intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sử dụng phương pháp dạy học vi mô để sinh viên sư phạm ngữ văn rèn luyện các kĩ năng của phương pháp phân tích ngôn ngữ

Chia sẻ: Y Y | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

67
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với mục tiêu là để rèn các kĩ năng dạy học, phương pháp dạy học vi mô đã được nghiên cứu và áp dụng hiệu quả vào quá trình đào tạo sinh viên sư phạm. Bài viết này trình bày về quá trình tổ chức cho sinh viên Khoa Ngữ văn (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) rèn luyện kĩ năng sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ trong dạy học tiếng Việt bằng phương pháp dạy học vi mô.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sử dụng phương pháp dạy học vi mô để sinh viên sư phạm ngữ văn rèn luyện các kĩ năng của phương pháp phân tích ngôn ngữ

  1. HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0182 Educational Sciences, 2018, Volume 63, Issue 12, pp. 49-55 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VI MÔ ĐỂ SINH VIÊN SƯ PHẠM NGỮ VĂN RÈN LUYỆN CÁC KĨ NĂNG CỦA PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH NGÔN NGỮ Trịnh Thị Lan Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Dạy học vi mô (Micro teaching) được khởi xướng từ trường Đại học Stanford (Hoa Kì) vào năm 1963 với mục đích bồi dưỡng giáo viên mới vào nghề một cách cấp tốc và hiệu quả hơn so với cách đào tạo truyền thống. Đến nay, phương pháp dạy học này đã được áp dụng tại nhiều cơ sở đào tạo giáo viên ở nhiều quốc gia. Với mục tiêu là để rèn các kĩ năng dạy học, phương pháp dạy học vi mô đã được nghiên cứu và áp dụng hiệu quả vào quá trình đào tạo sinh viên sư phạm. Bài viết này trình bày về quá trình tổ chức cho sinh viên Khoa Ngữ văn (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) rèn luyện kĩ năng sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ trong dạy học tiếng Việt bằng phương pháp dạy học vi mô. Từ khóa: Dạy học vi mô, phương pháp phân tích ngôn ngữ, kĩ năng dạy học, lớp học vi mô, sinh viên sư phạm. 1. Mở đầu Năng lực dạy học của người giáo viên là yếu tố then chốt làm nên sự thành công của giáo dục. Theo đó, việc đào tạo nghề cho sinh viên sư phạm trở nên vô cùng có ý nghĩa. Làm thế nào để sinh viên sư phạm làm chủ được những kiến thức chuyên môn, chuyển hóa thành năng lực sư phạm thông qua các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ là nhiệm vụ, yêu cầu thường trực đối với các cơ sở đào tạo giáo viên. Phương pháp dạy học vi mô (PPDHVM) đã được đề xuất như một giải pháp nâng cao năng lực dạy học cho sinh viên các trường sư phạm. PPDHVM lần đầu được nhắc đến vào năm 1963 tại Trường Đại học Stanford (Hoa Kì). Tác giả D.W.Aillen đã tập hợp một cách chính thức những nghiên cứu của nhóm giáo sư Đại học Stanford trong công trình Mô tả về phương pháp dạy học vi mô (1967) [1]. Từ mục đích ban đầu là “bồi dưỡng giáo viên mới vào nghề một cách cấp tốc và hiệu quả hơn so với cách đào tạo truyền thống” [2;tr.151], những nghiên cứu này đã trình bày sâu hơn về những vấn đề cụ thể: lập kế hoạch cho bài học vi mô (BHVM), khả năng rèn luyện kĩ năng dạy học bằng