So sánh nội dung thống nhất và đa dạng của tục ngữ người Việt với tục ngữ các dân tộc thiểu số
lượt xem 2
download
Tục ngữ là một phần quan trọng trong di sản văn hóa của mỗi dân tộc, phản ánh những kinh nghiệm sống và giá trị đạo đức của cộng đồng. Trong khi tục ngữ người Việt thể hiện sự thống nhất trong tư tưởng và triết lý sống, thì tục ngữ của các dân tộc thiểu số lại mang đậm tính đa dạng và phong phú. Việc so sánh nội dung thống nhất và đa dạng giữa hai hệ thống tục ngữ này không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản sắc văn hóa của từng dân tộc mà còn làm nổi bật các yếu tố giao thoa giữa các nền văn hóa. Bài viết này sẽ đi sâu vào phân tích những điểm tương đồng và khác biệt trong nội dung của tục ngữ người Việt và các dân tộc thiểu số, từ đó mở rộng cái nhìn về giá trị văn hóa dân gian trong xã hội hiện đại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: So sánh nội dung thống nhất và đa dạng của tục ngữ người Việt với tục ngữ các dân tộc thiểu số
- 20 NGUYỀN NGHĨA DÂN - s o SÁNH NỘI DUNG... động bắt đầu từ những nhận xét giản đơn về thời tiết, khí hậu đã ảnh hưởng đến lao SO SÁNH NỘI DUNG động và đời sông của con người. Những THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG nhận xét đó, qua chiêm nghiệm được xem như quy luật của thiên nhiên tác động đên CỦA TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT sản xuất và cũng có thê là những kinh nghiệm đã trở thành tập quán “xưa làm, VỚI TỤC NGƯ CÁC DÂN TỘC nay bắt chước”, lưu truyền trong nhân dân. Sông trong một nền kinh tế nông nghiệp THIỂU SÔ Nưức TA trồng lúa nước hoặc làm nương rẫy, người Việt cũng như các dân tộc thiểu sô' ở phía NGUYỄN NGHĨA DÂN bắc nưổc ta khác với người Việt và các dân tộc thiểu sô' ở Tây Nguyên và Nam Bộ, do heo tâm lí học, so sánh là đối chiếu, điều kiện thiên nhiên khác nhau, đất đai xem xét mô'i quan hệ giữa các sự vật, cũng khác nhau nên phán đoán, nhận xét, hiện tượng, từ đó tìm ra những cái chung kinh nghiệm về dự báo thòi tiết hoặc kinh và những cái riêng của sự vật hay hiện nghiệm sản xuất nông nghiệp cũng khác tượng. So sánh là để hiểu biết đầy đủ hơn nhau. Ổ phía bắc nước ta thường có bôn các đặc điểm của sự vật hay hiện tượng. So mùa tương đô'i rõ rệt nhưng ở phía nam chỉ sánh là cơ sở của sự khái quát hoá. So sánh có hai mùa là mùa mưa và mùa khô. Tuy tục ngữ của người Việt với tục ngữ của các rằng, ở đâu cũng có thể “trông mưa, trông dân tộc thiểu số ở nưởc ta là tìm ra những gió, trông ngày, trông đêm” để sản xuất cái giông nhau, cái gần giông nhau, cái nông nghiệp, ở đâu cũng phải đầy đủ “tứ khác biệt vối định hướng tìm đến cái chân, pháp bảo” là “nước, phân, cần, giông” mang thiện, mĩ trong tục ngữ các dân tộc ở nưốc tính quy luật của sản xuất nông nghiệp ta. Tục ngữ Việt Nam có giá trị vê nhiều trong cả nưởc, nhưng cách vận dụng trong mặt, được đúc kết từ đời sông cộng đồng thực tiễn ở mỗi vùng, miền có khác nhau, ó của từng dân tộc và từ những môi quan hệ phía bắc nưổc ta, có thể thây rất rõ trong với cộng đồng các dân tộc anh em. So sánh tục ngữ có chủ để quan hệ thiên nhiên và tục ngữ của người Việt với tục ngữ các dân sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng Bắc tộc thiểu sô' là góp phần làm rõ nền văn hoá Bộ, Bắc Trung Bộ có nhiều câu nói vê kinh Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. nghiệm trồng lúa nưóc; còn ở vùng trung 1. So sánh nội d u n g tụ c ngữ người du, miền núi, tục ngữ về quan hệ thiên V iệ t v ớ i tụ c n g ữ c á c d â n t ộ c t h i ể u sô nhiên, lao động nông nghiệp lại nói nhiêu phía bắc V iệ t N a m tro n g q u an hệ với đến kinh nghiệm làm nương rẫy. Như vậy, th iê n n h iê n và lao động sản x u ấ t nhìn tổng quát, tục ngữ của người Việt và Văn học dân gian nói chung và tục ngữ của các dân tộc thiểu sô' ở phía bắc nước ta nói riêng xuất phát trực tiếp từ lao động rồi phần lớn nói về sản xuất nông nghiệp được trực tiếp phục vụ cho lao động sản xuất và đúc kết thành những kinh nghiệm có giá người lao động. Tục ngữ là tiếng nói được trị, lưu truyền trong từng dân tộc và trao tổng kết từ cuộc sông của nhân dân trong đổi với các dân tộc khác. mô'i quan hệ với thiên nhiên và lao động Trong điểu kiện khoa học chưa phát sản xuất, là sản phẩm của tư duy người lao triển, việc xem xét các hiện tượng thiên
- TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl 21 nhiên, đặt mối tương quan ảnh hưởng của - Sấm trước trời không mưa. thời tiêt với đất đai, cây trồng để rút ra (dân tộc Thái) những kinh nghiệm là một vấn đề không - Trời nôi sấm trước khi mưa là trời thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp. Có lẽ hạn hán. tác động quan trọng nhất của thiên nhiên (dân tộc Tày) đối với sản xuất và đời sông là mưa và nắng. Nếu tục ngữ người Việt có câu - Trời kêu trước không mưa. “Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa” (dân tộc Dao) thì các dân tộc thiểu số phía bắc nước ta Hiện tượng “cóc nghiên răng” ngày nay cũng có những câu gần giông: đã được khoa học giải thích nhưng từ xưa, - Quầng đen thi hạn, quầng trắng thì mưa. người Việt cũng như người dân tộc thiểu sô (dân tộc Mường) đều đúc kết vê' dự báo mưa: hoặc: - Cóc nghiến răng đang nắng thì mưa. - Trăng đội nón sắt thì lụt, trăng đội (dân tộc Việt) nón đồng thì mưa. - Ẽch kêu uôm uôm ao chuôm đầy nước. (dân tộc Thải) (dân tộc Việt) - Trăng có quầng đen như sắt là sắp có - Ẽch kêu từng loạt, trời sắp mưa. mưa lủ, trăng có quầng vàng như (dân tộc Dao) đồng là hạn lâu. - Cóc nghiến răng không lụt củng mưa. (dân tộc Tày) (dân tộc Mường) - Mặt trăng đội nón đât khô, mặt trăng Qua nhiều năm tháng chiêm nghiệm, căng ô đất sụt. phán đoán về lịch trời mưa trong năm qua, (dân tộc Giáy) tục ngữ các dân tộc lại có sự khác biệt: Trông trăng rồi lại trông sao cũng để - Mồng chín tháng chín không mưa dự báo mưa nắng: Mẹ con bán cả cày bừa mà ăn. - Sao dày thì mưa, sao thưa thì nắng. (dân tộc Việt) (dân tộc Việt) - Mồng hai tháng hai không mưa - Sao mờ thì hạn, sao sáng thì mưa. Cha con sắm sửa sọt sưa đi Lào (dân tộc Mường) Mồng hai tháng hai có mưa - Trời sắp nắng sao tỏ, trời sắp mưa Cha con sắm sửa cày bừa làm ăn. sao mờ. (dân tộc Thái) (dân tộc Thái) Vê rét, tục ngữ người Việt và tục ngữ (lưu ý nhận xét về quan hệ giữa nắng với người Mường chung một cổ tích: “sao”, giữa “mưa” vối “sao” có khác nhau - Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, giữa tục ngữ dân tộc Mường với tục ngữ tháng ba rét nàng Bân. dân tộc Thái), v ề sấm, tục ngữ người Việt (dân tộc Việt) và tục ngữ các dân tộc thiểu sô” phía bắc đều thông nhất nhận xét: - Tháng ba rét lại một lần cho nàng Bân may áo. - Mấy đời sấm trước có mưa. (dân tộc Mường) (dân tộc Việt)
