JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Science, 2018, Vol. 63, Iss. 1, pp. 90-94<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0013<br />
<br />
SỰ ĐAN CÀI GIỮA CÁC MIỀN KHÔNG GIAN<br />
TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ TRƯỚC 1945<br />
Hồ Thị Thanh Thủy<br />
<br />
Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội, Trường Đại học Đồng Nai<br />
Tóm tắt. Nói đến Lưu Trọng Lư, độc giả thường nhớ tới một thi sĩ đa tình. Nếu trong thơ,<br />
ông chủ yếu kiến tạo không gian của cõi mộng thì trong văn xuôi tự sự thời kì trước 1945,<br />
Lưu Trọng Lư lại chú ý đan cài không gian xa xăm với không gian cụ thể lại với nhau.<br />
Ở đây, không gian mộng ảo của cõi tiên ẩn hiện trong cuộc sống trần thế, và để đi vào<br />
được cõi đó, độc giả phải trải qua khoảng không gian mập mờ của cõi âm hồn và trần gian,<br />
Không gian của miền cổ tích và thực tại, hay không gian của cuộc sống đương thời và vùng<br />
kí ức cũng được nhà văn lưu ý tạo dựng.<br />
Từ khóa: Đan cài, không gian xa xăm, không gian cụ thể, văn xuôi tự sự.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Trước cách mạng, bên cạnh thơ, Lưu Trọng Lư còn sáng tác một khối lượng văn xuôi khá<br />
lớn. Những nghiên cứu về không gian trong văn xuôi của ông trước đây thường thiên về không<br />
gian thật và không gian ảo [1, 3, 4], còn vấn đề sự đan cài giữa các miền không gian vẫn là một<br />
khoảng trống. Do vậy, bài viết tìm hiểu “Sự đan cài giữa các miền không gian trong văn xuôi tự sự<br />
Lưu Trọng Lư trước 1945” nhằm góp tiếng nói hoàn thiện hơn về bức tranh không gian của mảng<br />
văn xuôi tự sự mà nhà văn đã sáng tác trước Cách mạng.<br />
Nếu không gian trong văn xuôi trữ tình lãng mạn giai đoạn trước 1945 của các tác giả Thạch<br />
Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh. . . thường là không gian xám xịt, hiu hắt, phẳng lặng,<br />
bất định, hoang vắng của một phố huyện nghèo, một làng quê, một ga xép. . . thì trong văn xuôi<br />
tự sự của Lưu Trọng Lư cùng thời kì thường là sự đan cài của khoảng không gian xa xăm với một<br />
không gian cụ thể.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Sự đan cài giữa không gian cõi tiên và không gian trần tục<br />
<br />
Từ đầu thế kỉ XX đến 1945, các thể loại văn học đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Trong<br />
đó phải kể đến tác phẩm văn xuôi trữ tình của Thạch Lam, Xuân Diệu, Đỗ Tốn, Ngọc Giao, Thanh<br />
Tịnh, Hồ Dzếnh. Đọc những tác phẩm này, chúng ta thấy rõ dụng công của các nhà văn khi tạo<br />
dựng những không gian có tính đặc thù. Không gian trong sáng tác của Thạch Lam ngập tràn bóng<br />
Ngày nhận bài: 15/11/2016. Ngày sửa bài: 4/1/2018. Ngày nhận đăng: 14/1/2018.<br />
Liên hệ: Hồ Thị Thanh Thủy, e-mail: thuyhodhdn@gmail.com.<br />
<br />
90<br />
<br />
Sự đan cài giữa các miền không gian trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945<br />
<br />
tối, phủ màu hiu hắt của một phố chợ tồi tàn, lụp xụp, xóm nghèo ngoại ô hay cái làng quê tăm<br />