PPDHVM, việc tận dụng kinh nghiệm của những người quan sát BHVM, cấu trúc của một khóa rèn luyện kĩ năng dạy học bằng PPDHVM. Những nghiên cứu này có ý nghĩa mở đường, định hướng cho việc triển khai áp dụng PPDHVM trong đào tạo giáo viên tại Hoa Kì nói riêng và trên thế giới nói chung. Các nghiên cứu tiếp theo: Nghiên cứu tác động của thực hành dạy học vi mô lên hành vi đứng lớp của các giáo sinh chuyên ngành khoa học xã hội của P. C. Limbacher vào năm 1971 [3].; Tác động của phương thức phản hồi trong dạy học vi mô của J. E. Shively và cộng sự vào năm 1970 [4]; Hiệu quả của ba môi trường dạy học vi mô trong việc đào tạo giáo sinh bậc đại học của Ngày nhận bài: 19/7/2018. Ngày sửa bài: 22/11/2018. Ngày nhận đăng: 5/12/2018. Tác giả liên hệ: Trịnh Thị Lan. Địa chỉ e-mail: lankhoavan@yahoo.com.vn 49
  2. Trịnh Thị Lan D. W. Johnson, B. S. Prancrazio vào năm 1971 [5]… lại tập trung vào một số vấn đề liên quan đến PPDHVM và ảnh hưởng của phương pháp này tới quá trình đào tạo giáo viên. Những nghiên cứu này cho thấy việc áp dụng PPDHVM vào đào tạo giáo viên mang ý nghĩa thực tiễn và lí luận cao. Các nghiên cứu về PPDHVM gần đây đã đánh giá thêm những tác động tích cực của PPDHVM đối với người học (là các sinh viên sư phạm), đồng thời mở ra một xu hướng mới là kết hợp PPDHVM với phương thức đào tạo giáo viên khác, các phương pháp dạy học khác hoặc xem xét các tác động của nhân tố lịch sử, văn hóa - xét trên quan điểm tâm lí học hoạt động trong quá trình hình thành kĩ năng của sinh viên sư phạm. Có thể kể đến M. R. Malone, B. M. Strawitz (1985) [6], J. W. Vare (1993) [7]; đặc biệt là bài viết của N. D. Bell (2007) về đặc trưng hoạt động của các giáo sinh trong môi trường của PPDHVM [8] và M. L. Fernández (2009) nghiên cứu về việc kết hợp giữa PPDHVM với Nghiên cứu bài học của Nhật Bản trong đào tạo giáo viên [9]. Ở Việt Nam, PPDHVM đã được tổng hợp gồm cả lí luận và thực tiễn trong tư cách của một phương pháp dạy học tích cực in trong cuốn Dạy và học tích cực - Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học (2010), là kết quả của Dự án Việt Bỉ - Hỗ trợ học từ xa (Bộ Giáo dục và Đào tạo). Cuốn sách này đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của PPDHVM như: cơ sở tâm lí học của phương pháp, những thành phần cơ bản, quy trình áp dụng PPDHVM [10]. Những nội dung này đã mở ra một hướng nghiên cứu khá rộng khắp về việc vận dụng PPDHVM vào đào tạo giáo viên các cấp học của các trường sư phạm ở nhiều môn học: tác giả Đặng Văn Đức - Trần Thị Thanh Thuỷ triển khai nghiên cứu với sinh viên sư phạm Địa lí [11], tác giả Phùng Việt Hải, Đỗ Hương Trà triển khai nghiên cứu với sinh viên sư phạm Vật lí [12]; tác giả Đỗ Thị Trinh triển khai nghiên cứu với sinh viên sư phạm Toán [13] và nhiều bài viết gắn với hầu hết các môn học khác được đăng tải trên các website dạy và học tích cực, nghiệp vụ sư phạm [14]… Kế thừa kết quả nghiên cứu về lí luận của các công trình nghiên cứu đã công bố, đối chiếu với yêu cầu và đặc điểm của việc hình thành kĩ năng sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ (PP phân tích ngôn ngữ) trong dạy học tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy PPDHVM sẽ phát huy hiệu quả rõ ràng vào việc hình thành kĩ năng sư phạm cho sinh viên sư phạm Ngữ văn ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Chúng tôi đã thể nghiệm nghiên cứu việc rèn luyện các kĩ năng của PP phân tích ngôn ngữ với hai lớp sinh viên hệ chất lượng cao khóa 64 và khóa 65 của Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội bằng PPDHVM. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Phương pháp dạy học vi mô Đến nay đã có rất nhiều khái niệm về PPDHVM được đưa ra. Dù tiếp cận theo những góc độ khác nhau, còn vài điểm chưa thực sự thống nhất trong đánh giá ưu nhược điểm, nhưng hầu hết các quan điểm về PPDHVM đều gặp gỡ ở chỗ coi đây là một phương pháp đào tạo người dạy học thông qua một quy trình đơn giản hóa một bài học thông thường thành một bài học vi mô, ở đó số lượng kĩ năng được chú ý rèn luyện, số lượng học sinh trong lớp học, đơn vị kiến thức và thời gian dạy học đều được rút ngắn một cách có chủ đích. Nói cách khác, PPDHVM là một phương pháp đào tạo giáo viên, trong đó mỗi sinh viên sư phạm sẽ tập trung vận dụng một hoặc một vài kĩ năng dạy học để thực hiện một bài học vi mô trong khoảng thời gian ngắn cho một nhóm nhỏ học sinh. PPDHVM tỏ ra hiệu quả khi vận dụng rèn luyện những kĩ năng liên quan đến việc thực hiện bài học trên lớp - những kĩ năng có thể dễ dàng được quan sát và đánh giá [11]. Như vậy, bản chất của dạy học vi mô là rèn các kĩ năng sư phạm. Nó cho phép sinh viên được thực hành từng kĩ năng trong một đoạn bài học ngắn, trong lớp học vi mô dưới sự quan sát và đóng góp ý kiến của các sinh viên khác. Sau khi thành thục tất cả các kĩ năng, sinh viên sẽ thực hành trên lớp học bình thường. Quy trình thực hiện PPDHVM được tóm tắt như sau: 50
  3. Sử dụng phương pháp dạy học vi mô để sinh viên Sư phạm Ngữ văn rèn luyện các kĩ năng … Bước Hoạt động của sinh viên Hoạt động của giảng viên 1. Chuẩn - Nghe phân tích các kĩ năng cần rèn luyện - Giới thiệu phần lí thuyết về các bị: Xem và xem băng (hoặc đĩa hình) minh họa kĩ năng được lựa chọn và hướng một trích việc sử dụng kĩ năng đó dẫn cách quan sát một trích đoạn đoạn dạy - Làm việc theo nhóm soạn bài, thiết kế dạy minh họa cho việc sử dụng minh họa trích đoạn một bài học để thực hành kĩ các kĩ năng đó. năng cần rèn luyện - Hướng dẫn thiết kế một trích đoạn bài học 2. Thực - Một sinh viên sắm vai giáo viên, thực tập - Hướng dẫn sinh viên thực hành hành: Dạy dạy một trích đoạn bài học (trong 5 – 15 tập dạy. học trong phút) cho 7-15 học sinh hoặc các sinh viên - Tổ chức góp ý, phản hồi cho kết lớp học vi khác đóng vai học sinh. Sinh viên các quả thực hành. mô có phản nhóm khác là các quan sát viên, ghi chép - Phân tích về hoạt động dạy học hồi các hoạt động của giáo viên và học sinh để của sinh viên qua hình ảnh trên đưa ra ý kiến phản hồi (quá trình dạy học băng/đĩa hình này được ghi hình và tiếng) - Xem lại băng ghi hình về hoạt động dạy học vừa diễn ra và nghe ý kiến phản hồi của các sinh viên khác và giáo viên về hoạt động dạy học của chính mình 3. Dạy lại - Soạn lại trích đoạn theo góp ý phản hồi. - Tổ chức tập dạy lần 2. lần 2 có - Thực hành lại kĩ năng đã được góp ý (Có - Tổ chức góp ý, phản hồi cho phản