intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

So sánh hiệu quả phương pháp tê tại chỗ và tê tủy sống trong phẫu thuật thoát vị bẹn

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

63
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này nhằm so sánh hiệu quả 2 phương pháp vô cảm trong phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn: Tê tại chỗ và tê tủy sống. Nghiên cứu tiến hành trên các bệnh nhân thoát vị bẹn được mổ tái tạo thành bẹn theo phương pháp Bassini, hoặc Lichteinstein tại bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 9/2006 đến 5/2007 được phân bố vào một trong hai nhóm: tê tại chỗ hay tê tủy sống. Dùng bupivacain 0,25% để tê tại chỗ, có tiền mê bằng midazolam 2 ml.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: So sánh hiệu quả phương pháp tê tại chỗ và tê tủy sống trong phẫu thuật thoát vị bẹn

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> SO SÁNH HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP TÊ TẠI CHỖ VÀ TÊ TỦY SỐNG<br /> TRONG PHẪU THUẬT THOÁT VỊ BẸN<br /> Phan Thanh Tuấn*, Đỗ Đình Công**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: so sánh hiệu quả 2 phương pháp vô cảm trong phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn: tê tại chỗ và tê tủy sống.<br /> Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Bao gồm các bệnh nhân thoát vị bẹn được mổ tái tạo thành<br /> bẹn theo phương pháp Bassini, hoặc Lichteinstein tại bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 9/2006 đến 5/2007 được phân<br /> bố vào một trong hai nhóm: tê tại chỗ hay tê tủy sống. Dùng bupivacain 0,25% để tê tại chỗ, có tiền mê bằng midazolam 2<br /> ml.<br /> Kết quả: có 50 bệnh nhân. Khác nhau về thời gian vận động lại sau mổ giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p= 0,0001.<br /> Kết luận: nhóm bệnh nhân tê tại chỗ có thời gian nằm phòng hồi sức ngắn hơn, thời gian vận động trở lại sớm hơn tuy<br /> nhiên đau trong mổ nhiều hơn.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> COMPARING THE EFFECT OF LOCAL AND SPINAL ANAESTHETIC<br /> IN TREATMENT OF INGUINAL HERNIA.<br /> Phan Thanh Tuan, Do Dinh Cong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 127 - 130<br /> Objective: to compare the effect of two anaesthetic methods in treament of inguinal hernia: local and spinal anaesthetic.<br /> Material and method: a cross despriptive study with inguinal hernia patients, operated at Nhan dan Gia<br /> Dinh’hospital by Bassini or Lichteisten procedure from 09/2006 to 05/2007, grouped into two: used local or spinal<br /> anaesthetic. (Local anaesthetic with bupivacaine 2% and 2ml midazolam to start the anaesthetic).<br /> Results: there were 50 patients. The different about the motion-returning time between two groups was statistical<br /> significant with p= 0.0001.<br /> Conclusion: Although the time to rest the recovery room and to return the motion of the patients in group used local<br /> anaesthetic was shorter than the remaining group, their intra-operative pain level was higher.<br /> giá hiệu quả của phương pháp tê tại chỗ so với<br /> ĐẶT VẤNĐỀ<br /> tê tuỷ sống trong phẫu thuật thoát vị bẹn.