- 22 NGUYỀN NGHĨA DÂN - s o SÁNH NỘI DUNG... Hạn hán là môì lo thường xuyên đối vổi Ngoài ra, ruộng cày để đất ải, đất nỏ nhà nông, ngược lại, nưốc đủ là nhân tô' số cũng là kinh nghiệm lâu đời: một cần thiết cho cây trồng, đặc biệt đô'i với - Đất nỏ giỏ phân. lúa nưốc. Trong tục ngữ các dân tộc đều (dân tộc Việt) đúc kết: - Ruộng cày tháng chạp không bỏ phân - Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. cũng tốt. (dân tộc Việt) (dân tộc Tày - Nùng) - Làm ruộng nhất nước nhì phân. là kinh nghiệm làm đất, để ải, hanh khô vê (dân tộc Mường) tháng chạp ở các dân tộc vùng Bắc Giang, - Đào nương không sợ uông công, đắp Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn... Rồi đến phai chớ sợ p h í sức. kinh nghiệm cổ truyền về lao động, đặc biệt (dân tộc Thái) là làm cỏ: - Thứ nhất kịp thì, thứ nhì đủ nước, thứ - Nắm cỏ giỏ thóc. ba đủ phân, thứ tư làm cặm cụi, thứ - Công cày là công bỏ, công làm cỏ là năm chọn hạt giống. công ăn. (dân tộc Tày) (dân tộc Việt) Nói đến thời vụ, giông má, lao động, - Nắm cỏ giỏ phân. cách diễn đạt trong tục ngữ có khác nhau - Ruộng sạch cỏ, ló (lúa) đầy bồ. nhưng kinh nghiệm có “tính nguyên tắc” (dân tộc Mường) vẫn thông nhất: Còn có thể kê thêm nhiều tục ngữ về - Đầu mùa cấy vào đám cỏ củng được ăn, cây trồng gặp khi thời tiết th ấ t thường: cuối mùa cấy vào đám lẫy củng phí sức. (dân tộc Việt) - Được mùa lúa úa mùa cau. (dân tộc Việt) - Đầu vụ cấy vào đám cỏ củng được ăn, cuối vụ cấy vào đám trâu đầm củng - Cây nhãn sai quả nước lủ to, cây lai sai không được ăn. quả có tuyết sương giá. (dân tộc Thái) (dân tộc Tày)... - Mạ già ruộng ngấu cấy đâu được đấy. Trong chăn nuôi, người nông dân dù là (dân tộc Việt) Việt, Mường, Dao hay Tày, Nùng, Thái đểu thông nhất đúc kết kinh nghiệm: - Ruộng chờ mạ mới tốt, mạ chờ ruộng không tốt. "Yếu trâu hơn khoẻ bò". (dân tộc Mường) (dân tộc Việt, M ường, Dao...) - Ruộng chờ mạ ruộng kĩ càng tốt, và khi chọn giông vật nuôi: mạ chờ ruộng mạ muộn chang - Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi, được hạt nào. nhanh như chớp. (dân tộc Tày) (dân tộc Việt) - Ruộng đợi mạ mới tốt, mạ chờ ruộng - Sừng cánh ná, dạ binh vôi, mắt Ốc nhồi, thóc ít. làm giàu cho chủ. (dân tộc Giáy) (dân tộc Thái)
- TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl 23 Nhận thức, đánh giá vê nghê nông ở tôm, cá)... nhưng loại tục ngữ này vắng mặt các dân tộc rất thông nhất là điều dễ hiểu trong các dân tộc thiểu sô. vì kinh tế cổ truyền nước ta cơ bản vẫn là So sánh tục ngữ vê' thiên nhiên và lao nông nghiệp. Tuy giai cấp phong kiến có động sản xuất của người Việt và của các sắp xếp thứ tự “sĩ, nông, công, thương” là dân tộc thiểu số ở phía bắc nưốc ta, có thể tứ dân của xã hội ta xưa nhưng trong tục kết luận: ngữ các dân tộc thì: 1. Sự thông nhát trong nội dung của Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, tục ngữ người Việt và các dân tộc thiểu số nhất nông nhì sĩ. khá rõ nét vì hầu như tấ t cả các tục ngữ đó (dân tộc Việt) đều là đúc kết từ kinh nghiệm sản xuất và: nông nghiệp trong môi trường khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nắng nhiều thất Mười anh buôn bán không bằng một thường, lụt bão thường năm không nhiêu anh làm ruộng. thì ít tác động đến mùa màng. (dân tộc Tày)... 2. Sự đa dạng trong nội dung các tục Tục ngữ người Việt và các dân tộc thiểu ngữ người Việt và các dân tộc thiểu sô' chỉ số phía bắc nước ta như đã phân tích và thê hiện trong một số tục ngữ gắn liên với dẫn chứng trên đây vê' cơ bản có tính thông điều kiện đất đai từng vùng miền khác nhất. Bên cạnh đó, tính đa dạng được biểu nhau với các vùng tiểu khí hậu mà mỗi dân hiện gắn liên với thuỷ thổ, môi trường địa tộc đang sinh sông. phương, cây, con từng vùng cụ thể. Dân tộc 3. Những kinh nghiệm vê quan hệ Thái nghe con cồ cộ, con ì điềng kêu để thiên nhiên và sản xuất nông nghiệp dược phán đoán mùa màng: "Cô cộ kêu bụng nép, đúc kết trong tục ngữ người Việt cũng như ì điềng kêu bụng no"; dân tộc Dao thì dựa của các dân tộc thiểu số ở phía bắc nưốc ta, vào con hươu: “ Hươu cười trời nắng, hươu trong tính thống nhất và đa dạng đều là kêu trời mưa"; dân tộc Tày - Nùng dựa kết quả vê tinh thần lao động sáng tạo của theo quả dâu gia để gieo cấy: “Quả dâu gia nhân dân, chứng minh nguồn gốc dân gian nhét vừa lỗ mũi thì gieo mạ, quả dâu gia của khoa học trong sản xuất nông nghiệp. tím như dái ngựa thì cấy"... Có thế thấy, Tuy nhiên, những tri thức sản xuất được hình như mỗi dân tộc đều theo nông lịch đúc kết trong tục ngữ còn ỏ kinh nghiệm kết hợp với xem mưa nắng, thời tiết mà thực tiễn, chưa có căn cứ khoa học vững gieo trồng cho đúng thời vụ, tuy nhiên, vào chắc. Có một sô kinh nghiệm chung, chính tháng nào, làm việc gì thì không thể giống xác nhưng cũng có những kinh nghiệm vê nhaư do thuỷ thổ không đồng nhất và các quy luật thiên nhiên ở một vùng trong một vùng tiểu khí hậu khác nhau có ảnh hưởng thời gian nhất định không mang tính phổ không ít đến sản xuất nông nghiệp. Một biến. nhận xét nổi bật nhưng dễ giải thích là 4. Từ sau Cách mạng tháng Tám trong tục ngữ người Việt có những câu nói 1945, trong tục ngữ người Việt có một số vể nghê' biển như “ May mùa sông, đông câu nói vê' việc cải tiến kĩ thuật nông mùa bể' (gió heo may hay được cả sông, gió nghiệp, vê' cách làm ăn như: “ thuật là Kĩ đông hay được cá bể) hay “Tôm đi chạng khoá, văn hoá là chìa", “Một sáng kiến hay vạng, cá đi rạng đông" (thời điểm đi đánh bằng nghìn tay lao động", “Làm việc không