hồi thể sẽ phải dạy lại lần 3 hay lần 4 nếu cần) thực hành lần 2. [10; tr.154] Áp dụng vào việc bồi dưỡng một kĩ năng sư phạm cụ thể, quy trình PPDHVM có thể gồm các bước: 1. Giới thiệu một kĩ năng sư phạm 2. Soạn đoạn bài dạy cần áp dụng kĩ năng 3. Dạy (trình bày) đoạn bài học 4. Phản hồi lân 1 5. Soạn bài lần 2 6. Dạy (trình bày) lần 2 7. Phản hồi lần 2 8. Soạn- Dạy(trình bày) - Phản hồi, làm chủ kĩ năng [12] Trên thực tế, quy trình này có thể được nối dài, có thể được bổ sung nội dung và thao tác vào mỗi bước, có thể linh hoạt thay hoạt động ghi hình, phân tích băng hình bằng việc giáo viên hoặc sinh viên thị phạm kĩ năng, sau đó phân tích và đánh giá trên phiếu. 2.2. Tổ chức rèn các kĩ năng của phương pháp phân tích ngôn ngữ bằng phương pháp dạy học vi mô Giáo viên dạy Ngữ văn ở trường trung học cần được rèn luyện kĩ năng tổ chức dạy học các bài học đọc hiểu văn bản, Tiếng Việt và Làm văn. Một trong những PP dạy học đặc thù trong dạy học Tiếng Việt và Làm văn là PP phân tích ngôn ngữ. Đây là PP dạy học trong đó, học sinh dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên tiến hành tìm hiểu các hiện tượng ngôn ngữ, quan sát và phân tích các hiện tượng đó theo định hướng của bài học, cũng tức là theo định hướng của những 51
  4. Trịnh Thị Lan nội dung khoa học bộ môn, trên cơ sở ấy rút ra những nội dung lí thuyết hoặc thực hành cần ghi nhớ. PP dạy học này được đề xuất từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, từ PP nghiên cứu khoa học đặc trưng mà các nhà ngôn ngữ học thường dùng khi nhận thức các hiện tượng ngôn ngữ. Có thể coi đây là sự chuyển hoá của PP nghiên cứu khoa học thành PP dạy học thông qua việc xử lí sư phạm của người giáo viên. Quy trình thực hiện PP dạy học này khá chặt chẽ, bao gồm 4 bước: (1) Đưa ngữ liệu - (2) Phân tích ngữ liệu theo định hướng của nội dung bài học - (3) Rút ra kiến thức, kĩ năng ngôn ngữ - (4) Vận dụng vào ngữ liệu mới [14]. Theo quy trình này, PP phân tích ngôn ngữ đòi hỏi giáo viên dạy Tiếng Việt phải thành thạo nhiều kĩ năng cụ thể: kĩ năng chọn và dẫn ngữ liệu, kĩ năng phân tích ngữ liệu, kĩ năng hướng dẫn học sinh khái quát hóa nội dung, kĩ năng chốt kiến thức và củng cố bài học. Như vậy, để có kĩ năng sử dụng thành thạo PP phân tích ngôn ngữ trong dạy học Tiếng Việt, sinh viên sư phạm Ngữ văn cần phải hoàn thiện từng kĩ năng cụ thể này. Chúng tôi đề xuất và đã tiến hành thể nghiệm sư phạm quy trình áp dụng PPDHVM trong rèn luyện kĩ năng sử dụng các kĩ năng nhỏ lẻ, tiến tới hoàn thiện kĩ năng sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ cho sinh viên sư phạm Ngữ văn hệ đào tạo chất lượng cao của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội theo ba giai đoạn như sau: - Giai đoạn 1: Tìm hiểu về phương pháp phân tích ngôn ngữ và quy trình rèn luyện theo PPDHVM Ở giai đoạn này, sinh viên được yêu cầu tìm hiểu trước và trình bày trước lớp một số nội dung lí luận: khái niệm PP phân tích ngôn ngữ, bản chất và quy trình các bước thực hiện PP phân tích ngôn ngữ, các kĩ năng dạy học cần nắm vững khi thực hiện PP phân tích ngôn ngữ; đồng thời sinh viên được định hướng để trả lời câu hỏi: Vì sao lại dùng PPDHVM để rèn luyện kĩ năng? Theo đó, giảng viên sẽ cung cấp cho sinh viên (hoặc yêu cầu sinh viên tái hiện) những kiến thức cơ bản về PPDHVM: khái niệm; cơ sở tâm lí học; ý nghĩa của PPDHVM trong đào tạo giáo viên; các bước tiến hành PPDHVM. Tiếp đó, giảng viên và sinh viên thống nhất cách thức tổ chức lớp học vi mô, cách thức quan sát và đưa ra những nhận xét về các đoạn băng ghi hình đã và sẽ trình chiếu hoặc đoạn dạy (trình bày) của sinh viên giảng tập. Ở các lớp sinh viên hệ đào tạo chất lượng cao của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, sĩ số lớp học cố định là 20 sinh viên, phù hợp với việc chia thành 2 lớp học vi mô. Chúng tôi đã thống nhất lựa chọn cách thức: sinh viên quan sát giảng viên thị phạm dạy học vi mô một đơn vị bài học tiếng Việt bằng phương pháp phân tích ngôn ngữ; sinh viên phân tích, thảo luận theo nhóm với mục đích làm sáng tỏ các vấn đề lí thuyết về phương pháp phân tích ngôn ngữ, nhận diện và phân tích được biểu hiện các kĩ năng nhỏ lẻ trong bài học vi mô vừa triển khai. Kết thúc giai đoạn này, sinh viên phải chỉ ra được: - BHVM đã được thực hiện đúng quy trình của PP phân tích ngôn ngữ chưa? - Ở bước 1: Trong quy trình của PP phân tích ngôn ngữ, người dạy đã sử dụng kĩ năng đưa ngữ liệu như thế nào? - Ở bước 2: Người dạy làm thế nào để phân tích ngữ liệu? (sử dụng hệ thống câu hỏi phân tích, giao nhiệm vụ làm việc theo nhóm, định hướng phân tích bằng phiếu học tập…) - Ở bước 3: Cách rút ra nội dung bài học đã đảm bảo tính tích cực chưa? - Ở bước 4: Có những cách vận dụng củng cố nào hiệu quả? - Giai đoạn 2: sinh viên rèn luyện các kĩ năng của PP phân tích ngôn ngữ Giai đoạn này gồm nhiều bước thực hiện theo kiểu xoáy trôn ốc: - Bước 1: Sinh viên chọn một BHVM (tương đương với một đơn vị kiến thức trong bài học Tiếng Việt). Do PP phân tích ngôn ngữ đặc biệt phù hợp với việc hình thành kiến thức, kĩ năng ngôn ngữ mới cho học sinh nên sinh viên được gợi ý chọn BHVM gắn với yêu cầu hình thành ở học sinh một khái niệm hoặc quy tắc sử dụng tiếng Việt. 52
  5. Sử dụng phương pháp dạy học vi mô để sinh viên Sư phạm Ngữ văn rèn luyện các kĩ năng … Sinh viên tiến hành lập kế hoạch dạy học cho BHVM bằng PP phân tích ngôn ngữ. Dự kiến BHVM được tiến hành dạy học trong khoảng 5-15 phút; - Bước 2: Sinh viên tiến hành dạy học BHVM lần 1. Phần giảng tập lần 1 này được tiến hành dưới sự giám sát của giảng viên và được ghi hình. Các sinh viên khác vừa đóng vai trò là học sinh trong lớp học vi mô, vừa quan sát việc dạy học vi mô và thực hiện các phiếu quan sát - Bước 3: SV xem lại đoạn băng ghi hình BHVM, thảo luận và đưa ra phản hồi. Các quan sát và phản hồi tập trung vào từng kĩ năng ở mỗi bước trong quy trình PP phân tích ngôn ngữ một cách chi tiết và kĩ lưỡng: kĩ năng đưa ngữ liệu, kĩ năng tổ chức phân tích ngữ liệu, kĩ năng khái quát hóa về hiện tượng ngôn ngữ, kĩ năng tổ chức vận dụng củng cố. Đối với những SV quan sát, đây là lần quan sát thứ hai, họ sẽ có thêm cơ sở chắc chắn để đưa ra những nhận xét của mình vào phiếu đánh giá. Đối với SV tập giảng thì đây là sự quan sát trải nghiệm tái hiện, nó giúp người dạy học vi mô ghi nhận được cụ thể những điểm đã làm được và chưa làm được một cách khách