Đề bài: Suy nghĩ của anh chị về quan niệm của Lưu Trọng Lư trong “Liên<br />
tưởng tháng hai”<br />
“Mỗi bài thơ của chúng ta<br />
Phải như một ô cửa<br />
Mở tới tình yêu.”<br />
Bài làm<br />
Nhà thơ Đuy Blây từng viết: “Thơ là thư ký trung thành của trái tim.” Nó là<br />
tấm tình cảm chân thành neo đậu trên từng cân quặng chữ mà người nghệ sĩ<br />
phải tinh luyện từ lòng mình để thổ lộ với bạn đọc. Tiếp nhận một bài thơ,<br />
nghĩa là bạn đọc đang đi trên con đường khám phá tình yêu của tác giả, đúng<br />
như lời bàn về thơ của Lưu Quang Vũ trong “Liên tưởng tháng hai”:<br />
“Mỗi bài thơ của chúng ta<br />
Phải như một ô cửa<br />
Mở tới tình yêu.”<br />
Quả vậy, ngay cả trong một bài thơ mà điệu cảm xúc bao trùm là điệu “đau<br />
thương” như “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta nhận ra vẫn còn ở đó những tình yêu thầm<br />
kín chỉ có thể “nói bằng thơ thôi” của người hiền viết “thơ điên” Hàn Mạc Tử.<br />
Thơ bao giờ cũng vậy, nó là những rung động tình cảm của thi nhân, là lời giải<br />
bày điệu cảm xúc của tâm hồn. Đến với một tác phẩm mà yếu tố trữ tình là thứ<br />
chính, ta đọc và chợt nhận ra đó là một cõi tình cảm thật đẹp của người nghệ sĩ.<br />
Lấy hình ảnh “ô cửa” duyên dáng, nhà thơ gợi liên tưởng đến nơi gặp gỡ giữa<br />
tâm hồn nghệ sĩ và bạn đọc. Qua ô cửa là lời thơ, người đọc tìm được cung<br />
đường tri âm dẫn lối đến thế giới của người nghệ sĩ, cũng như nhà thơ tìm được<br />
chốn để thổ lộ tâm tư cho những tâm hồn đồng điệu. Chúng ta đọc thơ không<br />
chỉ để biết, để hiểu mà còn để cảm thụ những thông điệp nhân văn tích cực,<br />
những rung cảm thẩm mĩ giúp cho hai bờ sông tâm hồn được bồi đắp trĩu nặng<br />
phù sa tình yêu và tình thương thêm phong phú. Thơ ca trở thành nơi gắn kết<br />
tâm hồn giữa nhà thơ và bạn đọc, đồng thời cũng là nơi kết nối con người và<br />
thế giới. Bàn về giá trị của thi phẩm, Lưu Quang Vũ đã nhấn mạnh yếu tố thẩm<br />
mĩ và nhận thức mà thơ ca đem lại đối với đời sống của con người, đặc biệt là<br />
những tri âm của thi nhân.<br />
Đến với Hàn Mạc Tử, ta có thể nhận ra bao trùm trong rất nhiều bài thơ là một<br />
nỗi nhớ, “Đây thôn Vĩ Dạ” không phải là một ngoại lệ. Song nhìn từ góc độ<br />
khái quát hơn, đó là tiếng nói về tình yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu cuộc<br />
sống của một kẻ tài hoa nhưng bạc mệnh. Trong những vần thơ trong trẻo nhất<br />
của toàn bài, thi nhân đã dành tặng tất cả cho bức tranh thôn Vĩ như một cách<br />
thể hiện tình yêu với thiên nhiên và cố hương:<br />
“Sao anh không về thăm thôn Vĩ?<br />
Màu nắng hàng cau nắng mới lên<br />
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc<br />
Lá trúc chen ngang mặt chữ điền.”<br />
Mở đầu bài thơ với một câu hỏi dồn nén cảm xúc mà càng về sau, ta càng cảm<br />
nhận được sự xúc động của nhà thơ khi nhận được lá thư Hoàng Cúc gửi vào<br />
kèm bức ảnh quê hương thân thuộc. Câu thơ đầu là sự hòa âm của một dàn<br />
thanh bằng thật nhẹ nhàng êm đềm để rồi vút lên một thanh trắc mang theo bao<br />
suy niệm. Đối thoại trong độc thoại, đó là sự phân thân cái tôi của thi sĩ khiến<br />
câu thơ bảy chữ miên man tầng tầng lớp lớp nghĩa. Trong điệu thơ, vừa là lời<br />
mời mọc, vừa hờn trách, lại vừa xen lẫn chút khát khao được trở về trong nỗi<br />
cô đơn đầy mặc cảm. Chính sự dồn nén của cảm xúc đã khiến cho ẩn ức của thi<br />
nhân được hình thành và trở nên mạch nguồn của sáng tạo. Có thể thấy, nỗi<br />
nhớ đã nhấc bổng Hàn Mặc Tử khỏi thực tại để sống lại những cảm giác tột<br />
cùng của cảm xúc, khiến cho thôn Vĩ đáng lý phải được mô tả như những gì cũ<br />
càng của quá khứ lại trở nên tươi mới ở hiện tại. Do đó, ở những câu thơ sau,<br />
bức tranh được hiện lên trong đầy đủ gam màu và ánh sáng. Hai từ “nắng” điệp<br />
lại trong câu tạo nên ấn tượng về một miền không gian rực sáng. Đó là sự dồn<br />
nén của lớp lớp thời gian vào trong một khoảnh khắc nghệ thuật tạo nên thứ<br />
ánh sáng huyền diệu từng xuất hiện trong những bức vẽ ngoài trời của Claude<br />
Monet (Pháp) Tất cả đã qua đi và tất cả đã dừng lại trong một khoảnh khắc<br />
nghệ thuật ấy, vẹn nguyên như thuở ban đầu. Nhưng nó không hoàn toàn đồng<br />
nhất với ánh sáng của trường phái Ấn tượng mà thiên về cảm xúc, trở thành<br />
một ám ảnh vô thức của thi sĩ.<br />
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc<br />
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”<br />
Trên nền rực rỡ ấy, cảnh vườn tược hiện lên với một màu xanh hiền hòa, với cỏ<br />
cây xanh mướt. Đó là sự trân trọng tình cảm, một niềm yêu thiên nhiên mãnh<br />
liệt của người thơ bởi nếu không tại sao Hàn lại gọi “vườn ai” như ngọc?<br />
“Vườn ai” đó là nơi đẹp đẽ nhất, đáng nhớ nhất, đối lập hoàn toàn với hiện thực<br />
khổ đau mà thi nhân phải từng khắc đối đầu. Do đó, nó càng trở nên lung linh<br />
hơn, nhưng cũng càng dằn vặt hơn. Nó là vườn mơ, là bến mộng mà người phải<br />
ra đi và bị cấm đường trở về. Trong khát khao mãnh liệt ấy, người vẫn không<br />
quên bản chất của giống nòi thi sĩ là tình yêu cái đẹp. Người đã mượn hai hình<br />
ảnh của vẻ đẹp ngoại hình và tâm tính là “lá trúc” và “mặt chữ điền” như một<br />
chiếc mặt nạ để trở về chốn cũ. Cũng như Liên tìm về Hà Nội rực sáng trên<br />
chuyến tàu đêm (Hai đứa trẻ), Elio tìm về những ngày hạnh phúc mùa hè Bắc<br />
Ý năm đó bên Oliver qua một tiếng “Later”(Gọi em mang tên anh) thì bức ảnh<br />
của Hoàng Cúc như một chiếc chìa khóa đưa Hàn Mặc Tử về chốn quê cũ. Và<br />
như vậy, nó đã khơi dậy ở nhà thơ tình yêu làng quê, yêu thiên nhiên và yêu cái<br />
đẹp được tái hiện trên nền tranh thôn Vĩ của nhà thơ.<br />
Song bài thơ không chỉ thể hiện những cung bậc tình yêu ấy mà còn là tiếng<br />
nói của lòng yêu cuộc sống, yêu con người của nhà thơ trong nỗi đau của tâm<br />
hồn lẫn thể xác.<br />
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó<br />
Có chở trăng về kịp tối nay?”<br />
Không gian – thời gian đã có sự cóc nhảy, đứt quãng về mặt thời gian. Thôn Vĩ<br />
trong buổi sớm mai nhường chỗ cho cảnh bến sông trăng trong đêm. Trên là<br />
“vườn ai”, dưới là “thuyền ai” Hàn Mặc Tử như ngóng trông có một lời đáp lại.<br />
Cảnh thuyền, bến, sông sẽ thật nên thơ nếu như tác giả không đặt vào đó một từ<br />
“kịp” đầy khẩn khoản. Dường như đang đợi chờ, nhưng người lại không chủ<br />
động như chàng kị sĩ trong “Bến My Lăng” của Yến Lan mà trái lại như đang<br />
bị động trước mọi sự. Nhà thơ đã linh cảm trước những sự không hay, và giờ<br />
đây đang cố gắng chạy đua trong từng phút để sống và hội ngộ. Cũng là chạy<br />
đua nhưng ở Xuân Diệu là để tận hưởng tối đa cái sắc xuân thì còn ở Hàn Mặc<br />
Tử thì chỉ mong nhận được tối thiểu, bởi lưỡi hái tử thần đã chầu chực đưa lên<br />
và có thể buông xuống bất cứ lúc nào Dường như tác giả đang ngong trông sự<br />
trở lại của tri kỉ, là trăng dù mọi mùa trăng lên người sẽ càng thêm đau đớn.<br />
Đối với người, cái chết đáng sợ nhưng đáng sợ hơn là sự lãng quên của người<br />
đời. Trong câu hỏi tu từ ấy còn là lời hi vọng tìm được tri kỉ đồng điệu, để thỏa<br />
bệnh thèm người của thi nhân. Song dường như trong những cơn ẩn ức vừa tỉnh<br />
vừa say, nhà thơ vẫn hờ nghi tình đời tình người.<br />
“Ai biết tình ai có đậm đà?”<br />
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi, kết thúc bài thơ lại là một câu hỏi càng bị mờ<br />
dần biên độ. Ai hỏi, ai tỏ lời, tình ai, người ai… không ai biết dường như cái<br />
“tôi” đã tự yêu và tự quằn quại đau khổ. Chuyển biến từ tình yêu cảnh vật đến<br />
tình yêu con người, nhà thơ vẫn chìm trong nỗi nhớ nhung đau thương. Nhưng<br />
dẫu vậy, người vẫn yêu, vẫn thương vì như mọi thi sĩ, người đang tìm kẻ đồng<br />
điệu. Chỉ có tấm lòng mới níu giữ được tấm lòng, chỉ có tình yêu mới trả lời<br />
được tình yêu. Đi xuyên suốt ba khổ, mười ba câu thơ là sự hóa hình ảnh của<br />
hồn thơ thi sĩ với sự mãnh liệt của tâm tư, tình cảm, bài thơ đã mở cho ta con<br />
đường đến với tình yêu của Hàn Mặc Tử để trân trọng tài năng và tấm lòng của<br />
thi nhân.<br />
Thật vậy, sau tất cả, Lưu Trọng Lưu đã đánh giá đúng giá trị thơ ca là tiếng nói<br />
dẫn đường vào xứ sở tình yêu của tác giả và là chất bồi đắp sự nảy nở của tâm<br />
hồn bạn đọc. Cả hai yếu tố đó đều hội tụ ở thơ Hàn Mặc Tử, nhất là “Đây thôn<br />
Vĩ Dạ.” “Thơ là sự lên tiếng của thân phận” và trớ trêu thay, bài thơ thật sự ứng<br />
với nỗi đau của thi sĩ. Song càng đau, càng thương, Hàn lại càng yêu, để rồi<br />
“trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như ngôi sao chổi băng qua<br />
bầu trời thơ Việt Nam”, để lại cái đuôi vừa rực rỡ, vừa chói lọi, vừa xô đẩy…<br />
Trong phong trào thơ Mới, người đã đi xa nhất đến độ “càng đi xa càng ớn<br />
lạnh” (Hoài Thanh) trong tư thế “đứng vững ở bờ siêu thực và hai tay hái<br />
những chùm tượng trưng”. Ông là tiếng thơ lạ nhất trong thơ Mới và là một<br />
trong các nhà thơ thành công nhất của “một thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh.)<br />
Tài năng là yếu tố đầu tiên cho anh gia nhập vào thế giới của nghệ thuật, nhưng<br />
tình yêu từ trái tim rung cảm với đời mới là yếu tố để anh tỏa sáng. Thời gian<br />
sẽ sàng lọc tất cả những tác phẩm xa rời với hiện thực, sống mãi với bạn đọc là<br />
những “trái tim lớn” bất hủ trường tồn.<br />