<br /> Thoát vị bẹn là một bệnh lý ngoại khoa phổ<br /> ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊNCỨU<br /> biến, có nhiều phương pháp phẫu thuật đã được<br /> dùng để điều trị thoát vị bẹn. Gắn liền với việc<br /> Bao gồm bệnh nhân thoát vị bẹn được mổ tại<br /> chọn lựa kỹ thuật mổ, người ta còn đề cập đến<br /> Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 9/2006<br /> vai trò của vô cảm, bao gồm gây mê, tê vùng (tê<br /> đến 5/2007: ≥ 18 tuổi, độ I, II, IIIA, IIIB theo<br /> tuỷ sống, tê ngoài màng cứng), tê tại chỗ. Nhiều<br /> Nyhus. Trừ những trường hợp: thoát vị hai bên,<br /> nghẹt, bẹn đùi, tái phát. Bệnh nhân được phân<br /> nghiên cứu của nước ngoài đã nhận xét vai trò<br /> bố vào một trong hai nhóm: nhóm 1 được tê tại<br /> tích cực của tê tại chỗ trong phẫu thuật thoát vị<br /> bẹn. Ở Việt Nam chưa có báo cáo về hiệu quả<br /> chỗ, nhóm 2 được tê tủy sống; theo kết quả lá<br /> của tê tại chỗ trong phẫu thuật thoát vị bẹn.<br /> thăm bắt được. Chúng tôi sử dụng bupivacain<br /> Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh<br /> 0,25% để tê tại chỗ, có tiền mê bằng midazolam<br /> * Trường trung học Y tế tỉnh Kiên Giang<br /> ** Bộ môn Ngoại ĐH Y Dược Tp. HCM<br /> <br /> Ngoại<br /> Tổng quát<br /> 126<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> 2ml. Tái tạo thành bẹn theo phương pháp<br /> Bassini, hoặc Lichteinstein. Bệnh nhân sẽ được<br /> chuyển sang gây mê khi đã sử dụng đến liều tối<br /> đa thuốc gây tê (175 mg bupivacain tương<br /> đương 70 ml bupivacain 0,25%) mà bệnh nhân<br /> vẫn còn đau nhiều. Đánh giá mức độ đau theo<br /> thang điểm VAS, từ 0 đến 10 điểm.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Tổng cộng 50 bệnh nhân chia đều trong 2 nhóm.<br /> Nhóm tê tại chỗ Nhóm tê tủy sống<br /> tuổi trung bình<br /> 48,08 ± 18,39<br /> 47,16 ± 17,44<br /> Loại thoát vị<br /> 56% / 44%<br /> 40% / 60%<br /> GT/TT<br /> Tái tạo thành bẹn<br /> 44% / 56%<br /> 40% / 60%<br /> L/B<br /> Đau trong mổ<br /> 2,92 ± 1,49<br /> Đau trong mổ Trực tiếp: 2,18 ± 1,16<br /> Gián tiếp: 3,50 ± 1,50<br /> (p = 0,009)<br /> Chuyển pp vô cảm<br /> 4%<br /> 4%<br /> Thời gian mổ<br /> 68 ± 12,82 phút<br /> 70,80 ± 11,33<br /> Thời gian vận<br /> 13,04 ± 0,77<br /> 4,46 ± 0,84<br /> động lại sau mổ<br /> (p=0,0001)<br /> Biến chứng sớm<br /> 12%<br /> 12%<br /> Thời gian nằm viện<br /> 30 ± 20,39<br /> 28,48±16,84<br /> Sự hài lòng<br /> 8%<br /> 4%<br /> <br /> BÀNLUẬN<br /> Vấn đề đau trong mổ<br /> Đau trong mổ là một nhược điểm lớn của tê<br /> tại chổ trong phẫu thuật thoát vị bẹn (4), mặc dù<br /> ở các trung tâm chuyên về điều trị thoát vị bẹn<br /> với những kinh nghiệm trong tê tại chỗ đã làm<br /> giảm đến mức thấp nhất vấn đề đau trong mổ<br /> nhưng vẫn không làm bệnh nhân không đau<br /> hoàn toàn trong mổ. Hiện nay ở Việt Nam tê tại<br /> chỗ rất ít được sử dụng do tâm lý e ngại vấn đề<br /> đau trong mổ.<br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi điểm đau<br /> trung bình được ghi nhận là 2,92 điểm (theo<br /> thang điểm đau VSA), điểm đau thấp nhất là 1<br /> điểm và cao nhất là 8 điểm. So với nghiên cứu<br /> của tác giả Privitera A, điểm đau trung bình của<br /> chúng tôi cao hơn, do chúng tôi chỉ mới thực<br /> hiện những ca mổ thoát vị bẹn với tê tại chỗ đầu<br /> tiên nên chưa có nhiều kinh nghiệm và còn gặp<br /> nhiều khó khăn trong lúc phẫu thuật (như việc<br /> <br /> Ngoại Tổng quát<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> tiêm thuốc tê làm cho mô bị phồng lên và phẫu<br /> trường luôn bị ướt.)<br /> Nhóm bệnh nhân thoát vị bẹn trực tiếp<br /> (được điều trị bằng phương pháp Lichteinstein)<br /> có khuynh hướng ít đau hơn so với nhóm thoát<br /> vị bẹn gián tiếp (được điều trị bằng phương<br /> pháp Bassini), nguyên nhân của sự khác biệt này<br /> có thể do nhóm thoát vị bẹn gián tiếp được điều<br /> trị bằng phương pháp Bassini gây căng nên đau<br /> nhiều hơn.<br /> Tỷ lệ chuyển phương pháp vô cảm<br /> Tỷ lệ chuyển phương pháp vô cảm của<br /> nhóm tê tủy sống là 4% và nhóm tê tại chỗ là 4%,<br /> giữa hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa<br /> thống kê.<br /> So với các tác giả nước ngoài tỷ lệ chuyển<br /> phương pháp vô cảm trong nhóm tê tại chỗ của<br /> chúng tôi có khuynh hướng cao hơn(5,6,7,9,10). Tại<br /> các trung tâm điều trị thoát vị bẹn tỷ lệ phải<br /> chuyển phương pháp vô cảm rất thấp hầu như<br /> bằng 0(2), trong khi đó tại các bệnh viện ngoại<br /> khoa tổng quát thường có một tỷ lệ nhất định bị<br /> thất bại trong tê tại chỗ và bắt buộc phải chuyển<br /> phương pháp vô cảm(10). Sự khác biệt này có thể<br /> do có sự cách biệt về kinh nghiệm tê tại chỗ của<br /> bác sỹ phẫu thuật giữa các bệnh viện ngoại khoa<br /> tổng quát và các trung tâm điều trị thoát vị bẹn,<br /> nơi mà các bác sỹ phẫu thuật có nhiều kinh<br /> nghiệm nên tỷ lệ thất bại hầu như không có.<br /> Nghiên cứu của chúng tôi cũng có một tỷ lệ<br /> chuyển phương pháp vô cảm khá cao, không<br /> nằm trong ngoại lệ bởi vì chúng tôi chỉ là những<br /> bác sỹ phẫu thuật tổng quát chỉ mới tiếp cận kỹ<br /> thuật tê tại chỗ trong mổ thoát vị bẹn trong một<br /> thời gian ngắn.<br /> <br /> Thời gian phẫu thuật<br /> Theo một số nghiên cứu của các tác giả nước<br /> ngoài và trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy<br /> thời gian phẫu thuật giữa nhóm tê tủy sống và<br /> nhóm tê tại chổ hầu như không có sự khác biệt(7,10).<br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi nhằm tránh<br /> yếu tố gây nhiễu là phương pháp phẫu thuật<br /> nên chúng tôi đã chia làm hai nhóm để so sánh,<br /> <br /> 127<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> nhóm sử dụng phương pháp điều trị là<br /> Lichteinstein và nhóm sử dụng phương pháp<br /> Bassini. Trong cả hai nhóm khi tiến hành so sánh<br /> thời gian phẫu thuật giữa lô tê tại chỗ và lô tê<br /> tủy sống điều cho thấy không có sự khác biệt có<br /> ý nghĩa thống kê.<br /> <br /> Nói chung nên giữ lại các dây thần kinh cảm<br /> giác trong lúc mổ nếu có thể được, đặc biệt là<br /> thần kinh chậu-bẹn và chậu-hạ vị nhưng không<br /> nên ngần ngại cắt các dây thần kinh này hoặc các<br /> nhánh của chúng nếu chúng gây cản trở cho quá<br /> trình phẫu thuật(3,13,14).