intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Vận dụng kĩ thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử lớp 10

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

44
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Làm cho tiết học bớt khô khan, nặng nề mà trở nên nhẹ nhàng hấp dẫn và hiệu quả. Giúp cho học sinh hứng thú, ham thích môn lịch sử. Rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cơ bản của bộ môn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Vận dụng kĩ thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử lớp 10

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu 1. 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay cuộc sống đang thay đổi và tiến lên từng giờ. Đó là sự  phát   triển như  vũ bão của khoa học kỹ  thuật, của nền văn minh tin học, sự  phát   triển của nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ.  Đây là cơ hội và cũng là thách thức đối với đất nước ta. Trong khi đó chúng ta  đang gặp nhiều khó khăn trở ngại do chất lượng và hiệu quả  giáo dục – đào   tạo còn đang thấp hơn so với yêu cầu của sự phát triển đó. Mặt khác, trong xu thế hội nhập với thế giới, bên cạnh những nền văn   hoá tiến bộ, có rất nhiều mảng văn hoá đen vẫn còn len lỏi và dễ  dàng lan  nhanh trong giới trẻ. Điều đó dẫn đến bản sắc dân tộc đang dần mất đi, mà  nhiều người Việt Nam lại đang quên đi nguồn gốc, lịch sử  dân tộc. Vì vậy,   một trong  những vấn đề  trọng tâm của nước ta là đầu tư  phát triển nhân tố  con người, tức là đầu tư  cho giáo dục và đào tạo để  tạo ra những con người  Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và  nghề  nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội,  hình thành nhân cách và phẩm chất năng lực của công dân, nhất là bản lĩnh  văn hoá vững vàng trước sự  hội nhập. Môn lịch sử  có vai trò không nhỏ  góp  phần thực hiện nhiệm vụ trên. Có thể  nói học môn lịch sử  ngoài việc để  “ cho tường gốc tích nước   nhà Việt Nam” thì lịch sử còn cung cấp cho học sinh nhiều kĩ năng quan trọng   khác như: phân tích, đánh giá, nhận xét, tổng hợp đánh giá quá khứ  hiện tại,  tương lai một cách đúng đắn phù hợp với thời cuộc. Nhưng thực tế hiện nay   cho thấy chất lượng học môn lịch sử của học sinh các trường THPT nói riêng,  các cấp học nói chung còn nhiều  điều  đáng bàn,  đặc biệt là  ở  miền núi.  Những năm gần đây kết quả thi tốt nghiệp THPT và xét đại học môn lịch sử 
  2. quá thấp đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề: Tại sao lại như  vậy? làm cách   nào để khắc phục tình trạng này?  Về phía học sinh, các em không thích học môn lịch sử vì cho rằng đó là  môn phụ, không quan trọng lại có quá nhiều mốc thời gian và sự  kiện khô  khan, khó nhớ. Vì vậy các em không hứng thú trong học tập môn này, hoặc   chỉ học qua loa đối phó. Vậy phải làm sao để thu hút được học sinh có hứng   thú và chuyên tâm hơn trong học môn lịch sử? Xuất phát từ  thực tế  đó, tôi mạnh dạn lựa chọn đề  tài “Vận dụng kĩ  thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử lớp 10 ”. Qua thời gian thực hành và  thấy có hiệu quả, vì vậy tôi nêu ra để đồng nghiệp cùng tham khảo. 1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu  Để thực hiện tổt đề tài,  sáng kiến kinh nghiệm đã thực hiện các nhiệm   vụ  ­ Nghiên cứu các tài liệu về  phương pháp dạy học lịch sử. tài liệu gây hứng  thú trong dạy học lịch sử.  ­ Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp.., rút kinh nghiệm giờ dạy  ­ Tìm hiểu các trò chơi kiến thức trên truyền hình: Theo dòng lịch sử, Đường  lên đỉnh Olimpia... ­ Sách giáo khoa, sách giáo viên lịch sử lớp 10. ­ Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh để  điều chỉnh và bổ  sung   hợp lí. 1.3.  Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu  a. Đối tượng. Học sinh cả  khối 10 nói chung nhưng chủ  yếu là học sinh các lớp xã  hội b. Phạm vi và thời gian nghiên cứu . Sáng kiến kinh nghiệm sử  dụng các kiến thức trong chương trình lịch  sử lớp 10 ban cơ bản.