- 24 NGUYỀN NGHĨA DÂN - s o SÁNH NỘI DUNG... kê hoạch như bắt chạch đăng đuôi”,... chắc có thể trên nhiều mặt nhưng trong so sánh là kết quả giao lưu giữa người Việt và các tục ngữ người Việt vối tục ngữ các dân tộc dân tộc thiểu số’ có thể đã được áp dụng ít , thiểu số, dưới đây chỉ đi sâu nghiên cứu sự nhiều, tuy nhiên, chưa đọng lại thành tục so sánh đó trong quan hệ với bản thân, với ngữ của các dân tộc thiểu sô’ hoặc đã có gia đình và với xã hội. nhưng chưa được sưu tầm đầy đủ. 2.1. C on n g ư ờ i V iệ t N a m tr o n g tụ c 2. So sánh nội d u n g tụ c ngữ người n g ữ n gư ờ i V iệt v à tụ c n g ữ c á c d â n tộc V iệ t với tụ c ngữ các d â n tộc th iê u sô th iể u sô ở p h í a b ắ c p h ía bắc V iệ t N a m tro n g q u a n hệ xã Nhân cách người Việt Nam được phản hội ánh trong tục ngữ người Việt cũng như Theo Các Mác, “Trong tính hiện thực trong tục ngữ của các dân tộc thiểu sô’ ở của nó, con người là tổng hoà của các môi phía bắc nước ta là con người có văn hoá, quan hệ xã hội'’ [2]. Luận để nổi tiếng này trưởc hết là con người lao động. Sông trong cho thấy rõ không thê hiểu con người nhân môi trường thiên nhiên nhiêu mu'a, nắng, văn và con người xã hội tách biệt khỏi môi lụt bão, hạn hán liên miên, để sinh sông, trường sông, lao động, đấu tranh giai cấp, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, các dân đấu tranh xã hội. Quan hệ xã hội là quan tộc ở nưóc ta phải lao động cần cù đê có hệ hình thành giữa người và người trong miếng ăn. Hầu như tục ngữ của dân tộc quá trình lao động. Quan hệ xã hội có thể nào cũng nói đến đức tính siêng năng. phân làm quan hệ vật chất và quan hệ tư Người Việt có câu: “Tay làm hàm nhai, tay tưởng, trong đó quan hệ kinh tê là quan quai miệng trễ” và các dân tộc khác cũng có trọng nhất. Quan hệ sản xuất quyết định tục ngữ theo nội dung ấy: “ Miệng nói tay tính chất của những quan hệ khác như làm, tay làm hàm nhai” (dân tộc HMông); quan hệ chính trị, pháp luật...” [9], Luận đề “Tay làm tay ăn, có làm có ăn” (dân tộc của Mác vê con người cho thấy rõ môi quan HMông); “ Hai bàn tay nuôi cái miệng” (dân hệ tư tưởng đạo đức, lao động, lôi sống, tộc Tày); “ Miếng ăn năm ở chân tay, lúa thực châ’t là quan hệ giữa người với người gạo càng đầy mặt đất” (dân tộc Thái); cùng hoạt động trong quá trình lịch sử. Tục “ Miệng nhặt tay bới’\d â n tộc Tày - Nùng). ngữ các dân tộc ở nưổc ta đã phản ánh các Mấy câu trên mói nói đến quan hệ nhân môi quan hệ đó. Nước ta có chê độ phong quả “làm - ăn” còn làm như th ế nào thì kiến hàng nghìn năm, trong hệ tư tưởng phải trải qua bao gian khố vất vả; “ Bán của các dân tộc ở nước ta, bên cạnh tư mặt cho đất, bán lưng cho trời”, “ Bát mồ tưởng dân chủ của nông dân, tác động tư hôi đôi lấy bát cơm” (dân tộc Việt); “ Phơi tưởng của giai cấp thông trị khá mạnh mẽ năng khô da mặt, leo núi rách bàn chân” cùng vởi tư tưởng Nho giáo còn có tư tưởng (dân tộc Giáy); “Một hột gạo mười hột mồ Phật giáo, Lão, Trang... Điều đáng chú ý là hôi” (dân tộc Dao); “ Đất không cho bạc, trời nhân dân ta vừa đấu tranh chông những không cho của, phải rơi giọt mồ hôi mới có mặt tiêu cực của giai cấp phong kiến thông ăn” (dân tộc Tày)... Đương nhiên, lười biếng trị lại vừa tiếp thu có chọn lọc những mặt thì bị phê phán: "Ăn thì cúi trô'c (đầu), đẩy tích cực như “nhân nghĩa”, “kiêm ải”, “tu, nôốc (thuyền) thì vang làng” (dân tộc Việt); tề, trị, bình”... của Nho giáo, như “vị tha” “Có ăn thì lăn cho chóng, có việc thì nống của Phật giáo... cho nên tìm hiểu nội dung cho nhanh” (dân tộc Mường)... Các đức tính tục ngữ về quan hệ xã hội của nhân dân ta gắn liền vởi lao động như làm ăn thật thà,
- TCVHDG só 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l 25 tiêt kiệm, lo xa... đêu có trong tục ngữ các "Cha mẹ dạy không bằng thầy dạy, thầy dân tộc: "Của lùm ra đê trên gác, của cờ bạc dạy không bằng tự m ình suy n g h ĩ’. Tục đê ngoài sân, của phù vân đ ể ngoài ngõ” ngữ các dân tộc ở Việt Nam cho rằng học là (dân tộc Việt); "Của bắt được là của rẻ” lao động, phải siêng năng, chông thói lười (dân tộc Mường); "Của làm ra như nước biếng: “Có chí thì nên”; "Có công mài sắt có nguồn, của ông bà đ ể cho như nước lủ” (dân ngày nên kim ” (dân tộc Việt); “Có chí mài tộc Tày - Nùng). Tục ngữ người Việt có câu: lưỡi cày thành kim.” (dân tộc Tày - Dao); "Bớt bát mát m ặt”, tục ngữ H'Mông có câu: "Học không hay, cày không biết" (dân tộc "Có nhiều mặc nhiều, có ít mặc ít, không có Việt); "Học võ không đủ (miếng) đánh, học thì thôi” và dân tộc Thái: "Khéo dành dụm tiếng không đủ (lời) nói" (dân tộc HMông)... thì có, khéo dè xẻn thì giàu”... lao động Trong học tập, rèn luyện, tu dưỡng, con trưổc hết là để có ăn nhưng lao động còn là người có văn hoá là con người biết tư duy, phương thức để rèn luyện con người. Các hành động, ứng xử hưóng về điểu thiện, dân tộc ở nước ta đều thông nhất nhận điều chân. Tư tưởng tích cực của Nho giáo, thức: "Nói phải đi đôi với làm ”, "Nói chín nhất là Phật giáo ở đây hoà hợp vởi tư thì nên làm mười, nói mười làm chín kẻ tưởng nhân văn của người Việt Nam. cười người chê” (dân tộc Việt); "Làm nhiều Những tục ngữ: “ơ hiền gặp lành”, " ơ ác khoẻ người, nói nhiều người dại” (dân tộc gặp ác”, "Tích thiện phùng thiện", "Cứu Giáy). Một nhận thức được đúc kết trong nhất nhân đắc vạn phúc”, "Điều lành thì nhiều tục ngữ của các dân tộc và thông nhớ, điều dở thì quên”, "Lời sai đừng nghe, nhất ở mức độ khá cao là muôn làm tốt thì việc tốt phải nghĩ', "Thương người như thể phải học, vì: “Có đi mới đến, có học mới thương thân" trong tục ngữ người Việt đểu khôn” (dân tộc Việt); "Đi mãi khắc đến, học có nội dung gần với tục ngữ các dân tộc mãi khắc biết đầy đủ” (dân tộc Tày); "Học thiểu sô) " ơ ác thì choạc sừng nai” (dân tộc nhiều thì biết, làm nhiều thì quen” (dân tộc Mường); "Thiện, thiện dã, ác, ác báo” (dân