intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Sử dụng Graph trong dạy học Văn học sử ở THPT

Chia sẻ: Lê Thị Diễm Hương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:38

367
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp Graph trong dạy học Văn học sử ở Trung học phổ thông là một hướng nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn nói riêng và trong dạy học nói chung. Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến “Sử dụng Graph trong dạy học Văn học sử ở THPT”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Sử dụng Graph trong dạy học Văn học sử ở THPT

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG SÔNG RAY Mã số: …………. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM SỬ DỤNG GRAPH TRONG DẠY HỌC VĂN HỌC SỬ Ở THPT Người thực hiện: Trần Văn Hưng Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lí giáo dục: £ Phương pháp dạy học bộ môn: £ Phương pháp giáo dục: £ Lĩnh vực khác: £ Có đính kèm: £ Mô hình. £ Phần mềm. £ Phim ảnh. £ Hiện vật khác Năm học 2011 - 2012
  2. I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện nay dẫn đến kết quả là sự xuất hiện nhanh, nhiều những tri thức, những kỹ năng và những lĩnh vực nghiên cứu mới. Đồng thời những tri thức cũ nhanh chóng trở nên lỗi thời, lạc hậu, diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Trước những thay đổi ấy, nếu con người không tiếp cận được với những tri thức mới, những hiểu biết mới họ sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu với thời cuộc và bị đào thải. Xã hội hiện đại luôn đòi hỏi con người phải nhạy bén với cái mới, nhanh chóng tiếp cận và nắm bắt các thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại. Những thành quả của các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện đến tất cả các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Sự ra đời của lý thuyết đồ thị Graph cũng là một trong những thành tựu của khoa học kỹ thuật mới. 2. Sự xuất hiện của các ngành khoa học mới, các vật liệu mới và sự giao thoa của các ngành khoa học cũng là xu hướng chung của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Khoa học ngày càng phát triển, càng có xu hướng phân nhỏ thành nhiều bộ phận, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới ra đời. Đồng thời với xu thế này là sự xích lại gần nhau, sự xâm nhập lẫn nhau của nhiều ngành khoa học, sự bắt tay giữa các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Trong lĩnh vực giáo dục xu thế này cũng được diễn ra mạnh mẽ, và còn được coi là “Xuyên môn – vấn đề thời sự khoa học xuyên thế kỉ” [Tạp chí Giáo dục, số chuyên đề 342, quí II, năm 2000]. Việc chuyển hóa các phương pháp khoa học thành phương pháp dạy học, thông qua xử lý sư phạm là một trong những hướng của chiến lược đổi mới và hiện đại hóa phương pháp dạy học. Trong dạy học, lý thuyết Graph cũng cung cấp một phương pháp khoa học thuộc loại khái quát như phương pháp Algorit, nó thuộc nhóm “phương pháp riêng rộng” và đã được một số nhà lý luận dạy học cải biến theo những quy luật tâm lý và lý luận dạy học để sử dụng vào dạy học với tư cách là một phương pháp dạy học. Như vậy, việc chuyển hóa lý thuyết Graph trong toán học thành Graph trong dạy học nói chung được coi là hiện tượng xuyên môn trong giáo dục. 3. Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ là một trong những yêu cầu lớn mà ngành giáo dục và đào tạo đặt ra đối với người làm công tác giảng dạy. Trước hết, đây là yêu cầu của Đảng. Nghị quyết BCH Trung Ương Đảng lần thứ II (khóa VIII) đã chỉ rõ “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp Giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến vào quá trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”, khắc phục những hạn chế của lối truyền thụ kiến thức theo phương pháp thuyết trình một chiều trước đây, phát huy hơn nữa năng lực tự học và tinh thần độc lập suy nghĩ, sáng tạo của học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học còn là xu hướng mang tính toàn cầu theo ý kiến các chuyên gia, hiện nay có một sự thống nhất tương đối đang được chấp nhận trong thực tiễn giáo dục ở phổ thông (PT) và cũng ở nhiều nơi trên thế giới “ Chất lượng giáo dục là sự phù hợp với mục tiêu”. Vấn đề đặt ra, người dạy- nhất là dạy Văn phải như thế nào để vừa đạt được chất lượng vừa đạt được mục tiêu. Để nâng cao hiệu quả giáo dục, chất lượng được hình thành trong quá trình đào tạo phải hướng mạnh vào việc sử dụng sau này, phải hướng vào mục tiêu sử dụng trong thực tế. Chất lượng giáo dục chính là kết quả của việc tự học, tự rèn. Học không chỉ để biết mà còn để thực hành, ứng dụng để tự học và học tập suốt đời. Nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học theo
  3. hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh không chỉ là định hướng mà còn đòi hỏi bằng những hoạt động cụ thể để tiến hành đổi mới phương pháp dạy học. Vì vậy cần nghiên cứu xác định các nguyên tắc, quy trình vận dụng của những phương pháp dạy học tích cực, giúp cho giáo viên sử dụng một cách thuận lợi và có hiệu quả. Việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp Graph trong dạy học Văn học sử (VHS) ở Trung học phổ thông (THPT) là một hướng nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng và trong dạy học nói chung. 4. Trong lý luận dạy học, vận dụng lý thuyết Graph đã trở thành một hướng tiếp cận mới thuộc lĩnh vực phương pháp dạy học. Sử dụng Graph trong dạy học cho phép giáo viên quy hoạch được quá trình dạy học tổng quát cũng như từng mặt của nó, thiết kế tối ưu hoạt động dạy - học và điều khiển hợp lý quá trình này tiến tới công nghệ hóa một cách có hiệu quả quá trình dạy học trong nhà trường theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Phần văn học sử (VHS) trong chương trình Ngữ văn ở Trung học phổ thông (THPT)chiếm một tỉ lệ khá lớn, mà lại có vị trí rất quan trọng trong chương trình Ngữ văn. Mặt khác phần văn học sử này được trình bày theo một cấu trúc khái quát, lôgíc, khoa học, đi từ khái quát đến cụ thể. Điều này rất thuận lợi cho việc mô hình hóa, hệ thống hóa các kiến thức bằng các sơ đồ Graph. Từ những lí do trên, chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Sử dụng Graph trong dạy học văn học sử ở THPT” làm đề tài nghiên cứu chính thức. Đây là một đề