intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SỰ PHÂN CHIA THỜI GIAN ĐỊA CHẤT

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

178
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phương pháp xác định tuổi các lớp đất và hoá thạch Để xác định tuổi của các lớp đất người ta thường căn cứ vào lượng sản phẩm phân rã của các nguyên tố phóng xạ. Quá trình phân rã của các nguyên tố này diễn ra trong thiên nhiên với tốc độ rất đều đặn, không phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh. Ví dụ, chu kỳ bán ra (tức là thời gian phân rã một nửa lượng chất phóng xạ) của uran là 4,5 tỉ năm. Bằng thực nghiệm người ta đã xác định rằng 1gam Ur235...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SỰ PHÂN CHIA THỜI GIAN ĐỊA CHẤT

  1. SỰ PHÂN CHIA THỜI GIAN ĐỊA CHẤT 1. Phương pháp xác định tuổi các lớp đất và hoá thạch Để xác định tuổi của các lớp đất người ta thường căn cứ vào lượng sản phẩm phân rã của các nguyên tố phóng xạ. Quá trình phân rã của các nguyên tố này diễn ra trong thiên nhiên với tốc độ rất đều đặn, không phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh. Ví dụ, chu kỳ bán ra (tức là thời gian phân rã một nửa lượng chất phóng xạ) của uran là 4,5 tỉ năm. Bằng thực nghiệm người ta đã xác định rằng 1gam Ur235 mỗi năm phân rã sinh ra 7,4.10-9g Pb206 và 9.10-6 cm3 He. Bằng phương pháp phân tích chính xác có thể xác định số gam Pb206, số cm3 He và số gam Ur235 hiện có trong mẫu quặng. Từ những số liệu cơ bản nói trên có thể tính tuổi mẫu quặng đó, với độ chính xác tới vài triệu năm. Để xác định tuổi các lớp đất hay hoá thạch tương đối mới người ta dùng cacbon phóng xạ. Trong quá trình dinh dưỡng thực vật – và do đó cả động vật - hấp thụ C12 và C14. Khi sinh vật đang sống thì tỉ lệ C12 : C14 không đổi. Sau khi sinh vật chết cơ thể ngừng hấp thụ cacbon và C14 bắt đầu phân rã. Biết chu kì bán rã của C14 là 5700 năm, phân tích cacbon trong hoá thạch, có
  2. thể xác định tuổi của nó chính xác tới vài trăm năm. Bằng phương pháp này các nhà khảo cổ nước ta đã xác định các hạt cây trồng trong di chỉ thuộc nền văn hoá Hoà Bình (tỉnh Hoà Bình) có niên đại 11237 năm. 2. Căn cứ để phân định các mốc thời gian địa chất Việc phân định các mốc thời gian trong lịch sử quả đất căn cứ vào những biến đổi lớn về địa chất, khí hậu. Mặt đất có thể bị nâng lên hay sụt xuống do đó biển rút ra xa hay tiến sâu vào đất liền. Ven biển phía Bắc nước ta đã từng được nâng lên, để lại những ngấn nước trên vách núi đá vôi vùng Quỳnh Lưu (Nghệ An), ở Vịnh Hạ Long có ngấn nước cao 20m so với mực nước biển hiện nay. Các đại lục có thể dịch chuyển theo chiều ngang làm thay đổi phân bố đất liền. Ví dụ đại lục Úc đã bị cắt đứt khỏi đại lục châu Á vào cuối đại Trung sinh va` đến cuối thế kỉ Thứ ba thì tách khỏi đại lục Nam Mỹ. Các chuyển động tạo núi làm xuất hiện những dãy núi lớn ảnh hưởng nhiều tới sự phân hoá khí hậu duyên hải ẩm và khí hậu lục địa khô, chẳng hạn sự khác biệt khí hậu giữa miền đông và miền tây dãy Trường Sơn. Chuyển động tạo núi thường kèm theo động đất và núi lửa làm cho sinh vật
  3. bị tiêu diệt hàng loạt. Sự xuất hiện dãy núi Apalat ở đại Cổ Sinh đã tiêu diệt 97% số sinh vật thời đó. Chuyển động tạo núi cũng ảnh hưởng tới sự phân bố lại đại lục va` đại dương. Đại dương chiếm ưu thế thì nước bay hơi nhiều, khí hậu ấm và ẩm. Đại lục chiếm diện tích càng lớn thì trong nội địa hình thành những vùng khí hậu khô, nóng lạnh rất chênh lệch. Sự phát triển của băng hà cũng là một nhân tố ảnh hưởng mạnh tới khí hậu. Khí hậu lạnh tương ứng với sự phát triển của băng hà. Cách đây 25 vạn năm, băng tràn xuống bán cầu Nam đến tận Niu Zilân, diện tích băng phủ gấp đôi hiện nay, có nơi băng dày vài trăm mét. Căn cứ vào những biến cố lớn về địa chất, khí hậu, vào các hoá thạch điển hình người ta chia lịch sử sự sống thành 5 đại: đại Thái Cổ (vỏ quả đất còn rất cổ sơ), đại Nguyên Sinh (sự sống hình thành bộ mặt nguyên thuỷ), đại Cổ Sinh (sự sống còn ở trạng thái cổ sơ), đại Trung Sinh (sự sống đã phát triển đến giai đoạn giữa), đại Tân Sinh (sự sống đã có bộ mặt giống ngày nay). Mỗi đại lại chia thành những kỷ. Mỗi kỷ mang tên của loại đá điển hình cho lớp đất thuộc kỷ đó (ví dụ kỷ Than đá, kỷ Phấn trắng) hoặc tên của địa phương ở đấy lần đầu tiên người ta đã nghiên cứu lớp đất thuộc kỷ đó (ví dụ kỷ Đêvôn, kỷ Giura).
  4. Sự xác định thời điểm bắt đầu và thời gian kéo dài của mỗi đại, kỉ chỉ chính xác tương đối và có chênh lệch khá nhiều giữa các tác giả khác nhau.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2