tối. Trong văn xuôi Xuân Diệu, đó là một không gian phẳng lặng, xám xịt. Không gian làng Mỹ<br />
Lý của truyện Thanh Tịnh thường gắn với cây đa, bến nước, sân đình với những vẻ đẹp nên thơ và<br />
bình lặng để đối lập với sự ồn ào của nhà ga, đường sắt, con tàu đang dần phá vỡ sự bình yên của<br />
những giá trị truyền thống. Không gian người đọc thường gặp ở văn xuôi Hồ Dzếnh là không gian<br />
tù đọng, bất định, hoang vắng. . . Với những cách thể hiện không gian như vậy, các tác giả muốn<br />
biểu thị cái nhìn của họ về thế giới thực tại vốn ngưng trệ, tù hãm.<br />
Cũng miêu tả không gian như các nhà văn cùng thời, nhưng không gian trong văn xuôi tự<br />
sự Lưu Trọng Lư có sự đan cài giữa không gian xa xăm với không gian cụ thể.<br />
Xuất phát là một nhà thơ lãng mạn nên tấm lòng Lưu Trọng Lư lúc nào cũng thổn thức, tâm<br />
hồn ông lúc nào cũng mơ màng, ông đem xáo trộn thực với mộng, mộng với thực, tiên với người,<br />
tiên với tục tạo nên một không gian mộng ảo của cõi tiên ẩn hiện trong cuộc sống trần thế. Vì lý do<br />
đó, tác giả đã tạo nên một không gian cõi tiên để cho các súc vật biết trò chuyện, chim muông có<br />
thể nói và hiểu được tiếng người, các cây cỏ, hoa lá có thể khiêu vũ, và đá cuội có thể mỉm cười.<br />
Lưu Trọng Lư đã thổi nguồn cảm hứng về thế giới thần tiên mộng ảo vào những trang văn xuôi<br />
của mình.<br />
Trà Hoa Nữ đưa người đọc lạc vào không gian của cõi tiên, nơi đó tất thảy loài vật đều hiểu<br />
tiếng người: “Hai vợ chồng nhà khỉ đang cãi nhau về việc nhà... một bầy phượng đang quây quần<br />
bên bàn rượu” [5; tr.220]. Có khi là một con đười ươi hình thù kì dị biết rơi những giọt nước mắt<br />
van lơn, bầy vượn đua nhau cười khúc khích, hay năm mươi con phượng đang múa bỗng biến thành<br />
những con bướm đủ sắc màu lộng lẫy. Trà Hoa Nữ là nàng tiên sống ở trong Tây động, lúc tiên ông<br />
đi vắng đã cứu Lương Hà Dật - một cống sinh ở làng Cô Tử đã ba lần lều chõng đi thi nhưng vẫn<br />
hỏng, quyết định cạo đầu ăn chay xuất gia tu hành. Chàng đi về phía Tây Động và gặp Trà Hoa<br />
Nữ. Đưa Lương Sinh về Tây động, ngỡ rằng sẽ trọn kiếp tu hành nơi hoa thơm cỏ lạ, quanh năm<br />
cây cối tốt tươi, nhưng chàng vẫn bị khuất phục bởi hai tiếng “Ái tình”. Nơi đây chàng và Trà Hoa<br />
Nữ đã có những tháng ngày vui vẻ. Con đường tìm về kiếp tu hành của Lương Sinh thật ra là cuộc<br />
phiêu của ái tình nơi không gian của cõi tiên mông lung, huyền bí. Tác giả đưa chúng ta lạc vào<br />
thế giới của cõi tiên, nơi có những rừng cây rợp bóng xanh mát, đủ thứ hoa thơm cỏ lạ đua nhau<br />
khoe sắc, cùng các nàng tiên xuất hiện với cành liễu phớn trên tay, trong những bộ xiêm y lộng lẫy<br />
cùng về quần hội với bầy phượng cung kính hầu rượu. Lương Hà Dật đang sống nơi cõi tiên vui<br />
vẻ cùng Trà Hoa Nữ, nhưng vẫn theo mô típ quen thuộc, cõi tiên và cõi người là hai không gian<br />
khác nhau nên tình yêu không thể nào bền chặt. Ngày tiên ông đi hái thuốc trở về cũng là ngày hai<br />
người rời xa nhau. Lương Hà Dật trở về với không gian của trần thế, sống ở làng Cô Tử của chàng<br />
