Tăng cường công tác độc lập của học sinh Công tác độc lập của học sinh được thể hiện ở việc các em tự nghiên cứu tài liệu, tự tìm hiểu các vấn đề liên quan đến nội dung bài học trong thực tế, tự tư duy suy nghĩ để tìm ra câu trả lời cho một vấn đề nào đó. Làm được như vậy là bản thân học sinh đã tự xây dựng cho mình thái độ và phong cách học tập tích cực. Với công tác độc lập của học sinh, khi được giao nhiệm vụ vừa sức hoặc nếu tự học sinh làm việc theo hứng thú, say mê mà kết quả thu được tốt thì học sinh sẽ rất phấn chấn và làm việc ngày càng nhiệt tình hơn. Từ sự độc lập suy nghĩ, tích lũy kiến thức cho bản thân sẽ giúp học sinh tự tin hơn trong các hoạt động tập thể, rộng hơn là tự tin hơn trước các vấn đề khác nhau của cuộc sống, tránh sự dựa dẫm phụ thuộc vào người khác. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thực hiện công tác độc lập qua giao nhiệm vụ về nhà tìm hiểu, chuẩn bị một nội dung nào đó. Giáo viên cũng có thể cho học sinh thực hiện Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 16
  17. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh công tác độc lập ngay tại lớp như tự nghiên cứu mục nào đó trong SGK, tự quan sát một hình vẽ, một đoạn phim,… để tìm ra câu trả lời cho một câu hỏi. Khi giao nhiệm vụ cho học sinh, giáo viên cần chú ý đến tính vừa sức với từng đối tượng để tạo ra cho học sinh sự hứng thú học tập. VD: Khi dạy bài 42 - Ảnh hưởng của ánh sáng lên đời sống sinh vật, trước đó giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho từng học sinh về nhà tìm hiểu những môi trường sống có chế độ chiếu sáng khác nhau và thu thập mẫu vật về một số loài cây sống trong những môi trường khác nhau đó. Hoặc trước đó vài tuần, giáo viên có thể hướng dẫn để học sinh độc lập gieo hạt cây rau cho cây sinh trưởng, phát triển rồi đặt vào trong một hộp tối có khoét một lỗ nhỏ để quay về phía có ánh sáng, nhằm theo dõi tính hướng sáng của ngọn cây. 6. Gắn kiến thức với thực tiễn Sinh học là một bộ môn rất gần gũi với thực tiễn cuộc sống, vì vậy sẽ là thiếu sót nếu giáo viên không biết khai thác lợi thế này vào trong hoạt động dạy học nhằm tăng sức hấp dẫn đối với học sinh. Sự gần gũi của kiến thức lí thuyết với thực tế giúp học sinh dễ dàng kiểm chứng, liên hệ đã trở thành một trong những yếu tố thúc đẩy tính tích cực của học sinh. Một khi kiến thức được kiểm chứng sẽ bồi đắp thêm lòng tin của học sinh đối với bộ môn, đối với khoa học. Dạy học Sinh học không chỉ hướng học sinh đến việc khám phá, phát hiện kiến thức về thế giới quanh ta mà còn hướng đến giáo dục con người biết trân trọng, bảo vệ thiên nhiên, môi trường xung quanh mình. Gắn kiến thức với chính những gì có thực trong cuộc sống là một công việc quan trọng để mỗi cá nhân nhận thức được vai trò của bản thân với cộng đồng, với thế giới tự nhiên cũng như những tác động ngược lại của các yếu tố đó đến bản thân mỗi người. Trong quá trình dạy học, ngay từ khâu soạn bài, giáo viên phải luôn đặt cho mình câu hỏi: Mỗi nội dung kiến thức có trong bài được gắn với những vấn đề nào trong cuộc sống? Làm thế nào để học sinh nhận thấy sự liên quan đó? Làm thế nào để giáo dục học sinh kĩ năng, thái độ sống đúng đắn thông qua mỗi vấn đề? Với bài dạy cụ thể trên lớp, từ những Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 17
  18. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh định hướng nói trên, giáo viên tìm cách để cho học sinh kết nối kiến thức vừa tìm hiểu với chính thực tiễn cuộc sống, với những gì diễn ra xung quanh có liên quan, nhờ đó một lần nữa khắc sâu kiến thức hoặc khai thác những khía cạnh khác rộng hơn, sâu hơn của vấn đề. VD: Khi dạy bài 54 - Ô nhiễm môi trường, giáo viên yêu cầu học sinh liên hệ và đánh giá ngay tình hình môi trường ở địa phương xem có ô nhiễm hay không, nếu có thì ở mức độ nào, nguyên nhân gây ra tình trạng đó là do đâu và bản thân học sinh tự suy nghĩ về hành động của mình trong thời gian tới nhằm bảo vệ môi trường. 