tài khá mới mẻ, vì vậy, trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này tôi rất mong được sự giúp đỡ của các thầy, các cô trong toàn thể hội đồng sư phạm của nhà trường, các bạn bè đồng nghiệp và các em học sinh để tôi hoàn thành đề tài này. II/ NỘI DUNG THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận của đề tài 1.1. Những nội dung cơ bản về lý thuyết Graph a. Khái niệm Graph Theo từ điển Anh – Việt, (Graph) có nghĩa là đồ thị - biểu đồ gồm có một đường hoặc nhiều đường biểu thị sự biến thiên của các đại lượng. Nhưng, từ Graph trong lý thuyết Graph lại bắt nguồn từ từ “Graphie” có nghĩa là tạo ra một hình ảnh rõ ràng, chi tiết, sinh động trong tư duy. Trong toán học, lý thuyết Graph gồm hai yếu tố đó là đỉnh và cung, trong đó đỉnh là các điểm còn cung (có thể là đoạn thẳng hay đường cong) là các cạnh nối các điểm đó. Được định nghĩa như sau: Graph (viết tắt là G) là một tập hợp số lượng hữu hạn các đỉnh và các cung có đầu mút tại các đỉnh đó [20,Tr 26- 10 ] . b. Các loại Graph * Graph định hướng và Graph vô hướng - Graph định hướng là Graph có sự xác định rõ đỉnh nào là đỉnh xuất phát trong Graph. Ở loại này, mối liên hệ giữa các đỉnh của Graph sẽ được định rõ đi theo hướng nào, chiều nào; đi từ đỉnh nào tới đỉnh nào trong Graph. Vì đặc tính này, nên các đoạn nối đỉnh trong Graph định hướng đều được thể hiện bằng những đoạn nối có chiều mũi tên. Chiều của mũi tên chính là chiều quan hệ, chiều phân chia, hoặc chiều vận động của các yếu tố. Ví dụ:
  4. Sơ đồ 1.1 - Graph vô hướng là Graph không chỉ rõ đâu là chiều liên hệ, chiều vận động của các yếu tố. Vì đặc tính này, nên các đoạn nối đỉnh trong Graph vô hướng không cần thể hiện bằng những đoạn nối có chiều mũi tên. Ví dụ: Sơ đồ 1.2 Trong hai loại Graph trên, chúng ta thường sử dụng Graph định hướng để biểu thị mối quan hệ động, mối quan hệ trong sự phát triển của các yếu tố được đưa vào Graph. Còn Graph vô hướng được sử dụng để biểu thị mối quan hệ tĩnh của các yếu tố. Trong dạy học VHS chúng ta chủ yếu sử dụng Graph định hướng. * Graph khép và Graph mở Bên cạnh việc phân chia Graph thành hai loại Graph định hướng và Graph vô hướng, chúng ta còn dựa vào đặc tính liên thông hay đặc tính treo của các đỉnh trong Graph để chia thành Graph khép hay Graph mở. - Graph khép là Graph trong đó tất cả các cặp đỉnh đều có sự liên thông với nhau. Dạng Graph này thường được sử dụng để biểu diễn mối quan hệ giữa các yếu tố trong một tổng thể hoàn chỉnh, thể hiện sự chuyển đổi tuần hoàn của các yếu tố tạo ra một chu trình khép kín. Ví dụ: Sơ đồ 1. 3 - Graph mở là Graph trong đó không phải tất cả các đỉnh đều có sự liên thông với nhau (có đường nối trực tiếp giữa hai đỉnh lại), trong đó có ít nhất hai đỉnh treo (đỉnh tự do không nối với bất kỳ đỉnh nào). Dùng Graph dạng này để thể hiện mối quan hệ phân chia hoặc quan hệ tầng bậc. Ví dụ: Sơ đồ 1. 4 Trong dạy học VHS, tùy thuộc vào nội dung mỗi kiểu bài mà ta có thể sử dụng Graph khép hay Graph mở tùy ý. * Graph đủ, Graph câm và Graph khuyết
  5. - Graph đủ là Graph mà tất cả các đỉnh đều được chú thích hay kí hiệu một cách đầy đủ không thiếu một đỉnh nào. A Ví dụ: B C D E Sơ đồ 1. 5 Graph khái quát về phần các giai đoạn phát triển của Văn học Trung đại Việt Nam Ghi chú: A : Các giai đoạn phát triển của Văn học Trung đại Việt Nam B : Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV C : Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII D : Từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX E : Nửa cuối thế kỉ XIX - Graph câm là Graph mà tất cả các đỉnh của nó đều để trống. Điều này có nghĩa là tất cả các đỉnh của nó chỉ là một ô trắng, không có bất kỳ một sự lấp đầy nào bằng ngôn từ, bằng kí hiệu hay một sự ghi chú nào ở mọi đỉnh. Ví dụ: Sơ đồ 1. 6 - Graph khuyết là một loại Graph trong đó có một hoặc một số đỉnh rỗng, các đỉnh còn lại không rỗng. Ví dụ: A B G Sơ đồ 1.7 Graph câm và Graph khuyết là những loại Graph được sử dụng một cách có hiệu quả trong việc luyện tập, củng cố và kiểm tra kiến thức VHS. c. Graph dạy học và những nguyên tắc xây dựng một Graph trong dạy học * Khái niệm Graph dạy học Phương pháp Graph dạy học có nguồn gốc từ phương pháp toán học bao gồm các nội dung : Graph nội dung dạy học, Graph tình huống dạy học. * Phân loại Graph dạy học
  6. Theo giáo sư Nguyễn Ngọc Quang, trong mỗi hoạt động bao giờ cũng có hai mặt, đó là mặt tĩnh và mặt động. Trong dạy học, mặt tĩnh là nội dung kiến thức, còn mặt động là các hoạt động của thầy và trò trong quá trình hình thành tri thức. Có thể mô tả mặt tĩnh của hoạt động dạy học bằng Graph nội dung và mô tả mặt động bằng Graph hoạt động dạy học. Như vậy Graph dạy học bao gồm: Graph nội dung và Graph hoạt động. [17,Tr 74] Graph dạy học Graph nội dung Graph hoạt động Sơ đồ 1.8 * Nguyên tắc xây dựng Graph trong dạy học Các nguyên tắc xây dựng Graph dạy học là những nguyên lý, phương châm chỉ đạo việc thiết kế Graph nội dung và Graph hoạt động dạy học. Dựa vào các nguyên tắc này để xác định nội dung, phương pháp, cách tổ chức, tính chất và tiến trình của việc thiết kế Graph nhằm thực hiện mục đích dạy học phù hợp với những quy luật khách quan. Khi tiến hành xây dựng Graph trong dạy học cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc thống nhất giữa mục tiêu – nội dung – phương pháp - Nguyên tắc thống nhất giữa toàn thể và bộ phận - Nguyên tắc thống nhất giữa cụ thể và trừu tượng - Nguyên tắc thống nhất giữa dạy và học Tóm lại, những nguyên tắc cơ bản trên đây là những định hướng cần thiết cho việc thiết kế Graph trong dạy học. Tuy nhiên trong quá trình thiết kế Graph dạy học cho mỗi môn học cần phải có những định hướng riêng. Kết quả của việc thiết kế Graph dạy học là quá trình lập được các Graph nội dung và Graph hoạt động cho từng môn học cụ thể. d. Quy trình xây dựng Graph * Quy trình chung Chuyển Graph Triển khai Tổng kết và Lập Graph nội dung thành Graph ND kiểm tra bằng nội dung bài (giáo án) thành bài Graph giảng Sơ đồ 1.9 * Quy trình cụ thể - Thiết lập đỉnh + Chọn kiến thức chốt tối thiểu cần và đủ + Mã hóa kiến thức bằng kí hệu (còn gọi là sơ đồ). + Bố trí các đỉnh trên mặt phẳng. - Thiết lập nội dung: Nối các đỉnh bằng các cung định hướng thể hiện mối quan hệ giữa các dữ kiện. - Kiểm tra lại Graph đã lập.