và trong lòng mang theo một mối tình chung thủy, còn Trà Hoa Nữ cũng không quên được chàng<br />
thư sinh trần tục, trong lốt một cô gái mười chín tìm về xóm Quỳnh Thôn, viết lại mấy câu thơ gửi<br />
thăm người cũ.<br />
Nếu Trà Hoa Nữ đan cài giữa không gian đẹp đẽ, lộng lẫy của cõi tiên với không gian của<br />
một xóm nghèo Quỳnh Thôn nơi trần tục, thì trong tiểu thuyết Hương Giang sử, người đọc thấy<br />
xuất hiện một thứ không gian của thuở trời đất còn ở trong cảnh hoang vu, nước dòng Hương<br />
Giang trong vắt, đánh dấu lãnh địa của cõi tiên. Mở đầu tiểu thuyết là hình ảnh một người tiều<br />
phu bế đứa con thơ đi dọc theo dòng sông Hương về phía mặt trời mọc để tìm người yêu. Trong<br />
đêm, nơi rừng thiêng nước độc, đầy cọp beo, do sợ hãi, thất vọng chàng tiều phu ôm con nhảy tùm<br />
xuống nước. Chiếc bè của tiên nữ đã cứu chàng. Giọng hát du dương của nàng đã ru cha con chàng<br />
tiều phu vào giấc ngủ say rồi nàng âm thầm ra đi mãi mãi. Chàng đâu biết rằng người mà chàng<br />
mới gọi là “lệnh bà” đến từ cõi tiên lại chính là Mai Nương - người vì say mê cuộc sống trần tục<br />
đã trốn khỏi cõi tiên để xuống hạ giới sống hạnh phúc với chàng như vợ chồng đã bảy năm trời và<br />
91<br />
<br />
Hồ Thị Thanh Thủy<br />
<br />
có một đứa con thơ. Nhưng tiên và người là hai cõi khác nhau không thể có hạnh phúc vững bền.<br />
Mai Nương – tiên nữ lặng lẽ trở về tiên giới trong đau xót, nhớ thương, lưu luyến. Đứng giữa dòng<br />
Hương Giang bao la, nàng rơi những giọt nước mắt khóc cho khối tình tuyệt vọng. Còn chàng tiều<br />
phu ngày ngày vẫn ôm đứa con thơ cùng mối tình sâu sống ở cõi trần và quyết đi tìm vợ dù đầu<br />
xanh hóa ra đầu bạc.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Sự đan cài giữa không gian cõi âm hồn, miền cổ tích và trần gian<br />
<br />
Ngoài cách tạo dựng đan xen giữa không gian của tiên giới và trần thế, Lưu Trọng Lư còn<br />
đưa người đọc đi vào không gian của cõi âm qua việc đặt nhân vật sống mập mờ giữa hai khoảng<br />
không gian âm – trần mà không hay biết. Trong văn học, ta dễ bắt gặp những truyện thể hiện đề<br />
tài liêu trai, ma quái. Những bộ sách Thi kinh, Tả truyện của nhiều tài tử thời Tiên Tần đã ghi chép<br />
rất nhiều giấc chiêm bao. Trên cơ sở ấy, từ thời Đường, Tống về sau, loại sáng tác này đã phát<br />
triển thành một dòng văn học mộng ảo. Bên cạnh thế giới thần tiên, mộng ảo, trong tác phẩm văn<br />
xuôi tự sự của Lư Trọng Lư, chúng ta còn thấy sự đan xen giữa không gian của cuộc sống thực tại<br />
và không gian hoang đường, liêu trai, không gian của cổ tích. Điều này được thể hiện trong tiểu<br />
thuyết Người nữ tỳ của Bà Chúa Liễu với không gian bao la, có màu trắng xóa cùng tiếng sóng vỗ<br />
rì rào nơi Đèo Ngang – một không gian mập mờ của chốn âm hồn ớn lạnh. Lê Sinh là con một vị<br />
đại thần đang giữ chức tại kinh, nghe tin cha ốm nặng, chàng một mình từ Nghệ An trẩy kinh bằng<br />
bạch mã. Tới Đèo Ngang, trời tối, ngựa không chịu đi, giữa chốn trời nước bao la chàng thấy một<br />