Thái). Tục ngữ các dân tộc đều thống nhất tộc Thái); "Nhà hẹp, trái tim rộng” (dân tộc việc gì cũng phải học: "Học ăn, học nói, học Tày); "Ac như gấu cái đang nuôi con” (dân gói, học mở' (dân tộc Việt); "Học ăn, học tộc Tày); "Người có đừng bỏ người khó” uống, học nói, học làm ” (dân tộc Thái). Tư (dân tộc Dao); "Người tốt khắp mường biết, tưởng hiện đại của nhân loại “học suôt đời” người ác khắp mường đồn” (dân tộc Giáy)... đã có trong tục ngữ các dân tộc ở Việt Nam: Phương pháp tư duy khách quan, xử lí “ Học khôn học đến chết, học nết học đến phù hợp với hoàn cảnh khách quan, nhìn già” (dân tộc Việt); "Học khôn học khéo học sự vật trong sự phát triển của nó đều in đến già” (dân tộc Thái); "Học khôn học đến dấu trong tục ngữ người Việt cũng như các chết, học điều hay học đến già” (dân tộc dân tộc thiểu sô’ anh em: "An theo thuở, ở Tày)... Trả lời câu hỏi “Học như thê nào?”, theo thì”, "Biết người biết ta", "Không thái tục ngữ các dân tộc cũng chỉ rõ: "Trăm quá, đừng bất cập”, "Sông có khúc, người có nghe không bằng một thấy, trăm thấy lúc", "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba không bằng một làm” (dân tộc Việt); "Học đời" (dân tộc Việt) và "An một thuở, ở một ăn, học suy, học nói, học làm ” (dân tộc thì" (dân tộc Mường); "Làm quá người ta Thái); "Học thầy, học bạn vô vạn phong ghét, phải biết mình biết người” (dân tộc lưu" (dân tộc Thái). Quan điểm vê tự học, Thái); "Không ai giàu ba đời” (dân tộc Dao); tự suy nghĩ đã có từ lâu trong tục ngữ Thái: "Khô chang khổ ba năm, khó chang khó ba
- 26 NGUYỀN NGHĨA DÂN - s o SÁNH NỘI DUNG... đời" (dân tộc Giãy); “Khoai riềng có khúc to cá nhân được phản ánh trong tục ngữ của khúc nhỏ, đời người có khúc lên khúc các dân tộc ở nước ta. Còn có thể kể thêm xuống” (dân tộc H'Mông)... nhiêu đức tính khác của người Việt Nam như khoan dung, độ lượng, khiêm tốn, Giao tiếp, cách ăn ở, nói năng, đi lại nhẫn nại,... cũng thường được biểu hiện cũng là một yêu cầu lớn của nếp sông văn trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội của hoá mà người Việt Nam, dù đa sô" hay thiểu các dân tộc ở Việt Nam. sô" đều quan tâm rèn luyện. Sô" tục ngữ có kết cấu với từ “ăn”, “nói” đều được hiểu đầy 2.2. So s á n h n ộ i d u n g tụ c n g ữ đủ vê nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Trong tục n g ư ờ i V iệ t vớ i c á c d â n tộ c th iê u sô ở ngữ người Việt có những câu: “ ngay nói Ăn p h í a b ắ c tr o n g q u a n h ệ g ia đ ìn h thật, mọi tật mọi lành”, “ đ ể sông, không Ăn Quan hệ gia đình bắt nguồn từ huyết phải sống đê ăn”, “ một miếng, tiếng cả An thông, dòng họ “Chim có tổ, người có tông” đời”, “ trông nồi, ngồi trông hướng”... và Ăn (dân tộc Việt), “Cây có cội, nước có nguồn” trong tục ngữ các dân tộc thiểu sô" cũng có: (dân tộc Việt, Dao), “Người có họ, cọ có bụi" “ nên đọi, nói nên lời” (dân tộc Mường, Ăn (dân tộc Thái)... Phong tục Việt Nam rất coi Việt); “ đưa xuống, uống đưa lẽn” (dân An trọng gia đình, bắt đầu từ tình cảm cha mẹ tộc Việt, Mường), “ ngay nói thắng” (dân An đôi với con cái. Tuy bị ảnh hưởng của tư tộc Việt, Tày, Nùng), “ An trước mặt, nói tưởng phong kiến quý con trai hơn con gái trước mặt” (dân tộc Tày - Nùng); “ khiĂn nhưng hình như trong tục ngữ người Việt, đói, nói khi tỉnh” (dân tộc Mường); “ An vấn đề này đã được giải quyết bình đẳng: phải nghĩ, thốt phải suy” (dân tộc Mường). “ tẻ mừng tẻ, có nếp mừng nếp” và hợp Có Nói là ngôn ngữ, là cái vỏ của tư duy, cho đạo lí Việt Nam: “Trai mà chi, gái mà chi, nên đã nói thì phải suy nghĩ. Ó tục ngữ sinh ra có nghĩa có nghi là hơn”, còn trong người Việt và tục ngữ các dân tộc thiểu sô", tục ngữ các dân tộc thiểu số chưa thấy có nói thường đi đôi với nghĩ, biểu hiện so sánh, ví von rấ t cụ thế: “Chó ba khoanh nội dung đó. Họ chỉ thấy có con thì vui cửa mới nằm, người ba năm mới nói” (dân tộc vui nhà. Người Việt cũng như các dân tộc Việt); “Chó ba khoanh mới nằm, người nghĩ thiểu sô" phía bắc, qua tục ngữ, đều quý ba điều mới nói” (dân tộc Mường); “Gà vỗ trọng và chăm lo giáo dục con cái từ tuổi bé cánh ba lần mới gáy, người nghĩ ba lần mới thơ: “Dạy con từ thuở còn thừ' (dân tộc Việt, nói” (dân tộc Giãy)... Con người có cái lưỡi Thái, Tày), “Cây bé uốn thẳng, cây cao uốn đê nói; điều hay, điều dở đều từ cái lưỡi mà gãy” (dân tộc Tày)... Tình mẫu tử vối đức hi ra. Ngụ ngôn Êdô"p đã có chuyện “Uốn lưỡi sinh của người mẹ được thể hiện trong tục bảy lần hãy nói” n h ư m ột tục ngữ P h áp đã ngữ các dân tộc: “Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo đúc kết. Trong tục ngữ Việt Nam, dân tộc phần con" (dân tộc Việt); “ Chỗ ướt mẹ sửa Việt, các dân tộc thiểu sô" anh em cũng rất san lại, chó khô đê phần con nằm ” (dân tộc “cảnh giác” với cái lưỡi: “Lưỡi không xương Tày); “Chỗ ướt mẹ th ế vào, chỗ khô đê'phần nhiều đường lắt léo” (dân tộc Việt); “Lời nói con” (dân tộc Thái). Vị trí của người cha ở đầu lưởi, lật bên nào củng được" (dân tộc trong gia đình được coi là chỗ dựa, trụ cột: Giáy); “Lời nói ở đầu lưỡi, đắng, ngọt ở đấy “Con có cha như nhà có nóc” (dân tộc Việt); cả” (dân tộc Thái)... “ cha có mẹ như nhà có rường, không cha Có Trên đây là một sô" nét chủ yếu về con không mẹ như giường gãy chân” (dân tộc người Việt Nam trong rèn luyện tu dưỡng Mường); “ Con có cha mẹ, nhà có nóc rường”
- TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl 27 (dân tộc Tày); “ Con không cha mẹ như ong (dân tộc Thái)... Trong tục ngữ người Việt, không tồ ’ (lưu ý tục ngữ các dân tộc thiểu ở phía bắc có câu: “Thuyền theo lái, gái theo sô' đểu nói chỗ dựa của cha lẫn mẹ đối với chồng” nhưng ở phía nam lại có câu: “ Nước con cái, có khác với dân tộc Việt), về đạo theo sông, chồng theo vự’ kể ra câu nào làm con đôi với cha mẹ, trước hết là biết ơn cũng có lí nhưng nếu kết hợp được vởi nhau cha mẹ đã sinh ra mình, nuôi dưỡng mình thì sẽ tốt hơn để thể hiện quyền bình đẳng lúc trẻ, vì thế, khi cha mẹ già, con cái phải của vợ chồng trong mọi công việc. Ổ đây, là chỗ dựa của cfya mẹ. Những điều này trong tục ngữ dân tộc Tày từng có sự bình tưởng rằng quá bình thường, có tính chất đẳng đó: “Vợ theo chồng, chồng theo vự’. bổn phận của con cái, th ế mà vẫn có những Quan niệm đó đáng được giao lưu và cùng trường hợp phải phê phán, nhắc nhở về thực hiện trong tấ t cả các dân tộc ở nước ta. nhũng thái độ, hành vi không tốt của con Trong đời sống giữa vợ và chồng cũng cải. Nếu lẽ phải là: “Có cha mới có con, có không ít lúc bất hoà. Tục ngữ các dân tộc khung mới có cửi” (dân tộc Thái), “Trẻ cậy cũng đã đúc kết và định hướng giải quyết. cha, già cậy con” (dân tộc Việt), “Trẻ con Có khi đó là quy luật ‘Trù trừ” thường gặp: dựa bô mẹ, già cả nương con cái" (dân tộc “Thếgian được vợ m ất chồng" (dân tộc Việt, Dao) thì việc trái phải phê phán là: “Cha Mường) để cùng nhận thức, ăn ở thuận hoà mẹ nuôi con bằng trời bằng bể ỉ Con nuôi vói nhau. Cũng có khi nên xem việc bất cha mẹ con kê’ từng ngày" (dân tộc Việt), đồng giữa vợ chồng là chuyện bình thường hay: “Cha mẹ nuôi con mọc răng, con không như “ Bát trong sóng còn có khi xô" (dân tộc thể nuôi cha mẹ răng rụng” (dân tộc Dao)... Việt), hay: “ Chục cái bát bỏ vào nồi còn có Trong quan hệ anh chị em, giá trị được xác tiếng kêu, vợ chồng nói chuyện có lúc xô định trong tục ngữ người Việt và các dân xát" (dân tộc Tày). Trong quan hệ gia đình tộc thiểu số là tình thương yêu, là sự hoà còn có nhiều mối liên hệ khác như trách thuận: “ Anh em như chăn với tay", “ nh em A nhiệm người chồng là chủ gia đình phải lo bát máu xẻ đôi" (dân tộc Việt) và “Chị ngã cho vợ con, không được rượu chè, cờ bạc, em nâng” (dân tộc Việt, Mường), “ Anh em hút xách (tục ngữ các dân tộc đều nói đến liền khúc ruột” (dân tộc Mường), “Máu chảy tệ nạn say rượu, nghiện thuốc phiện... ), ruột trơn” (dân tộc Thái), “ Anh em chém không để tình trạng “ Bán vợ đợ con" (dân nhau đằng sông, không chém nhau đằng tộc Việt), “Mất vợ đợ con" (dân tộc Thái) lưỡi" (dân tộc Việt, Mường)... Trong quan xảy ra, hoặc tình trạng “mẹ chồng nàng hệ vợ chồng, điểm nổi bật là tục ngữ các dâu” mà tục ngữ các dân tộc Việt cũng như dân tộc đều thông nhất ca ngợi sự chung thiểu sô' có nói đến như một “cô' tậ t”, một sông hoà thuận để bảo đảm hạnh phúc cho thành kiến khó xoá bỏ trong xã hội cũ mà gia đình, cho bản thân và con cái: “Thuận ngày nay vẫn còn những rơi rớt: “Thật thà vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn" cũng thể lái trâu /Thương nhau cũng thê (dân tộc Việt); “Thuận vợ thuận chồng tát nàng dâu mẹ chồng" (dân tộc Việt); “ Mẹ ao sâu củng cạn” (dân tộc Dao, Tày); “Vợ chồng thương con dâu như người ăn dâu da chồng ăn ý nhau, tát nước biển Đông có uống nước lã /Con dâu thương mẹ chồng ngày cạn” (dân tộc Tày); “Vợ chồng yêu như quạ thấy quả lòm đom” (dân tộc nhau chém núi đèo củng lở /Vợ chồng Mường); “Than hồng với nước lã, mẹ chồng không yêu nhau chém dây leo không đứt" với nàng dâu" (dân tộc Thái)...
- 28 NGUYỄN NGHĨA DÂN - s o SÁNH NỘI DUNG... Trong quan hệ gia đình cũng có giao vỗ vang rừng' (dân tộc H'Mông)... Đó là hợp tiếp, ứng xử, con cháu phải kính trọng cha lực tạo nên sức mạnh, hoà trong hợp lực là mẹ, ông bà, lễ phép trong chào hỏi “gọi dạ, tình cảm của con người bất cứ thuộc dân bảo vâng”, “đi thưa về trình” (dân tộc Việt), tộc nào: “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” anh chị em phải biết nhường nhịn nhau (dân tộc Việt); “Một con ngựa không ăn cỏ, “ Làm anh làm ả thì ngả m ặt lê n ’ (dân tộc bốn, năm con ngựa nhịn theo” (dân tộc Tày, Nùng), “ Làm em thì lành, làm anh thì Tày); “Một con ngựa không ăn cỏ, cả đàn bỏ mẽ” (dân tộc Việt, Mường), ông bà thương theo” (dân tộc Giáy); “Một con ngựa đau, cả yêu con cháu “nước m ắt chảy xuôi” (dân tộc tàu không ăn cỏ” (dân tộc Tày, Nùng)... Việt, Mường)... Tổng quát lại, quan hệ gia Đoàn kết thương yêu tạo nên sự đồng đình vẫn là: “Một giọt máu đào hơn ao nước lòng để mưu cầu lợi ích của cộng đồng từng lã” (dân tộc Việt), “Máu loãng còn hơn nước dân tộc, nền tảng tạo nên lợi ích chung của đặc” (dân tộc Mường), “ nh em cùng giọt A cả dân tộc Việt Nam. Các dân tộc ở Việt máu, mặn nồng hơn nước ao” (dân tộc Dao). Nam từ lâu đời đã nêu cao tinh thần hoà Điều quý nhất trong đô'i xử với nhau trong hợp, điều mà ngày nay Đảng ta đã tổng kết gia đình mà các dân tộc ở nưốc ta đều nói trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà nghiên đến, Nho giáo, Phật giáo cũng khuyên răn, cứu Trần Hữu Sơn có một nhận xét riêng đó là chữ “nhẫn”, “ Một sự nhịn là chín sự đôi với dân tộc Dao: “Trong quan hệ xã lành” (dân tộc Việt, Mường)... hội... người Dao luôn luôn trọng chữ “hoà”, 2.3. S o s á n h tụ c n g ữ n g ư ờ i V iệt với “hoà đồng”, “hoà hợp”. Vì vậy, trong tục tụ c n g ữ m ộ t sô d â n tộ c th iê u sô ở p h í a ngữ Dao xuất hiện khá nhiều câu đê cao sự b ắ c tr o n g q u a n h ệ x ã h ộ i hoà đồng, thích nghi, lấy nhu trị cương như “Cứng thì gãy”, “ Nước lạnh thôi không Ngoài điểm chung là lòng yêu nước, thành nước nóng, nước nóng thôi thành bảo vệ xây dựng tổ quốc “Giặc đến nhà đàn nước lạnh”, “ Dây to buộc thì cởi dễ, dây nhỏ bà củng đánh” (dân tộc Việt), “Giặc đến buộc thì cởi khó” [14, tr.17]. Có thể nói, tinh bản, cùng nhau đánh” (dân tộc Thái)..., tục thần hoà hợp trong quan hệ xã hội của ngữ người Việt cũng như các dân tộc thiểu người Dao là đại diện cho tinh thần hoà số nói nhiêu đến tinh thần cộng đồng dân hợp của tấ t cả các dân tộc trên đất nước tộc, đoàn kết thương yêu được đúc rút từ Việt Nam ta - tinh thần đó tạo nên sự thực tiễn chinh phục thiên nhiên và đấu khoan dung, nhân ái mà trong nhiều tục tranh chông xâm lược trong quá trình lịch ngữ đã đúc kết: “ Đánh kẻ chạy đi không sử của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, phải đánh kẻ chạy lại” (dân tộc Việt, Dao, Thái), “chung lưng đấu cật” (dân tộc Việt, Mường), “Năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn” phải hi sinh chiến đấu “Chết một đống hơn (dân tộc Việt), “Ngón tay không bằng nhau” sống một người” (dân tộc Mường). Tính (dân tộc Dao, Tày), “Ngón tay có ngón ngắn thông nhất của nội dung biểu đạt bằng tính ngón dài” (dân tộc H'Mông). Chủ tịch Hồ đa dạng, linh hoạt trong ngôn ngữ: “ Một Chí Minh vận dụng sáng tạo tinh thần câu cây làm chang nên non, ba cây chụm lại tục ngữ này để nói lên lòng' khoan dung của nên hòn núi cao” (dân tộc Việt); “ Một cây làm dân tộc Việt Nam ta: “ Năm ngón tay có chang nên non” (dân tộc Tày, Nùng); “Vố tay ngón ngắn ngón dài nhưng đều hợp nhau cần nhiều ngón, bàn việc cần nhiều người” lại nơi bàn tay” để kêu gọi đồng bào tha thứ (dân tộc Thái); “ Một tay vỗ không kêu, ba tay cho những người lầm đường lạc lôi hồi đầu
- TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl 29 cuộc kháng chiến chông Pháp ngay sau to" (dân tộc Thái), “Nhỏ đừng chấp, vụn Cách mạng tháng Tám 1945 ở Nam Bộ. đừng nhặt" (dân tộc Thái)... Tinh thần hoà hợp, lòng khoan dung tạo Cái tô"t trong giao tiếp, nếp sông được cho cả dân tộc Việt Nam ta thích nghi với đúc kết trong tục ngữ, ngược lại, cái xấu “thêm bạn, bớt thù”, “nhiều người yêu hơn cũng bị lên án. Tục ngữ dân tộc Việt cũng kẻ ghét” và ngày nay “Việt Nam muôn làm như các dân tộc thiểu sô" ở phía bắc phê bạn với tấ t cả các nước” [8, tr.67]. phán thói hư tậ t xấu để hướng tối điều Tinh thần đoàn kết hoà hợp của cả dân thiện của con người. Đó có thể là lòng tộc Việt bám sâu rễ bền gốc trong các làng “tham không đáy” (dân tộc Việt), “Trả bằng bản thôn xóm. Các dân tộc ỏ Việt Nam tuy chiêng thấy không đủ, trả bằng ché thấy coi trọng gia đình nhưng không vì thê mà không đủ, trả bằng gùi thấy không đầy” xem nhẹ tình cảm cộng đồng. Câu tục ngữ (dân tộc Mường) và được cảnh báo “Tham người Việt: “ Anh em xa không bằng láng thì thâm ” (dân tộc Việt), “Chim chết vì giềng gần" rấ t gần với nhiều tục ngữ của tiếng hót, người chết vì miếng ăn" (dân tộc các dân tộc thiểu sô": “ nh em xa không A Mường), “Cá thèm ăn thì chết" (dân tộc bằng ba nhà chung rộc" (dân tộc Mường), Dao). Đó có thể là lòng nham hiểm “ Sông “ Anh em xa không bằng chung cầu thang, sâu vẫn đo được đáy, Tong người không đo rãnh nước, sớm chiều có trước có sau” (dân được" (dân tộc Thái), “ Nước sâu thì thấy, tộc Mường), “ Mười anh chị em ở xa không lòng người sâu không thấy” (dân tộc Dao, bằng láng giềng hai cầu thang sân nhà Tày), “ hím gai cắm ngoài da, người gai N châu vào nhau" (dân tộc Tày) “ Anh em ở xa cắm trong bụng” (dân tộc Thái). Đó có thể không bằng anh em đầu thang sớm tối" là tính ích kỉ, bon chen, “ mặt lá trái", Lá (dân tộc Giây)... Cũng từ đó mà quan hệ “ que xỏ lá”, “ Ba Lừa thầy phản bạn”, “Thừa giao tiếp với nhau rấ t thân thiết, gặp nhau gió bẻ măng'... có nhiều trong tục ngữ thì “Tay bắt mặt mừng" (dân tộc Việt), tin người Việt và cũng đều có trong tục ngữ tưởng nhau “Chọn m ặt gửi vàng" (dân tộc của các dân tộc. Việt, Mường), sông chân tình “ Mất lòng Trong quan hệ xã hội có quan hệ kinh trước, được lòng sau” (dân tộc Việt, Mường, tế, từ đó có quan hệ giai cấp. Tục ngữ người Thái), “Quý nhau thì nói thắng, chớ có đê Việt cũng như của các dân tộc vẫn còn để trong lòng” (dân tộc Thái), “Có đi có lại mới lại nhiều câu về sự áp bức bóc lột của giai xoắn vào nhau" (dân tộc Tày - Nùng). Ó cấp phong kiến tạo nên sự đôì lập giàu mức độ cao hơn, đó là tinh thần hợp tác nghèo, sang hèn “ruộng cả ao liền”, “ngồi giúp nhau trong sinh sông làm ăn “Đi có mát ăn bát vàng” (dân tộc Việt), “không bạn, ở có phường" (dân tộc Thái), “ Buôn có mảnh đất cắm dùi” (dân tộc Việt, Tày, bạn, bán có phường" (dân tộc Việt), “ Cho Nùng), “vào nhà quăng gậy không vướng không nén vàng chang thà dạy đàng làm vật gì” (dân tộc Giáy), “ Muốn nói oan làm ăn” (dân tộc Mưòng). quan mà nói" (dân tộc Việt), “ Muốn nói Trong giao tiếp, ứng xử, người Việt, gian làm quan được nói" (dân tộc Tày), người dân tộc thiểu sô" đều chọn nếp sông “Con dân cầm đèn, con quan cưỡi ngựa” chan hoà, nhân ái như lời nói “cho vừa lòng (dân tộc Thái). Các dân tộc không chỉ có ý nhau”, “Lời nói đẹp không phải mua" (dân thức tô' cáo, phản kháng sự áp bức bóc lột tộc Thái), “Lời nói ngọt như mía mật" (dân của giai cấp thông trị mà họ còn nhận thức tộc Thái), đến cách xử sự “ Việc bé đừng xé được vị trí to lớn của mình. Nếu trong tục
- 30 NGUYỀN NGHĨA DÂN - s o SÁNH NỘI DUNG... ngữ người Việt có câu “Quan nhất thời, dân chết, trên hai m ặt cơ bản là trí (học “khôn”) vạn đại” thì trong tục ngữ dân tộc H'Mong và đức (học “nết”) để lao động và sông trong có câu “ Mười đời quan một đời dân” và quan hệ với bản thân, gia đình và xã hội. trong tục ngữ dân tộc Thái có câu “ Mặc áo 3. Cũng như các tục ngữ của người thành quan, cời áo thành dân”... Trong Việt và các dân tộc thiểu sô' trong quan hệ quan hệ kinh tế, tục ngữ các dân tộc cũng với thiên nhiên, câu tục ngữ về quan hệ xã có nói đến hai m ặt của đồng tiền. Đó là hội “đại đồng” vê nội dung nhưng “tiểu chức năng trong lưu thông, trao đổi hàng biệt” về cách thể hiện. Cách thể hiện của hoá, “Đồng tiền trong nhà đồng tiền chửa, tục ngữ người Việt cũng như của các dân đồng tiền ra ngoài đồng tiền để' (dân tộc tộc thiểu sô' thường gắn với hoàn cảnh sinh Việt), “Đồng tiền bước trước coi như đã đi sông, tập quán riêng lẻ của từng dân tộc, được nửa đường xa” (dân tộc Tày). Sức thể hiện qua ngôn ngữ của từng dân tộc. mạnh của đồng tiền trong tục ngữ dân tộc 3. Mức độ q u an hệ giữa tụ c ngữ Việt và các dân tộc thiểu số nói chung bị người V iệ t và tụ c ngữ các dân tộc lên án hơn là được ca ngợi, nó thường gắn th iể u sô ở p h ía Bắc nườc ta chặt vối các quan hệ gia đình, nhất là quan hệ xã hội: “ Đồng tiền đi trước đồng tiền Hai phần trên là so sánh nội dung về khôn, đồng tiền đi sau đồng tiền dại", quan hệ thiên nhiên và quan hệ xã hội giữa “ Mạnh vì gạo, bạo vì tiền", “ tiền mua Có tục ngữ người Việt và các dân tộc thiểu sô' ỏ tiên cũng được” (dân tộc Việt), “ Khôn ông phía bắc nước ta. Dưới đây, bằng phương gạo, bạo ông tiền”, “Có bạc có tiền lấy con pháp thông kê có thể tìm hiểu mức độ quan quan củng dễ" (dân tộc Tày-Nùng); “Giàu hệ giữa tục ngữ người