  7. e. Vai trò của việc sử dụng Graph trong dạy học VHS ở THPT - Dùng Graph để hệ thống hóa, cụ thể hóa các khái niệm VHS Theo lý thuyết hệ thống, các cấu trúc vật chất tồn tại trong những hệ thống có tính chất tầng bậc. Các khái niệm của VHS cũng được cấu trúc theo những hệ thống tầng bậc. Vì vậy, có thể dùng Graph để hệ thống hóa, cụ thể hóa các khái niệm trong một tổng thể, qua đó mở rộng hiểu biết về đối tượng cần nghiên cứu một cách khái quát. Ví dụ: Trong bài “Tổng quan văn học Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử”, có hai khái niệm : khái niệm về văn học dân gian và khái niệm về văn học viết. Chúng ta có thể dùng Graph để hệ thống hóa các khái niệm đó cụ thể như sau: Các khái niệm Văn học dân Văn học viết gian là st tập là st của thể và truyền những người miệng của trí thức được nhân dân lao ghi lại bằng động. chữ viết Sơ đồ 1. 10 - Dùng Graph để hệ thống hóa, cấu trúc hóa nội dung VHS trong tài liệu giáo khoa. Cấu trúc hóa tài liệu giáo khoa là tạo nên mối liên hệ giữa các đơn vị kiến thức trong một hệ thống nhất định (trong một chương trình, một chương hay một bài). Tổ chức tài lệu học tập thành một hệ thống kiến thức phải dựa trên những nguyên tắc nhất định, cho phép sắp xếp các hoạt động dạy – học vào một trật tự và tạo nên hệ thống kiến thức cho học sinh. Đồng thời, qua sự chiếm lĩnh hệ thống kiến thức ấy mà học sinh tự bồi dưỡng được phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Cấu trúc hóa tài liệu học tập có những ưu điểm sau: Thứ nhất: Giúp cho hoạt động dạy học có hiệu quả hơn, vì nó cho biết mối quan hệ hữu cơ giữa những bộ phận kiến thức VHS trong mối liên hệ logic với nhau. Điều này giúp cho học sinh chú ý, định hướng các hoạt động trí tuệ vào việc tìm tòi phát hiện ra những ý nghĩa cơ bản của tài liệu nghiên cứu để tự chiếm lĩnh hệ thống tri thức mới. Thứ hai: Những kiến thức mang tính hệ thống mà học sinh tự chiếm lĩnh được sẽ nhớ lâu hơn, tái hiện chính xác hơn, vì sự chiếm lĩnh những kiến thức đó gắn liền với sự tự nhận thức có ý nghĩa. Thứ ba: Vốn kiến thức của học sinh cũng sẽ được huy động dễ dàng hơn, tốt hơn để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình tìm tòi những mối liên hệ giữa các yếu tố của các kiến thức cần chiếm lĩnh. Ví dụ: Bài “Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng tám 1945”. Dựa vào cấu trúc tài liệu SGK chúng ta có thể hệ thống hóa các đơn vị kiến thức bằng một Graph (sơ đồ 1.11): Khái quát VHVN từ đầu TK XX đến Cách mạng tháng tám 1945
  8. Sơ đồ 1. 11 - Dùng Graph để luyện tập, củng cố và kiểm tra kiến thức VHS Luyện tập là làm đi làm lại nhiều lần theo nội dung đã học để cho thành thạo. Kiểm tra, đánh giá là khâu hết sức quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập. Kiểm tra và đánh giá không những nhằm phân loại chất lượng giảng dạy và học tập mà điều quan trọng là để điều chỉnh quá trình này theo một chiều hướng tích cực, lành mạnh. Nói một cách cụ thể hơn, kiểm tra đánh giá trước hết nhằm đánh giá trình độ, năng lực nhận thức của học sinh vào những thời điểm cụ thể, theo mục tiêu của chương trình môn học. Trên cơ sở đó, có thể điều chỉnh kịp thời nội dung và phương pháp, phương tiện dạy học sao cho phù hợp để đạt hiệu quả cao nhất. Để luyện tập củng cố và kiểm tra các kiến thức VHS chúng ta có thể sử dụng các Graph câm, Graph khuyết rồi yêu cầu các em học sinh điền vào các đỉnh còn trống để tự hoàn thiện Graph. - Dùng Graph để hướng dẫn học sinh tự học. Tự học là một hoạt động tâm lý đặc trưng của con người, hoạt động tự học là hoạt động tự giác, tích cực, tự chiếm lĩnh tri thức khoa học bằng hành động của cá nhân hướng tới những mục tiêu nhất định. Tự học không chỉ có ý nghĩa lớn trong thời gian học tập ở nhà trường, mà còn có ý nghĩa lớn trong cuộc đời của mỗi con người. Tự học bằng Graph có thể được thực hiện dưới các hình thức sau: + Tự học trên lớp Đây là hình thức tự học theo hướng phát huy tính độc lập và sáng tạo của học sinh để thu nhận kiến thức mới trong các bài học hoặc hệ thống hóa kiến thức. Có thể thực hiện thông qua hình thức thảo luận nhóm, hoặc khi làm các bài tập thực hành. Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh đọc và nghiên cứu nội dung bài học trong sách giáo khoa hoặc theo dõi phim tài liệu hay quan sát các đồ dùng dạy học (tranh, ảnh, hay các sơ đồ ) cụ thể, sau đó yêu cầu học sinh tự lập các Graph để thể hiện các mối quan hệ của các yếu tố được thể hiện trong bài học. Hình thức này giúp cho học sinh có một phong cách tự học theo sách giáo khoa một cách chủ động, tích cực. + Tự học ở nhà
  9. Tự học ở nhà với mục đích thu nhận kiến thức mới hoặc ôn tập, ghi nhớ và vận dụng kiến thức một cách linh hoạt. Bằng Graph, học sinh có thể tự lập được dàn ý cơ bản các nội dung học tập. Từ đó có điểm tựa để học sinh ghi nhớ kiến thức theo một hệ thống logic, khoa học. Những hình ảnh của Graph sẽ giúp cho học sinh vận dụng kiến thức một cách nhanh chóng. Thông qua học tập bằng Graph, học sinh sẽ hình thành tư duy hệ thống. Qua những bài tập, những câu hỏi mang tính khái quát, giáo viên sẽ hình thành cho học sinh một phong cách tự học khoa học. Nhờ những Graph thể hiện mối quan hệ của các kiến thức, học sinh sẽ có một phương pháp ghi nhớ bằng “ngôn ngữ” Graph, vừa ngắn gọn, lâu bền và dễ tái hiện, dễ vận dụng trong những hoàn cảnh cụ thể. Thường xuyên hướng dẫn học sinh tự học bằng Graph sẽ giúp học sinh có thói quen để tự học suốt đời một cách khoa học. Để học sinh có thể tự học bằng Graph, chúng ta hướng dẫn các em thực hiện qua các bước sau: Bước 1: Yêu cầu học sinh tự đọc, nghiên cứu tài liệu. Bước 2: Học sinh tiến hành lập Graph nội dung dựa trên những mục tiêu của bài học và những nhiệm vụ mà giáo viên đặt ra thông qua các câu hỏi. Bước 3: Học sinh tự kiểm tra độ tin cậy của Graph bằng cách đối chiếu nó với những mục tiêu của bài học và những yêu cầu mà giáo viên đặt ra. Bước 4: Học sinh đối chiếu Graph tự lập với những Graph của các bạn học sinh khác trong lớp và với Graph của giáo viên trong giờ học ở trên lớp hoặc thông qua các giờ ra chơi, làm bài tập… vv 1.2. Khái niệm văn học sử (VHS) Văn học sử là một bộ môn của khoa nghiên cứu văn học có nhiệm vụ nghiên cứu qúa khứ của văn học, gồm quy luật sinh thành và phát triển của các hiện tượng và quá trình văn học diễn ra trong những điều kiện xã hội – lịch sử nhất định. [Từ điển thuật ngữ văn học Tr 181, Xuất bản 12/ 2007] a. Vị trí và đặc điểm cấu tạo của các kiểu bài VHS trong chương trình Ngữ văn ở THPT * Vị trí VHS trong nhà trường THPT hiện nay Bài VHS chiếm tỉ lệ tương đối lớn trong chương trình Ngữ văn ở THPT. Thống kê bộ sách Ngữ văn lớp 10,11,12 (chương trình chuẩn và nâng cao) thì tỉ lệ số tiết dành cho VHS chiếm khoảng hơn 10% trong tổng số tiết học. Cụ thể như sau: Lớp 10: CT chuẩn: 12/105 tiết CT nâng cao: 15/140 tiết Lớp 11: CT chuẩn: 12/123 tiết CT nâng cao: 12/140 tiết Lớp 12: CT chuẩn: 10/105 tiết CT nâng cao: 10/140 tiết Phân môn VHS trong nhà trường hiện nay có những vị trí quan trọng là: - VHS là một phân môn chủ đạo của bộ môn văn học - VHS cùng với giảng văn, làm văn và một số phân môn khác góp phần rất quan trọng vào việc hoàn thiện tri thức văn học cho học sinh (HS) phổ thông. - VHS có khả năng vun đắp tâm hồn dân tộc và nhân văn cho HS. - VHS có khả năng rèn luyện năng lực tư duy logic và tư duy hình tượng cho HS, đặc biệt là cách học văn có tính chất tự học, tự nghiên cứu. Đó là kỹ năng phân tích, tổng hợp, cụ thể hóa, khái quát hóa, ghi nhớ và suy luận, đối chiếu, so sánh, hệ thống hóa… . * Đặc điểm cấu trúc của các kiểu bài VHS trong chương trình Ngữ văn ở THPT tạo cơ sở cho việc sử dụng Graph trong dạy học VHS.