<br /> <br /> Thời gian nằm phòng hồi sức, thời gian vận<br /> động trở lại, và thời gian đi tiểu trở lại<br /> <br /> Thời gian nằm viện sau mổ<br /> <br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi có sự khác<br /> biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian nằm phòng<br /> hồi sức giữa hai nhóm. Điều này cho thấy nhóm<br /> tê tại chỗ ít cần sự theo dõi chặc chẽ tại phòng<br /> hồi sức hơn so với nhóm tê tủy sống, giúp giảm<br /> phần nào áp lực công việc lên bác sỹ hồi sức.<br /> Và khi so sánh thời gian vận động trở lại<br /> giữa hai nhóm tê tủy sống và tê tại chỗ cũng cho<br /> thấy có sự khác biệt. Điều này là do trong nhóm<br /> tê tủy sống bệnh nhân không được ngồi dậy<br /> sớm sau mổ vì có thể bị các biến chứng giảm áp<br /> lực nội sọ, trong khi đó ở nhóm tê tại chỗ bệnh<br /> nhân có thể ngồi dậy đi lại ngay khi đã bớt đau<br /> sau mổ. Đây là một ưu điểm rõ ràng của tê tại<br /> chỗ so với tê tủy sống trong mổ thoát vị bẹn.<br /> Trong nghiên cứu này, nhóm bệnh nhân<br /> được tê tại chỗ cũng có khuynh hướng đi tiểu trở<br /> lại sớm hơn so với nhóm tê tủy sống (trong<br /> nhóm này có một bệnh nhân bị bí tiểu sau mổ,<br /> phải đặt thông tiểu). Sự khác biệt này có thể do<br /> nhóm tê tại chỗ trở lại vận động sau mổ sớm<br /> hơn (từ 3 đến 5 giờ sau mổ), trong khi đó những<br /> bệnh nhân trong nhóm tê tủy sống phải nằm tại<br /> chỗ lâu hơn nhiều (từ 12 đến 15 giờ).<br /> <br /> Biến chứng sớm sau mổ:<br /> Tỷ lệ bệnh nhân đau hậu phẫu trong nghiên<br /> cứu của chúng tôi là 4% (2 bệnh nhân trong<br /> nhóm tê tại chỗ). Các cơn đau sau mổ kéo dài<br /> thường được cho là tổn thương các dây thần<br /> kinh cảm giác trong lúc mổ, tuy nhiên các cơn<br /> đau này lại là một cảm giác hoàn toàn chủ quan<br /> của bệnh nhân, không có các phương tiện đo<br /> lường khách quan được. Theo Read và Bendavid<br /> đã có các thống kê cho thấy chúng có liên quan<br /> đến các vấn đề về tâm lý(1,4,12).<br /> <br /> Ngoại<br /> Tổng quát<br /> 128<br /> <br /> Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời gian<br /> nằm viện của hai nhóm tê tại chỗ và tê tủy sống<br /> không có sự khác nhau, ngược lại các nghiên<br /> cứu ở nước ngoài. Sở dĩ có sự khác biệt này là do<br /> chúng tôi chỉ mới tiếp cận mổ thoát vị bẹn với tê<br /> tại chỗ trong thời gian ngắn nên còn tâm lý e<br /> ngại và thận trọng trong việc cho xuất viện sớm.<br /> <br /> Vấn đề hài lòng của bệnh nhân<br /> Theo các nghiên cứu của các tác giả nước<br /> ngoài với tê tại chỗ trong mổ thoát vị bẹn thì<br /> bệnh nhân rất hài lòng(8,9,11), chỉ có một nghiên<br /> cứu của tác giả Callesen T và cộng sự tiến hành<br /> tê tại chỗ trong phẫu thuật thoát vị bẹn tái phát<br /> thì có 8% bệnh nhân không hài lòng vì đau trong<br /> mổ(4). Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng có 2<br /> trường hợp (8%) không hài lòng vì vấn đề đau<br /> trong mổ, và đây thực sự là một nhược điểm lớn<br /> của tê tại chỗ. Và vấn đề đau trong mổ ở nhóm<br /> tê tại chỗ gây ra sự không hài lòng của bệnh<br /> nhân là một vấn đề không thể phủ nhận được.<br /> <br /> KẾT LUẬN<br /> Qua nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số<br /> nhận xét sau:<br /> Tê tại chổ trong mổ thoát vị bẹn có một số<br /> ưu điểm hơn so với tê tủy sống: thời gian nằm<br /> phòng hồi sức của bệnh nhân ngắn hơn, thời<br /> gian vận động trở lại sớm hơn.