Việt với tục ngũ các có thì tìm đến, nghèo khó quay lưng đi” dân tộc thiểu sô'. Do tư liệu được sưu tầm (dân tộc Giãy); “Giàu dù ở núi củng có về tục ngữ các dân tộc thiểu sô' trên nước ta khách, nghèo dù ở chợ cũng không ai còn hạn chế, dưởi đây chỉ mới so sánh, đối màng” (dân tộc Tày - Nùng)... chiếu tục ngữ người Việt với tục ngữ các Nhìn chung, về mối liên hệ so sánh dân tộc Mường, Tày, Nùng, Thái, Dao, giữa tục ngữ người Việt với tục ngữ các dân H'Mong, Giãy và chỉ xét những tục ngữ vê tộc thiểu sô' trong quan hệ xã hội, có thể kết quan hệ xã hội mà thôi. luận: Qua tư liệu có được, với 836 câu tục 1. Sự thông nhất về nội dung của tục ngữ người Việt so sánh với 897 câu tục ngữ ngữ người Việt so sánh với nội dung của tục của các dân tộc thiểu sô nêu trên, có thê ngữ các dân tộc thiểu số phía bắc nước ta thấy sô' lượng tỉ lệ như sau: rất rõ, đặc biệt trong nội dung về bản chất Sô Tục ngữ các dân tộc Sô câu n ’ /ệ lao động cần cù; về đạo dức hướng thiện; về TT giao tiếp, nếp sông, dựa trên tinh thần 1 Tục ngữ dân tộc Mường 251 27,99 đoàn kết, hoà đồng giữa các dân tộc. 2 Tục ngữ dân tộc Tày - Nùng 187 20,84 2. Trong các nội dung về nhân cách và 3 Tục ngữ dân tộc Tày (riêng) 95 10,59 rèn luyện nhân cách, tục ngữ dân tộc Việt 4 Tục ngữ dân tộc Thái 173 19,22 cũng như các dân tộc thiểu sô' anh em nổi 5 Tục ngữ dân tộc Dao 103 11.44 lên tinh thần hiếu học, với những quan 6 Tục ngữ dân tộc Giãy 49 5,46 điểm vê học tập mọi nơi, mọi lúc, việc gì 7 Tục ngữ dân tộc H'Mõng 39 4,34 cũng cần phải học, học suốt đời, học đến lúc
- TCVHDG SÓ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổ l 31 (Sở dĩ có sự chênh lệch này là do nội giữa người Việt và người Mường giúp cho dung của câu tục ngữ người Việt có thể việc giải thích vì sao tỉ lệ giữa sô’ tục ngữ giông hoàn toàn hoặc chỉ giông một phần người Việt và tục ngữ người Mường không lớn nội dung của tục ngữ từng dân tộc thiểu chỉ có nội dung gần nhau với tỉ lệ khá cao sô’ đang được nghiên cứu). (251/897 câu, 27,99%) mà còn giông nhau Còn dưới đây là bảng thông kê cụ thể hoàn toàn trong quan hệ ngôn ngữ cũng những câu tục ngữ người Việt và những khá cao (73/251 câu, 29,8%). câu tục ngữ của các dân tộc thiểu sô’ hoàn 3. Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái cũng là toàn giông nhau (dựa theo văn bản dịch một nhóm lớn có dân sô’ tương đối đông so của nhiều nhà nghiên cứu, dịch thuật): với các dân tộc thiểu sô khác, trong đó có Sô Tục ngữ các dân tộc S ố câu r i/ệ nhóm Tày - Nùng rấ t gần nhau về ngôn TT ngữ. Người Tày sông rải rác ở 23 tỉnh, đông 1 Tục ngữ dân tộc Mường 73/251 29,8 nhất là ở Cao Bằng, người Nùng sống rải 2 Tục ngữ dân tộc Tày - Nùng 17/187 9,1 rác ở 12 tỉnh, đông nhất là ở Lạng Sơn. 3 Tục ngữ dân tộc Tày (riêng) 10/95 10,5 Người Thái sông rải rác ở 7 tỉnh, đông nhất 4 Tục ngữ dân tộc Thái 14/175 8,1 là ở Sơn La. Cũng như người Mường, Tày, 5 Tục ngữ dân tộc Dao 12/103 11,6 Nùng, Thái sông xen kẽ và giao lưu với 6 Tục ngữ dân tộc Giày 0/49 0 người Việt, xét về nội dung, tục ngữ Việt và 7 Tục ngữ dân tộc H'Mông 0/36 0 Tày, Nùng giông nhau khá nhiều (Tày - Nùng là 187/897 câu, chiếm 20,84%; riêng Nước ta có 54 dân tộc, về ngôn ngữ (bộ Tày là 95/897 câu, chiếm 10,59%) và sô’ tục phận quan trọng nhất có quan hệ trực tiếp ngữ hoàn toàn giông nhau trong quan hệ trong so sánh, đô’ chiếu tục ngữ của người i ngôn ngữ cũng vậy (Tày - Nùng là 17/187 Việt vổi tục ngữ của các dân tộc đang được câu, chiếm 9,1%; riêng Tày là 10/95 câu, nghiên cứu), theo ba họ ngôn ngữ lớn là chiếm 10,5%). Tục ngữ người Việt và người Nam Á, Nam Đảo và họ Hán Tạng. Họ Thái cũng giông nhau một sô’ (173/897 câu, ngôn ngữ Nam A gồm: chiếm 19,22%) và sô’ tục ngữ hoàn toàn 1. Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Môn giống nhau trong quan hệ ngôn ngữ là - Khơme, H'Mông - Dao và nhóm Tày - 14/173 câu, chiếm 8,1%). Người Giáy cũng Thái thuộc họ Nam Á. Tục ngữ các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ này. Họ sông ở các thiểu sô’ được nghiên cứu ở đây đều thuộc tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, nhóm ngôn ngữ trong họ Nam Á, cho nên Yên Bái, Lào Cai. Do địa bàn cư trú của có môi liên hệ và giao lưu ngôn ngữ thể người Giáy thuộc vùng cao, do quan hệ giao hiện trong môĩ liên hệ của tục ngữ. lưu văn hoá và ngôn ngữ nên tục ngữ Giáy 2. Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường trong và Việt giông nhau không nhiêu trong nội họ ngôn ngữ Nam Á là một nhóm lớn có dung và trong quan hệ ngôn ngữ (về nội dân sô’ đông. Người Mường cư trú xen kẽ dung giông nhau: 49/897 câu, chiếm 5,46% vởi người Việt ở các tỉnh Sơn La, Hải và trong ngôn ngữ là 0%). Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hoá, 4. Nhóm ngôn ngữ H'Mong - Dao cũng Hoà Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng là một nhóm lớn trong đó có người Dao Bình... Điều kiện phân bô’ dân cư xen kẽ sông rải rác ở 14 tỉnh như Hoà Bình, Hà
- 32 NGUYỄN NGHĨA DÂN - s o SÁNH NỘI DUNG... Giang, Tuyên Quang... Giao lưu văn hoá và hiện đa phương giữa các dân tộc với nhau. ngôn ngữ giữa người Dao và người Việt xen Có thể nêu đôi ví dụ trong khá nhiêu kẽ trong quan hệ địa bàn cư trú nên tục trường hợp về biểu hiện đa phương này. ngữ có nội dung gần giông nhau giữa người Tục ngữ người Việt có câu: “ Đèn nhà ai ấy Việt và người Dao cũng được thể hiện ít rạng”, tục ngữ Thái có câu: “ Đèn nhà nào nhiều về nội dung cũng như vê' ngôn ngữ rạng nhà ấy”, tục ngữ Dao có câu: “ Đèn nhà (103/897 câu có nội dung gần nhau, tỉ lệ ai sáng nhà ấy” và tục ngữ Mường có câu: 11,44% và 12/103 câu, tỉ lệ 11,6%). Còn “Đèn nhà ai rạng nhà ấy”. Tục ngữ Việt có người H’Mông tuy số dân đông hơn người câu: “Đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ Dao nhưng họ ở vùng núi cao các tỉnh Hà chạy lại”, tục ngữ Tày cũng có câu: “ Đánh Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lai Châu, kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại” còn Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hoà