  10. Trong chương trình Ngữ văn ở THPT hiện nay được biên soạn có 6 kiểu bài văn học sử: - Kiểu bài VHS có tính chất tổng quan: “Tổng quan về văn học Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử” – SGK Ngữ văn lớp 10 (cả bộ cơ bản và nâng cao) Đây là kiểu bài VHS mang tính khái quát cao so với toàn bộ tri thức văn học sử trong chương trình Ngữ văn ở THPT. Được biên soạn ở chương trình lớp 10 (bài đầu tiên), trong cả hai bộ sách (bộ cơ bản và bộ nâng cao). Về cấu trúc, bài VHS này được cấu tạo một cách khoa học và logíc theo một phương pháp diễn dịch từ khái quát vĩ mô đến khái quát vi mô theo từng phần cụ thể: Khái quát về các thành phần cấu tạo; quá trình phát triển của văn học Việt Nam; đối tượng phản ánh trong văn học. Kết cấu này rất thuận lợi cho việc sử dụng Graph trong việc giảng dạy của giáo viên và học sinh. Bởi, nhìn vào sơ đồ Graph học sinh có thể thấy một cách tổng quan nhất về các bộ phận cấu thành, các thời kỳ phát triển và đối tượng chính được phản ánh trong văn học là gì. - Kiểu bài VHS về khái quát thời kỳ VH Kiểu bài khái quát về thời kỳ văn học chiếm một tỉ lệ khá lớn trong toàn bộ các kiểu bài văn học sử được biên soạn trong chương trình Ngữ văn THPT. Kiểu bài văn học sử này được biên soạn ở cả ba khối lớp 10, 11,12 (cả bộ cơ bản và bộ nâng cao). + Chương trình Ngữ văn lớp 10 (bộ cơ bản và bộ nâng cao) có bài : Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. + Chương trình Ngữ văn lớp 11: SGK Ngữ văn 11 (cả bộ cơ bản và bộ nâng cao): Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng tám 1945. + Chương trình Ngữ văn lớp 12: SGK Ngữ văn 12 (cả bộ cơ bản và bộ nâng cao): Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng tám 1945 đến hết thế kỉ XX. Về đặc điểm: Các bài khái quát về thời kỳ văn học thường bao quát những thời gian phân kỳ, chứa đựng khối lượng tư liệu lớn và các nhận định mang tính chất trừu tượng cao. Về mặt cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu của kiểu bài văn học sử này là: Về cấu trúc bề mặt, các bài VHS về thời kỳ văn học cơ bản có các phần sau: Phần mở đầu, hoàn cảnh lịch sử - xã hội, giá trị văn học (bao gồm giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật), kết luận. Có thể được biểu diễn dưới dạng Graph (sơ đồ 1.12): Mở đầu Hoàn cảnh lịch sử - xã Khái quát hội thời kỳ văn học Nội dung văn học Các giá trị văn học Hình thức văn học Kết luận
  11. Sơ đồ 1. 12 Về cấu trúc chiều sâu của kiểu bài này là một cấu trúc lôgíc với các cấp độ từ rộng đến hẹp dần về ngoại diên, từ khái quát cao đến cụ thể chi tiết về nội hàm. Từ cấu trúc này, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng Graph để dạy các kiểu bài văn học sử khái quát về thời kì văn học. - Kiểu bài VHS khái quát về thể loại VH Trong chương trình mới hiện nay, kiểu bài này chủ yếu được biên soạn trong chương tình Ngữ văn lớp 10. Về số lượng, kiểu bài này thường ít hơn. Chỉ có một bài được bố trí tiết dạy riêng và có tính chất khái quát chung cho đó là bài: Khái quát văn học dân gian Việt Nam (SGK Ngữ văn lớp 10 tập một – Tr 16), còn một số thể loại cụ thể được gộp chung trong từng tác phẩm, đoạn trích cụ thể và thường được bố trí ở phần tiểu dẫn trước khi đi vào giới thiệu tác phẩm hay đoạn trích. Chẳng hạn như: Thể loại Sử thi được giới thiệu trong phần tiểu dẫn của bài “Chiến thắng Mtao Mxây” (Trích Đăm Săn - Sử thi Tây Nguyên)- (SGK Ngữ văn 10, tập một – Tr 30); Thể loại Truyền thuyết được giới thiệu ở phần tiểu dẫn trong bài “Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy” (SGK Ngữ văn 10, tập một – Tr 39); Thể loại Truyện cổ tích được giới thiệu trong bài “Tấm Cám” (SGK Ngữ văn 10, tập một – Tr 65)… Về đặc điểm: Kiểu bài này thường được cấu trúc gồm các phần chính: Định nghĩa (khái niệm), những đặc trưng cơ bản, hệ thống thể loại và các giá trị văn học. Ngoài ra kiểu bài này thường chứa đựng rất nhiều các khái niệm (các khái niệm về từng thể loại cụ thể), các tư liệu về các thể loại khác nhau. Có thể hình dung qua Graph (sơ đồ 1.13). Graph cấu trúc kiểu bài VHS khái quát về thể loại VH. Khái niệm chung Đặc trưng cơ bản Khái quát thể loại văn học Hệ thống thể loại (Mỗi thể loại đều có KN, đặc trưng riêng) Các giá trị văn học
  12. Sơ đồ 1. 13 Với cấu trúc này, chúng ta rất dễ ràng sử dụng Graph để dạy các kiểu bài khái quát về thể loại văn học. - Kiểu bài VHS về tác gia VH Đây là kiểu bài chiếm ưu thế về số lượng, với 08 bài có phân phối tiết dạy riêng (cả bộ cơ bản và bộ nâng cao), ngoài ra, hầu hết các tác phẩm, đoạn trích được trích giảng trong chương trình Ngữ văn ở THPT đều có phần giới thiệu về tác giả (được giới thiệu trong phần tiểu dẫn trước khi giới thiệu về tác phẩm, đoạn trích). Tuy nhiên, trong số các tác gia được giới thiệu chương trình SGK hiện nay ở hai bộ sách (cơ bản và nâng cao) có một số khác nhau (về số lượng tác giả được giới thiệu và vị trí). Về số lượng tác gia được giới thiệu: Trong bộ SGK Ngữ văn lớp 10, 11, 12 (bộ cơ bản) thì chỉ 06 tác giả