intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sức mạnh của gió

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

107
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngay từ thế kỷ 1 trước C.N., người Trung Hoa đã viết về những "mùa gió" của họ... Gió, sức mạnh đưa con người vượt biển, là một đề tài hấp dẫn, giàu hình ảnh lãng mạn huyền thoại và kích thích suy tư khoa học. Không kể những hướng của mặt trời mọc và lặn, thay đổi từng nơi và từng mùa, thì phải kể đến hướng của gió là yếu tố có thể giúp ích rất nhiều cho người đi biển. Ngay từ thế kỷ 1 trước C.N., người Trung Hoa đã viết về những "mùa gió"...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sức mạnh của gió

  1. Những phát hiện về vạn vật và con người Sức mạnh của gió Ngay từ thế kỷ 1 trước C.N., người Trung Hoa đã viết về những "mùa gió" c ủa họ... Gió, sức mạnh đưa con người vượt biển, là một đề tài hấp dẫn, giàu hình ảnh lãng mạn huyền thoại và kích thích suy tư khoa học. Không kể những hướng của mặt trời mọc và lặn, thay đổi từng nơi và từng mùa, thì phải kể đến hướng của gió là yếu tố có thể giúp ích rất nhiều cho người đi biển. Ngay từ thế kỷ 1 trước C.N., người Trung Hoa đã viết về những "mùa gió" của họ. Họ khai triển một hệ thống phân loại chi tiết thành 24 loại gió mùa và dùng những con diều để thử hướng gió. Không lạ gì người Trung Hoa đã từ lâu chế tạo những chong chóng gió và có thể họ là những người tiên phong làm ra những dụng cụ chỉ hướng cho khoa học tự nhiên sau này. Người Hi Lạp thời cổ rất quen sử d ụng tên của các loạ i gió để chỉ hướng đi của họ, đến độ "gió" cũng đồng nghĩa với hướng. Các thủy thủ của Colômbô hình dung phương hướng không bằng nh ững độ của la bàn mà
  2. bằng gió, los vientos. Các thủy thủ Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục gọ i mặt la bàn của họ là rosa dos ventos, hoa hồng gió. Gió, sức mạnh đưa con người vượt biển, là một đề tài rất hấp dẫn, giàu hình ảnh lãng mạn huyền thoại và kích thích suy tư khoa học. Các lý thuyết tinh vi về gió, giống như lý thuyết của William of Conches ở thế kỷ 12, gán cho gió vai trò chính trong việc tạo khí hậu, làm đại dương chuyển động và tạo những trận động đất. Một trong nh ững bộ bách khoa ảnh hưởng nhất thời trung cổ, được xuất bản vào năm du hành đầu tiên của Colômbô, do Bartholomew người Anh soạn, đã phổ biến ả nh hưởng của gió đối với nhân chủng học. "Gió bắc làm khô và làm lạnh đất, nhưng vì nó trong lành và êm dịu", nên cái lạnh của nó đóng kín các lỗ chân lông, nhờ đó thân thể giữ được sức nóng. Hậu quả là "người phương bắc có thân thể cao lớn và đẹp". Gió nam nóng và ẩm nên có hiệ u quả n gược lại. "Vì vậy người phương nam khác với người phương bắc về tầ m cỡ và hình dáng. Họ không mạnh bạo cũng không nóng nả y như người phương bắc". Người châu Âu vẽ bản đồ và họa đ ồ đ i biển thờ i Trung Cổ đã giữ lại những tên cổ điển để ch ỉ các loại gió. Người đi biển Hi Lạp thời cổ đã đặt tên cho bốn hướng gió chính và đánh dấu bốn điểm khác giữa bốn hướng ấy. Tháp Gió tám góc rất đẹp ở Athen (thế kỷ 2 trước C.N.,) cho du khách ngày nay thấy một biể u tượng sống động gắn vào mỗi một trong tám hướng gió.
  3. Người Ả Rập có một lợi thế đặc biệt trong công việc tìm kiế m hướng gió tuyệt đối, vì Hồi giáo đòi hỏ i các đền thờ của họ phải hướng mặt về Mecca. Họ chỉ có thể hướng đúng tới một địa đ iể m nào đó nếu họ b iết những tọa đ ộ đ ịa lý. Ngay từ thời Trung Cổ, các nhà khoa học kiêm toán h ọc Hồi giáo đã sử dụng khoa chiêm tinh như một tiền thân của khoa thiên văn để cả i tiến việc tính vĩ độ và kinh độ của Ptolêmê. Về sau, châu Âu đã dùng la bàn nam châm để mở ra một thế giới mới cho công việc đặt tên phương hướng và tìm phương hướng. Từ nay các phương hướng không còn ch ỉ mang tính cách địa phương và tương đối, mà nó được xác định theo gió tại một địa điểm nhất đ ịnh. Bất ngờ la bàn nam châm giúp cho người đi biển tìm ra được phương hướng tuyệt đối ở bất kỳ nơi nào trên quả đất mà không cần dùng đến những tính toán phức tạp. Nhờ dùng la bàn nam châm, Colômbô đã có thể xác định vị trí của mình để đi thẳng đến Capangu và vẫn ở trên cùng một vĩ độ, mà không cần dùng đến các dụng cụ thiên văn hàng hải. Hiển nhiên la bàn trở thành chất xúc tác cho việc thám hiể m, một s ự kích thích đi vào thế giới xa lạ. Những người đi biển không còn dùng những bản phác họa thô sơ các đ ịa điểm quen thuộc nữa, mà đã có thể dùng những bản đồ thực sự, để cho họ biết phương hướng trên khắp trái đất. Các cực từ trường c ủa trái đấ t là một đặc tính riêng của trái đất, không phải là một với
  4. các cực địa lý mà trái đất xoay quanh. Lý do để xác đ ịnh vị trí của các cực từ trường vẫn còn là điều bí ẩn và từ trường của trái đất đã thay đổi c ực tính của nó nhiều lần trong lịch sử địa chất quá khứ. Dù vậy, trong thực tế, la bàn cung cấp phương hướng tuyệt đối cho không gian trên khắp trái đất, tương tự những gì mà đồng hồ cơ khí và giờ đồng đều cung cấp cho thời gian. Cả hai khám phá này đề u đã xảy ra ở châu âu trong cùng thời kỳ. Do chính bản chất hành tinh chúng ta quay theo đường cầu, việc tính thời gian và không gian không thể tách rời nhau. Khi bạn rời đất liền để ra thật xa ngoài đạ i dương bao la chưa được biết đến, bạn chỉ có thể biết chính xác mình đang ở đâu nếu bạn có cách để biến chính xác mình ở đó khi nào. Việc ứng dụng kim nam châm cho việc đi biển đã có ở Trung Hoa từ khoảng năm 1000 C.N. Nhưng các tài liệu của châu Âu chỉ bắt đầu nói đến la bàn hai thế kỷ sau đó, trong các tác phẩm của Alexander Neckam (1157 - 1257), một tu sĩ người Anh dạy ở Đạ i học Paris. Chúng ta không biết la bàn đã đến châu Âu như thế nào, cũng không biết nó được phát minh khi nào, thế nào và bởi ai. Cho tới thế kỷ 17, các la bàn từ tính của những nhà thiên văn châu Âu luôn "chỉ" hướng nam. Các kim nam chân của Trung Hoa từng chỉ h ướng nam như thế từ nhiều thế kỷ trước rồi. Có lẽ , như Joseph Needham gợi ý, đây là một chìa khóa để cho rằng la bàn nam châm đã được