Bình, tục ngữ Dao chỉ khác một tiếng “về” so với Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,... nên nội tục ngữ Việt hay Tày: “ ánh kẻ chạy đi Đ dung giông nhau trong tục ngữ Việt - không ai đánh kẻ chạy v ề ’... Mường không nhiều (36/897 câu, chiếm tỉ lệ 4,34%) còn quan hệ ngôn ngữ giữa tục K ế t lu ậ n ngữ người Việt và H Mông chưa thây biểu Nước ta có 54 dân tộc anh em cho nên hiện. quan hệ dân tộc là quan hệ xã hội tổng hợp, Qua phân tích, so sánh trên đây, tổng từ quan hệ giữa người vởi người, quan hệ hợp lại có thể thấy điều kiện địa bàn cư trú giai cấp, quan hệ các dân tộc với nhau trên xen kẽ và hệ ngôn ngữ cùng nhóm Nam Á các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã giữa người Việt và người dân tộc thiểu sô' ở hội giao lưu, tác động lẫn nhau trong đó có phía bắc nước ta là điều kiện thuận lợi cơ giao lưu về tục ngữ của các dân tộc. Điều bản cho quan hệ giao lưu văn hoá, tục ngữ. này Lênin đã phát hiện: “Trong chừng mực Vê m ặt lịch sử, các dân tộc anh em sông mà các dân tộc còn chung sông trong một trên địa bàn phía bắc nước ta vôn có quan quốc gia thì họ gắn bó với nhau bằng hàng hệ lâu đời vối nhau, riêng tục ngữ các dân ức, hàng triệu mốì liên hệ về kinh tế, luật tộc tuy đa dạng trong biểu hiện nhưng khá pháp và tập quán [12, tr.26]. Lênin cũng đã thông n h ất trong nội dung. Đáng chú ý là phát hiện tính quy luật p h át triển của quan hệ giao lưu và tác động lẫn nhau về quan hệ giữa các dân tộc, đó là quá trình văn hoá, ngôn ngữ thể hiện trong tục ngữ phát triển, trưởng th àn h ý thức của mỗi Việt và tục ngữ Mường đậm nét hơn, có thể dân tộc xảy ra đồng thời với quá trình liên được giải thích do địa bàn cư trú của người hiệp, xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Mường chủ yếu ở vùng trung du, nơi đây Điều này đang xảy ra ở nước ta. Văn kiện người Việt và người Mường sông xen kẽ đại hội Đảng toàn quô'c lần thứ Vĩ đã nêu nhau, có nơi ở m ật độ cao. rõ: “Sự phát triển mọi m ặt của từng dân tộc Mức độ quan hệ giữa tục ngữ người đi liền vói sự củng cô', phát triển của cộng Việt và tục ngữ các dân tộc thiểu sô' ở phía đồng các dân tộc trên đâ't nưởc ta” [3, bắc nươc ta với đặc điểm cơ bản là thông tr.98]. Như vậy, có thể thây hai hình thức nhâ't và đa dạng; đó không chỉ biếu hiện của quan hệ dân tộc ở nước ta: quan hệ song phương giữa tục ngữ người Việt và tục trong nội bộ từng dân tộc và quan hệ giữa ngữ của một dân tộc thiểu sô' mà còn biểu các dân tộc với'nhau. Mối liên hệ bên trong
- TCVHDG SỐ 4/2006 - NGHIÊN cứu TRAO Đ ổl 33 từng dân tộc và mô’ liên hệ bên ngoài của i TÀI LIỆU THAM KHẢO các dân tộc tạo nên những đặc thù của từng 1. Ban Văn hoá văn nghệ Trung ương dân tộc và trong quá trình phát triển của (1989), Văn hoá Việt Nam, Memento tổng hợp lịch sử Việt Nam nói chung, tạo nôn đặc 1989- 1995. diêm chung có tính thông nhất trong quan 2. Các Mác (1957), “Luận đê' về Phơ-bách” hệ giữa các dân tộc. Điều này có thê thây (Phụ lục sách của Ăng ghen), trong cuốn Phơ bách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, và được chứng minh trong nghiên cứu tục Nxb. Sự thật. ngữ người Việt và các dân tộc thiểu số trên 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1987), Văn đây. Là văn hoá phi vật thể giàu chất trí kiện đại hội toàn quốc lần VI, Nxb. Sự thật. tuệ và thực tiễn hơn các loại thể văn học 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn các dân tộc khác, tục ngữ trong phát triển kiện Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá VIII), Nxb. Chính trị quôc gia. đặc thù của từng dân tộc và giao lưu vổi các 5. Cao Sơn Hải (2002), Tục ngữ Mường dân tộc khác tạo nên tính đa dạng của tục Thanh Hoá, Nxb. Văn hoá - Thông tin. ngữ từng dàn tộc nhưng được liên hệ trong 6. Nguyễn Xuân Kính chù biên (2002), tính thông nhất của dân tộc Việt Nam. Kho tàng tục ngữ người Việt, tập 1, 2, Nxb. Văn Điều này đã thấy rõ nét trong tục ngữ hoá - Thông tin. người Việt quan hệ vói tục ngữ các dân tộc 7. Đặng Văn Lung (1994), Tục ngữ - Văn thiểu số ồ phía bắc. Qua một số tài liệu sưu học dân gian các dân tộc, Nxb. Văn hoá dân tộc. tầm được tuy không nhiều, chúng tôi cũng 8. Hồ Chí Minh (1967), Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, tr.67. đã thấy tính thông nhất và đa dạng ấy trong tục ngữ các dân tộc ở phía nam nước 9. M. Rô-den-tan và P.I-u-din (1976), Từ điển triết học, Nxb. Sự thật. ta. Tục ngữ các dân tộc ở nước ta đã góp 10. Hà Văn Nam (1999). Tục ngữ Thái, phần quan trọng để nhận tính thông nhất Nxb. Văn hoá dân tộc. trong những đặc thù đa dạng của nền văn 11. Lê Khánh Nguyên (1993), Tục ngữ, ca hoá của dân tộc Việt Nam với bản sắc dao, dân ca dân tộc Thái Nghệ An, Nxb. Nghệ chung “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, lòng An - Vinh. tự tôn tự cường dân tộc, tinh thần cộng 12. Dẫn theo Trần Quang Nhiếp (1998). Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay, đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Nxb. Văn hoá dân tộc, tr.26. Tổ quốc, lòng nhân ái bao dung, trọng 13. Lục Văn Pảo (1991), Thành ngữ Tày, nghĩa tình đạo lí; là đức tính cần cù sáng Nxb. Văn hoả dân tộc. tạo trong lao động; là đức hi sinh cao 14. Trần Hữu Sơn (1999), Tục ngữ câu đò' thượng, tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh dàn tộc Dao, Nxb. Văn hoá dân tộc. phúc của nhân dân; là sự tê nhị trong cư 15. Lò Ngân Sủn (1994), Tục ngữ Giáy, xử, tính giản dị trong lôi sô'ng”[4, tr.10]. Nxb. Văn hoá dân tộc. Nhìn lại kho tàng tục ngữ các dân tộc ỏ 16. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (2002), Tổng tập văn học các dãn tộc thiêu sô Việt Nam, nước ta (phía bắc và có thể ở phía nam nữa) tập 1, quyển I, Nxb. Dà Nằng. những điêu đã ghi trên đây, bằng cách này 17. Lê Trung Vũ (1994), Tục ngữ và câu đô hay cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp, đều H ‘Mông, Nxb. Văn hoá dân tộc. được đúc kết, phản ánh đầy đủ và chân thực.d N .N .D
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn