intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự khác biệt trong phát âm của trẻ từ 2 đến 3 tuổi ở khu vực miền núi phía Bắc (xét từ góc độ giới tính)

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

44
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông thường, khi 1 tuổi, một số trẻ đã biết nói nhưng chưa rõ ràng. Đến giai đoạn 2 - 3 tuổi, trẻ sẽ tiếp nhận khá nhiều vốn từ và dần biết sử dụng chúng để tạo thành các ngữ, các câu hoàn chỉnh. Qúa trình hình thành ngôn ngữ nói của mỗi trẻ không giống nhau.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự khác biệt trong phát âm của trẻ từ 2 đến 3 tuổi ở khu vực miền núi phía Bắc (xét từ góc độ giới tính)

Nguyễn Thị Trà My và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 112(12)/1: 123 - 128<br /> <br /> SỰ KHÁC BIỆT TRONG PHÁT ÂM CỦA TRẺ TỪ 2 ĐẾN 3 TUỔI<br /> Ở KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC (XÉT TỪ GÓC ĐỘ GIỚI TÍNH)<br /> Nguyễn Thị Trà My*, Vi Thị Điệp<br /> Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thông thường, khi 1 tuổi, một số trẻ đã biết nói nhưng chưa rõ ràng. Đến giai đoạn 2 - 3 tuổi, trẻ<br /> sẽ tiếp nhận khá nhiều vốn từ và dần biết sử dụng chúng để tạo thành các ngữ, các câu hoàn chỉnh.<br /> Qúa trình hình thành ngôn ngữ nói của mỗi trẻ không giống nhau. Dưới góc độ giới tính, sự khác<br /> biệt này cũng được thể hiện khá rõ nét. Bằng cách tiến hành khảo sát trên 100 trẻ (50 bé trai, 50 bé<br /> gái) từ 2 – 3 tuổi trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và Lạng Sơn, bài viết của chúng tôi không nhằm<br /> vào sự nhận thức giới tính của trẻ mà hướng tới điểm tương đồng và khác biệt trong việc hình<br /> thành, sử dụng ngôn ngữ giữa trẻ nam và trẻ nữ xét trên bình diện ngữ âm, cụ thể là cách phát âm<br /> các âm vị trong cấu tạo âm tiết và cách thể hiện ngữ điệu.<br /> Từ khóa: Ngôn ngữ trẻ em, ngôn ngữ, giới tính, ngữ âm, âm tiết.<br /> <br /> Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ là một việc làm rất<br /> cần thiết bởi thông qua hoạt động này chúng<br /> ta sẽ giúp trẻ dần hình thành tư duy, nhận<br /> thức và nhân cách. Thực tế cũng cho thấy,<br /> trong quá trình hình thành ngôn ngữ, trẻ<br /> thường gặp rất nhiều lỗi. Những lỗi này xuất<br /> hiện trên cả ba phương diện: ngữ âm, từ vựng<br /> và ngữ pháp. Thông thường, khi 1 tuổi một số<br /> trẻ đã biết nói nhưng chưa rõ ràng. Đến giai<br /> đoạn 2 - 3 tuổi, trẻ sẽ tiếp nhận khá nhiều vốn<br /> từ và dần biết sử dụng chúng để tạo thành các<br /> ngữ, các câu hoàn chỉnh. Qúa trình hình thành<br /> ngôn ngữ nói của mỗi trẻ không giống nhau.