chiếc thuyền không người cắm ở trên bờ, chàng mạnh bạo bước vào thấy sẵn có bàn đèn, chàng<br />
thiu thiu ngủ vì mệt, chợt có một thiếu nữ bận áo quần trắng và chân bước nhẹ như khói đi vào<br />
nằm bên cạnh bàn đèn cùng Lê Sinh. Hai người cũng hút thuốc phiện và chuyện trò qua lại: “Lê<br />
Sinh đã thấy mơ mơ màng màng, tâm hồn như chập chờn trong cõi mộng” [5; tr.236]. Sáng ra tỉnh<br />
giấc thì mọi vật biến đi đâu hết, con ngựa bạch cũng bị đánh cắp chỉ còn lại chàng nằm một mình<br />
trơ trơ trên bãi cát: “Chàng đứng dậy gọi to mấy tiếng. Nhưng chàng chỉ nghe có tiếng dội lại rất<br />
hãi hùng của mấy tảng đá xa” [5; tr.236]. Lần thứ hai Lê Sinh, lại “gặp may” khi chàng gặp một<br />
tốp phu cáng, chàng được tiểu thư chủ nhân nhường cho lên cáng và từ đây hai người trở thành<br />
người bạn đồng hành suốt quãng đường đèo cong queo. Suốt cuộc hành trình chàng được nghe<br />
mấy người phu kể chuyện Nường Ba nghe rùng rợn, lạ lùng. Nường Ba vốn là nữ tỳ của Bà chúa<br />
Liễu năm xưa, vì mắc tội, nên trốn đi, trở thành một cô lái đò vào ở đèo Ngang, nơi có nhiều khách<br />
qua lại để phục vụ. Qua lời kể của mấy người phu cáng, Nường Ba không phải là người vì bà có<br />
thể xuất quỷ nhập thần. Lê Sinh cùng người con gái đẹp tiếp tục đồng hành suốt chặng đường đèo<br />
hiểm trở. Lúc dừng chân, hai người tâm sự và đột nhiên người con gái đẹp biến đi đâu mất khiến<br />
Lê Sinh sửng sốt, vừa buồn não vừa thấy ghê rợn để rồi lủi thủi bước đi. Câu chuyện dẫn chúng ta<br />
vào cuộc hành trình giống như đi vào thế giới cõi mộng ảo, lúc mơ, lúc tỉnh, thực thực, hư hư, rờn<br />
rợn, lạnh lùng. Mấy ai nghĩ rằng Lưu Trọng Lư có cách kết câu chuyện đầy bất ngờ, lạnh người,<br />
khi để cho hai người phu cáng nhìn thấy Lê Sinh quay ra một mình với bộ dạng gấp gáp, lo lắng,<br />
sợ sệt và họ phát hiện ra người con gái đi cùng mình suốt quãng đường vượt đèo chính là Nường<br />
Ba. Lê Sinh trên con đường vượt đèo, hai lần gặp người đẹp, hai lần đều có tình cảm lưu luyến<br />
mến thương. Tuy nhiên, hai người con gái đó thực ra chỉ là một. Người nữ tỳ của Bà chúa Liễu mà<br />
người dân quen gọi là Nường Ba chính là một hồn ma. Mọi người đàn ông vượt đèo đều không<br />
thoát khỏi lưới tình Nường Ba giăng sẵn.<br />
Bên cạnh đó, việc đan cài không gian của miền cổ tích và thực tại cũng được nhà văn lưu<br />
ý tạo dựng. Công chúa Lã Mai là một truyện dài, câu chuyện kể có những nhân vật quen thuộc<br />
trong truyện cổ: đức vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa, Thái tử, pháp sư... với nhiều yếu tồ thần<br />
kì: phép biến hóa, phép nhập hồn... Truyện dài này gồm hai cốt truyện đan xen vào nhau. Chuyện<br />
92<br />
<br />
Sự đan cài giữa các miền không gian trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư trước 1945<br />
<br />
thứ nhất là câu chuyện kể của thái tử con trai Hoàng đế Nga Thủy. Thái Tử bị tên pháp sư lừa gạt<br />
truyền cho phép nhập hồn để rồi hắn chiếm mất cả hoàng hậu lẫn giang sơn. Câu chuyện thứ hai,<br />
tác giả lại kể về sự đấu trí của hoàng tử Vân Kệ với công chúa Lã Mai. Lã Mai có sắc đẹp tuyệt<br />
