intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của biến đổi khí hậu đến sinh kế nông nghiệp vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa

Chia sẻ: ViHercules2711 ViHercules2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

109
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong những năm qua, vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa chịu ảnh hưởng nhiều của biến đổi khí hậu (BĐKH). Hiện tượng mang tính toàn cầu này đặc biệt tác động đến nông nghiệp, một sinh kế quan trọng của người dân vùng ven biển. Vì vậy rất cần những giải pháp mang tính chủ động, tích cực hơn cho khu vực này để giảm thiểu thiệt hại và nâng cao khả năng thích ứng của sinh kế nông nghiệp trong bối cảnh BĐKH.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của biến đổi khí hậu đến sinh kế nông nghiệp vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa

HNUE JOURNAL OF SCIENCE<br /> Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 106-115<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0075<br /> <br /> TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN SINH KẾ NÔNG NGHIỆP<br /> VÙNG VEN BIỂN TỈNH KHÁNH HÒA<br /> <br /> Trần Thị Hồng Nhung<br /> Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Tóm tắt. Trong những năm qua, vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa chịu ảnh hưởng nhiều của<br /> biến đổi khí hậu (BĐKH). Hiện tượng mang tính toàn cầu này đặc biệt tác động đến nông<br /> nghiệp, một sinh kế quan trọng của người dân vùng ven biển. Diện tích đất nông nghiệp bị<br /> ảnh hưởng bởi cả lũ lụt và hạn hán, hệ thống thủy lợi bị xuống cấp bởi những yếu tố thời tiết<br /> cực đoan khiến nguồn vốn sinh kế của người dân bị tác động theo hướng tiêu cực. Và từ đó,<br /> hoạt động sinh kế nông nghiệp của người dân gặp nhiều khó khăn: nguy cơ dịch bệnh tăng,<br /> diện tích và sản lượng cây trồng giảm, chi phí sản xuất tăng khiến cho hiệu quả của sản xuất<br /> nông nghiệp vốn thấp lại càng suy giảm. Trong khi đó, những biện pháp ứng phó của người<br /> dân và chính quyền địa phương còn mang tính thụ động. Vì vậy rất cần những giải pháp mang<br /> tính chủ động, tích cực hơn cho khu vực này để giảm thiểu thiệt hại và nâng cao khả năng<br /> thích ứng của sinh kế nông nghiệp trong bối cảnh BĐKH.<br /> Từ khóa: BĐKH, sinh kế nông nghiệp, vùng ven biển, Khánh Hòa.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> BĐKH là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có<br /> hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên, hoặc<br /> đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội, hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người<br /> [[9]].<br /> Khánh Hoà là một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ với diện tích tự nhiên 5.197 km2, có<br /> bờ biển dài và nhiều cửa lạch, đầm, vịnh, khoảng 200 đảo lớn nhỏ ven bờ và các đảo san hô của<br /> quần đảo Trường Sa. Dân số tỉnh Khánh Hòa là 1.222.190 người (năm 2017), mật độ trung bình<br /> 235 người/km2. Dân số tập trung chủ yếu ở các huyện, thị xã, thành phố ven biển bao gồm: huyện<br /> Vạn Ninh, thị xã Ninh Hòa, huyện Cam Lâm, huyện Trường Sa, thành phố Cam Ranh và thành<br /> phố Nha Trang, với tổng dân số 1.020.996 người, chiếm 83,5% dân số toàn tỉnh [[2]].<br /> Trong những năm gần đây, khu vực này đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi những thay đổi của<br /> điều kiện thời tiết và khí hậu. Những tác động của BĐKH đối với Khánh Hòa đã được một số tác<br /> giả nghiên cứu như sự thay đổi hệ sinh thái vùng cửa sông, ven biển (Trần Đăng Hồng [[3]] và<br /> Nguyễn Kì Phùng [[5]]) hay các khu vực đô thị (Bùi Chí Nam [[4]]) và cơ sở hạ tầng của địa<br /> phương (Trần Ngọc Anh [[1]]). Tuy nhiên, ảnh hưởng của BĐKH đối với đời sống và sinh kế của<br /> người dân chưa được chú ý đến. Thực tế cho thấy nông nghiệp là sinh kế quan trọng của người<br /> dân vùng ven biển. Những năm gần đây, hiện tượng xâm nhập mặn, sự thay đổi rõ rệt của các yếu<br /> tố khí hậu (nhiệt độ, lượng mưa…), sự gia tăng của các hiện tượng thời tiết cực đoan (bão lũ, hạn<br /> hán…) đã khiến cho sản xuất nông nghiệp của cư dân địa phương ngày càng trở nên bấp bênh<br /> và các tổn<br /> Ngày nhận bài: 19/6/2018. Ngày sửa bài: 19/7/2018. Ngày nhận đăng: 2/8/2018.<br /> <br /> 106<br /> <br /> Tác động của biến đổi khí hậu đến sinh kế nông nghiệp vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa<br /> Tác giả liên hệ: Trần Thị Hồng Nhung. Địa chỉ e-mail: trannhungvnh@gmail.com<br /> <br /> thương ngày càng rõ rệt. Do vậy, ảnh hưởng của BĐKH đến sinh kế nông nghiệp của cộng đồng<br /> dân cư ven biển cần được nghiên cứu nhằm đề xuất kế hoạch thích ứng, ứng phó có hiệu quả.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> <br /> 2.1. Khái quát về tình hình BĐKH ở tỉnh Khánh Hòa<br /> Theo kết quả tính toán và dự báo tình hình BĐKH ở Khánh Hòa trong giai đoạn 2030 – 2100,<br /> BĐKH ở Khánh Hòa diễn ra tương đối rõ rệt cả về nhiệt độ, lượng mưa và mực nước biển dâng<br /> theo các kịch bản<br /> Bảng 1. Một số đặc trưng BĐKH khu vực ven bờ tỉnh Khánh Hòa<br /> TT<br /> <br /> Kịch bản<br /> <br /> Mực nước biển<br /> dâng (cm)<br /> <br /> Biến đổi nhiệt độ<br /> trung bình (oC)<br /> <br /> Biến đổi lượng mưa<br /> trung bình (%)<br /> <br /> 1<br /> <br /> RCP 4.5 – 2030<br /> <br /> 12<br /> <br /> 0,7<br /> <br /> 9,1<br /> <br /> 2<br /> <br /> RCP 4.5 – 2050<br /> <br /> 23<br /> <br /> 1,4<br /> <br /> 14,4<br /> <br /> 3<br /> <br /> RCP 4.5 – 2100<br /> <br /> 54<br /> <br /> 1,8<br /> <br /> 11,0<br /> <br /> 4<br /> <br /> RCP 8.5 – 2030<br /> <br /> 12<br /> <br /> 0,8<br /> <br /> 16,1<br /> <br /> 5<br /> <br /> RCP 8.5 – 2050<br /> <br /> 25<br /> <br /> 1,8<br /> <br /> 8,1<br /> <br /> 6<br /> <br /> RCP 8.5 – 2100<br /> <br /> 74<br /> <br /> 3,2<br /> <br /> 5,4<br /> <br /> (Nguồn: [[7]])<br /> Tại vùng ven biển Khánh Hòa, nhiệt độ tăng dẫn đến bốc hơi tăng, kết hợp với mưa mùa