quan, có bằng chứng xác thực, gắn với từng khâu, từng bước, từng thao tác dạy học. Thời gian tiến hành thảo luận về các kĩ năng của PP phân tích ngôn ngữ, đề xuất phương án điều chỉnh hoặc thay đổi thao tác, kĩ thuật dạy học của một bước nào đó trong quy trình dạy học bằng PP ngôn ngữ được tiến hành trong 5-7 phút. Ở bước này, các nhận xét, phản hồi đưa ra thường tập trung vào mục tiêu làm thế nào để các kĩ năng dạy học gắn với các hoạt động và thao tác dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Chẳng hạn, ở kĩ năng đưa ngữ liệu vào bài học, thay vì dẫn ngữ liệu có sẵn ở sách giáo khoa, viết lên bảng lớp hoặc bảng phụ, yêu cầu học sinh đọc ngữ liệu một cách thụ động, giáo viên (ở đây là sinh viên giảng tập) có thể nghĩ đến phương án để HS chuẩn bị các ngữ liệu theo yêu cầu của bài học, giáo viên cùng học sinh chọn ngữ liệu phù hợp cho bài học. (Tất nhiên, cần đảm bảo những yêu cầu chặt chẽ đối với ngữ liệu dạy học tiếng Việt). Hình thức đưa ngữ liệu cũng có thể linh hoạt: thông qua đọc diễn cảm, diễn xuất của học sinh, qua trưng bày, giới thiệu những sản phẩm đã chuẩn bị trước tại lớp… Ở kĩ năng tổ chức cho học sinh phân tích ngữ liệu, nếu sử dụng hệ thống câu hỏi và hình thức vấn đáp thông thường, giáo viên cần phải rèn luyện kĩ năng dẫn dắt, kết nối các câu hỏi và câu trả lời của học sinh với nội dung bài học định hướng. Thay vì hình thức vấn đáp, giáo viên cũng có thể tổ chức cho học sinh giải quyết nhiệm vụ nhóm, tạo ra sản phẩm nhóm, hoặc làm việc cùng phiếu học tập để hướng tới nội dung kiến thức, kĩ năng của bài học. Các kĩ thuật dạy học như tia chớp, khăn trải bàn, XYZ… có thể được sử dụng để tổ chức hoạt động học cho học sinh; theo đó, sinh viên sư phạm cũng có thể thực hành sử dụng các kĩ thuật dạy học này trong khi hình thành kĩ năng dạy học của PP phân tích ngôn ngữ. - Bước 4: Trên cơ sở những phản hồi vừa nhận được, sinh viên giảng tập sẽ sửa lại BHVM của mình. Phần lập lại kế hoạch này được thực hiện ở nhà, tập trung điều chỉnh từng kĩ năng cụ thể của PP phân tích ngôn ngữ. Các sinh viên khác luân phiên giảng tập BHVM theo các bước trên. - Bước 5: Sinh viên giảng tập lần 2. Lần giảng tập này được tiến hành trong một buổi rèn luyện khác, sinh viên giảng tập thực hiện từng kĩ năng của PP phân tích ngôn ngữ trong BHVM theo góp ý của nhóm. Sinh viên được khuyến khích sử dụng điện thoại di động hoặc máy ảnh kĩ thuật số để ghi hình phần dạy học vi mô trong các nhóm tự rèn luyện. Các nhóm phản hồi tiếp và sinh viên lại điều chỉnh BHVM đến khi nào thực hiện được thành thạo từng kĩ năng của PP phân tích ngôn ngữ. - Bước 6: Sinh viên tham gia luyện tập tự xác nhận đã hiểu cách và thực hiện thành thạo các kĩ năng dạy học của PP phân tích ngôn ngữ. Việc rèn luyện bằng giảng tập BHVM trước lớp học vi mô chuyển sang tự rèn luyện từng kĩ năng. 53
