intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sơn tra - một vị thuốc quý

Chia sẻ: Kata_3 Kata_3 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

79
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sơn tra, dân gian còn gọi là Hồng quả, Sơn lý hồng, Đường lệ tử, Yên chi quả… có tên khoa học là Crataegus pinnatifida Bunge (sơn tra, bắc sơn tra) hoặc Crataegus cuneata Sieb. Et Zucc (dã sơn tra, nam sơn tra), vốn là một dược liệu được y học cổ truyền dùng làm thuốc từ hơn 3000 năm nay. Sơn tra, dân gian còn gọi là Hồng quả, Sơn lý hồng, Đường lệ tử, Yên chi quả… có tên khoa học là Crataegus pinnatifida Bunge (sơn tra, bắc sơn tra) hoặc Crataegus cuneata Sieb. Et Zucc (dã sơn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sơn tra - một vị thuốc quý

  1. Sơn tra - một vị thuốc quý Sơn tra, dân gian còn gọi là Hồng quả, Sơn lý hồng, Đường lệ tử, Yên chi quả… có tên khoa học là Crataegus pinnatifida Bunge (sơn tra, bắc sơn tra) hoặc Crataegus cuneata Sieb. Et Zucc (dã sơn tra, nam sơn tra), vốn là một dược liệu được y học cổ truyền dùng làm thuốc từ hơn 3000 năm nay. Sơn tra, dân gian còn gọi là Hồng quả, Sơn lý hồng, Đường lệ tử, Yên chi quả… có tên khoa học là Crataegus pinnatifida Bunge (sơn tra, bắc sơn tra) hoặc Crataegus cuneata Sieb. Et Zucc (dã sơn tra, nam sơn tra), vốn là một dược liệu được y học cổ truyền dùng làm thuốc từ hơn 3000 năm nay.
  2. Theo các y thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo kinh sơ, Bản thảo quảng ngôn, Bản thảo cầu chân, Bản thảo kinh giải, Nhật dụng bản thảo, Tân tu bản thảo, Dược phẩ m hoá nghĩa, Sơn tra vị chua ngọt, tính hơi ấm, vào 3 kinh Tỳ, Vị và Can, có công dụng tiêu thực hoá tích, hoạt huyết tán ứ, được xếp vào nhóm thuốc Tiêu thực, thường dùng để chữa các chứng bệnh như thực tích đình trệ, tỳ hư thực trệ, phúc thống do ứ trở, sán khí, tiết tả do thực tích, bế kinh do huyết ứ, xuất huyết đường tiêu hoá, lỵ tật… Ví như, sách Bản thảo cương mục viết: “Sơn tra hoá ẩ m thực, tiêu nhục tích, trưng hà, đàm ẩm bĩ mãn thôn toan, trệ huyết thống chướng” (sơn tra tiêu hoá đồ ăn thức uống, tiêu thịt, khối tích trong bụng, đàm ẩ m đình trệ, chướng bụng đầy hơi, nuốt chua, đau chướng do huyết trệ); sách Bản thảo tái tân viết: “Sơn tra trị tỳ hư thấp nhiệt, lợi đại tiểu tiện, tiểu nhi nhũ trệ phúc thống”; sách Y học trung trung tham Tây lục viết: “Sơn tra vị chí toan vi cam, tính bình, vi hoá ứ huyết yếu dược. Nhân kỳ vị toan nhi vị cam, năng bổ vị toan dịch, cố năng tiêu hoá thực tích trệ, dĩ nhị nhục tích vưu hiệu” (sơn tra vị rất chua mà hơi ngọt, tính bình, là vị thuốc tiêu máu ứ quan trọng. Vì vị của nó chua mà hơi ngọt nên tăng cường chất chua trong dịch vị, có thể làm tiêu thức ăn tích trệ, dùng để trị chứng cơ bắp mỏi mệt rất có công hiệu). Tuy nhiên, theo cổ nhân công dụng của Sơn tra còn tuỳ thuộc vào phương thức bào chế. Sinh sơn tra (quả tươi bỏ hạt, thái mỏng, sấy khô) có tác dụng hoạt huyết hoá ứ, tiêu thực rất mạnh, thường dùng để chữa bế kinh do huyết ứ, đau bụng do ứ trệ
  3. sau khi sinh nở, cao huyết áp, rối loạn lipid máu, bệnh lý động mạch vành, sán khí… Sơn tra sao (dùng lửa vừa phải sao cho đến khi dược liệu chuyển màu sẫ m hơn) vị chua giảm bớt, có tác dụng hoà vị, tiêu thực hoá tích, thường dùng để chữa trị rối loạn tiêu hoá, thức ăn đình trệ chậm tiêu. Tiêu sơn tra (dùng lửa vừa phải sao cho đến khi mặt ngoài dược liệu chuyển màu đen, bên trong có màu vàng thẫm) vị chua giảm nhiều, có thêm vị đắng, có tác dụng tiêu thực, chỉ tả khá mạnh, thường dùng để chữa đi lỏng do thương thực. Sơn tra thán (dùng lửa mạnh sao cháy đen cả trong và ngoài) vị đắng, sáp, có công dụng thu sáp, chỉ tả và chỉ huyết khá mạnh, thường dùng để trị đi lỏng do tỳ hư thực trệ, lỵ trực khuẩn, xuất huyết dạ dày, ruột… Về thành phần hoá học, thịt quả sơn tra tươi chứa 0,7% chất đạm, 0,2% chất béo, 22% chất đường, có các acid hữu cơ như crategolic acid, malic acid, oxalic acid, succinic acid, acetic acid, citric acid, ursolic acid, linoleic acid, linolenic acid, palmitic acid, oleic acid, stearic acid, giàu vitamin C (0,03% - 0,1%, đứng hàng thứ tư trong các loại hoa quả giàu vitamin C), vitamin B2 (đứng hàng đầu trong các loại hoa quả, ngang với chuối tiêu), caroten (đứng thứ hai trong các loại hoa quả) và Canxi (mỗi 100g sơn tra có chứa 85mg Canxi thuộc loại cao nhất trong các loài hoa quả). Ngoài ra, sơn tra còn chứa Chì, sắt, tanin, acetylcholine, phytosterrin.
  4. Trong mười năm gần đây, dưới ánh sáng của những nghiên cứu hiện đại, các nhà khoa học ngày càng nhận thấy sơn tra có tác dụng dược lý khá phong phú như: (1) Nâng cao năng lực hoạt động của hệ tiêu hoá (thúc đẩy bài tiết dịch vị và dịch mật, gia tăng hoạt tính của các men tiêu hoá như amylolytic enzyme, lipolytic enzyme…, điều tiết sự co bóp của cơ trơn dạ dày và ruột. (2) Ức chế một số vi khuẩn như trực khuẩn lỵ, coli, than, bạch hầu, thương hàn, mủ xanh và tụ cầu vàng; sơn tra sao đen có khả năng hấp thụ các chất hoại tử và độc tố của vi khuẩn, làm giả m kích ứng thành ruột và làm giảm nhu động ruột nhờ đó mà có tác dụng giảm đau, chỉ lỵ và cầm đi lỏng. (3) Hạ mỡ máu, đặc biệt là cholesterol, ức chế sự lắng động của chất mỡ ở thành mạch, vì thế có tác dụng dự phòng tích cực quá trình tiến triển của bệnh vữa xơ động mạch. (4) Hạ huyết áp, làm giãn và gia tăng lưu lượng động mạch vành tim, giảm thấp lượng oxy tiêu thụ của cơ tim, qua đó nâng cao năng lực hoạt động của hệ tim mạch và phòng chống hữu hiệu các bệnh lý thuộc động mạch vành. (5) Chống ngưng tập tiểu cầu. (6) Tăng cường sức miễn dịch của cơ thể.
  5. (7) Lợi tiểu. (8) Làm giãn phế quản, thúc đẩy hoạt động của hệ vi nhung mao ở thành phế quản nhờ đó mà có tác dụng hoá đờm bình suyễn. (9) Điều hoà kinh nguyệt, giảm đau và làm cho tử cung hồi phục nhanh sau khi sinh nở. (10) Trấn tĩnh, an thần (11) Chống oxy hoá, bảo hộ tế bào gan. (12) Phòng chống ung thư. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu tác dụng dược lý và kế thừa kinh nghiệm của người xưa, trong lâm sàng người ta đã sử dụng sơn tra để điều trị khá nhiều mặt bệnh như rối loạn lipid máu, vữa xơ động mạch, cao huyết áp, cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, rối loạn nhịp tim, bệnh Ke-shan, tiểu đường, béo phì, lỵ trực khuẩn cấp tính, viêm ruột cấp tính, viêm gan, bệnh giun sán, viêm cầu thận cấp và mạn tính, đái dưỡng chấp, viêm túi mật, rối loạn tiêu hoá do ăn quá nhiều thịt, thiếu canxi, trẻ em suy dinh dưỡng, bế kinh, sản hậu ứ trệ đau bụng, viêm da, mày đay…
  6. Ở ta, trên thực tế, không có sơn tra loài Crataegus (sơn tra thật). Trước đây, sơn tra hoàn toàn nhập của Trung Quốc, nhưng nhiều năm gần đây ta dùng quả của cây chua chát (Malus doumeri (Bois) Chev. hay Docynia doumeri (Bois) Schneid) và cây táo mèo (Docynia india (Mall) Dec.) để thay thế. Mặc dù cả hai loại này cũng được bán sang Trung Quốc với tên sơn tra nhưng do nguồn gốc khác nhau nên rất cần phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và khoa học. Đáng tiếc là, cho đến nay, các công trình khảo sát toàn diện về hai cây này còn quá thưa thớt. Trên thị trường đông dược hiện tại có một số thành phẩ m của ta được quảng cáo là chế từ sơn tra với công dụng làm giả m mỡ máu, chống béo phì… chẳng biết có phải là loài sơn tra thật hay không ?
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2