  3. Thời gian nghiên cứu trong 1 năm học 2018­ 2019 1.4. Mục đích nghiên cứu Làm cho tiết học bớt khô khan, nặng nề mà trở nên nhẹ nhàng hấp dẫn   và hiệu quả. Giúp cho học sinh hứng thú, ham thích môn lịch sử. Rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cơ bản của bộ môn. 2. Tên sáng kiến Vận dụng kĩ thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử lớp 10 3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Hoàng Thị Duyên  ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Đồng Đậu, huyện Yên Lạc ­ Số điện thoại:0975695415Email:  hoangthiduyen.c3dongdau@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến Hoàng Thị Duyên giáo viên Trường THPT Đồng Đậu, huyện Yên Lạc, tỉnh  Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến  ­ Sáng kiến có thể được sử  dụng để  xây dựng giáo án dạy học theo phương  pháp đổi mới dạy và học, lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tích tích cực  chủ động sáng tạo để chiếm lĩnh kiến thức trong môn Lịch sử.  ­ Khi xây dựng sáng kiến vận dụng kĩ thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử + Giáo viên: Chủ động sử  dụng phương pháp dạy học mới. Giáo viên tự xây  dựng nội dung phù trình độ nhận thức của từng lớp từ đó phát huy khả  năng  sáng tạo của giáo viên. + Học sinh: Hiểu, lý giải, xâu chuỗi tìm ra các mối quan hệ, tác động,  ảnh   hưởng của các nội dung ; tăng cường khả  năng vận dụng các kiến thức đã   học vào giải quyết những vấn đề  khác trong học tập và thực tiễn. Tâm lí  thoải mái cho học sinh trong các buổi học, các em được chủ  động làm việc 
  4. trong các giờ học. Thông qua hoạt động trao đổi giữa các học sinh rèn luyện  cho các em kĩ năng hợp tác trong giải quyết các vấn đề. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử Sáng kiến được chúng tôi áp dụng từ  tháng 9 năm 2018   tại trường   THPT 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài a. Thuận lợi. ­ Tình hình chung về giảng dạy môn lịch sử ở trường: Đội ngũ giáo viên trẻ,  khoẻ, nhiệt tình, tận tâm trong giảng dạy. Có những giáo viên có kinh nghiệm  nên thông qua công tác dự  giờ, thao giảng đã đóng góp ý kiến giúp cho bản  thân rút nhiều kinh nghiệm quý báu để vận dụng khi lên lớp. ­ Tình hình trường lớp, học sinh: Đa số  học sinh chăm ngoan, lễ  phép, vâng lời thầy cô. bên cạnh đó học  sinh cũng được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, các sách bài tập lịch sử... Nhà trường   xây dựng đầy đủ  thư  viện điện tử  và sách tham khảo để  phục vụ cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh. ­ Ưu điểm khi sử dụng kĩ thuật kể chuyện trong dạy học lịch sử:  Giáo viên có thể sưu tầm các câu chuyện, các giai thoại lịch sử từ các  cuốn truyện, từ  nguồn tư  liệu của thư  viện nhà truờng để  sử  dụng cho bài  dạy thêm phong phú, sinh động, tiết học trở nên hấp dẫn   b. Khó khăn khi thực hiện đề tài:    ­ Về  phía giáo viên: mặc dù đã cải cách chương trình giảng dạy   nhưng vẫn còn một số bài quá dàn trải dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức   đối với cả giáo viên truyền thụ lẫn việc lĩnh hội kiến thức của học sinh. Giáo  viên phải dành nhiều thời gian nghiên cứu chắt lọc những kiến thức trọng   tâm dể bài dạy có hiệu quả. Ngoài ra giáo viên phải dành nhiều thời gian để  sưu tầm các câu chuyện lịch sử liên quan đến bài dạy.
  5. ­ Về  phía học sinh: Nhiều học sinh coi môn lịch sử  là môn học phụ,  môt số  khác chỉ  học để  xét tốt nghiệp THPT nên chưa có hứng thú, sự  yêu  thích, tập trung đối với môn học. Đa số  các em vẫn còn thói quen học vẹt, không nắm sâu được kiến   thức vì vậy sẽ  mau quên kiến thức cũ, hoặc có nhớ  thì cũng không thực sự  chính xác các sự kiện lịch sử. 7.2. Giải pháp và tổ chức thực hiện lồng ghép kể chuyện lịch sử. 7.2.1. Kĩ thuật kể chuyện trong giờ học lịch sử Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của giáo   viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều  khiển quá trình dạy học. Các kĩ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ  nhất của  phương pháp dạy học. Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ  thuật dạy  học có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của học sinh   vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự  cộng tác làm việc  của học sinh. Kĩ thuật kể  chuyện được sử  dụng trong dạy học nói chung và trong  dạy học lịch sử nói riêng. Bằng việc dùng lời nói kết hợp hình ảnh để diễn tả  một cách sinh động, hấp dẫn về một câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Câu  chuyện được kể trong giờ học lịch sử có liên quan đến những mảnh sự kiện,   biến cố  lịch sử, nhân vật lịch sử  hoặc để  giải thích cho một cái tên, một địa   danh, một khái niệm, một thuật ngữ có liên quan đến nội dung bài học. Mỗi sự kiện, nhân vật, địa danh đều có ý nghĩa riêng về mặt ngôn ngữ,  văn hóa lịch sử. Việc ghi nhớ  chúng theo những câu chuyện thú vị  đi kèm,  giúp học sinh nhớ dữ liệu không phải bằng cách "học thuộc" mà là nhận thức  giá trị của chúng. Giáo viên sử dụng kĩ thuật kể chuyện không đơn thuần là để minh hoạ  mà còn để  cụ  thể  hoá kiến thức, tái hiện nội dung kiến thức để  tạo biểu   tượng lịch sử, rút ra bài học lịch sử. Việc lồng ghép kể  các câu chuyện, các 
  6. giai thoại lịch sử trong bài dạy sẽ được học sinh có thêm cơ sở để nắm vững  bản chất sự kiện, ghi nhớ sự kiện, có ấn tượng mạnh và ngưỡng mộ về nhân  vật. Qua đó, thực hiện tốt việc giáo dục tư  tưởng, tình cảm, đạo đức, hình   thành thói quen tư duy, ghi nhớ sự kiện thông qua việc liên tưởng tới các câu   chuyện được kể, khắc sâu hơn nội dung lịch sử, vấn đề lịch sử. Từ đó, mang  lại hiệu quả rõ rệt cho giờ học lịch sử  7.2.2. Những nguyên tắc cần tuân thủ  trong sử  dụng câu chuyện, giai   thoại lịch sử trong dạy học lịch sử Để sử dụng các câu chuyện, các giai thoại lịch sử trong dạy học lịch sử  một cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hứng  thú học tập cho học sinh, đỏi hỏi giáo viên phải tuân thủ 1 một số nguyên tắc  sau: ­ Nguyên tắc đảm bảo tính cơ bản, khoa học. ­ Có nhiều giai thoại, nhiều câu chuyện lịch sử nhưng điều quan trọng   là giáo viên phải xác định đúng những câu chuyện có liên quan đến các sự  kiện mà bài học cần đáp ứng. ­ Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức. Nội dung câu chuyện đưa vào dạy học phải phù hợp với tâm lý lứa   tuổi, hoàn cảnh và trình độ  nhận thức của học sinh. Ngôn ngữ  phải trong  sáng, sễ hiểu, biểu cảm.... ­ Nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh. Giáo viên cần phải lựa chọn các câu chuyện lịch sử  cho phù hợp với   những kiến thức sự  kiện lịch sử  cơ bản, phục vụ  cho bài học để  từ  đó học   sinh hiểu sâu sắc bài học, kích thích sự ham học, khơi dậy nội lực của mình.   Giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện không đơn thuần là để minh hoạ  mà còn để  cụ  thể  hoá kiến thức, tái hiện nội dung kiến thức để  tạo biểu   tượng lịch sử, rút ra bài học lịch sử. Nên kể chuyện kèm theo tranh ảnh minh   họa để tăng sự hấp dẫn, lôi cuốn học sinh.