  6. Trịnh Thị Lan - Giai đoạn 3: sinh viên tự rèn luyện kết hợp các kĩ năng trong cả quy trình PP phân tích ngôn ngữ Ở giai đoạn này, sinh viên chú trọng rèn luyện kết hợp các kĩ năng của PP phân tích ngôn ngữ đã được rèn luyện trong giai đoạn 2. Các phiếu đánh giá cũng được thay đổi cho phù hợp với mục đích đánh giá tổng hợp nhiều kĩ năng. Quá trình rèn luyện được tái diễn theo chu trình: "lập kế hoạch - dạy - phản hồi - lập lại kế hoạch - dạy lại - phản hồi lại,...” cho cả BHVM. Chu trình này có thể lặp lại tới khi sinh viên được các thành viên quan sát trong lớp học vi mô ghi nhận về kết quả rèn luyện tất cả các kĩ năng của PP phân tích ngôn ngữ. Lúc này, sinh viên đã làm chủ được các kĩ năng dạy học của PP phân tích ngôn ngữ một cách tự giác, có kĩ thuật. Cách thức tiến hành trên đã giúp cho việc rèn luyện kĩ năng sử dụng PP phân tích ngôn ngữ trong dạy học các nội dung Tiếng Việt và Làm văn của sinh viên trở nên hiệu quả hơn. Trong tình hình sinh viên sư phạm ít có cơ hội tiếp xúc với lớp học thực (lớp học bình thường) ở trường phổ thông, họ vẫn có thể thực hành dạy học Ngữ văn một cách hiệu quả. 3. Kết luận PP phân tích ngôn ngữ là một PP dạy học đặc thù, không chỉ được dùng trong các giờ dạy học Tiếng Việt mà còn được dùng trong dạy đọc, nói, viết nói chung. Nếu sinh viên sư phạm Ngữ văn học PP phân tích ngôn ngữ theo kiểu truyền thống (tiếp thu lí thuyết, quan sát giáo viên làm mẫu, dạy thử và rút kinh nghiệm), đồng thời vận dụng cứng nhắc 4 bốn trong quy trình của PP này, việc học thường rất khô khan, nhàm chán. Đặc biệt, quá trình thực hành dạy học, sinh viên sư phạm Ngữ văn dễ bỏ qua một hai kĩ năng dạy học cụ thể trong quy trình thực hiện PP phân tích ngôn ngữ. Việc sử dụng PPDHVM giúp giải quyết những tồn tại này trong quá trình rèn luyện kĩ năng cho sinh viên, giúp sinh viên hoàn thiện năng lực thực hiện các công việc liên quan đến nghề dạy học Ngữ văn. Quá trình sử dụng PPDHVM để rèn luyện các kĩ năng của PP phân tích ngôn ngữ cho sinh viên sư phạm Ngữ văn (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) đã giúp việc thực hành nghề của sinh viên được tiến hành theo đúng quy trình, chi tiết đến từng thao tác, đảm bảo được các yêu cầu của quá trình rèn luyện kĩ năng nghề. Quá trình rèn luyện đã giúp sinh viên sư phạm Ngữ văn thực hành nghề trực tiếp, tích cực, chủ động tham gia vào quá trình rèn luyện các kĩ năng dạy học dưới sự giám sát của giảng viên (và các đồng nghiệp tương lai). Quá trình thực hiện các bước của PPDHVM trong tổ chức cho sinh viên rèn luyện kĩ năng dạy học cũng cho thấy việc chuẩn bị kiến thức chuyên môn, chuyên ngành một cách đầy đủ, chắc chắn cho sinh viên là hết sức quan trọng. Điều này giúp sinh viên không chỉ đưa ra các phản hồi hữu ích cho đồng nghiệp, mà còn có khả năng linh hoạt, sắc sảo trong ghi nhận phản hồi và điều chỉnh kĩ năng dạy học. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] W. D. Allen, 1967. Micro-teaching: A description, Stanford Teacher Education Program. Stanford University, United State. [2] M. Altet, J.D. Britten, 1999. Phương pháp dạy học vi mô và đào tạo giáo viên. Dự án Việt - Bỉ hỗ trợ học từ xa, Bộ Giáo dục và Đào tạo. [3] P. C. Limbacher, 1971. A study of the Effect of Microteaching Experience Upon the Classroom behavior of Social student teachers. Paper presented at the Annual Conference, 16p. American Educational Research Asociation, NewYork. [4] J. Shively et al, 1970. The Effect of Mode of Feedback in Microteaching. The Annual American Educational Research Association, 13 pages, Minneapolis, United State. 54