  5. du nhập sang phương Tây từ Trung Hoa và về sau được những người đi biển cải tiến để nó "chỉ" hướng bắc. Giống như đồng hồ đã giúp cho con người hằng ngày khỏi cần tính thời giờ theo mặt trời và các ngôi sao, la bàn cũng định hướng cho con người biết vị trí trong không gian và như thế nó mở rộng các thời gian và các mùa đi biển. Alexander đã viết khoảng năm 1180, "Khi các người đi biển không thể nhìn thấy rõ mặt trời trong những thời tiết mịt mù và không biết thuyền của mình đang đi hướng nào, họ đặt một cây kim để nó quay trên một nam châm cho tới khi đầu kim ch ỉ hướng bắc và dừng lạ i". Như thế là bạn bắt đầu trở thành một dụng cụ dẫn đường trên biển, giúp đỡ rất nhiều cho người đi biển khi gặp thời tiết xấu hay khi họ không thể xác định phương hướng nhờ mặt trời. Vào thế kỷ 1 4, la bàn đã đ ược du nhập vào vùng Địa Trung Hải và công việc thương mạ i đường biển trở nên tấp nập. Một tàu Venice khi gặp thời tiết xấu không còn phải thả neo tại cảng nữa, mà có thể đi vòng hai chuyến về phía Đông mỗi năm. Lợi dụng sức gió tại Địa Trung Hải có cái lợi là có thể cho thuyền chạy thuận chiều gió trong những tháng có mây mù. Trong những tháng trời quang đãng, từ tháng năm tớ i tháng mười, các tàu thuyền từ Ai Cập trở về Venice gặ p gió bắc và tây bắc ngược chiều với mình, nên phải đi đường
  6. vòng để đến Síp rồi quay về hướng tây. Nhưng trong những tháng "thời tiết xấu", gió thuận chiều giúp họ dễ dàng đi theo con đường thẳng. La bàn đã phá vỡ nh ững truyền thống cả n gàn năm bằng cách mở ra đường lưu thông trên Địa Trung Hải trong mùa đông. Mộ t lần nữa, việc làm chủ thờ i gian và không gian đi đôi với nhau. Ngược lại, ở Ấn Độ Dương, các gió mùa rất đều đặn vì thay đổ i theo mùa, nên ngườ i ta sử dụng gió mùa như la bàn. Các hoa tiêu c ứ việc đi theo hướng gió. Họ cũng không gặp vấn đề trời xấu vì bầu trời vùng nhiệt đới luôn luôn trong sáng. Các thủy thủ có gió làm la bàn nên không cảm thấy cần một la bàn nào khác. Với những lý do khác hẳn, các thủy th ủ đi trên Biển Bắc và Baltic cũng chưa cả m thấy cần dùng đến la bàn. Hầu hết các hành trình của họ đều qua những vùng biể n nông và họ đã quen tìm ra đường đi của mình dựa vào đường dưới đáy biển. Ở những vùng biển cạn này, thủ y triều rất mạnh và thay đổi, nên việc biết được độ sâu là yếu tố sống chết của ngườ i thủ y thủ. Trên bản đồ cổ điển của Fra Mauro (1495), ông đã cắt nghĩa như sau, "Trên biển này, người ta không dùng la bàn hay bản vẽ , nhưng dùng đồ thăm dò độ sâu". Dụng cụ thăm dò này là một "sợi dây và cục chì", giúp người thủy thủ biết được hình thù và tính chất của đáy biển. Một cục chì có trét mỡ được thả xuống đáy biể n để đo độ sâu và khi kéo lên cũng cho một màu cát hay
  7. bùn ở dướ i đó. Vì thế những thủy thủ có kinh nghiệm ở phương Bắc rất quen thuộc vớ i đáy biển của họ. Hiển nhiên, những thủy thủ Địa Trung Hải là những người hoan nghênh chiếc la bàn nam châm hơn ai hết. Ngay từ thế kỷ 16, những h ọa đồ đường biển Địa Trung Hả i đã được cải tiến và đơn giản hóa khá nhiều. Các họa đồ xưa kia rất phức tạp với vô số các con đường chằng chịt nay vẽ ra đường đi chỉ bằng một vị trí của la bàn. La bàn đã tăng thêm s ự chính xác cho những kỹ thuật xác định vị trí cổ xưa, nay trở thành dụng c ụ hàng đầu và thậm chí là dụng cụ cần thiết duy nhất cho việc đi biển.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1