trần, nhưng nàng nhất định không chịu lấy chồng. Bao nhiêu hoàng tử vì say mê sắc đẹp của nàng<br />
mà đành bỏ mạng, vì nàng nêu một điều kiện: hễ ai trả lời được ba câu hỏi của nàng trong mấy<br />
phút đồng hồ thì nàng sẽ đồng ý làm vợ, còn ngược lại họ sẽ bị mất đầu và chết một cách thảm<br />
khốc. Vân Kệ không nao núng, bằng trí thông minh của mình, chàng đã thu phục được công chúa<br />
Lã Mai và hai người sống hạnh phúc - sự hạnh phúc của cặp vợ chồng trần thế.<br />
Cách tác giả tạo ra không gian mộng ảo trong cõi tiên ẩn hiện nơi cuộc sống trần thế, sự<br />
mập mờ giữa hai khoảng không gian âm – trần hay cách tạo dưng không gian miền cổ tích và thực<br />
tại đều gắn liền với những mối tình. Điều đó cho thấy Lưu Trọng Lư là nhà văn luôn hướng tới tình<br />
yêu - tình yêu không phân biệt ranh giới, giai tầng.<br />
<br />
2.3.<br />
<br />
Sự đan cài giữa không gian cuộc sống thực tại và không gian kí ức<br />
<br />
Một trong những yếu tố cơ bản tạo nên sự đan cài giữa không gian xa xăm với không gian<br />
cụ thể đó là không gian của cuộc sống thực tại và không gian của kí ức. Không gian này gắn với<br />
những hồi ức, kỉ niệm của tác giả về gia đình, về tuổi thơ và đặc biệt là hình ảnh người mẹ.<br />
Nhân vật Hải (Gió cây trút lá) là một thanh niên có địa vị trong xã hội - một ông Đốc. Hải<br />
xuất thân trong gia đình quan Phủ. Nhưng không vì thế mà Hải coi thường Lan. Ngay từ lần đầu<br />
gặp Lan anh đã thấy cảm mến. Khi tình cờ phát hiện Lan là gái giang hồ trên sông Hương, Hải<br />
đau khổ nhưng chàng đã vượt qua ranh giới của giai cấp, dùng tình cảm thay cho lí trí. Anh vẫn<br />
yêu và sống cùng với Lan những ngày tháng hạnh phúc. Ở không gian riêng tư của hai người vẫn<br />
có những khoảng trống để dành cho kí ức ùa về. Có lần Hải đã tâm sự với Lan về mẹ anh, bởi vì<br />
vào những lần có nắng sớm thì Hải lại nhớ đến mẹ. Anh nhớ rõ cái dáng điệu cùng cái nét mặt<br />
hiền lành, thùy mị của mẹ anh. Đó là người mẹ có hàm răng đen bóng luôn cười với anh. Người<br />
mẹ trong kí ức của thầy thuốc Hải có một cái áo cổ y đỏ và cứ mỗi lần có nắng sớm, thì mẹ lại lấy<br />
ra phơi trước dậu. Và đó là chiếc áo người mẹ mặc vào lần cưới anh cả và lần bà về với đất.<br />
Hình ảnh này còn được lặp lại trong Em là gái bên khung cửa. Nhận được tin người yêu tự<br />
vẫn, Thi sĩ Liên đã miên man trong sự hồi tưởng. Chàng nhớ lại những cơn nắng xanh rờn của thời<br />
niên thiếu và trong màu nắng ấy thấp thoáng cái bóng đen tròn của mẹ loáng chạy vội trên sân vôi<br />
ra hàng dậu để phơi những cái áo cổ y và chiếc quần đỏ: “Ôi cái màu đỏ đã chói mạnh vào tâm<br />
linh tôi, cái màu đỏ đã làm tôi nhớ mãi và bùi ngùi và ghê sợ... Tôi bùi ngùi vì tiếc nhớ những màu<br />
sắc huy hoàng, những giọng nói líu lo của thơ ấu, những ngày tươi đẹp ở trong cái bóng râm của<br />
lòng mẹ” [6; tr.1048].<br />
Không gian của thực tại đan cài với không gian kí ức, cụ thể trong sáng tác của Lưu Trọng<br />
Lư thể hiện sự gắn kết giữa cuộc sống của người thanh niên đã trưởng thành với những kỉ niệm về<br />