  7. Sử dụng phương pháp dạy học vi mô để sinh viên Sư phạm Ngữ văn rèn luyện các kĩ năng … [5] W Jonhson., B. S. Pancrazio, 1971. The Effectiveness of Three Microteaching Envỉonments in Preparing Undergradutes for Student Teaching. The Annual American Educational Research Association, 9 pages, New York, United State. [6] M. R Malone, B. M. Strawitz, 1985. Relative Effects of Microteaching and Field Experience on Preservice Teachers. The Annual Meeting of the national Association for Research in Science teaching, Appril, 15-18. United State. [7] J. W. Vare, 1993. Co-Constructing the Zone: A Neo-Vygotskian View of Microteaching. The American Educational Research Association 1993 Annual Meeting Atlanta, Georgia, April 12-16. [8] N. D. Bell, 2007. Microteaching: What is it that is going on here?. Linguistics and Education 18, 24-40, Department of Enghlish, Indiana University of Pesnylvania, United State. [9] M. L. Fernández, 2010. Investigating how and what prospective teachers learn through microteaching lesson study. Teaching and Teacher Education 26, 351-362. [10] Nguyễn Lăng Bình (chủ biên), Đỗ Hương Trà, Nguyễn Phương Hồng, Cao Thị Thặng, 2010. Dạy và học tích cực - Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. [11] Đặng Văn Đức - Trần Thị Thanh Thuỷ, 2006. Sử dụng phương pháp Dạy học vi mô trong các tiết thực hành phương pháp giảng dạy cho sinh viên Khoa Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội", Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 4, tr.158-161 [12] Phùng Việt Hải, Đỗ Hương Trà, 2012. Vận dụng kĩ thuật dạy học vi mô để bồi dưỡng cho sinh viên sư phạm Vật lí phương pháp dạy học theo góc. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 9, tr.84-92, [13] Đỗ Thị Trinh, 2017. Vận dụng phương pháp dạy học vi mô trong rèn luyện kĩ năng sư phạm cho sinh viên sư phạm Toán, Tạp chí Giáo dục, số 400, tháng 2, tr.47-49 [14] http://atl.edu.net.vn; http://www.vvob.be/vietnam. [15] Lê A (chủ biên), Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, 2009. Phương pháp dạy học Tiếng Việt. Nxb Giáo dục. ABSTRACT Using the micro-teaching to the students of pedagogical Philology to practice the skills of the method of language analysis Trinh Thi Lan Faculty of Philology, Hanoi National University of Education Micro teaching was initiated at Stanford University in 1963 with the goal of fostering teachers that have just graduated more quickly and effectively than traditional training. Until today, this method has been applied in many institutions of training teacher in many countries. With the aim to train teaching skills, method of micro teaching have been applied effectively in the training of pedagogical students. This article presents the process of organizing for students of the Faculty of Philology (Hanoi National University of education) to practice the skills of the method of language analysis in teaching Vietnamese by method of micro-teaching. Keywords: Micro-teaching, the method of language analysis, teaching skills, micro lesson, pedagogical students 55
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
63=>0