<br /> Tuy nhiên tê tại chỗ trong mổ thoát vị bẹn có<br /> một nhược điểm lớn đó là vấn đề đau trong mổ<br /> và điều này làm ảnh hưởng đến sự hài lòng của<br /> bệnh nhân sau mổ.<br /> Hy vọng trong thời gian tới chúng tôi và các<br /> đồng nghiệp khác sẽ tiếp tục nghiên cứu trên số<br /> lượng bệnh nhân lớn hơn với thời gian theo dõi lâu<br /> dài hơn để có những đánh giá chính xác hơn về<br /> những ưu và khuyết điểm của tê tại chỗ và tê tủy<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> sống trong mổ thoát vị bẹn. và xu hướng mới cho<br /> phẫu thuật thoát vị bẹn qua nội soi.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1<br /> 2<br /> <br /> 3<br /> 4<br /> <br /> 5<br /> <br /> 6<br /> <br /> 7<br /> 8<br /> <br /> 9<br /> <br /> 10<br /> <br /> 11<br /> <br /> 12<br /> <br /> 13<br /> 14<br /> <br /> Abrahamson J.(1997), “Hernia”, Maingot’s abdominal<br /> operations, pp 479 – 580.<br /> Allan EK, Martin NK, Philip AB.(1998), “Three Thousand<br /> One Hundred Seventy-Five Primary Inguinal Hernia<br /> Repairs: Advantages of Ambulatory Open Mesh<br /> Repair Using Local Anesthesia”.<br /> Bendavid E.(1998), “Complications of groin hernia<br /> surgery”, Surg Clin North Am, 78, 1089 – 1101.<br /> Callesen T, Bech K, Kehlet H.(2001). “Feasibility of local<br /> infiltration anesthesia for recurrent groin hernia repair”.<br /> Eur J Surg, vol 167.<br /> Callesen T, Bech K, Kehlet H.(2001), “One thousand<br /> consecutive inguinal hernia repairs under unmonitored<br /> local anaesthesia”. Anesth Analg 93:1373–1376.<br /> Gonullu NN, Cubukeu A, Alponat A.(2002), “Comparison<br /> of local and general anesthesia in tension free<br /> (Lichteinstein) hernioplasty: a prospective radomized<br /> trial.”, Hernia, pp 29 – 32.<br /> Gultekin FA.(2006), “A prospective comparison of local<br /> and spinal anesthesia for inguinal hernia repair”, Hernia.<br /> Kark AE, Kurzer MN, Belsham PA.(1998), “Three thousand<br /> one hundred seventy-Wve primary inguinal hernia repairs:<br /> advantages of ambulatory open mesh repair using local<br /> anesthesia”. J Am Coll Surg 186:447–455.<br /> Nordin P, Zeterstrom H, Gunnarsson U, Nilsson E.(2003).<br /> “Local, regional, or general anesthesia in groin hernia<br /> repair: multicentre randomised trial”. Lancet, vol 362, pp<br /> 853 – 858.<br /> Ozgun H, Kurt MN, Kurt I, Cevikel MH.(2002).<br /> “Comparison of local, spinal, and general anesthesia for<br /> inguinal herniorrhaphy”. Eur J Surg, vol 168.<br /> Par Nodin.(2004), “Choice of anesthesia and risk of<br /> reoperation for recurrence in groin hernia repair”, Ann<br /> Surg, pp 187 – 192.<br /> Read RC.(1996), “Basic features of abdominal wall<br /> herniation and its repair”, Shackelford’s surgery of the<br /> alimentary tract, pp 93 – 107.<br /> Want GE.(1984), “Complications of inguinal hernia<br /> repair”, Surg Clin North Am, 64, pp 287 – 298.<br /> Want GE.(1995), “Handling the nerves, vessels and hernia<br /> sack in inguinal hernioplasty”, Inguinal hernia repair.<br /> Expert meeting on hernia surgery, pp 109 –<br /> <br /> Ngoại Tổng quát<br /> <br /> 129<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br /> <br /> Ngoại<br /> Tổng quát<br /> 130<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2