<br /> Dưới góc độ giới tính, sự khác biệt này cũng<br /> được thể hiện khá rõ nét. Bài viết của chúng<br /> tôi không nhằm vào sự nhận thức giới tính<br /> của trẻ mà hướng tới điểm tương đồng và<br /> khác biệt trong việc hình thành, sử dụng ngôn<br /> ngữ giữa trẻ nam và trẻ nữ (xét trên bình diện<br /> ngữ âm). Chúng tôi tập trung vào điểm khác<br /> biệt trong cách kết hợp phụ âm đầu, âm chính,<br /> âm cuối và thanh điệu của trẻ để tìm ra xu<br /> hướng sử dụng các bộ phận này. *<br /> Để phát ra được âm tiết chuẩn trẻ cần phải có<br /> bộ máy cấu âm hoàn thiện. Tùy thuộc vào sự<br /> phát triển của từng trẻ, khi bộ máy cấu âm<br /> khác nhau, giọng nói của trẻ cũng khác nhau.<br /> <br /> *<br /> <br /> Cách cấu tạo âm tiết của trẻ nam và trẻ nữ<br /> đều phải tuân theo quy tắc ngôn ngữ nhất<br /> định. Khi đã qua giai đoạn mẫu giáo, trẻ bắt<br /> đầu học được cách kết hợp các âm vị giống<br /> người lớn và chính xác hơn.<br /> Để làm sáng tỏ nội dung của bài viết, chúng<br /> tôi tiến hành khảo sát việc sử dụng ngôn ngữ<br /> của 50 trẻ nam và 50 trẻ nữ đang học tại lớp 2<br /> tuổi trường Mầm non Hoa Mai (TP.Thái<br /> Nguyên), lớp A1 trường Mầm non 19/5 (TP.<br /> Thái Nguyên) và lớp 24 - 36 tháng trường<br /> Mầm non Sàn Viên (Lạng Sơn). Kết quả thu<br /> được như sau:<br /> CÁCH PHÁT ÂM PHỤ ÂM ĐẦU<br /> Nhìn vảo số liệu trên bảng 1 chúng ta thấy:<br /> + Các bé trai có xu hướng sử dụng nhầm lẫn<br /> các phụ âm đầu trong cấu tạo âm tiết nhiều<br /> hơn các bé gái. Số trẻ nam mắc các lỗi biến<br /> đổi các phụ âm đầu /c/ thành /t/, /k/ thành /c/<br /> và /ɣ /, /ş/ thành /c/, /s/ và /t’/, /f/ thành /p/, /p/<br /> thành /b/ nhiều hơn trẻ nữ từ 2 cho tới 16 bé.<br /> Trong khi đó, số lượng các bé gái nhầm lẫn<br /> phụ âm đầu cao hơn các bé trai chỉ ở 4 âm vị<br /> /χ/ thành /c/ (nhiều hơn 1 bé), /n/ thành /l/ (2<br /> bé), /l/ thành /n/ (2 bé). Ngoài ra, trong bảng<br /> trên chúng ta thấy 100% các bé có xu hướng<br /> sử dụng các âm đầu /c/ thay cho/ʈ/, /s / thay<br /> cho / ş /, /z/ thay cho /ʐ /.<br /> <br /> ĐT: 0983732638; Email: tramy.vnnn@gmail.com<br /> <br /> 123<br /> <br /> Nguyễn Thị Trà My và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> + Các trẻ nhầm lẫn khi sử dụng /l/ và /n/ đều<br /> thuộc địa bàn Thái Nguyên. Qua tìm hiểu,<br /> chúng tôi được biết sự nhầm lẫn trong cách<br /> phát âm /l/, /n/ của trẻ chủ yếu là do học được<br /> từ cách phát âm của người lớn. Bố mẹ của<br /> những bé này thường không phải là người gốc<br /> ở Thái Nguyên mà ở các tỉnh miền xuôi<br /> (Hưng Yên, Hải Dương...) vốn bị ảnh hưởng<br /> nhiều bởi tiếng địa phương nên vô tình đã<br /> làm ảnh hưởng tới cách cấu tạo âm tiết chưa<br /> chính xác của trẻ. Tỉ lệ trẻ có xu hướng sử<br /> dụng /s / thay cho / ş / và/c/ thay cho / ʈ /<br /> lên tới 100%. Đây là lỗi không phải chỉ trẻ<br /> <br /> 112(12)/1: 123 - 128<br /> <br /> em mới mắc phải mà rất nhiều người lớn<br /> cũng có xu hướng sử dụng các phụ âm đầu<br /> thay thế nhau như vậy. Vì vậy, rất cần phải<br /> dạy trẻ phân biệt được rõ ràng các phụ âm<br /> đầu ngay từ khi tập nói để tránh gây nhầm<br /> lẫn khi trẻ đến tuổi tập viết.<br /> CÁCH PHÁT ÂM ÂM ĐỆM<br /> Kết quả bảng 2 cho thấy, với những từ có âm<br /> đệm như: hoa, quả, ngoan… thì trẻ thường<br /> không phát âm được âm đệm. Do trẻ chưa<br /> biết kết hợp âm đệm với các âm vị khác dẫn<br /> tới hiện tượng âm tiết tạo ra không chính xác.<br /> <br /> Bảng 1. Cách phát âm phụ âm đầu của trẻ 2 – 3 tuổi từ góc độ giới tính<br /> ST<br /> TT<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> 8<br /> 9<br /> 10<br /> 11<br /> <br /> Cách phát âm<br /> phụ âm đầu<br /> Phụ âm<br /> Phụ âm<br /> do trẻ<br /> chuẩn<br /> phát ra<br /> /c/<br /> /t/<br /> /χ/<br /> /c/<br /> /c/<br /> /k/<br /> /ɣ /<br /> /c/<br /> /ş/<br /> /s/<br /> /t’/<br /> /n/<br /> /l/<br /> /l/<br /> /n/<br /> /z/<br /> /ʐ/<br /> /c/<br /> / ʈ/<br /> /f/<br /> /p/<br /> /b/<br /> /p/<br /> /p/<br /> /b/<br /> <br /> Số lượng trẻ sử dụng<br /> Trẻ nam<br /> Trẻ nữ<br /> Ví dụ<br /> <br /> chào cô => tào cô<br /> khúc khích => chúc chích<br /> kim chỉ => chim chỉ<br /> bánh quy<br /> => bánh guy<br /> sao đỏ => chao đỏ<br /> sung sướng=> xung xướng<br /> sung sướng => thung thướng<br /> nắn nót => lắn lót<br /> lung linh => nung ninh<br /> rõ ràng => dõ dàng<br /> trống trải => chống chải<br /> phòng khách => pòng khách<br /> bánh => pánh<br /> pin<br /> => bin<br /> <br /> Số lượng<br /> /50<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> %<br /> <br /> Số lượng<br /> /50<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> %<br /> <br /> 16<br /> 32<br /> 15<br /> 45<br /> 36<br /> 50<br /> 27<br /> 10<br /> 10<br /> 50<br /> 50<br /> 32<br /> 15<br /> 27<br /> <br /> 32<br /> 64<br /> 30<br /> 80<br /> 72<br /> 100<br /> 54<br /> 20<br /> 20<br /> 100<br /> 100<br /> 64<br /> 30<br /> 54<br /> <br /> 10<br /> 33<br /> 6<br /> 39<br /> 33<br /> 50<br /> 16<br /> 12<br /> 12<br /> 50<br /> 50<br /> 30<br /> 15<br /> 25<br /> <br /> 20<br /> 66<br /> 12<br /> 78<br /> 66<br /> 100<br /> 32<br /> 24<br /> 24<br /> 100<br /> 100<br /> 60<br /> 30<br /> 50<br /> <br /> Bảng 2. Cách phát âm âm đệm của trẻ 2-3 tuổi từ góc nhìn giới tính<br /> STT<br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> 7<br /> 8<br /> 9<br /> 10<br /> 11<br /> <br /> 124<br /> <br /> Âm tiêt<br /> chuẩn<br /> hoa<br /> quả<br /> ngoan<br /> toàn<br /> quanh (co)<br /> quyền (lợi)<br /> loan<br /> tuấn<br /> hoa hòe<br /> hoa huệ<br /> huyền<br /> <br /> Âm tiết do trẻ<br /> phát ra<br /> ha<br /> cả<br /> ngan, ngoon<br /> tàn<br /> canh (co)<br /> quền (lợi)<br /> lan, loon<br /> tấn<br /> ha hè<br /> ha hệ<br /> huền<br /> <br /> Trẻ nam<br /> Số lượng/50<br /> Tỉ lệ %<br /> 17<br /> 34<br /> 19<br /> 38<br /> 23<br /> 46<br /> 15<br /> 30<br /> 32<br /> 64<br /> 34<br /> 68<br /> 26<br /> 52<br /> 31<br /> 62<br /> 29<br /> 58<br /> 30<br /> 60<br /> 38<br /> 76<br /> <br /> Trẻ nữ<br /> Số lượng/50<br /> Tỉ lệ %<br /> 16<br /> 32<br /> 17<br /> 34<br /> 25<br /> 50<br /> 17<br /> 34<br /> 31<br /> 62<br /> 35<br /> 70<br /> 21<br /> 22<br /> 33<br /> 66<br /> 23<br /> 46<br /> 27<br /> 54<br /> 33<br /> 66<br /> <br /> Nguyễn Thị Trà My và Đtg<br /> 12<br /> <br /> huy<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> hy<br /> <br /> 29<br /> <br /> Chúng tôi đưa ra các âm tiết có chứa các âm<br /> đệm như Hoa, quả, ngoan, toàn, quanh co,<br /> quyền lợi, loan, tuấn, hoa hòe, hoa huệ, huyền,<br /> huy thu được kết quả: Có 4 âm tiết là ngoan,<br /> toàn, quyền lợi, tuấn thì số trẻ nam phát âm<br /> thiếu âm đệm ít hơn trẻ nữ. Tỉ lệ này chênh<br /> lệch từ 2% (quyền lợi) tới 4% (ngoan, toàn,<br /> tuấn). Với các âm tiết còn lại, số trẻ nữ phát<br /> âm các âm tiết đủ âm đệm lại nhiều hơn trẻ<br /> nam. Số lượng chênh lệch trong cách phát âm<br /> đúng các âm tiết này là từ 1 đến 5 bé. Chẳng<br /> hạn, trong khi có 38 trẻ nam phát âm sai từ<br /> huyền thì có 33 trẻ nữ phát âm sai từ này.<br /> Có sự khác biệt như trên là kết quả của việc<br /> học tập ngôn ngữ của từng bé. Trẻ thường<br /> mắc lỗi ở những âm tiết có sự kết hợp giữa<br /> phụ âm đầu khó phát âm như /k/ với âm đệm.<br /> Ví dụ: Tỉ lệ trẻ nam và trẻ nữ phát âm thiếu<br /> âm đệm trong từ quanh (co) là 68% ở trẻ<br /> nam và 62% ở trẻ nữ...<br /> Những bé trai và bé gái đã có cách sử dụng<br /> chuẩn trong các âm tiết chứa âm đệm thường<br /> là những bé khoảng 3 tuổi. Bởi lúc này, bộ<br /> máy cấu âm của trẻ đã hoàn thiện hơn và<br /> nhận thức của bé về thế giới xung quanh cũng<br /> nhạy bén hơn.<br /> CÁCH PHÁT ÂM ÂM CHÍNH<br /> Kết quả của bảng 3 cho thấy, các bé gái sử<br /> dụng âm chính / ε / thành /iε/ nhiều hơn các<br /> bé trai. Trong khi có 10 bé trai mắc lỗi này thì<br /> số lượng này ở bé gái là 13 (tỉ lệ này cao hơn<br /> ở các bé trai 6%). Cách nói này được coi là<br /> “điệu” dù bé học được cách phát âm này từ<br /> người lớn. Các bé gái lại có xu hướng gần cô<br /> <br /> 112(12)/1: 123 - 128<br /> <br /> 58<br /> <br /> 28<br /> <br /> 56<br /> <br /> giáo và gần mẹ hơn, tính nữ lúc này cũng đã<br /> bắt đầu được thể hiện, các bé gái thường kéo<br /> dài giọng hơn các bé nam nên khả năng sử<br /> dụng cách thay thế / ε / thành /iε/ nhiều hơn<br /> bé trai. Con số sử dụng / ɯɤ / thành /Ǵ/ của<br /> các bé gái nhiều hơn bé trai là 2 bé. Con số<br /> này cho thấy hầu hết cả bé trai và bé gái đều<br /> có bộ máy cấu âm chưa hoàn thiện nên cách<br /> phát âm các nguyên âm chính chưa rõ ràng.<br /> Các bé thường phát âm nguyên âm đôi thành<br /> các nguyên âm đơn.<br /> Các bé trai phát âm các âm chính như /Ͻ/,<br /> /εˇ/,/ε/, /ie/ nhiều hơn các bé gái (từ 1 đến 5<br /> trẻ). Trong khi sử dụng âm chính trong cấu<br /> tạo âm tiết, các bé thường mắc các lỗi phát<br /> âm biến /Ͻ/ có sự thể hiện là [o] thành/Ͻ/ có sự<br /> thể hiện là [oo], /εˇ/ thành /ă/, /ie/ thành /e/ và<br /> /ɯɤ/ thành /ɤ/ . Có 31 đến 37 bé trai và 27 đến<br /> 38 bé gái mắc lỗi này. Do đó, người lớn cần<br /> phải tập trung sửa những lỗi này cho bé ở gia<br /> đình cũng như ở trường để bé phân biệt và sử<br /> dụng âm chính chính xác.<br /> CÁCH PHÁT ÂM CUỐI<br /> Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy<br /> các bé gái thường bắt chước người lớn nhanh<br /> hơn các bé trai. Các trẻ nữ cũng thường nhạy<br /> cảm hơn trong việc nhận ra sự khác nhau<br /> trong các âm vị cuối /n/ và /ŋ/, /Ȃ/ và /n/ tốt<br /> hơn các bé trai nên biết cách sử dụng các âm<br /> cuối này chính xác hơn. Ngoài tỉ lệ số trẻ nam<br /> và trẻ nữ bằng nhau trong cách nhầm lẫn /Ȃ/<br /> thành /n/ (75%) thì số trẻ nam vẫn chiếm tỉ lệ<br /> cao trong sự nhầm lẫn /n/ thành /ŋ/ (cao hơn<br /> 6%) và /ŋ/ thành /n/ (cao hơn 10%).<br /> <br /> Bảng 3. Cách phát âm âm chính của trẻ 2 – 3 tuổi từ góc nhìn giới tính<br /> <br /> STT<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> <br /> Cách phát âm<br /> âm chính<br /> Âm<br /> Âm chính<br /> chính<br /> do trẻ<br /> chuẩn<br /> phát ra<br /> /ε/<br /> /iε/<br /> /Ͻ/ [o]<br /> / Ͻ/// [oo]<br /> /εˇ/<br /> /ε/<br /> /ie/<br /> <br /> /ă/<br /> /a/<br /> /e/<br /> <br /> Số lượng trẻ sử dụng<br /> Trẻ nam<br /> Trẻ nữ<br /> Ví dụ<br /> <br /> mẹ => mịa<br /> Con thấy ngon lắm! =><br /> Coong thấy ngoong lắm!<br /> bánh => bắn<br /> mẹ => mạ<br /> huyền => huền<br /> khuya => khuê<br /> <br /> Số lượng<br /> <br /> Tỉ lệ %<br /> <br /> Số lượng<br /> /50<br /> <br /> Tỉ lệ %<br /> <br /> 10<br /> 32<br /> <br /> 20<br /> 64<br /> <br /> 13<br /> 27<br /> <br /> 26<br /> 54<br /> <br /> 31<br /> 9<br /> 37<br /> <br /> 62<br /> 18<br /> 74<br /> <br /> 28<br /> 8<br /> <br /> 56<br /> 16<br /> <br /> 35<br /> <br /> 70<br /> <br /> 125<br /> <br /> Nguyễn Thị Trà My và Đtg<br /> 6<br /> <br /> / ɯɤ /<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> vươn => vơn<br /> <br /> /Ǵ/<br /> <br /> 37<br /> <br /> 112(12)/1: 123 - 128<br /> 74<br /> <br /> 38<br /> <br /> 76<br /> <br /> Bảng 4. Cách phát âm âm cuối của trẻ 2 – 3 tuổi từ góc nhìn giới tính<br /> <br /> STT<br /> <br /> Số lượng trẻ sử dụng<br /> Trẻ nam<br /> Trẻ nữ<br /> <br /> Cách phát âm<br /> âm cuối<br /> Âm cuối<br /> Âm cuối<br /> do trẻ<br /> chuẩn<br /> phát ra<br /> <br /> 1<br /> <br /> /n/<br /> <br /> /ŋ/<br /> <br /> 2<br /> <br /> /Ȃ/<br /> <br /> /n/<br /> <br /> 3<br /> <br /> /ŋ/<br /> <br /> /n/<br /> <br /> Ví dụ<br /> <br /> Con không ăn đâu. =><br /> Cong không ăn đâu.<br /> dòng sông lấp lánh =><br /> dòng sông lấp lán<br /> dinh dưỡng<br /> => dinh dưỡn<br /> <br /> Số<br /> lượng/50<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> %<br /> <br /> Số<br /> lượng/50<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> %<br /> <br /> 20<br /> <br /> 40<br /> <br /> 17<br /> <br /> 34<br /> <br /> 30<br /> <br /> 74<br /> <br /> 37<br /> <br /> 74<br /> <br /> 43<br /> <br /> 86<br /> <br /> 40<br /> <br /> 76<br /> <br /> Về thanh điệu, cả trẻ nam và trẻ nữ đều rất<br /> khó phân biệt sự khác nhau về cao độ của<br /> thanh ngã và thanh sắc, thanh hỏi và thanh<br /> nặng nên hay sử dụng lẫn lộn. Khảo sát 100<br /> trẻ nam và nữ, chúng tôi thu được số liệu sau:<br /> <br /> thanh điệu chính xác hơn và bé gái học tập<br /> ngôn ngữ chính xác hơn các bé trai. Ví dụ khi<br /> cho trẻ chơi trò chơi Nu na nu nống, đồng<br /> thời đọc bài đồng dao Nu na nu nống và bài<br /> Bắp cải xanh của tác giả Phạm Hổ [7], chúng<br /> tôi đã thu được kết quả như bảng 6.<br /> <br /> Trong khảo sát bảng trên, các bé trai sử dụng<br /> nhầm lẫn các thanh điệu này đều có tỉ lệ %<br /> cao hơn các bé gái. Tỉ lệ bé trai có xu hướng<br /> sử dụng thanh sắc thay cho thanh ngã chiếm<br /> 72% trong khi tỉ lệ ở các bé gái là 66%. Tỉ lệ<br /> bé trai sử dụng thanh nặng thay cho thanh hỏi<br /> là 60%, ở các bé gái tỉ lệ này chiếm 54%.<br /> Điều này cho thấy các bé gái có cách sử dụng<br /> <br /> Kết quả kháo sát trên cho thấy có 52,3% tỉ lệ<br /> mắc lỗi sai về thanh điệu ở trẻ nam và 44% tỉ<br /> lệ mắc lỗi sai về thanh điệu ở trẻ nữ. Hay nói<br /> cách khác, trẻ nữ sử dụng thanh điệu trong<br /> cấu tạo âm tiết chính xác hơn trẻ nam. Chỉ có<br /> duy nhất trong cách sử dụng thanh điệu của từ<br /> đẽ có số trẻ nữ sử dụng thanh điệu sai là<br /> 33/50 (66%) cao hơn trẻ nam 2%.<br /> <br /> CÁCH PHÁT ÂM THANH ĐIỆU<br /> <br /> Bảng 5. Cách phát âm thanh ngã và thanh hỏi của trẻ 2-3 tuổi từ góc độ giới tính<br /> Các phát âm thanh điệu<br /> TT<br /> 1<br /> 2<br /> <br /> Thanh điệu<br /> chuẩn<br /> Ngã<br /> Hỏi<br /> <br /> Thanh điệu do<br /> trẻ phát ra<br /> Sắc<br /> Nặng<br /> <br /> Số lượng trẻ sử dụng<br /> Trẻ nam<br /> Trẻ nữ<br /> Số lượng<br /> Tỉ lệ<br /> Số lượng<br /> Tỉ lệ<br /> /50<br /> %<br /> /50<br /> %<br /> 36<br /> 72<br /> 33<br /> 66<br /> 30<br /> 60<br /> 27<br /> 54<br /> <br /> Bảng 6. Khảo sát cách phát âm thanh điệu của trẻ 2-3 tuổi từ góc độ giới tính<br /> STT<br /> <br /> Các âm tiết<br /> chuẩn<br /> <br /> Các âm tiết do<br /> trẻ phát ra<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> 5<br /> 6<br /> <br /> đẽ<br /> sẽ<br /> giữa<br /> đỏ<br /> bẩn<br /> cải<br /> <br /> đẹ, đé<br /> sẹ, sé<br /> dứa, dựa<br /> đọ<br /> bận<br /> cại<br /> <br /> 126<br /> <br /> Trẻ nam<br /> Số lượng<br /> Tỉ lệ<br /> /50<br /> %<br /> 32<br /> 64<br /> 27<br /> 54<br /> 36<br /> 72<br /> 27<br /> 54<br /> 25<br /> 50<br /> 20<br /> 40<br /> <br /> Trẻ nữ<br /> Số lượng<br /> /50<br /> 33<br /> 19<br /> 33<br /> 23<br /> 20<br /> 13<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> %<br /> 66<br /> 38<br /> 66<br /> 46<br /> 40<br /> 26<br /> <br /> Nguyễn Thị Trà My và Đtg<br /> 7<br /> 8<br /> <br /> ngủ<br /> mở<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> ngụ<br /> mợ<br /> <br /> Âm tiết là một cấu trúc thống nhất và hoàn<br /> chỉnh không thể tách rời. Do nhận thức về<br /> ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi 2 - 3 tuổi còn hạn<br /> chế nên để nghiên cứu đặc điểm cấu tạo âm<br /> tiết của trẻ là điều không dễ. Do đó, chúng<br /> tôi chỉ dừng ở việc đi vào cách trẻ phát âm<br /> các phụ âm đầu, âm chính, âm đệm, âm cuối<br /> và thanh điệu để kết hợp chúng thành âm tiết<br /> hoàn chỉnh trong thực tiễn sử dụng. Cách phát<br /> âm của nhiều trẻ chưa chính xác so với với<br /> chuẩn mực của tiếng Việt. Có thể thấy, trong<br /> 100 trẻ thuộc đối tượng nghiên cứu thì số trẻ<br /> nam có xu hướng kết hợp các bộ phận để tạo<br /> ra âm tiết thiếu chính xác hơn trẻ nữ. Các lỗi<br /> của trẻ nam trong cách phát âm âm đầu cao<br /> hơn trẻ nữ là 6,2%, với cách phát âm âm<br /> chính thì trẻ nam chiếm tỉ lệ cao hơn 5,3%, tỉ<br /> lệ phát âm sai âm cuối cao hơn 4,1% và tỉ lệ<br /> trẻ nam phát âm sai thanh điệu nhiều hơn trẻ<br /> nữ là 6%. Điều này thể hiện sự phát triển<br /> ngôn ngữ của trẻ nữ diễn ra tốt hơn ở các trẻ<br /> nam và trẻ nữ biết kết hợp các bộ phận để tạo<br /> thành âm tiết thành thạo, chính xác hơn.<br /> Ngoài các đặc điểm trên, qua khảo sát chúng<br /> tôi còn nhận thấy ở giai đoạn này, trẻ thường<br /> nói chậm, ê a, ậm ừ, hay kéo dài giọng ở<br /> những từ cuối. Bé gái thường hay kéo dài từ<br /> cuối cùng của câu thơ hơn các trẻ nam, đọc<br /> thơ có sự biểu cảm hơn và thường có trí nhớ<br /> tốt hơn khi kể lại tên nhân vật, các sự kiện.<br /> Ngoài khả năng phát âm các giọng điệu khác<br /> nhau của từng nhân vật, các bé gái còn biết sử<br /> dụng hành động để minh họa cho lời nói.<br /> Bên cạnh đó, quan sát trẻ nói, chúng tôi nhận<br /> thấy trẻ thường phát âm các từ chứa thanh<br /> Bằng dễ dàng hơn các từ chứa thanh Trắc.