được giới thiệu. Còn trong bộ SGK Ngữ văn lớp 10, 11, 12 (bộ nâng cao) lại có 08 bài về tác gia được giới thiệu riêng. Về vị trí giới thiệu: Ở bộ SGK Ngữ văn lớp 10, 11, 12 (bộ cơ bản) được giới thiệu gộp chung trong các bài giới thiệu về tác phẩm nhưng được chia làm hai phần, phần giới thiệu về tác gia được đưa lên trước (nằm ở phần một của bài), phần tác phẩm là phần hai được giới thiệu sau. Còn trong bộ SGK Ngữ văn lớp 10, 11, 12 (bộ nâng cao) lại tách ra thành những bài giới thiệu riêng và được giới thiệu sau các bài giới thiệu về tác phẩm, đoạn trích. + Chương trình Ngữ văn lớp 10 (bộ cơ bản và bộ nâng cao) với các tác gia: Tác gia Nguyễn Trãi (SGK bộ cơ bản, nằm ở phần I trong bài “Đại cáo bình Ngô”). Tác gia Nguyễn Du (SGK bộ cơ bản nằm ở phần I trong bài “Truyện Kiều”). + Chương trình Ngữ văn lớp 11: Trong bộ cơ bản có hai tác gia được giới thiệu gộp chung trong các bài giới thiệu về tác phẩm, nhưng được phân phối tiết dạy riêng. Tác gia Nguyễn Đình Chiểu (SGK bộ cơ bản nằm ở phần I trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”). Tác gia Nam Cao (SGK bộ cơ bản nằm ở phần I trong bài “Chí Phèo”). Trong chương trình nâng cao có thêm một tác gia được giới thiệu đó là :Tác gia Xuân Diệu, được giới thiệu thành bài riêng. + Chương trình Ngữ văn lớp 12: Bộ cơ bản có hai tác gia được giới thiệu đó là: Tác gia Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (bộ cơ bản nằm ở phần I của bài “Tuyên ngôn độc lập” - SGK Ngữ văn 12 – Tr 23). Tác gia Tố Hữu (bộ cơ bản nằm ở phần I của bài “Việt Bắc” - SGK Ngữ văn 12 – Tr 94) Riêng bộ nâng cao có giới thiệu thêm về tác gia Nguyễn Tuân (SGK Ngữ văn 12 – Tr 164). Về đặc điểm: Kiểu bài này gần như nhất quán về mặt cấu trúc bề mặt, thường được cấu trúc làm hai phần chính và phần kết luận : Tiểu sử, sự nghiệp văn chương và phần kết luận. Trong hai phần chính (tiểu sử và sự nghiệp văn chương) này có khi được đặt với các tiêu đề khác nhau nhưng thực sự là cùng một nội dung. Phần tiểu sử chủ yếu là giới thiệu về cuộc đời nhà văn với những nét tiêu biểu có liên quan đến sáng tác văn học và sự đóng góp về văn chương đối với thời đại. Mục này thường được trình bày theo phương pháp lịch sử, tức là lần theo các bước thời gian mà nhà văn sống (diễn dịch). Phần sự nghiệp văn chương thường được chia làm hai phần đó là: nội dung văn chương và nghệ thuật văn chương. Xem sơ đồ 1.14. Graph cấu trúc về kiểu bài VHS về tác gia VH
  13. kiểu bài về tác gia văn học Vài nét về tiểu sử Sự nghiệp văn chương Nội dung văn Nghệ thuật chương văn chương kết luận Sơ đồ 1. 14 Như vậy, với cấu trúc bề mặt của kiểu bài văn học sử này giúp chúng ta có thể dễ ràng trong việc lập Graph trong quá trình giảng dạy. - Kiểu bài VHS về tác phẩm văn học Đây là kiểu bài chiếm vị trí khá ít trong chương trình Ngữ văn ở THPT hiện nay, chỉ với hai tác phẩm được giới thiệu (được phân phối tiết dạy riêng) và được giới thiệu trong chương trình của bộ SGK Ngữ văn nâng cao. Cụ thể là các tác phẩm: Tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, trong chương trình SGK Ngữ văn lớp 10 (bộ nâng cao – Tr 127). Tác phẩm “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh, trong chương trình SGK Ngữ văn lớp 11 (bộ nâng cao – Tr 66). Về đặc điểm: Tùy thuộc vào thể loại, nội dung của mỗi tác phẩm và quan điểm trình bày của mỗi tác giả biên soạn cho nên, việc trình bày của kiểu bài này có cấu trúc tương đối khác nhau. Chẳng hạn, trong bài “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh được cấu trúc theo 3 nội dung chính xem sơ đồ 1.15 Graph cấu trúc về kiểu bài VHS về tác phẩm văn học Nhật kí trong tù Hoàn cảnh ra đời Một số điểm cần lưu ý ND và nghệ thuật thuật Sơ đồ 1. 15
  14. Còn trong bài “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được cấu trúc với ba phần chính cụ thể như sơ đồ 1.16: Truyện Kiều Nguồn gốc và sự sáng Tóm tắt “Truyện Giá trị tư tưởng và tạo của Nguyễn Du Kiều” nghệ thuật Sơ đồ 1. 16 Với kiểu cấu trúc như vậy, rất thuận lợi cho việc sử dụng xây dựng các Graph nội dung trong dạy học cho kiểu bài VHS này. - Kiểu bài về ôn tập VHS Ôn tập văn học là một kiểu bài VHS vừa chiếm vị trí khá quan trọng trong chương trình Ngữ văn ở THPT vừa có tính chất đặc thù riêng. Kiểu bài này được biên soạn ở cả ba khối lớp 10, 11, 12, cả ban cơ bản và nâng cao. Không chỉ là các bài ôn tập, tổng kết các thời kỳ văn học như các bài: Ôn tập văn học dân gian Việt Nam, SGK Ngữ văn lớp 10 – Trang 100; Ôn tập văn học trung đại Việt Nam, SGK Ngữ văn lớp 10 – Trang 100, mà còn có một số bài ôn tập, tổng kết phần văn học ở cuối mỗi học kỳ và ở cuối năm học. Về đặc điểm: Thứ nhất, ở kiểu bài này thường có tính chất khái quát - tổng hợp cao. Nếu như các bài khái về văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại, văn học đương đại có tính chất khái quát – tổng quát thì kiểu bài này lại có tính chất khái quát – tổng hợp. Bởi vì, sau một quá trình học sinh đã được tiếp xúc với các tác giả và nhất là một lượng tác