người mẹ trong dĩ vãng. Ở đây như có sự nuối tiếc một thời đã xa, một thời vang bóng, đó là sự hồi<br />
tưởng cuộc sống êm đềm nơi quê hương, trong vòng tay yêu thương của người mẹ suốt một đời tần<br />
tảo.<br />
<br />
3.<br />
<br />
Kết luận<br />
<br />
Dù viết về cõi trần tục, cõi tiên, vùng cổ tích, chốn âm hồn hay miền kí ức thì Lưu trọng<br />
Lư cũng hướng về cuộc sống thực tại với những điều tốt đẹp. Sở dĩ những trang văn xuôi của tác<br />
giả luôn có sự đan cài giữa các miền không gian bởi lẽ trong con người ông, ranh giới giữa đời và<br />
mộng có khi rất nhạt nhòa. Trong hồi kí Nửa đêm sực tỉnh nhà văn từng viết “Mộng và đời là hai<br />
93<br />
<br />
Hồ Thị Thanh Thủy<br />
<br />
sợi chỉ ngang dọc trên khung cửi. Đời đẻ ra mộng và mộng dệt nên đời” [6; tr.1332].<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] Lại Nguyên Ân, 2011. “Văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư”, Lưu Trọng Lư Tác phẩm - truyện ngắn,<br />
tiểu thuyết, tập 1. Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.<br />
[2] Nguyễn Đình Chú, 1987. Cần nhận thức đúng thời kì văn học 1930 - 1945. Nxb Văn học, Hà<br />
Nội.<br />
[3] Phan Cự Đệ, 1997. Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 - 1945). Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
[4] Hà Minh Đức - Nguyễn Văn Thành (sưu tầm, biên soạn), 2007. Lưu Trọng Lư Về tác gia và<br />
tác phẩm. Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br />
[5] Lưu Trọng Lư, 2011. Tác phẩm - truyện ngắn, tiểu thuyết, tập 1 (Lại Nguyên Ân - Hoàng Minh<br />
sưu tầm, biên soạn). Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.<br />
[6] Lưu Trọng Lư, 2011. Tác phẩm - truyện ngắn, tiểu thuyết, tập 2 (Lại Nguyên Ân - Hoàng Minh<br />
sưu tầm, biên soạn). Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.<br />
[7] Nhiều tác giả, 2004. Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, Hà Nội.<br />
[8] Hồ Thị Thanh Thủy, 2017. “Dấu ấn của một số “chủ nghĩa”, trường phái văn học Pháp thế<br />
kỉ thứ XIX trong văn xuôi tự sự của Lưu Trọng Lư trước 1945”. Tạp chí Khoa học Trường Đại<br />
học Sư phạm Hà Nội, số 2, tr.71-77.<br />
[9] lib.hcmup.edu.vn:8080/eFileMgr/efile.../tvefile.2013-05-08.5426252142.pdf<br />
ABSTRACT<br />
The combination of the spaces in Luu Trong Lu’s narrative prose before 1945<br />
Ho Thi Thanh Thuy<br />
Faculty of Social Sciences Pedagogy, Dong Nai University<br />
Summary. Readers reminded Luu Trong Lu as a poet of loves. The dreamland that he built<br />
almost in his poem, the combination of distant and specific space that he concentrated in his prose<br />
narratives before 1945. In his work, fantastic space of paradise appears unclearly in underworld,<br />
the readers have to past through both side of death and life world to enter author’s space- the<br />
fairyland and real life- the temporary life and nostalgia that author created.<br />
Keywords: Combination, distant space, specific space, prose narratives.<br />
<br />
94<br />
<br />