7. Dạy học vừa sức, chú ý tới đặc điểm cá biệt và tính tập thể trong quá trình dạy học Dạy học vừa sức có nghĩa là trong dạy học phải tạo nên khó khăn vừa sức, những yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với giới hạn cao nhất của vùng phát triển trí tuệ gần nhất. Dạy học vừa sức không có nghĩa là học sinh học đến đâu thì dạy đến đó, mà bao giờ cũng đề ra những khó khăn và dưới sự chỉ đạo của người giáo viên, người học bằng sự nỗ lực của mình cũng đều khắc phục được. Dạy học như vậy mới đảm bảo đi trước sự phát triển, thúc đẩy sự phát triển của học sinh. Sự khó khăn vừa sức với người học khác với sự quá tải về trí lực và thể lực. Sự quá tải đó sẽ làm yếu đi sự nỗ lực ý chí, khả năng làm việc sẽ bị hạ thấp rõ rệt và làm cho học sinh sớm mệt mỏi. Tính vừa sức đòi hỏi phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi. Mỗi độ tuổi gắn với sự trưởng thành của những cơ quan trong cơ thể và những chức năng của các cơ quan đó, cũng như sự tích lũy những kinh nghiệm về mặt nhận thức và mặt xã hội, với loại hoạt động chủ đạo của lứa tuổi đó. Lứa tuổi thay đổi thì nhu cầu trí tuệ và hứng thú nhận thức của trẻ cũng thay đổi. Trong cùng một lứa tuổi, học sinh cũng có sự khác nhau về hoạt động hệ thần kinh cấp cao, sự phát triển về thể chất và tinh thần, về năng lực, hứng thú,… Vì vậy, sự vừa sức phải chú ý đến những đặc điểm cá biệt. Mặt khác, điều kiện dạy học ở nước ta là dạy từng lớp, mỗi lớp khoảng 30 - 50 học sinh, điều đó đòi hỏi giáo viên phải tiến hành dạy học và giáo dục cả lớp như một tập thể Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 18
  19. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh học tập, tạo điều kiện và tổ chức các công tác học tập của tất cả học sinh, đồng thời phải tính đến những đặc điểm cá biệt của từng học sinh nhằm đạt được hiệu quả dạy học và góp phần phát triển những tư chất tốt đẹp của các em. Để đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới những đặc điểm cá biệt trong điều kiện dạy - học tiến hành với cả tập thể cần chú ý: - Xác định mức độ, tính chất khó khăn trong quá trình dạy học để thiết lập những cách thức chủ yếu tạo nên động lực học tập, mở rộng khả năng nhận thức của học sinh, suy nghĩ những biện pháp tiến hành chung với cả lớp và với học sinh. - Phối hợp hình thức lên lớp, hình thức độc lập công tác của học sinh với hình thức học tập nhóm tại lớp. Trước tập thể lớp, giáo viên đề ra nhiệm vụ chung và dưới sự chỉ đạo của giáo viên, từng cá nhân suy nghĩ để tìm ra cách giải quyết. Trong thời gian đó, giáo viên giúp đỡ những học sinh yếu kém. Với cách tổ chức như vậy thì chỉ là sự làm việc cùng nhau của những cá nhân cùng học. Một hình thức tổ chức tiết học khác là giáo viên chỉ đạo việc thực hiện theo nhóm những ý kiến, những ý tưởng hoặc những cách giải quyết vấn đề khác nhau của từng người để đi đến kết luận chung của cả nhóm, sau đó cử đại diện của mình trình bày ý kiến. Trên cơ sở đó, cả lớp trình bày và đi đến kết luận chung, còn giáo viên lúc này đóng vai trò là người chỉ đạo, người cố vấn, người trọng tài.Với hình thức này thì sự phối hợp giữa cá nhân và tập thể đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều. Cũng có thể từ một nhiệm vụ chung, mỗi nhóm được phân công giải quyết những nhiệm vụ bộ phận, và từng thành viên suy nghĩ độc lập để đi đến cách giải quyết chung của cả nhóm. Các nhóm cử người trình bày lần lượt cách giải quyết từng nhiệm vụ của mình. Lớp thảo luận và đi tới cách giải quyết nhiệm vụ chung. Với cách tổ chức như vậy, học sinh làm việc không đơn thuần là ngồi cạnh nhau, mỗi người tìm cách giải quyết không đơn thuần cho bản thân mình mà là cho cả tập thể. Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 19
  20. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh Trong lớp xuất hiện không khí thúc đẩy nhau tích cực suy nghĩ, có sự đồng cảm với nhau, hợp tác và kiểm tra lẫn nhau. Cách tiến hành dạy học như vậy không chỉ giáo dục tinh thần tập thể cho học sinh, mà từng học sinh giúp đỡ lẫn nhau nên nhiệm vụ học tập trở nên vừa sức hơn với mỗi người. VD: Khi dạy bài 9 - Nguyên phân, mục II - Những diễn biến cơ bản của NST trong quá trình nguyên phân, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm như sau: - Yêu cầu chung: trình bày diễn biến cơ bản của NST trong quá trình nguyên phân. - Nhiệm vụ của từng nhóm: (phát phiếu học tập kèm theo) Nhóm Nhiệm vụ 1; 4 Hoạt động của NST ở kì trung gian, bộ NST của tế bào ở kì này. 2; 5 Hoạt động của NST trong các kì: kì đầu, kì giữa, kì sau, kì cuối. 3; 6 Bộ NST trong tế bào ở từng kì: kì đầu, kì giữa, kì sau, kì cuối. Các nhóm thực hiện nhiệm vụ riêng được giao, các thành viên trong mỗi nhóm tự nghiên cứu tài liệu và tham gia đóng góp ý kiến, cùng thống nhất câu trả lời chung của nhóm. Đại diện các nhóm trả lời, có sự trao đổi thông tin giữa những nhóm thực hiện chung nhiệm vụ. Giáo viên là người chỉ đạo việc thảo luận, trao đổi thông tin và chốt lại câu trả lời đúng của các nhóm. Giáo viên tiếp tục chỉ đạo lớp thảo luận để tìm ra câu trả lời cho yêu cầu lúc đầu thông qua kết quả hoạt động nhóm ở trên. IV. Tính khả thi và kết quả thực hiện đề tài 1. Tính khả thi và kết quả thu được Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2