intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự hình thành tín ngưỡng thờ mẫu tam/tứ phủ và nghi lễ hầu đồng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

87
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tìm hiểu sự hình thành của tín ngưỡng này thông qua nghiên cứu truyền thuyết và tư liệu thành văn cùng lịch sử giao lưu, tiếp biến văn hóa, như một đóng góp vào công việc có tính chất học thuật và thực tiễn này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự hình thành tín ngưỡng thờ mẫu tam/tứ phủ và nghi lễ hầu đồng

  1. TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN SỰ HÌNH THÀNH TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TAM/TỨ PHỦ VÀ NGHI LỄ HẦU ĐỒNG BÙI QUANG THANH Tóm tắt Tín ngưỡng Tam/ Tứ phủ và nghi lễ hầu đồng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của một bộ phận người dân Việt Nam hiện nay. Ngày 1/12/2016, “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Điều đó cho thấy tín ngưỡng này có một giá trị vô cùng quan trọng. Bởi vậy, nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/ Tứ phủ nhằm phản ánh quá trình hình thành, phát triển của tín ngưỡng; phản ánh đời sống xã hội, nhu cầu tâm linh của con người là việc làm cần thiết. Bài viết tìm hiểu sự hình thành của tín ngưỡng này thông qua nghiên cứu truyền thuyết và tư liệu thành văn cùng lịch sử giao lưu, tiếp biến văn hóa, như một đóng góp vào công việc có tính chất học thuật và thực tiễn này. Từ khóa: Tín ngưỡng thờ Mẫu, nghi lễ Hầu đồng, Tam/Tứ phủ Abstract The belief of worship of Three Realms/Four Realms plays an important role in the spiritual life of a part of the Vietnamese people today. On December 01, 2016, the “Practices related to the Viet beliefs in the Mother Goddesses of Three Realms” was officially registered by UNESCO on the List of Intangible Cultural Heritage of Humanity. This shows that this belief has a very important value. Therefore, researches on the worship of Three Realms/Four Realms to reflect the formation and development of beliefs, the social life, the spiritual needs of the people are necessary. The article explores the origins of this belief through the study of legends and written materials and the history of cultural exchanges and accculturation as a contribution to this scholarly and practical work. Keywords: Beliefs in Mother Goddesses, Hau dong practices, Three Realms/Four Realms 1. Đặt vấn đề mó, quan sát được” (10, tr.16). Nhìn trên bình T ín ngưỡng “được hiểu là niềm tin của diện văn hóa dân gian nhân loại, các dân tộc con người vào cái gì đó thiêng liêng, đều gặp nhau ở quá trình nhận diện vũ trụ và cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là thế giới khách quan, đi đến khái quát về mẫu niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối số chung cho một vũ trụ hiện tồn bao gồm 3 lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ tầng. Đối với người Việt là 3 tầng (Thiên phủ Số 22 - Tháng 12 - 2017 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 5
  2. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU - Địa phủ - Thoải phủ) và 4 thế giới (miền trời, 2. Sự xuất hiện của tín ngưỡng thờ Mẫu miền đất - nơi con người sinh sống, miền nước Tam/Tứ phủ qua truyền thuyết và tư liệu và miền rừng núi). Mỗi tầng có một bà mẹ cai thành văn quản, từ đó sinh ra Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Cho đến nay, trong khá nhiều công trình, Địa, Mẫu Thoải/nước và Mẫu Thượng Ngàn/ bài báo đã công bố, các nhà nghiên cứu cho rừng núi. Quan niệm mang tính vũ trụ luận rằng loại hình sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu này trở thành cội nguồn cho sự sinh ra các hình thành ở Việt Nam từ giữa thế kỷ XVI. Trong hình thức tín ngưỡng khác như tín ngưỡng khi đó, những phát hiện về tư liệu văn hóa dân hướng cội, tín ngưỡng thờ lúa, tín ngưỡng thờ gian liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tam nước, tín ngưỡng thờ đá, tín ngưỡng thờ cây, phủ, Tứ phủ của người Việt (công bố từ năm tín ngưỡng thờ các nhân thần… Tín ngưỡng 2009) vẫn chưa được quan tâm một cách thích của người Việt mang bản sắc riêng, thể hiện đáng (6, tr.195 - 208). ở cung cách thực hành, ở các biểu tượng đại Trong những tư liệu ghi chép về tín diện hiện tồn trong không gian và thời gian ngưỡng gắn với việc hầu đồng và múa hát thực hiện nghi lễ. Điều này phụ thuộc vào hệ nghi lễ, có lẽ sách Thiền Uyển tập anh được coi tâm lý cộng đồng vốn được tích tụ, tôn tạo qua là xưa nhất, ghi về chuyện “đồng bóng” thời nhiều thế hệ, gắn với một vận mệnh chung, Lý Thần Tông. Chuyện chép đại ý như sau: một xã hội với những điều kiện tự nhiên và lịch Tăng thống Khánh Hỷ (1067 - 1142), người sử nhất định để sinh tồn và phát triển. huyện Hoài Đức, trụ trì chùa Chúc Thánh, khi Tuy nhiên, giữa những thành tựu khoa cùng theo Tịch (thày) đến cúng một nhà thí học về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, hiện chủ, trên đường đi, Khánh Hỷ hỏi: Cái gì là ý dường như vẫn đã và đang lưu tồn một số “ẩn chính Thiền tôn của các Tổ? Gặp lúc nghe nhà số” khoa học gần như chưa được giới chuyên dân đang đánh trống lên đồng, Tịch trả lời: Ấy chẳng phải là thứ lời đồng bóng, đang triệu ngành xem xét, nghiên cứu để đi đến những thỉnh quỷ thần đó sao? Điều đó chứng tỏ hiện “giải mã” hoặc những “đáp số” khả dĩ! Chẳng tượng lên đồng, có trống phách đệm cho múa hạn, tại sao phải đến giữa thế kỷ XV, dân hát đã có từ thời Lý (8, tr.133). gian mới sáng tạo được hình tượng Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh lần đầu tiên trong lịch sử tín Tuy nhiên, theo truyền thuyết dân gian thì ngưỡng thờ Mẫu của người Việt (mà không thời điểm ra đời của Mẫu Liễu Hạnh lại muộn phải từ thời Lý, thời Trần trước đó)? Tại sao địa hơn nhiều. Truyền thuyết dân gian có kể về sự tích giáng sinh nhiều lần của Mẫu Liễu Hạnh. chỉ giáng sinh lần đầu tiên (1434 -1473) của Những câu chuyện này được lưu truyền ở Thánh Mẫu Liễu Hạnh lại chỉ hiện diện ở đất vùng Sơn Nam Hạ (Nam Định, Thái Bình) và lan Quảng Nạp, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh truyền khắp châu thổ Bắc Bộ từ nhiều thế kỷ Nam Định (chứ không phải ở một địa điểm nay. Lần theo nội dung truyện kể, Thánh Mẫu nào khác thuộc vùng Sơn Nam Hạ)? Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ nhất vào ngày Trong bài viết này, bằng những tư liệu văn mùng 6 tháng 3 năm 1434 (năm Thiệu Bình, bản (dù còn hạn chế) đã được công bố cùng triều vua Lê Thái Tông), qua việc đầu thai làm nguồn tư liệu điền dã của cá nhân trong thời con gái trong gia đình họ Phạm ở thôn Quảng gian gần đây, người viết bước đầu tiếp cận tìm Nạp, xã Trần Xá và hóa năm 1473, niên hiệu hiểu để đi đến đính chính hoặc nhận diện một Hồng Đức thứ tư. Câu chuyện giáng sinh và số vấn đề liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu chặng đời hiện trần lần thứ nhất của Thánh Tam phủ/Tứ phủ. Mẫu Liễu Hạnh đã được ghi lại trong một số tư 6 Số 22 - Tháng 12 - 2017
  3. TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN liệu thành văn và chạm khắc vào bi ký ở các địa nguyên, khi Phật giáo và Đạo giáo truyền bá điểm phụng thờ. Với văn học thành văn, tập đến Việt Nam, các hình thức sinh hoạt dân sách Truyền kỳ tân phả của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn ca, dân vũ gắn với tín ngưỡng dân gian Việt - Thị Điểm (1705 - 1748) được coi là những ghi Mường (vốn đã được hình thành từ thời Hùng chép sớm nhất (còn lưu lại) và nội dung (thể Vương) vẫn tiếp tục sáng tạo, bồi đắp và phát hiện trong phần Vân Cát thần nữ liệt truyện) triển. Những hình thức này, một mặt, được các tương đối trùng hợp với truyền thuyết dân thành tố văn hóa của Phật giáo và Đạo giáo gian về Thánh Mẫu Liễu Hạnh mà đời sau biết hút vào để tiếp biến và nương tựa; mặt khác, được. Sau đó gần 2 thế kỷ, Tiến sĩ Tế tửu Quốc chính các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng bản tử giám Khiếu Năng Tĩnh (1833 -1915) căn cứ địa trong quá trình lan truyền, thực hành trong vào sự tích giáng sinh Mẫu Liễu ở Quảng Nạp dân gian, lại “tự nguyện” hội nhập, tiếp nhận để bổ sung cho tập Quảng Cung linh từ phả ký một cách chủ động nhiều yếu tố văn hóa từ do Tiến sĩ Vũ Huy Trác khởi thảo vào thời vua Lê Phật giáo và Đạo giáo thần tiên. Sự tương tác Cảnh Hưng và soạn ra Quảng Cung linh từ phả ký đó được nâng lên thành xung lực hai chiều, tạo (mới) vào năm Thành Thái (Quý Mão, 1903). Sau ra chặng tiếp biến văn hóa đặc biệt trong sinh đó chục năm, tập sách Cát Thiên tam thế thực hoạt nghi lễ Việt nói riêng và văn hóa trong lục (bản khắc gỗ) ra đời do Tổng đốc Nam Định cộng đồng quốc gia đa dân tộc nói chung. Đoàn Triển cùng một số nho sinh soạn năm Duy Cũng nhờ chặng đường tiếp biến văn hóa Tân thất niên (1913). Hầu như các tư liệu thành tự nguyện này, tín ngưỡng bản địa đã hút nhập văn này đều gặp nhau ở nội dung ghi lại các (trên những bình diện, mức độ và cấp độ khác điều đã được dân gian truyền kể về lần giáng nhau) các hình thức thực hành nghi lễ của Phật sinh đầu tiên của Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Trần giáo (hướng theo lớp lang các chủ điện thờ) Xá (Yên Đồng, Ý Yên, Nam Định) (6). với mục đích thiêng hóa để củng cố, bồi đắp Từ đây, nảy sinh một vấn đề: Tại sao đến cho tín ngưỡng thờ nữ thần, mà đại diện là thế kỷ XV lại sinh thành tín ngưỡng thờ Mẫu Man Nương cùng với sự cắm chốt song hành Tam phủ, khởi từ thời điểm Mẫu Liễu Hạnh của những Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp hóa Thánh (1473)? Một câu hỏi tiếp theo đặt Điện. Và, tương sinh vào đó là sự thâm nhập ra là, những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng nhanh chóng của Đạo giáo phù thủy/thần tiên thờ Mẫu Tam phủ, trong đó có thực hành hầu với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền, góp phần đồng với các lớp lang (từ dạng phôi thai đi tạo ra nhiều sự thay đổi/biến hóa về mặt hình đến hoàn thiện dần, chắc hẳn chưa thể giống thức thực hành của các tín ngưỡng bản địa. như đang hiện diện trong xã hội đương đại) Điều đó thực sự thể hiện rõ nét khi tín ngưỡng thể hiện qua hệ thống các giá hầu (hàng Mẫu, bản địa Việt hình thành nên tục thờ Mẫu và hàng Quan, hàng các ông Hoàng và hàng Cô, hoàn thiện dần thành một kiểu Đạo Mẫu bản hàng Cậu…) đã nảy sinh và hiện tồn từ thời địa mà đi kèm là những hình thức hoạt động điểm này hay chưa? Nhìn vào lịch sử giao lưu, nhảy múa, nhập hồn, bùa chú…, chứa nhiều tiếp biến văn hóa, chúng ta sẽ khả dĩ giải đáp hành vi phù thủy được tiếp biến từ Đạo giáo/ được vấn đề này. Đạo thần tiên sau này (3) (4). 3. Sự hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/Tứ Xuất phát từ quá trình tiếp biến văn hóa phủ qua lịch sử giao lưu, tiếp biến văn hóa nhiều thế kỷ đó, tín ngưỡng dân gian phụng Chúng ta đã có đủ dữ liệu khoa học để thờ các Mẫu bản địa (Tam phủ) đã dần mở nhận biết rằng, vào những thế kỷ đầu Công rộng thành việc phụng thờ các vị thần linh Số 22 - Tháng 12 - 2017 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 7
  4. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU đạo Tứ phủ (các Mẫu cùng các vị Thánh hàng thế kỷ XV (ứng với sự xuất hiện/giáng sinh rồi quan, các Ông Hoàng, các vị chầu Bà, Cô, Cậu), hóa Thánh của Mẫu Liễu Hạnh tại phủ Nấp) và thông qua sự hiện diện thực hành của các Ông được “bồi đắp” vào các thế kỷ sau này, đặc biệt đồng, Bà đồng trong môi trường hoạt động là từ thời Nguyễn. tín ngưỡng mang tính diễn xướng linh thiêng, Trên con đường vận hành, tiếp biến văn huyền bí. hóa theo tiến trình lịch sử phát triển dân tộc, Từ thời Lý Thánh Tông và Lý Cao Tông (được hát văn gắn với tục thờ mẫu, lên đồng ở châu ghi trong Khâm định Việt sử chính biên), quan thổ Bắc Bộ đã: một mặt, hút thêm những nét hệ qua lại về văn hóa nói chung và múa hát văn hóa - nghệ thuật phù hợp để ngày một nghi lễ nói riêng giữa người Việt với người hoàn thiện nhu cầu thực hành hát văn trong Chăm đã hình thành. Nhiều công trình nghiên đời sống tâm linh Việt (đặc biệt hướng tới sự cứu sau này đã chỉ rõ những tương đồng (kết hoàn thiện hệ thống biểu tượng nhân vật quả sự giao lưu) về âm nhạc, vũ điệu, dân ca được huyền thoại hóa/thiêng hóa từ các nhân của hai dân tộc Việt - Chăm, trong đó, cụ thể là vật lịch sử đích thực mà đại diện tiêu biểu nhất những âm điệu Chăm chứa trong Quan họ Bắc là Đức Thánh Trần); mặt khác, nó thể hiện rõ Ninh và sự giống nhau về nhạc cụ, điệu múa, rệt vai trò chủ đạo, ảnh hưởng đến các hình lời ca trong quá trình hầu bóng của người Việt thức múa bóng, hát văn trong tục thờ Mẫu (từ đồng bằng Bắc Bộ đến miền Trung và miền ở miền Trung và miền Nam; bên cạnh đó, nó Nam), đặc biệt là từ thời Nguyễn trở đi. Dương còn tiếp biến, ảnh hưởng (qua lại) với hát múa Quảng Hàm, trong sách Việt Nam văn học sử bóng trong tục thờ Mẹ xứ sở của người Chăm yếu, khi chép về nguồn gốc các lối ca Huế, từ các tỉnh nam Trung Bộ đến miền Đông và đã nêu rõ: “Năm 1044 (Thiên cảm Thành vũ Tây Nam Bộ qua hàng trăm năm. Vấn đề này đã nguyên niên), vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm được hàng chục tiểu luận đề cập tại các cuộc Thành (…) rồi vào thành Phật Thệ (nay ở xã hội thảo khoa học quốc tế về Đạo Mẫu ở trong Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa và ngoài nước1. Thiên Huế), bắt vợ, thiếp cùng cung nữ của vua Cũng lại nhìn vào tiến trình lịch sử văn Chiêm biết múa hát khúc Tây Thiên về. Khi về, hóa dân tộc, cho đến thế kỷ XV, hàng loạt các ngài sai làm cung riêng cho các cung nữ ấy ở thương thuyền phương Tây mang theo các (2). Sách Đại Việt sử lược, bộ sử vào loại cổ xưa giáo sĩ đã cập bến Việt Nam qua đường biển, nhất còn lại, cho biết: “Mùa đông, tháng Mười, tiếp cận các cửa sông lớn để đổ bộ lên đất vua đi chơi ở hành cung Hải Thanh. Ở đây liền ở nhiều nơi, tập trung vào các vị trí “đắc đêm nào cũng sai nhạc công gảy đàn Bà Lỗ, địa” thuộc phía nam Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, xướng điệu hát phỏng theo nhạc khúc Chiêm với ý đồ truyền bá và xây dựng các tụ điểm Thành…” (5, tr.86). Đối chiếu, so sánh các bài Thiên Chúa giáo. Các giáo sĩ đã từng bước cắm múa hát nghi lễ của người Chăm với các bài chốt, xây dựng nhà thờ, giáo đường và lan tỏa hát văn và nhạc cụ sử dụng đi kèm trong nghi thuyết pháp Thiên Chúa giáo từ các địa phận lễ thờ Tam/Tứ phủ, các nhà nghiên cứu đã phát của Nghĩa Hưng, Hải Hậu (Nam Định), Kim Sơn hiện nhiều sự tương đồng, sinh ra do quá trình (Ninh Bình), Nga Sơn (Thanh Hóa) vào các thế tiếp biến trong âm nhạc giữa hai dân tộc. Thực kỷ tiếp theo. Cạnh đó, còn một thực tế lịch sử tế đó cho thấy, quá trình tiếp biến văn hóa đã nữa cũng cần được soi tỏ. Đó là, từ thời điểm góp phần dần hoàn thiện hình thức hát văn/ giáng sinh lần thứ nhất của Thánh Mẫu Liễu hát hầu đồng của người Việt, có thể là ngay từ Hạnh trở về trước, trong đời sống sinh hoạt 8 Số 22 - Tháng 12 - 2017
  5. TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN văn hóa tín ngưỡng tâm linh của người Việt, bám rễ vào đất Việt từ hàng trăm năm trước. chủ yếu mới có tục thờ Nữ thần chứ chưa có Do vậy hệ thống thần linh đã định hình; các tục thờ Mẫu thần để rồi phát triển lên thành đền miếu, việc thờ cúng, các quy tắc lễ nghi đã hình hài của tôn giáo Đạo Mẫu sau đó. Ngay dần quy củ. Cũng tại đây, hình thức Đạo Mẫu tại chùa Đồi - gần phủ Nấp, trước khi có hiện và lên đồng đã sớm cung đình hóa, quy chế tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, người hóa, thể hiện qua việc tổ chức các cuộc thi hát dân trong vùng đã hàng trăm năm phụng thờ cung văn, có nhiều danh sĩ tham gia đặt các Man Nương và Bố Cái Đại Vương. Trong khi bài văn chầu bằng chữ Hán hay chữ Nôm…”(8, đó, ngay từ thế kỷ X, người Trung Hoa đã có tr.133). Nhờ đó, tín ngưỡng Tam/Tứ phủ mới tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, một vị đủ sức trở thành thứ “phòng tuyến văn hóa”, thần biển (theo truyền thuyết) có nhiều công chặn sức lan tỏa của các hình thức tôn giáo tín lao giúp đỡ ngư dân, thương gia bôn ba hải ngưỡng ngoại lai tràn vào Đại Việt. Mặt khác, ngoại làm ăn, buôn bán. Và, cho đến cuối thế sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu, từ sau khi Mẫu kỷ XIV, ngay từ khi nước Đại Việt độc lập tự chủ Liễu Hạnh hóa lần thứ nhất (1473), đã trải qua đang tìm cách hướng biển để tìm đường giao nhiều chục năm luôn nằm trong sự “va đập” lưu kinh tế, thì nhiều thương gia Trung Hoa với các tôn giáo tín ngưỡng hiện tồn trước đó, đã dùng tàu/thuyền vượt biển sang Việt Nam vượt qua những xung khắc với thứ thiết chế buôn bán, cập bến đông đảo từ rất sớm vào triều chính đậm chất Nho giáo, tích hợp các các cửa biển Hội An, Khánh Hội,… và đã xây tín ngưỡng địa phương cùng văn hóa các tộc dựng không ít nơi thờ tự Thánh Mẫu Thiên Hậu người khác trong cộng đồng dân tộc để đi đến và Tứ vị Thánh nương trên một số vùng đất định hình một khuôn dạng văn hóa bản địa khả ven biển miền Trung Việt Nam. Như vậy, có thể dĩ đủ sức tồn tại trước sức ép của tư tưởng Nho giả định rằng, cùng với quá trình bản địa hóa gia và sức mạnh vốn đã bén sâu của lễ nghi tín ngưỡng ngoại lai để hình thành nên sinh và tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo. Truyền ngôn hoạt tín ngưỡng phụng thờ Thiên Hậu và Tứ vị về trận chiến Sòng Sơn (cuộc chiến giữa Thánh Thánh nương cực kỳ phổ biến ở các làng ven mẫu Liễu Hạnh với Nội Đạo tràng) như một ví biển từ Trung Bộ đến Nam Bộ (9), việc lựa chọn dụ điển hình cho sự “vùng vẫy” thoát thai để đi địa danh Vỉ Nhuế/thôn Quảng Nạp để “cắm đến những phản kháng hoặc dung hòa về tư chốt” như một thứ “phòng tuyến văn hóa” ven tưởng và văn hóa trong quá trình tồn tại của biển, cận kề cửa Đại Nha (dân gian gọi là cửa tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như hình thức Đạo Đại Ác, đời Lý đổi tên thành Đại An, nay là cửa Mẫu buổi sơ khai. Nhìn tổng thể, “thực chất đó Liêu), nơi sông Đáy đổ ra biển, tạo dựng nên là cuộc đấu tranh giữa tín ngưỡng thờ mẫu một biểu tượng Mẫu “đứng ra” thống lĩnh - bản địa chống lại sự thâm nhập của tôn giáo thiết lập - cai quản - bảo vệ vành đai văn hóa ngoại lai mang đầy tính phù thủy, chống lại bản địa của người Việt để đối trọng, ngăn chặn những tư tưởng cuối thời Nho giáo, đòi quyền sự xâm lấn của làn sóng Mẫu văn hóa ngoại lai, sống của con người, nhất là của phụ nữ bị áp chắc là lý do thực tiễn có sức thuyết phục! bức và coi khinh…” (7, tr.496). 4. Kết luận Chính vì thế, có thể nhận thức rằng, ngay từ Như vậy là, tín ngưỡng Tam/Tứ phủ trên nửa cuối thế kỷ XV trở đi, sinh hoạt tín ngưỡng chặng đường phôi thai ban đầu (giữa thế kỷ thờ Mẫu, mà đặc trưng nghi lễ là hình thức lên XV) ở vùng Sơn Nam Hạ “chịu ảnh hưởng mạnh đồng đã dần dần hình thành nên một không mẽ của Đạo giáo Trung Quốc - vốn đã du nhập, gian điện thần Mẫu Tam/Tứ phủ, trong đó xác Số 22 - Tháng 12 - 2017 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 9
  6. VĂN HÓANGHIÊN CỨU lập, định vị, châu tuần cho một hệ thống thần 6. Bùi Quang Thanh (2010), Nhận diện địa chỉ điện, từ Thánh Mẫu đến hàng Quan, hàng giáng sinh lần thứ nhất của Thánh mẫu Liễu Hạnh, Chầu, hàng các ông Hoàng và hàng các Cô, Cậu in trong: Phủ Quảng Cung trong hệ thống đạo với thành phần “xuất thân” đa dạng, có gốc gác Mẫu Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. từ nhiều dân tộc khác nhau như Mường, Tày, 7. Bùi Quang Thanh (2016), Từ bước đường Nùng, Dao, H’Mông, Chăm,… hình thành đến sự va đập/xung đột giữa tín ngưỡng B.Q.T thờ Mẫu với Nội Đạo Tràng, in trong Kỷ yếu Hội (PGS.TS., Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia thảo khoa học quốc tế: Nghiên cứu thực hành tín ngưỡng trong xã hội đương đại - Trường hợp tín Việt Nam) ngưỡng thờ Mẫu (Do Bộ VH,TT&DL và UBND tỉnh Chú thích Nam Định tổ chức tại thành phố Nam Định ngày 1 Chỉ tính từ đầu thế kỷ XXI trở lại đây, đã có 5 và 6 tháng 1-2016), Nxb. Thế giới, Hà Nội. các cuộc hội thảo khoa học quốc tế sau: Đạo Mẫu 8. Kim Sơn (1976), Thiền Uyển tập anh (soạn và các hình thức Shaman ở Việt Nam và châu Á (tổ năm 1337), bản dịch của Lê Mạnh Thát (theo bản chức năm 2001 tại Hà Nội); Việt Nam trong thế kỷ in năm 1715), Nxb. Vạn Hạnh, Sài Gòn. XXI - Những cuộc hành trình trong đời sống thực và 9. Ngô Đức Thịnh (chủ biên, 2000), Văn hóa trong tâm tưởng (tổ chức năm 2003 tại Bảo tàng dân gian các làng ven biển, Nxb. Văn hóa dân tộc, Lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, New York); Đạo Mẫu và Hà Nội. lên đồng ở Việt Nam thời hiện tại (tổ chức năm 10. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn 2004 tại Đại học California); Nghiên cứu thực hành hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, tín ngưỡng trong xã hội đương đại (trường hợp tín Hà Nội. ngưỡng thờ Mẫu) (tổ chức tháng 1/2015 tại Nam Định, Việt Nam),… Ngày nhận bài: 17 - 8 - 2016 Tài liệu tham khảo Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 12 - 2017 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 12 - 2017 1. Trần Thị An (2008), Tìm hiểu sự hình thành truyền thuyết Tứ vị thánh nương (qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng), in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ 3. 2. Thành Phú Chung (2011), Yếu tố Chăm trong vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM. 3. Trần Anh Đào (2007), Sơ lược về nghiên cứu Đạo giáo ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10-2007. 4. Nguyễn Duy Hinh (2005), Văn minh Đại Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 5. Khuyết danh (1993), Đại Việt sử lược (Thế kỷ thứ XIV), bản dịch của Nguyễn Gia Tường, lời giới thiệu của Trần Ngọc Thêm, Nxb. Tp.HCM, 1993. 10 Số 22 - Tháng 12 - 2017
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2