  7. 7.2.3. Nội dung kể chuyện có thể lồng ghép trong giờ học lịch sử lớp  7.2.3.1. Trong chương trình chính khoá Phần1: lịch sử thế giới nguyên thủy, cổ đại và trung đại Chương 1: Xã hội nguyên thủy Giáo viên giảng giải kết hợp với kể  chuyện chứng minh về  sự  xuất   hiện loài  người  theo quan  điểm duy vật biện chứng, sưu tầm những câu  chuyện về khảo cổ học với phương pháp khoa học hiện đại để  chứng minh   con người xuất phát từ loài vượn cổ qua di tích hóa thạch. Có thể liên hệ đến  Việt Nam và chứng minh Việt Nam là một trong những cái nôi của loài người  qua việc tìm thấy công cụ lao động của người tối cổ ở Thanh hóa . Chương 2: Các quốc gia cổ đại  Kể  chuyện liên quan đến các thành tựu văn hóa như  lịch sử, chữ  viết,  kiến trúc…, giáo viên kể  những câu chuyện liên quan về  kim tự  tháp  ở  Ai  Cập, Vạn lý trường thành ở  Trung Quốc, đấu trường La Mã…; kể  về  các vị  hoàng đế Pharaông và những kì quan thế giới. Từ đó, giúp học sinh hiểu được  những tài năng và sự sáng tạo của con người thời cổ đại. Bồi dưỡng lòng tự  hào về  truyền thống lịch sử  của các dân tộc phương Đông trong đó có Việt  Nam. Chương 3: Trung Quốc thời phong kiến Kể chuyện liên quan đến sự hình thành và phát triển chế độ phong kiến  Trung Quốc, từ khi nhà Tần sáng lập năm 221 TCN và kết thúc vào năm 1911  dưới triều đại Mãn Thanh, giáo viên sử dụng chuyện kể về quy luật thịnh suy   của chế độ phong kiến Trung Quốc thông qua các vị hoàng đế như Tần Thủy  Hoàng, Võ Tắc Thiên, Chu Nguyên Chương… hoặc về học thuyết Nho giáo  tồn tại hàng ngàn năm của Khổng Tử  và sự   ảnh hưởng của nó ra bên ngoài.  Sự xuất hiện và thành tựu của thơ Đường và tiểu thuyết Minh­ Thanh…Giúp  học sinh hiểu được những ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt   Nam
  8. Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến  Giáo viên có thể  sưu tầm các câu chuyện về  văn hóa truyền thống  Ấn  Độ: Sự  ra đời của chữ  viết, nguồn gốc và sự  phát triển của đạo Phật, đạo  Bàla môn,Đông Nam Á thời phong kiến, giúp học sinh hiểu được  Ấn Độ  là  một nước có nền văn minh lâu đời, phát triển cao, cùng với Trung Quốc có  ảnh hưởng sâu rộng ở châu Á và Thế giới. Chương 5: Đông Nam Á thời phong kiến Kể   chuyện   liên   quan   đến   sự   hình   thành   của   vương   quốc   Lào   và  Campuchia, về  văn hóa Đông Nam Á thời phong kiến. Thông qua việc tìm  hiểu quá trình phát triển của lịch sử, tính chất tương đồng về  địa lý­ lịch sử  văn hóa của khu vực và sự  gắn bó lâu đời của các dân tộc  ở  Đông Nam Á,   giáo dục học sinh tinh thần đoàn kết, hợp tác lẫn nhau giữa các dân tộc trong  khu vực. Chương 6: Tây Âu thời trung đại  Kể  chuyện giúp học sinh thấy được quá trình hình thành xã hội phong  kiến châu Âu, hiểu khái niệm “lãnh địa” và đặc trưng của kinh tế lãnh địa, sự  xuất hiện và vai trò của thành thị  trung đại. Về  các cuộc phát kiến địa lý và  hệ  quả  hay những thành tựu của văn hóa phục hưng. Thông qua các tư  liệu  lịch sử giáo dục cho học sinh tinh thần dũng cảm, khám phá cái mới, tinh thần  đoàn kết các dân tộc, giúp học sinh hiểu được giá trị  của lao động, căm ghét   bọn bóc lột. Giáo dục học sinh biết quý trọng các di sản văn hóa dân tộc trên  thế giới, đồng thời có các hiểu biết về văn hóa châu Âu  Phần 2: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX  Chương 1: Việt Nam từ thời nguyên thủy đến thế kỉ X. Giáo viên kể về các nền văn hóa cổ đại trên đất nước Việt Nam, những   nét chính về  đời sống vật chất và tinh thần của cư  dân Văn Lang­ Âu Lạc,   thời bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập. Sưu tầm các câu chuyện 
  9. về tấm gương của vị anh hùng dân tộc: Qua cuộc khởi ngnghĩa Hai Bà Trưng,   kết hợp với chuyện kể  đánh đuổi Tô Định trả  thù chồng đền nợ  nước, thể  hiện được tinh thần và khí tiết của người phụ nữ Việt Nam Về nội dung Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng,  giáo viên khắc sâu nghệ  thuật quân sự  độc đáo như  cho quân đóng cọc, lợi  dụng nước thủy triều để đánh giặc. Chương 2: Quá trình hình và phát triển của nhà nước thế kỉ X­XV Khái quát quá trình hình thành nhà nước phong kiến Việt Nam qua các  triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê. Thông qua chuyện về  các  nhân vật lịch