khô<br /> giảm làm cho dòng chảy kiệt giảm, hiện tượng hạn hán có thể xảy ra. Ngoài ra, nước biển dâng<br /> vừa làm ngập lụt những vùng trũng thấp ven biển, vừa làm gia tăng các hiện tượng xâm nhập mặn<br /> ở tầng nước mặt cũng như nước ngầm, gây tác động xấu đến hệ sinh thái và hoạt động kinh tế - xã<br /> hội tại địa phương. Vào mùa mưa, với xu thế lượng mưa tập trung nhiều vào tháng lớn nhất, hệ<br /> quả là sự gia tăng các trận mưa cực đoan hoặc cường độ mưa, dẫn đến các hiện tượng ngập lụt xảy<br /> ra thường xuyên hơn. Xu thế này kết hợp với mực nước biển dâng cao gây ngập lụt sâu hơn, thời<br /> gian duy trì ngập dài hơn. Mặt khác, do sự gia tăng của mực nước biển, đường bờ biển có xu thế<br /> tiến vào đất liền, làm cơ sở cho các tác động trực tiếp khác như: nước dâng do bão, áp thấp nhiệt<br /> đới sẽ tác động sâu hơn trong đất liền; sóng biển sẽ có thể có tác động trực tiếp lên các công trình<br /> hiện đang nằm sâu trong đất liền qua đó làm giảm tuổi thọ công trình, gây khó khăn trong quá<br /> trình hoạt động của công trình sản xuất cũng như sinh hoạt.<br /> <br /> 2.2. Tác động của BĐKH đối với sinh kế nông nghiệp<br /> 2.2.1. Tác động của BĐKH tới nguồn vốn sinh kế nông nghiệp<br /> a. Nguồn vốn tự nhiên<br /> BĐKH với đặc trưng là nước biển dâng đã gây nên hiện tượng ngập lụt ở tất cả các huyện, thị<br /> ven biển của tỉnh Khánh Hòa.<br /> Bảng 2: Diện tích ngập tiềm năng do nước biển dâng tại Khánh Hòa đến 2100<br /> TT<br /> <br /> Đơn vị<br /> <br /> Diện tích ngập tiềm năng (ha)<br /> RCP 4.5<br /> <br /> RCP 8.5<br /> <br /> RCP 4.5 + bão<br /> <br /> RCP 8.5 + bão<br /> <br /> 1<br /> <br /> Vạn Ninh<br /> <br /> 402,1<br /> <br /> 521,7<br /> <br /> 970,8<br /> <br /> 1438,0<br /> <br /> 2<br /> <br /> Ninh Hòa<br /> <br /> 1518,0<br /> <br /> 1840,0<br /> <br /> 1925,0<br /> <br /> 2323,0<br /> <br /> 3<br /> <br /> Nha Trang<br /> <br /> 546,6<br /> <br /> 774,9<br /> <br /> 1980,0<br /> <br /> 2243,0<br /> 107<br /> <br /> Trần Thị Hồng Nhung<br /> <br /> TT<br /> <br /> Đơn vị<br /> <br /> Diện tích ngập tiềm năng (ha)<br /> RCP 4.5<br /> <br /> RCP 8.5<br /> <br /> RCP 4.5 + bão<br /> <br /> RCP 8.5 + bão<br /> <br /> 4<br /> <br /> Cam Lâm<br /> <br /> 1837,0<br /> <br /> 1929,0<br /> <br /> 2330,0<br /> <br /> 2519,0<br /> <br /> 5<br /> <br /> Cam Ranh<br /> <br /> 832,9<br /> <br /> 1000,0<br /> <br /> 2021,0<br /> <br /> 2043,0<br /> <br /> (Nguồn: [[3]])<br /> Theo các kịch bản, hai địa phương có diện tích ngập lớn nhất là Ninh Hòa và Cam Lâm, sau<br /> đó là Nha Trang. Tuy nhiên, khi cộng thêm với hiện tượng nước dâng do bão thì diện tích ngập<br /> của các huyện tăng lên nhiều. Diện tích ngập này ảnh hưởng trực tiếp đến đất đai cho sản xuất<br /> nông nghiệp. Trong các loại đất đã được sử dụng, đất trồng lúa có tỉ lệ bị ngập cao nhất, khoảng<br /> 13,6% đến năm 2050 theo RCP 8.5 [[4]]. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản lượng<br /> lương thực. Bên cạnh đó, nước biển dâng còn là nhân tố thúc đẩy quá trình xâm nhập mặn tiến sâu<br /> vào đất liền. Nhiều diện tích không bị ngập nhưng không thể tiếp tục canh tác lúa mà phải chuyển<br /> đổi sang các cây trồng hoặc mục đích sử dụng khác.<br /> b. Nguồn vốn vật chất:<br /> BĐKH tác động tới hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thật ngành nông nghiệp của<br /> Khánh Hòa ở cả hai chiều hướng: lũ lụt và hạn hán<br /> - Hạn hán:<br /> Đối với sản xuất nông nghiệp của Khánh Hòa, hạn hán là hiện tượng phổ biến và ảnh hưởng<br /> nặng nề nhất. Để cung cấp đủ nước tưới cho bà con nông dân, tỉnh Khánh Hòa đã tích cực đầu tư<br /> xây dựng các hồ thủy lợi nhưng lượng mưa quá ít vào mùa khô đã khiến cho hiệu suất của các hồ<br /> này giảm hẳn. Theo Chi cục Thủy lợi Khánh Hòa, đến đầu tháng 3/2017, 19 hồ thủy lợi mới tích<br /> được gần 141 triệu m3 nước, so với dung tích toàn bộ là gần 249 triệu m3, chỉ bằng 57% so với<br /> dung tích thiết kế. Hai hồ chứa có dung tích hàng đầu ở Khánh Hòa là hồ Đá Bàn (Ninh Hòa) với<br /> dung tích 75 triệu m3 nước, nhưng mới tích được hơn 15 triệu m3, chiếm hơn 20% tổng dung tích<br /> thiết kế; hồ Eakrong Rou (Ninh Hòa) dung tích gần 36 triệu m3, mới tích được 9,5 triệu m3 nước,<br /> bằng 27% so với dung tích thiết kế. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng của các<br /> hồ chứa nước mà về lâu dài sẽ gây hại cho hệ thống thủy lợi trên địa bàn.<br /> - Lũ lụt, nước biển dâng vào bão<br /> Tình trạng mưa gia tăng vào mùa lũ đã gây nên tình trạng lũ lụt, thậm chí là lũ ống và lũ quét<br /> tại Khánh Hòa. Ngay tại các vùng ven biển, do địa hình dốc đứng, ăn sát ra biển nên tác động của<br /> lũ vẫn lớn. Cộng thêm tình trạng nước biển dâng, triều cường và ảnh hưởng của bão, những thiệt<br /> hại ngày càng lớn.<br /> Bảng 3. Mức độ tổn thương của một số công trình thủy lợi do nước biển dâng [7]<br /> TT<br /> <br /> Tên công trình<br /> <br /> Xã<br /> <br /> Mức độ tổn thương<br /> theo RCP 8.5<br /> <br /> Mức độ tổn thương<br /> theo RCP 4.5<br /> <br /> 2<br /> <br /> Trạm bơm Văn Định 3<br /> <br /> Ninh Đông<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> 3<br /> <br /> Trạm bơm Tiền Phong<br /> <br /> Ninh Hiệp<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> 4<br /> <br /> Trạm bơm Vĩnh Phú<br /> <br /> Ninh Hiệp<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> 5<br /> <br /> Trạm bơm Ninh Đa<br /> <br /> Ninh Đa<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> 6<br /> <br /> Trạm bơm Cầu Mới<br /> <br /> Ninh Giang<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> 7<br /> <br /> Trạm bơm Ninh Hà<br /> <br /> Ninh Hà<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> 8<br /> <br /> Trạm bơm Bình Sơn<br /> <br /> Ninh Thọ<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> Trung bình<br /> <br /> 108<br /> <br /> Tác động của biến đổi khí hậu đến sinh kế nông nghiệp vùng ven biển tỉnh Khánh Hòa<br /> <br /> Ảnh hưởng trước hết là hệ thống giao thông với hơn 16 km đường các loại theo RCP 4.5,<br /> trong đó chủ yếu là đường tỉnh lộ, đường xã và đường đất [[4]]. Và đây là các tuyến đường phục<br /> vụ chính cho nông nghiệp trên địa bàn. Bên cạnh đó, hệ thống thủy lợi, là nhân tố hàng đầu cho<br /> sản xuất nông nghiệp của tỉnh Khánh Hòa cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi lũ lụt và nước biển<br /> dâng.