phẩm đã được học và đọc thêm hết sức phong phú của từng thời kỳ văn học. Vì vậy, việc khái quát – tổng hợp một mặt phải dựa vào các kiến thức khái quát tổng quát, mặt khác phải dựa vào các kiến thức cụ thể đã được học qua các tác giả, tác phẩm. Nói cách khác, khái quát – tổng quát là chưa đi sâu vào cái cụ thể, còn khái quát – tổng hợp là sự khái quát cao hơn nhờ thông qua tập hợp các hiện tượng minh họa cụ thể. Thứ hai: Kiểu bài ôn tập văn học vừa là ôn tập kiến thức VHS, vừa là ôn tập kiến thức giảng văn. Vì vậy, yêu cầu của bài ôn tập văn học này là phải đạt đến các kiến thức VHS ở cấp độ tổng hợp cao. Bài ôn tập văn học được xác định là bài ôn tập có tính VHS cần hướng đến các yêu cầu sau: + Củng cố kiến thức VHS và giảng văn không phải là trở lại từng bài mà phải nâng cao kiến thức VHS và giảng văn thành các khái niệm, phạm trù, quy luật văn học gắn với lý luận văn học và các quan điểm nghiên cứu văn học. + Hệ thống hóa kiến thức VHS và giảng văn phải có sự kết hợp tính hệ thống lôgíc và hệ thống lịch sử, đồng thời phải có sự đối chiếu, so sánh… . Như vậy, nếu giờ ôn tập văn học chỉ là chuẩn bị theo câu hỏi và đến lớp trả lời theo các câu hỏi thì chưa đạt được các yêu cầu trên. Theo các yêu cầu trên thì kiểu bài ôn tập VHS là bài học nhằm phát triển cao năng lực tư duy của học sinh và bồi dưỡng các quan điểm nghiên cứu văn học cho các em chứ không phải là bổ sung kiến thức. Chính vì thế mà đòi hỏi chúng ta cần phải hướng dẫn cho học sinh biết cách hệ thống hóa các kiến thức VHS và kiến thức văn học theo một
  15. kết cấu chặt chẽ và có tính khái quát – tổng hợp cao. Để thực hiện được điều này, việc sử dụng sơ đồ Graph có thể coi là thuận lợi hơn cả. Tiểu kết Để xác lập cơ sở cho đề tài, chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu một số vấn đề có tính chất lý luận về lý thuyết Graph. Đồng thời tiến nghiên cứu, khảo sát về vị trí, vai trò, cấu trúc của các dạng bài văn học sử trong chương trình Ngữ văn ở THPT. Sau khi tìm hiểu, nghiên cứu và tôi rút ra một số kết luận sau: Thứ nhất: Nghiên cứu về lý thuyết Graph chúng tôi nhận thấy lý thuyết Graph là một hệ thống sơ đồ rất đa dạng, được kết cấu bởi các đỉnh và sắp xếp dưới dạng tầng bậc. Mỗi tầng bậc của Graph lại được nối với nhau bởi các cung, các cung này chỉ rõ mối quan hệ lôgíc giữa các đỉnh trong một Graph cũng như các nội dung chứa trong mỗi đỉnh của chúng. Từ đó, ta có thể thấy được những đặc điểm nổi bật của Graph nội dung bài học đó là: - Tính khái quát: Các kiến thức trong mỗi đỉnh của Graph là những kiến thức cơ bản nhất, chủ yếu nhất. Mối quan hệ giữa các kiến thức ấy được biểu hiện bằng các đường thẳng, hay các mũi tên. Nhìn vào đó ta có thể thấy được tổng thể lôzíc của toàn bộ bài học. - Tính trực quan: Các kiến thức được bố trí bằng các hình của hình học (có đường nét, hình ảnh, thậm chí cả màu sắc). Việc sắp xếp các hình và các đường liên hệ giữa các đỉnh (cung) rất rõ ràng không gây khó hiểu và rối mắt. - Tính hệ thống: Mỗi Graph luôn bao gồm nhiều đỉnh, mỗi đỉnh là một đơn vị kiến thức của bài học, được cấu trúc theo một hệ thống có tầng bậc rất rõ ràng theo lôgic của tài liệu giáo khoa. - Tính súc tích: Các kiến thức trong mỗi đỉnh của Graph thường là những nhận định khái quát, lại được mã hóa nên rất ngắn gọn, súc tích. Thứ hai: Khi tiến hành, khảo sát và tìm hiểu về cấu trúc của các kiểu bài VHS trong chương trình Ngữ văn ở THPT, chúng tôi thấy tất cả các kiểu bài VHS đều có cấu trúc thành những tầng bậc và giữa các tầng bậc lại có các mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Từ đó, đối chiếu với những đặc điểm, bản chất của các loại Graph để thấy rõ những ưu điểm và thế mạnh của các loại Graph. Vì vậy, chúng tôi khẳng định rằng: Việc sử dụng Graph vào dạy các kiểu bài VHS ở THPT là hoàn toàn có cơ sở. 2. Phương pháp sử dụng Graph trong dạy VHS ở THPT 2.1. Mục đích, yêu cầu a. Mục đích Ngày nay, với sự hỗ trợ của các phương tiện dạy học hiện đại, đặc biệt là các phương tiện công nghệ thông tin đã giúp chúng ta cải thiện được rất nhiều trong việc giảng dạy và học tập, góp phần rất lớn vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy học. Vì vậy, việc sử dụng Graph trong dạy học văn học sử ở THPT nhằm đạt được một số mục đích sau: - Giúp cho giáo viên tiết kiệm được thời gian, công sức trong việc soạn giảng, đảm bảo được việc hoàn thành được kế hoạch, chương trình giảng dạy. Đối với các bài VHS trong chương trình Ngữ văn ở THPT thường có dung lượng kiến thức lớn, các kiến thức lại có tính khái quát, trừu tượng cao, mà thời lượng chương trình dành cho mỗi bài lại quá ít (chỉ từ 1 - 2 tiết/bài). Vì vậy, rất khó khăn cho người soạn giảng, vừa phải làm sao truyền đạt được hết những nội dung kiến thức trong bài sao cho dễ tiếp thu đối với học sinh. Lại vừa phải đảm bảo được thời gian, kế hoạch giảng dạy thì quả thật là điều rất khó. Chính vì thế việc sử dụng Graph trong dạy các bài VHS ở THPT phải góp phần vào giải quyết vấn đề này.