như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn… giúp học sinh hiểu  rõ hơn về  giai đoạn lịch sử  này. Giáo viên cũng có thể  kể  chi tiết Thái hậu  Dương Vân Nga khoác áo long bào lên vai Lê Hoàn, chuyển giao quyền lực từ  nhà Đinh sang nhà Tiền Lê hoặc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là  Trần Cảnh. Giáo viên thông qua nội dung bài học về  các cuộc kháng chiến chống  ngoại xâm, kết hợp với nghệ  thuật đánh giặc, ý chí quyết tâm bảo vệ  đất  nước của Lý Thường Kiệt, Lê Lợi; đặc biệt, chuyện ba lần đánh bại quân   Mông nguyên, qua đó giáo dục lòng tự  hào dân tộc, truyền thống đấu tranh   chống giặc ngoại xâm, về những thành tựu văn hóa của dân tộc. Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII. Giáo viên kể chuyện về người anh hùng áo vải Quang Trung và phong  trào Tây Sơn, chuyện về  các thành tựu văn hóa thế  kỉ  XVI­ XVIII…qua đó,  giáo dục lòng yêu nước, đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ sự toàn vẹn của đất  nước. Tự hào về tinh thần đấu tranh của người nông dân Việt Nam. Chương 4: Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX. Giáo viên giúp học sinh hiểu tình hình chung về các mặt chính trị, kinh   tế, văn hóa  ở  nước ta nửa đầu thế  kỉ  XIX dưới vương triều Nguyễn thông  qua các tư liệu lịch sử. Phần 3: Lịch sử thế giới cận đại
  10. Chương 1: Các cuộc cách mạng tư sản. Tư  liệu về  lịch sử  nước Mĩ, vì sao mà Mĩ làm cách mệnh, kể  chuyện   về  nhân vật Oasinhtơn người chỉ  huy cuộc đấu tranh giành độc lập của 13  bang thuộc địa Anh ở Bắc mĩ, góp phần khai sinh ra nước Mỹ Rôbexpie­ linh hồn của cách mạng tư sản Pháp. Giúp học sinh có những nhận thức đúng về  mặt tích cực và hạn chế  của Cách mạng tư  sản. Biết trân trọng những quan điểm tiến bộ  của Triết   học ánh sáng trong cuộc tấn công vào thành trì phong kiến, dọn đường cho  cách mạng bùng nổ, về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng. Chương 2: Các nước Âu­ Mĩ từ đầu thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX. Giáo viên có thể  kể  về  sự  ra đời của máy hơi nước, đầu máy xe lửa,  tàu thủy Phơn­tơn, về công cuộc thống nhất Đức, Ý, về Bi­xmac, Ga­đi­ban­ đi, …về các thành tựu của khoa học­ kĩ thuật cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX  và vai trò của nó đối với sự phát triển của lịch sử. 7.2.3.2. Một số  hình thức kể  chuyện lịch sử  trong chương trình ngoại   khoá.  Trong bài ngoại khóa môn lịch sử, giáo viên có thể  tổ  chức một  buổi tham quan học tập  ở  bảo tàng lịch sử  đối với học sinh  ở  các trung tâm  thành phố. Đối với học sinh các trường do điều kiện về kinh tế, về địa lý gặp   nhiều khó khăn, giáo viên có thể tổ chức một bài ngoại khóa với hình thức kể  chuyện lịch sử về một nội dung, sự kiện, vấn đề hoặc nhân vật lịch sử. * Thứ nhất: sử dụng các câu chuyện, các giai thoại lịch sử để tạo biểu tượng   về nhân vật lịch sử. Đi cùng với các sự  kiện lịch sử  thường gắn với 1 nhân vật lịch sử  cụ  thể. Những anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,   Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ… Những nhân vật này có vai trò rất lớn với lịch  sử  dân tộc do vậy trong dạy học giáo viên không thể  lướt qua, bỏ  qua mà   phải khắc hoạ, tạo biểu tượng về các nhân vật đó, sử dụng phương pháp kể 
  11. chuyện có tác dụng tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử  một cách sinh động,  đậm nét từ đó giáo dục học sinh kính trọng, noi gương các anh hùng dân tộc. Giáo viên có thể kể chuyện kết hợp với tranh  ảnh để  tạo biểu tượng.  Trong bài nội khoá do thời gian có hạn giáo viên tạo biểu tượng về những nét  chính, tiêu biểu đủ để khắc hoạ nên nhân vật đó.  Ví dụ 1: giáo viên tạo biểu tượng về Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo (? ­ 20 tháng 8,năm 1300), còn được gọi là Hưng Đạo  đại vương hay Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương, là một nhà chính trị, quân sự,  tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử  Việt  Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên­  Mông năm 1285 và năm 1288.  