<br /> Bão không thường xuyên xuất hiện tại Khánh Hòa, nhưng tính thất thường trong hoạt động<br /> của bão đã tạo nên sức tàn phá lớn mà nạn nhân trực tiếp chính là hệ thống cơ sở vật chất địa<br /> phương. Trong cơn bão số 13 năm 2013, nhiều công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh bị hư hỏng<br /> nặng, ước thiệt hại hơn 88 tỷ đồng. Trong đó, có hơn 1.600 m đê cấp IV trở xuống, đê bối, bờ bao<br /> bị sạt, nứt, vỡ; hơn 5.360 m kè bị sạt lở, hư hỏng; hơn 13.000 m kênh mương bị sạt, trôi, hư hỏng;<br /> 2 đập thủy lợi bị sạt lở…<br /> 2.2.2. Tác động của BĐKH đến chiến lược sinh kế nông nghiệp<br /> a. Quy mô canh tác nông nghiệp<br /> Trong nông nghiệp Khánh Hòa, lúa vẫn là cây trồng chủ yếu nhất. Tuy nhiên, trong những<br /> năm gần đây, diện tích gieo trồng lúa thay đổi khá thất thường.<br /> <br /> (Nguồn: [[2]])<br /> Biểu 1. Diện tích và sản lượng cây lương thực có hạt của tỉnh Khánh Hòa<br /> Từ năm 2012 đến nay, diện tích gieo trồng các loại cây của Khánh Hòa thường không đạt kế<br /> hoạch do tác động của hạn hán và lũ lụt. Năm 2017, tổng diện tích gieo trồng của Khánh Hòa<br /> được 60.446,7 ha, bằng 74,2% kế hoạch, trong đó cây lương thực 31.369,6 ha, bằng 64,3%; cây<br /> chất bột có củ 5.744 ha, bằng 90,4%; cây thực phẩm 3.290,3 ha, bằng 53,2%; cây công nghiệp<br /> hàng năm 19.581,9 ha, bằng 97,3%. So với cùng kỳ năm trước, tổng diện tích gieo trồng cây hàng<br /> năm giảm 1,3%, cây chất bột có củ giảm 4,9% (chủ yếu giảm diện tích trồng sắn 5,8%); cây công<br /> nghiệp hàng năm giảm 4,2% (trong đó diện tích mía giảm 4,5%).<br /> Diện tích lúa và ngô của Khánh Hòa thay đổi thất thường qua các năm, trong đó năm 2015<br /> diện tích giảm mạnh nhất và nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là tình trạng hạn hán do<br /> BĐKH. Tình trạng khô hạn, thiếu nước đang xảy ra nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến hơn 5.000<br /> ha cây trồng trong vụ Đông Xuân 2014 - 2015. Tình hình này lại tiếp tục trong năm 2016, Khánh<br /> Hòa có gần 10.000 đất lúa phải bỏ vụ. Riêng Ninh Hòa hiện đã có 1.800 ha đất lúa, khoảng 4.000<br /> ha đất canh tác nguy cơ phải dừng sản xuất trong vụ hè thu do hồ Đá Bàn chỉ tích được gần 20%<br /> tổng dung tích nên không đáp ứng đủ nhu cầu nước [[7]].<br /> 109<br /> <br /> Trần Thị Hồng Nhung<br /> <br /> Để thích ứng với BĐKH, thay thế cho diện tích cây lương thực đang giảm xuống do hạn hán,<br /> người dân vùng ven biển Khánh Hòa đã tiến hành trồng các cây công nghiệp ngắn ngày như mía,<br /> rau đậu các loại và những năm gần đây là tỏi. Tuy nhiên, các loại cây này cũng đang gặp rất nhiều<br /> khó khăn.