  16. - Điều quan trọng hơn cả là sử dụng Graph trong dạy VHS ở THPT phải đạt được mục đích, nhu cầu giảng dạy và học tập mà tất cả xã hội đã và đang rất quan tâm, đó chính là việc góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đúng vậy, mục đích của việc sử dụng Graph trong dạy văn học sử ở THPT phải làm sao giúp cho người học tiếp thu các kiến thức VHS một cách có hiệu quả. Đồng thời phải phát huy được tính tích cực, sự say mê hứng thú và tính sáng tạo trong học tập của học sinh. b. Yêu cầu Graph là một hệ thống, trong đó các đỉnh của Graph chính là đại diện cho những yếu tố trong hệ thống đó. Vì vậy, để lập được Graph nội dung và Graph hoạt động cho bài VHS, phải đáp ứng được những điều kiện sau: Trước hết, bài VHS phải gồm từ hai yếu tố trở lên; nhưng nếu chỉ có một tập hợp số lượng các yếu tố, tập hợp ấy vẫn chưa đủ điều kiện để lập thành một Graph. Graph là một chỉnh thể nên các yếu tố tham gia vào chỉnh thể phải có quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau. Nói cách khác, các yếu tố đó phải xác lập được mối quan hệ của nó với các yếu tố khác trong cùng Graph. Graph nội dung của một bài VHS là bản tóm tắt nội dung cơ bản của bài học một cách trực quan. Vì vậy, khi tiến hành lập Graph giáo viên phải nêu được danh mục các kiến thức cơ bản của bài học. Tức là nêu được những gì chủ chốt, cơ bản mà học sinh cần phải hiểu, cần vận dụng để từ đó có thể suy ra những hiểu biết khác của bài. Đồng thời giáo viên phải cung cấp được những nội dung chủ chốt của bài VHS dưới dạng tóm tắt, ký hiệu hay công thức. Khi lập Graph phải trình bày sao cho người học thấy rõ được mối quan hệ ngang bậc, rẽ nhánh, dưới bậc… . Từ đó, người học thấy được sự phát triển bên trong, nội tại của những nội dung, những kết luận chính và những kết luận phụ thuộc. Nói cách khác là phải làm sao để cho những nội dung chính của bài học được hiện lên một cách trực quan, hệ thống, khái quát, lôzíc và thật súc tích, tạo điểm tựa cho việc lĩnh hội và tái hiện tri thức bài học của người học được dễ dàng và đạt hiệu quả cao nhất. 2.2. Một số lưu ý khi sử dụng Graph trong dạy VHS ở THPT Để sử dụng Graph trong dạy học VHS ở THPT thực sự có hiệu quả, trước khi tiến hành các biện pháp cần lưu ý một số vấn đề sau: a. Tránh tính hình thức trong việc lập và sử dụng Graph Tính hình thức tức là tư tưởng coi trọng hình thức hơn nội dung trong các hoạt động của con người, là những cách biểu hiện hình thức không tương ứng hoặc không phản ánh đúng nội dung của sự vật, hiện tượng. Có thể xuất hiện tính hình thức trong việc sử dụng Graph vào dạy các bài VHS ở các mức độ sau: Mức độ thứ nhất: Giáo viên chỉ chú trọng đến khâu lập và triển khai bài học bằng các Graph, còn học sinh chỉ ghi nhớ kiến thức một cách máy móc, chỉ thấy được các mối quan hệ bên ngoài (thông qua các cung của Graph) mà không hiểu được bản chất của các kiến thức cũng như các mối quan hệ tiềm ẩn bên trong của các kiến thức ấy. Mức độ thứ hai: Học sinh không thấy được mối quan hệ giữa các thành phần kiến thức, không tự thiết lập được mối liên hệ giữa các kiến thức đã biết với các kiến thức mới cần tiếp thu. Từ đó, học sinh không biết sử dụng những kiến thức VHS đã có như là những tiền đề, tư liệu minh họa làm cơ sở để tiếp nhận các kiến thức mới. Thậm chí, sau khi học xong các bài VHS, các tác phẩm trong các giai đoạn, hay thời kỳ văn học ấy lại không thấy được tính hệ thống của các kiến thức đã học. Mức độ thứ ba: Học sinh không thấy được nguồn gốc của các kiến thức khoa học, không thấy được ý nghĩa của kiến thức được vận dụng vào thực tiễn.
  17. Để khắc phục tính hình thức trong sử dụng Graph vào dạy học các bài VHS, đòi hỏi mỗi giáo viên khi giảng dạy cần phải tăng cường các câu hỏi trao đổi, thảo luận nhóm hơn. b. Tránh lạm dụng Graph Graph chỉ có tác dụng là phương tiện tư duy mang tính trực quan, nhằm xác định mối quan hệ của các đối tượng được nghiên cứu trong một hệ thống nhất định, qua đó góp phần nâng cao chất lượng trong học tập. Vì vậy, không thể dùng Graph để thay thế hoàn toàn các phương pháp, phương tiện dạy học khác, mà cần phải có sự phối kết hợp một cách khoa học giữa việc sử dụng Graph với các phương pháp và các phương tiện dạy học để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học VHS ở trường THPT. 2.3. Các biện pháp thực hiện Sử dụng Graph trong dạy học nói chung và dạy học văn học sử nói riêng cần phải tiến hành qua hai giai đoạn chính. a. Lập Graph nội dung Quy trình lập Graph nội dung dạy học (dùng cho cả giáo viên và học sinh). Trước hết giáo viên cần nghiên cứu nội dung chương trình giảng dạy để lựa chọn những bài, những tổ hợp kiến thức có khả năng lập Graph nội dung. Mỗi loại kiến thức sẽ có loại Graph nội dung tương ứng. Từ những nội dung dạy học trong tài liệu sách giáo khoa, giáo viên dùng phương pháp Graph để lập sơ đồ nội dung dạy học. Đây là giai đoạn quan trọng nhất đối với việc sử dụng Graph trong dạy học VHS và là giai đoạn có tính chất quyết định đối với các giai đoạn về sau. Quy trình này được tiến hành qua các bước sau: Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài học Bước 2: Lập danh mục kiến thức cơ bản Phương pháp Bước 3: Xác định đỉnh của Graph và mã hóa kiến thức lập Graph nội dung bài học Bước 4: Xếp đỉnh và lập cung cho Graph Bước 5: Kiểm tra Graph đã lập Sơ đồ 2.1 Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài học Trước khi tìm hiểu về đối tượng đòi hỏi giáo viên vừa phải nắm được bản chất của đối tượng, vừa phải hiểu thật rõ về logic cần trình bày của bài học. Để làm tốt được nội dung này, giáo viên phải đọc và nghiên cứu thật kĩ nội dung bài học trong sách giáo khoa và các tài liệu có liên quan đến nội dung bài học để nắm vững các khái niệm, các luận điểm chính cần cung cấp cho học sinh. Có làm tốt công việc đó, người giáo viên mới lĩnh hội, tiếp thu tốt tinh thần bài học và như vậy mới có được những chỉ dẫn cần thiết để
  18. hiểu vấn đề một cách sâu sắc, toàn diện cũng như những gợi ý cho sự lựa chọn phương pháp dạy học đạt kết quả cao. Đây chính là những điều kiện cần thiết để lập Graph cho phù hợp. Nếu việc tìm hiểu nội dung bài học không chu đáo, hời hợt thì Graph lập nên sẽ thiếu chính xác, thiếu khoa học và không mang lại kết quả cao trong dạy học. Bước 2: Lập danh mục kiến thức cơ bản (kiến thức chốt tối thiểu cần và đủ) Dựa vào mục tiêu bài học và kết quả cần đạt trong sách giáo khoa giáo viên tiến hành định ra các kiến thức chốt của bài học, đó là những kiến thức bắt buộc, là kết quả cần đạt của học sinh. Mỗi bài học có nhiều đơn vị kến thức, trong đó, có những kiến thức trọng tâm, có những kiến thức hỗ trợ, bổ sung. Vì vậy, giáo viên cần chọn lọc để có được những kiến thức chốt đưa vào Graph. Những đơn vị kiến thức cơ bản của bài học VHS thường được thể hiện qua “Kết quả cần đạt”, kết cấu của bài học như: các đề mục, tiểu mục. Dựa vào những cơ sở ấy, giáo viên sẽ xác định được những kiến thức chốt cần và đủ. Mặt khác, hiện nay Bộ giáo dục đã ban hành và áp dụng tài liệu chuẩn kiến thức cho các bộ môn trong đó có bộ môn Ngữ văn. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi để chúng ta có thể dễ dàng xác định được chính xác và đầy đủ các kiến thức chốt của bài học. Ví dụ: Khi lập Graph cho bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam”, (SGK Ngữ văn 10, tập một, chương trình chuẩn) giáo viên đọc sách giáo khoa và tìm được trong mục “Kết quả cần đạt” những chỉ dẫn sau: - Nắm được các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian và khái niệm về các thể loại của văn học dân gian. - Hiểu rõ vị trí, vai trò và những giá trị to lớn của văn học dân gian trong mối quan hệ với văn học viết và đời sống văn hóa dân tộc. Tiếp sau đó, nội dung bài học được kết cấu rõ ràng với những đề mục, tiểu mục cụ thể như sau: I – Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian 1. Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng (tính truyền miệng). 2. Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể (tính tập thể). II – Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam 1. Thần thoại 5. Truyện ngụ ngôn 9. Ca dao 2. Sử thi 6. Truyện cười 10. Vè 3. Truyền thuyết 7. Tục ngữ 11. Truyện thơ 4. Truyện cổ tích 8. Câu đố 12. Chèo III – Những giá trị cơ bản của văn học dân gian Việt Nam 1. Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc. 2. Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người. 3. Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc. Như vậy, những kiến thức cơ bản của bài học đã được xác định, chúng ta chỉ cần lập chúng thành một danh mục sao cho đúng thứ tự và tầng bậc của chúng để công việc xác định đỉnh của Graph được dễ dàng. Bước 3: Xác định đỉnh của Graph và mã hóa kiến thức * Xác định đỉnh của Graph
  19. Việc xác định đỉnh của Graph phụ thuộc vào nội dung kiến thức mà chúng ta vừa xác định. Mỗi đơn vị kiến thức chốt sẽ là một đỉnh của Graph, như vậy một bài học có bao nhiêu kiến thức chốt thì Graph sẽ có bấy nhiêu đỉnh. * Mã hóa kiến thức bằng kí hệu. Trong sơ đồ mạng, do khuôn khổ của các khung, các ô không cho phép sử dụng nhiều từ, nhiều câu. Hơn nữa, do đặc điểm của Graph là trực quan, là khái quát hóa và tổng hợp. Cho nên khi lập Graph ta không thể đưa đầy đủ, trọn vẹn câu chữ của các đơn vị kiến thức trong nội dung bài học vào các khung, các ô của Graph được. Bởi vậy, khi tiến hành lập Graph có những đơn vị kiến thức cần phải đặt các kí hiệu qui ước. Thực chất của vấn đề này là biến nội dung các kiến thức cơ bản chứa đựng trong các đỉnh của Graph thành một bản tin thật súc tích, ngắn gọn, dễ hiểu đối với học sinh. Sự mã hóa cũng rất đa dạng, chúng ta có thể dùng chữ cái viết tắt, các con số, một kí hiệu nào đó hay rút ngắn lại những kiến thức đó bằng cách loại bỏ những từ ngữ không quan trọng, không cần thiết. Điều cần lưu ý là những chữ cái viết tắt, con số hay những kí hiệu dùng để mã hóa nội dung của những kiến thức cơ bản trong bài học phải làm sao giúp cho học sinh dễ dàng giải mã được. Hơn nữa, những qui ước mã hóa đó phải có sự thống nhất giữa học sinh và giáo viên để tránh hiểu lầm, hiểu sai. Trong những trường hợp nhất định, nếu những đơn vị kiến thức có số lượng câu chữ đưa vào các khung của Graph không nhiều, không làm ảnh hưởng đến việc xây dựng Graph thì chúng ta không nhất thiết phải mã hóa mà nên giữ nguyên câu chữ đó. Chẳng hạn, trong những đơn vị kiến thức trên chúng ta có thể mã hóa như sau: I – Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian → Đặc trưng cơ bản 1. Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng . → Tính truyền miệng 2. Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể. → Tính tập thể II – Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam → Hệ thống thể loại 1. Thần thoại 7. Tục ngữ 2. Sử thi 8. Câu đố 3. Truyền thuyết 9. Ca dao Giữ nguyên 4. Truyện cổ tích 10. Vè 5. Truyện ngụ ngôn 11. Truyện thơ 6. Truyện cười 12. Chèo III – Những giá trị cơ bản của văn học dân gian Việt Nam → Những giá trị cơ bản 1. Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc. → Kho tri thức phong phú 2. Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người. → GD đạo lí làm người 3. Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc. → Giá trị thẩm mĩ to lớn Bước 4. Xếp đỉnh và lập cung cho Graph Sau khi đã xác định và mã hóa các kiến thức để đưa vào Graph, ta chuyển sang bước tiếp theo là xếp đỉnh và lập cung cho Graph. Hai việc này được tiến hành song song với nhau. Khi ta xếp đỉnh có nghĩa là đang lập cung cho Graph và ngược lại. Tuy nhiên, để thuận lợi cho việc trình bày, chúng ta phải tiến hành theo từng hoạt động cụ thể:
  20. * Xếp đỉnh là việc sắp xếp các đỉnh lên mặt phẳng theo một logic khoa học và phải bảo đảm được những yêu cầu sau: Thứ nhất: Phải chú ý đến tính khoa học, nghĩa là phải phản ánh được logic phát triển bên trong của nội dung bài học (tài liệu giáo khoa). Thứ hai: Phải bảo đảm tính sư phạm: Dễ thực hiện đối với giáo viên, đồng thời dễ hiểu đối với học sinh. Thứ ba: Phải bảo đảm tính trực quan, tính khái quát cao. Trong mỗi Graph thường có rất nhiều đỉnh, số lượng đỉnh phụ thuộc vào nội dung của từng loại bài VHS. Tuy nhiên, các loại đỉnh đó có thể được phân chia và gọi tên cụ thể như sau: - Đỉnh xuất phát: Đỉnh này được coi là trọng tâm của Graph Nếu Graph mà chúng ta lập cho toàn bộ nội dung kiến thức của một bài học thì đỉnh này chính là tiêu đề (tên) của bài học đó. Còn khi chúng ta chỉ lập Graph cho một đơn vị kiến thức nào đó của một bài học thì đỉnh này có thể là một sự kiện, một khái niệm hay một đề mục nào đó trong bài học. Ví dụ: Khi lập Graph cho bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam”, (SGK Ngữ văn 10, tập một, chương trình chuẩn). Đỉnh xuất phát của Graph này chính là Khái quát VHDG Việt Nam Sơ đồ 2.2 Đỉnh chính: Là những đỉnh gắn trực tiếp và bắt nguồn từ đỉnh xuất phát, nêu tên các đơn vị kiến thức trọng tâm của bài học. Khi lập Graph cho toàn bài, thì mỗi đơn vị kiến thức sẽ có một đỉnh chính tương ứng. Chẳng hạn trong bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam” sẽ có ba đỉnh chính đó là: Đặc trưng cơ bản Hệ thống thể loại Những giá trị cơ bản Sơ đồ 2.3 Đỉnh phụ: Là đỉnh được bắt nguồn từ đỉnh chính chứ không phải là từ đỉnh xuất phát. Những đỉnh này sẽ cụ thể hóa, chi tiết hóa, bổ sung và làm rõ hơn những nội dung trọng tâm của bài học đã được nêu ở đỉnh chính. Trong Graph, có thể tất cả các đỉnh chính đều có đỉnh phụ, nhưng cũng có thể chỉ có một hoặc hai đỉnh chính có các đỉnh phụ, còn các đỉnh khác thì không có. Số lượng đỉnh phụ phụ thuộc vào nội dung kiến thức của mỗi bài học. Ví dụ:Trong ba đỉnh chính của bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam” có các đỉnh phụ sau: Tính truyền miệng Đặc trưng cơ bản Tính tập thể Thần thoại Sử thi Truyền thuyết Truyện cổ tích Ngụ ngôn Hệ thống thể loại
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2