Ví dụ 2: Tạo biểu tượng về Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Lê Lợi là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã thành lập  một đội quân người Việt và lãnh đạo đội quân này chiến đấu chống lại sự  chiếm đóng của quân đội nhà Minh (Trung Quốc) từ  năm 1418 cho đến lúc  đánh đuổi hoàn toàn quân Minh ra khỏi Đại Việt vào năm 1428. Ông cũng  thành công với các chiến dịch quân sự đánh dẹp các tù trưởng ở biên giới phía  Bắc Đại   Việt và   quân   đội Ai   Lao.   Ông   là Vua của   nước Đại   Việt từ  năm 1428 cho tới năm 1433. Ông được coi là vị vua huyền thoại của Đại Việt  với tài năng quân sự, khả năng cai trị và lòng nhân ái đối với cả kẻ thù * Thứ hai: Sử dụng các giai thoại lịch sử để  giải thích từ đó rút ra bản chất   một sự kiện, một hiện tượng lịch sử. Để  cho học sinh nắm được bản chất của sự  kiện, hiện tượng lịch sử  tức là trả lời được câu hỏi vì sao thì giáo viên sử  dụng các mẩu chuyện, các   giai thoại lịch sử rồi từ đó nêu tình huống có vấn đề. Ví dụ1: Kể chuyện về đời sống của bầy người nguyên thủy 
  12. Bầy người nguyên thủy Bầy người nguyên thủy là tập hợp một nhóm người từ  5 đến 7 gia  đình. Mỗi gia đình có đôi vợ  chồng và con nhỏ  chiếm một góc lều hay góc   hang. Bấy giờ  chưa có những quy định xã hội nên người ta gọi những hợp   quần xã hội đầu tiên này là “ bầy người nguyên thủy”. Bầy người nguyên   thủy có người đứng đầu, có phân công lao động giữa nam và nữ, cùng chăm  sóc con cái. Họ vẫn còn sống trong tình trạng “ăn lông ở lỗ”­ một cuộc sống  tự nhiên, bấp bênh triền miên hàng triệu năm. Giáo viên có thể kết hợp lời nói  kể về việc con người phát hiện ra lửa( từ các vụ cháy rừng hoặc núi lửa phun   trào, con người biết dùng lửa để sưởi ấm và nướng chín thức ăn), sau đó biết   giữ  lửa, tạo ra lửa bằng cách cọ  xát hai hòn đá vào nhau. Sự  xuất hiện của  lửa đã thể hiện bước tiến lớn trong đời sống bầy người nguyên thủy.  Có nhiều hình thức tổ chức ngoại khóa, trong đó, kể chuyện lịch sử là   một hình thức ngoại khóa hấp dẫn, dễ làm và có hiệu quả giáo dục cao. Giáo   viên có thể cho học sinh chọn các chủ đề hoặc vấn đề mình yêu thích, sau đó   chuẩn bị theo nhóm rồi trình bày trước lớp. Kể chuyện lịch sử không phải là thông báo khô khan, kể chuyện lịch sử  phải đưa người nghe sống lại quá khứ, như  đang được chứng kiến tận mắt.  Để  làm được điều này trước hết học sinh phải chuẩn bị  kỹ  càng, phải đọc 
  13. thuộc truyện, kể không những khúc chiết, rõ ràng tái hiện lại được nội dung  sự kiện lịch sử mà còn cuốn hút, hấp dẫn người nghe. Có nhiều cuốn sách trong đó có nhiều câu chuyện lịch sử liên quan đến   các bài học. Đó là các tác phẩm : Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, viết về  các nhân vận lịch sử, các công trình văn hoá nổi tiếng thế giới như công trình  vườn treo Ba­Bi­lon, cung A phòng, khu lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng…các trang  Web về lịch sử, học sinh có thể tham khảo. Ví dụ  2: Bài 20­ lịch sử  lớp 10: “ Xây dựng và phát triển văn hoá   dân tộc trong các thế kỷ X­ XV”. Để  học sinh hiểu được vì sao thời Lý phật  giáo được coi là quốc giáo. Giáo viên kể câu chuyện sau:     “ Lý Công Uẩn người làng Cổ  Pháp ( Từ  Sơn­ Bắc Ninh) sinh năm  Giáp Tuất ( 974), là con nuôi của thiền sư  Lý Khánh Văn từ  năm 3 tuổi và   truyền thuyết vẫn cho rằng ông là con ruột của Vạn Hạnh, anh ruột Khánh  Văn.   Cũng theo truyền thuyết bố  Lý Công Uẩn nhà nghèo đi làm ruộng  ở  chùa Tiên Sơn (An Phong, Bắc Ninh) phải lòng một tiểu nữ  rồi làm nàng có  thai, bị nhà sư đuổi đi nơi khác.    Hai vợi chồng đi đến rừng Báng, dừng lại nghỉ. Người chồng khát  nước đến chỗ  giếng nước giữa rừng uống chẳng may xảy chân ngã chết  đuối. Vợ  chờ  lâu không thấy đến xem thì đất đã đùn lấp giếng. Người phụ  nữ xin vào ngủ nhờ ờ Chùa Ứng Tầm gần đấy. Sư trụ trì chùa Ứng Tâm đêm  trước nằm mơ  thấy Long thần về  báo mọng rằng “Ngày mai dọn chùa cho   sạch có Hoàng đế đến”. Tỉnh dậy nhà sư sai chú Tiểu quét dọn chùa sạch sẽ.  Khi đó chỉ có người đàn bà mang thai đến. Đêm đấy bỗng nhà chúa phát sáng,   hương thơm toả  ra ngào ngạt, sư  trụ  trì dạy xem thì người đàn bà đã sinh   được 1 cậu con trai, 2 bàn tay có 4 chữ “Sơn hà xã tắc”. Sau đó trời bỗng nổi   trận mưa to, gió lớn, người mẹ saukhi sinh chú bé thì chết và chú bé được nhà  chùa nuôi nấng, khi chú bé được 8, 9 tuổi được theo học sư  Vạn Hạnh  ở  Chùa Tiên Sơn. Chú bé đó là Lý Công Uẩn.