<br /> Bảng 4: Diện tích một số loại cây ngắn ngày của Khánh Hòa<br /> TT<br /> <br /> Cây<br /> <br /> 1<br /> <br /> Mía<br /> <br /> 2<br /> 3<br /> <br /> Tiêu chí<br /> <br /> 2012<br /> <br /> 2013<br /> <br /> 2014<br /> <br /> 2015<br /> <br /> 2016<br /> <br /> 2017<br /> <br /> Diện tích (ha)<br /> <br /> 17.714<br /> <br /> 18.231<br /> <br /> 19.804<br /> <br /> 19.870<br /> <br /> 18.984<br /> <br /> 18.652<br /> <br /> Sản lượng (nghìn tấn)<br /> <br /> 914,3<br /> <br /> 970,4<br /> <br /> 1.002,4<br /> <br /> 934,6<br /> <br /> 827,2<br /> <br /> 928,4<br /> <br /> Rau<br /> đậu<br /> <br /> Diện tích (ha)<br /> <br /> 5.937<br /> <br /> 5.916<br /> <br /> 6.058<br /> <br /> 5.972<br /> <br /> 6.109<br /> <br /> 6.481<br /> <br /> Sản lượng (tấn)<br /> <br /> 65.008<br /> <br /> 65.328<br /> <br /> 67.626<br /> <br /> 65.020<br /> <br /> 64.320<br /> <br /> 67.319<br /> <br /> Hành<br /> tỏi<br /> <br /> Diện tích (ha)<br /> <br /> 446<br /> <br /> 416<br /> <br /> 405<br /> <br /> 369<br /> <br /> 73,39<br /> <br /> 72,86<br /> <br /> 75,31<br /> <br /> 75,88<br /> <br /> Sản lượng (tấn)<br /> <br /> (Nguồn: [[2]])<br /> Các nhóm cây đều có diện tích tăng giảm khá thất thường tùy thuộc vào điều kiện thời tiết và<br /> giá cả thị trường nhưng nhìn chung các giống cây trồng đều gặp nhiều khó khăn trong quá trình<br /> tăng trưởng do hiện tượng hạn hán.<br /> Trong điều kiện nước tưới thiếu, việc phát triển các cây lâu năm, nhất là cây xoài là một<br /> hướng lựa chọn của nông dân. Nhờ vậy diện tích xoài không ngừng tăng (trung bình 100 ha/năm),<br /> tuy nhiên, do thời tiết diễn biến thất thường, đặc biệt là hiện tượng mưa trái mùa khiến cho năng<br /> suất xoài không ổn định.<br /> b. Tình hình sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình<br /> Đối với việc canh tác nông nghiệp ở các hộ gia đình, nguồn nước có vai trò đặc biệt quan<br /> trọng. Nhất là trong điều kiện BĐKH, khi lượng mưa ngày càng chênh lệch giữa các mùa, việc<br /> đảm bảo nước tưới trở thành vấn đề cấp thiết.<br /> <br /> Biểu 2. Chất lượng nước cho sản xuất nông nghiệp so với 5 năm trước (%)<br /> (Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra tháng 4/2017)<br /> Có tới 42,5% số hộ được hỏi cho rằng chất lượng nước cho sản xuất nông nghiệp xấu hơn so<br /> với trước đây. Và 50% số hộ thấy thiếu nước cho sản xuất. Nguyên nhân lý giải cho nhận định<br /> này là do tình trạng hạn hán ngày càng gia tăng do BĐKH (62,2%), lại cộng với điều kiện các hồ<br /> chứa nước chưa được cải tạo nên chức năng điều hòa nguồn nước còn kém hiệu quả (28,3%).<br /> Khó khăn thứ hai trong canh tác nông nghiệp của tỉnh Khánh Hòa là tình hình dịch bệnh. Có<br /> thể khẳng định những năm gần đây dịch bệnh trên các loại cây trồng, vật nuôi diễn biến khá phức<br /> tạp theo xu hướng tăng cả về diện ảnh hưởng và mức độ trầm trọng.<br /> 110<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2