<br /> Đây cũng là một nguyên nhân gây ra hiện<br /> tượng nói ngọng ở trẻ. Ở lứa tuổi này, các bé<br /> phát âm vẫn chưa chuẩn so với cách phát âm<br /> của tiếng Việt. Với các trẻ nói quá ngọng và ít<br /> có khả năng biểu cảm hay sử dụng cử chỉ kèm<br /> lời thì các nhà quản lý, giáo viên và phụ<br /> huynh cần chú ý để có phương pháp phù hợp<br /> giáo dục con em mình.<br /> <br /> 30<br /> 12<br /> <br /> 62<br /> 24<br /> <br /> 112(12)/1: 123 - 128<br /> 27<br /> 9<br /> <br /> 54<br /> 18<br /> <br /> Thực tế trên cho thấy, việc phát triển ngôn<br /> ngữ cho trẻ thông qua các trò chơi, hoạt động<br /> trong trường mầm non cũng như trong gia<br /> đình là việc làm rất quan trọng. Ngoài những<br /> cách thông thường như trò chuyện với trẻ, cho<br /> trẻ xem những bức tranh đơn giản… giáo viên<br /> và phụ huynh có thể phát triển ngôn ngữ của<br /> trẻ thông qua trò chơi miêu tả, thông qua các<br /> giờ kể chuyện (đặc biệt là kể chuyện sáng<br /> tạo), qua trò chơi đóng vai....Chẳng hạn, miêu<br /> tả là phương pháp giúp trẻ phát triển ngôn<br /> ngữ đơn giản nhất và có thể thực hiện được<br /> mọi lúc mọi nơi bẳng cách sử dụng những gợi<br /> ý giúp trẻ tái hiện lại các hình ảnh đã được<br /> tiếp xúc để củng cố vốn từ vựng đã biết và ghi<br /> nhớ những đặc trưng khu biệt của các từ mới.<br /> Phương pháp này có thể được thực hiện từ lúc<br /> trẻ biết nói và có thể áp dụng lâu dài. Để bắt<br /> đầu phương pháp này, trước tiên cha mẹ sẽ<br /> làm mẫu miêu tả một đồ vật nào đó trong nhà<br /> rồi khuyến khích trẻ làm theo. Có thể đầu<br /> tiên, bé chưa quen với trò chơi này. Nhưng<br /> sau đó, bé sẽ cảm thấy rất thú vị và muốn<br /> được chơi liên tục. Các bé trai cần được chú<br /> ý về các từ chỉ rau quả, hoa lá, màu sắc…<br /> nhiều hơn các bé gái. Các bé gái thì cần được<br /> chú ý tăng thêm vốn từ vựng về các phương<br /> tiện giao thông hoặc một số nhóm từ mà các<br /> bé trai sử dụng nhiều hơn để cân bằng, mở<br /> rộng ngôn ngữ.<br /> Trong khi sử dụng các phương pháp này,<br /> người lớn cần phải chú ý tới sự khác nhau giữa<br /> đặc điểm ngôn ngữ trẻ nam và trẻ nữ để điều<br /> chỉnh phương pháp giáo dục cho phù hợp.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> [1]. Nguyễn Xuân Khoa, Phương pháp phát triển<br /> ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, Nxb ĐHQGHN,<br /> 2003.<br /> [2]. Đinh Hồng Thái, Phát triển ngôn ngữ tuổi<br /> mầm non, Nxb ĐH Sư phạm, 2011.<br /> [3]. Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm học tiếng Việt,<br /> Nxb Giáo dục, 2007<br /> [4]. Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Tâm lý học trẻ em<br /> lứa tuổi mầm non (Từ lọt lòng đến 6 tuổi),<br /> Nxb Đại học Sư phạm, 2008<br /> <br /> 127<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2