  14. Vốn thông minh bẩm sinh, lại được nhập thân văn hoá ở 1 đất vùng văn  minh, văn hiến, lại được sự dậy dỗ của vị cao tăng xuất chúng, Lý Công Uẩn  thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng Triều Lý làm rạng danh  nước Đại Việt.  Tóm lại trên đây là một số  phương pháp lồng ghép kể  chuyện lịch sử  trong dạy học lịch sử chúng tôi đưa ra nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng  cao hiệu quả bài học, truyền đạt kiến thức mới. Trong quá trình vận dụng đòi  hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện  cụ thể của từng lớp học, tiết học.... 7.2.4. Một số  câu chuyện, giai thoại lịch sử sử  dụng trong dạy học lịch   sử lớp 10 Trên cơ sở xác định nội dung cơ bản của bài, của chương và nguồn   giai thoại lịch sử, chuyện kể lịch sử thu thập được chúng tôi chọn lọc một số  mẩu chuyện, giai thoại phù hợp với kiến thức cơ bản với nội dung bài dạy đã   xác định. Bài 3­ Lịch sử  lớp 10: “Các quốc gia cổ  đại phương Đông”  giáo   viên kể câu chuyện: người Ai Cập cổ đã xây dựng Kim tự tháp như thế nào?
  15. Kim tự tháp­ Ai Cập (nguồn: Google ) Trong số  67 Kim tự tháp còn lại  ở Ai Cập thì Kim tự  tháp Khê­ốp  là  Kim tự tháp lớn nhất ( Mỗi cạnh đáy dài 232m, bốn mặt hình tam giác cân,  đỉnh chóp nhọn cao 146,6m. Thể tích của Kim tự tháp là 2,5 triệu mét khối đá   và có trọng lượng khoảng 6,5 triệu tấn), chúng ta thử  xem người Ai Cập cổ  đã xây dựng nó như thế nào? Công việc đầu tiên là phải đến những dãy núi ở  giáp Hồng Hải, thậm chí phải sang cả  bên bán đảo A Rập để  khai thác đá.  Tiếp đó, những đoàn người khác đến làm đường, sau đó lại có những người   đến vận chuyển những khối đá lớn đó đến sông Nin, rồi đi tiếp đến vùng xây   Kim tự  tháp. Công việc đó phải sử  dụng đến hàng vạn lao động, chia thành  từng tốp, mỗi tốp ba tháng trong vòng 10 năm trời. Vì chưa có những công cụ  và phương tiện hỗ  trợ  nên có thể  họ  đã dùng những phương pháp sau: Xây  dựng những con đường dốc bằng gạch và cát, hoặc những sàn ván bằng xà  gỗ ngắn đặt nghiêng, chạy vòng xung quanh tháp. Sau đó, người ta đặt những  tảng đá lên mặt dốc và buộc dây kéo đi bằng cách cho trượt trên những tấm   gỗ lớn. Sau khi xong một tầng, người ta lại làm đường dốc cao lên cho ngang  tầng mới và kéo đá lên tầng trên. Và cứ  như  thế  cho đến khi lên đỉnh nhọn,   cuối cùng người ta dỡ dần đường dốc từ tầng trên xuống tầng dưới và lớp đá  bọc ở  bên ngoài. Hai triệu tảng đá, mỗi tảng nặng hàng tấn đã được kéo lên  như thế. Kim tự  tháp không phải là khối đá đặc mà bên trong còn có hành   lang, đường hầm, giếng sâu, phòng chứa quan tài, buồng để đồ đạc…Cửa vào  Kim tự  tháp Khê­ốp hướng về  phương Bắc, không sát liền mặt đất, mà  ở  cách mặt đất 17,42m. Cửa bị bịt kín sau khi đưa quan tài của nhà vua vào lăng   mộ, qua cửa đến một hành lang tối và hẹp, rộng gần 1m, cao khoảng 1,5m.   càng đi vào trong càng nhằng nhịt, đi lên, đi xuống, có đoạn đường dẫn đến  một cái giếng sâu, có đoạn bị tắc bởi bức tường đá.
  16.     Bài 4 ­ Lịch sử lớp 10: “Các quốc gia cổ đại phương tây Hy lạp và   Rô ma” để cho học sinh biết về nhà khoa học vật lý nổi tiếng là Ác ­ si ­ mét.   Giáo viên kể đoạn chuyện sau:      “Ác ­ si ­ mét (287­212 TCN) quê  ở  Xi­ra­ quy­ dơ, một thành bang  Hy Lạp  ở  đảo Xi rin. Tương truyền rằng vua của thành bang Xi­ ra­ quy dơ  có một cái vương miện làm bằng vàng, ông nghi ngờ  người thợ  kim hoàn   được giao làm mũ ăn bớt vàng nhưng không làm cách nào để biết được. Một  hôm nhà vua gọi Ác – si – mét  đến và hỏi có thể biết được tỷ lệ vàng ở trong   mũ không ?. Lúc đó Ác ­ si ­ mét chưa trả lời được, nhưng sau đó nhờ một lần   tắm trong bể nước, ông đã phát minh được nguyên lý quan trọng về thuỷ lực   đó là: tất cả mọi vật thả xuống nước đều phải chịu một lực đẩy từ dưới lên   trên bằng trọng lượng nước phải chuyển đi, ông đã giải được bài toán của   nhà vua. Vui mừng về phát minh đó, từ trong bồn tắm không mặc quần áo ông  chạy ra phố và kêu to: “ ơ rê ca! ơ rê ca!. Nghĩa là “ Ta đã tìm ra rồi “ trong sự  cười trêu của người dân. Sau đó ông đem vương miện  thả xuống bồn nước   đầy rồi đong lượng nước tràn ra, nhờ  đó nhà vua biết được số  vàng đã bị  ăn  bớt. Một lần Ác ­ si ­ mét đã nói một câu “hãy cho tôi một điểm tựa  chắc chắn tôi sẽ cất cả quả đất lên”. Nhà vua vô cùng tức giận cho rằng ông   là kẻ  kiêu ngạo khoác lác. Nhà vua liền thách Ác ­ si ­ mét hãy làm cho con   thuyền lớn vừa mới đóng xong có thể  xuống được mặt nước. Nếu không   thực hiện được sẽ  chịu tội chết. Ác ­ si ­ mét nhận lời, ông đã dùng gỗ  đặt  các điểm tựa, rồi dùng ròng rọc cùng đòn bẩy. Sau đó một mình ông đã từ từ  nâng đòn băy lên và con thuyền từ trên bãi cát đã trượt xuống mặt biển trong   tiếng hò reo tán thưởng của người dân. Nhà vua vô cùng khâm phục và kính  trọng Ác ­ si – mét.      Ác ­ si ­ mét còn phát minh ra máy ném đá, gương 6 mặt để  đốt   thuyền địch khi đất nước có chiến tranh.
  17.   Khi đất nước ông bị quân La Mã tàn phá, quân giặc xông vào bắt ông  khi ông đang vẽ  một đồ  án khoa học. Trước khi bị  sát hại ông đã quát quân  giặc:” Chúng mày muốn làm gì thì làm nhưng không được phá đồ án của tao”.  Bọn giặc ngu dốt đã đâm chết ông. Acsimet ( nguồn : Google) Ví dụ: Bài 5 – Lịch sử  lớp 10:  “Trung Quốc thời phong kiến”, phần 1  “Sự hình thành nhà Tần – Hán”. Để học sinh hiểu vị vua có công thống nhất  Trung Quốc nhưng khét tiếng tàn bạo là Tần Thuỷ Hoàng. Giáo viên kể đoạn  truyện về Tần Thủy Hoàng
  18. Tần Thủy Hoàng và công cuộc thống nhất Trung Quốc ( nguồn : Google) “ Sau khi tiêu diệt 6 nước thời Chiến quốc và thống nhất Trung Quốc  (221 tr. CN), Tần Vương Chính bỏ  danh hiệu “Vương” và thay bằng thay   danh hiệu “Hoàng Đế” và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế Trung ương  tập quyền. Tần thuỷ  hoàng thi hành đường lối pháp trị  “mọi việc đều dùng   pháp luật để quyết định không dùng nhân đức, ân nghĩa” để  cai trị  nhân dân.   Ông ta còn thích chém giết để  ra uy, chẳng hạn hai nhà nho Hầu Sinh và Lư  Sinh được Tần Thuỷ  Hoàng giao cho nhiệm vụ  đi tìm thuốc trường sinh bất  lão, hai người này đã lên án sự  chuyên quyền của y và bỏ  trốn. Tần Thuỷ  Hoàng sai tra xét tất cả  các nhà nho. Kết quả  460 người bị  phát giác phạm  điều cấm, bị  đưa ra chôn sống  ở  Hàm Dương. Có lần một vẫn thạch rơi  xuống  ở  Đông Quận, có người khắc lên hòn đá mấy chữ  “Thuỷ  hoàng đế  chết thì đất bị chia”, Tần Thuỷ Hoàng cho tra hỏi nhưng không ai chịu nhận, y   đã cho sai bắt tất cả những người ở gần đấy giết đi và đốt cháy hòn đá.  Sự  thống trị  tàn bạo của Tần Thuỷ  Hoàng đã làm cho cả  xã hội căm  phẫn. Do đó mặc dù được bảo vệ nghiêm ngặt nhưng hai lần bị ám sát hụt. Bài 6: Các quốc gia  Ấn và văn hóa truyền thống  Ấn Độ, giáo viên kể   câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật Thích ca. Theo truyền thuyết, Đức phật Thích ca có tới 547 tiền kiếp trước khi   đầu thai làm con vua Suddhodama của Vương tộc Sakya. Mẫu thân của Ngài 
  19. là hoàng hậu Maya, một người phụ  nữ  rất đẹp thông minh và hiền hậu., đã  nằm mơ thấy con voi trắng sáu ngà đi vào mạn sườn bên phải của bà, sau đó  hoài thai sinh ra hoàng tử  mất, Hoàng tử Sít đac­ta Gô­ta­ma được giao cho bà  dì nuôi nấng. Hoàng tử  được dạy dỗ  chu đáo, được học tập mọi kiến thức   khoa học. Hoàng tử  tỏ  ra có một trí tuệ  thiên bẩm phi thường, nhưng đồng  thời cũng có tấm lòng thương cảm sâu xa đối với chúng sinh. Để ngăn hoàng  tử  không nghĩ đến việc tu hành, Đức vua đã bố  trí cho ngài sống trong cảnh  vương giả   vô cùng xa hoa lộng lẫy. Khi Sít­đác­ta 16 tuổi, người đã lấy cô  em họ của mình là công chúa Yasodara cũng vừa tròn 16 tuổi làm vợ.  Mặc dù sống trong cảnh nhung lụa, được  mọi người chiều chuộng   nhưng Sít­đác­ta vẫn không ngừng suy tư về cuộc đời trần thế. Trong những   lần ra ngoài thành Ngài đã lần lượt chứng kiến cảnh khổ   ải của đời người   qua hình ảnh một người già, một người ốm và một người chết. Khi về cung,  Sít­đác­ta được tin Hoàng phi mới sinh con trai nhưng chẳng những người   không thấy vui mà lại càng băn khoăn lo nghĩ về  khiếp luân hồi: sinh, lão,   bệnh, tử. Lại một lần nữa, Hoàng tử  nhìn thấy một tu sĩ khất thực, dáng vẻ  bần hàn nhưng lại ung dung, tự  tại. Hoàng tử  như  bừng tỉnh và quyết tâm   xuất gia tìm đạo, mong tìm con đường cứu vớt con người thoát khỏi những  trầm luân đau khổ của khiếp luân hồi. Ngay sau hôm đứa con ra đời, vào khoảng nửa đêm, khi mọi người đã  ngủ say, Hoàng tử lặng lẽ nhìn con và vợ lần cuối, rồi đánh thức người đánh  xe dậy, cùng mình cưỡi con ngựa Canthana yêu quý, rời khỏi hoàng cung. Khi   đã ra ngoài thành, Sít­đác­ta trút bỏ bộ y phục hoàng tộc, mặc bộ quần áo của  người tu hành, dùng kiếm cắt mớ  tóc dài của mình, rồi giao mớ  tóc và bộ  quần áo hoàng tộc cho người đánh xe đem về trao cho Đức vua cha. Con ngựa  Canthana vì đau khổ phải chia tay với ông chủ của nó đã lăn ra chết ngay tại   chỗ.  Từ  đây, Sít­đác­ta trở  thành đạo sĩ Gô­ta­ma, hay vi hiền triết Sakya   ( tức Thích ca Mâu Ni). Lúc đầu, Gô­ta­ma đã đi qua nhiều nơi, tìm gặp nhiều 
  20. thầy học đạo. Sau đó, Ngài đã cùng 5 người đạo sĩ khổ hạnh thực hành phép   tu ép xác trong suốt 6 năm trời. Mỗi ngày đạo sĩ Gô­ta­ma chỉ  ăn một nhúm   cơm, một chút vừng, thân thể  của Ngài ngày càng khô héo, chỉ  còn da bọc   xương, đầu óc choáng váng, tóc rụng đầy người, mà vẫn không tìm được   chân lý giải thoát. Ngài quyết định thay đổi đường lối tu hành, trở lại ăn uống  bình thường. Năm người bạn cùng tu hành khổ hạnh cho là Ngài đã xa rời đạo   lý, bèn bỏ Ngài ra đi. Một hôm đạo sĩ Gô­ta­ma đến ngồi dưới gốc cây bồ  đề   ở  ngoại vi  thành phố  Gaia, thuộc vương quốc Magadha. Sau khi nhận bố  thí một bát  cháo sữa do một cô gái chăn bò dâng biếu, Ngài xuống sông tắm gội sạch sẽ,   trong lòng cảm thấy khoan khoái. Ngài trở  lại ngồi thiền định dưới gốc cây  bồ  đề  và nguyện sẽ  không đứng dậy nếu không tìm thấy đạo. Màn đêm  buông xuống, quỷ Marat và đồng bọn đã hiện ra, dùng trăm phương ngàn kế  để bức hại và quyến rũ đạo sĩ, nhưng đều không làm lay chuyển được Gô­ta­ ma. Đạo sĩ tiếp tục ngồi thiền định suốt đêm, trí óc ngày càng trở  nên sáng   suốt, đến canh cuối cùng của đêm đó, Gô­ta­ma đã tìm ra chân lí “ tứ  diệu  đế”, thấy được nguyên nhân của nỗi khổ  trần thế  và phương cách diệt trừ  nỗi khổ. Bình minh ló rạng, chim chóc ca vang, đạo sĩ Gô­ta­ma đã đắc đạo,  trở thành Đức Phật Thích Ca, lúc này Ngài 35 tuổi. Bài 11:  Tây Âu thời hậu kì trung đại, giáo viên có thể  kể  câu chuyện   về chuyến hành trình vòng quanh thế giới của Magienlan.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2